ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT
A. Đặt vấn đề
B. Nội dung
I. tất yếu khách quan và tác dụng của CNH- HĐH
1. Tính tất Tính yếu khách quan
2. Tác dụng của CNH- HĐH
II. Nội dung cơ bản của sự nghiệp CNH- HĐH ở nước ta trong các thời kỳ
1. Thực chất của vấn đề CNH- HĐH
2. Những yếu tố chủ yếu tác động đến sự nghiệp CNH- HĐH ở nước ta
3. Nội dung cơ bản của CNH- HĐH trong các thời kỳ
a. Nội dung CNH- HĐH ở giai đoạn 2001- 2010
b. Nội dung CNH- HĐH ở giai đoạn 2010- 2020
III. Những vấn đề cần giảI quyết để tiếp tục thực hiện chiến lược CNH- HĐH
ở Việt Nam
1. Tạo nguồn vốn tích luỹ cho CNH- HĐH
2. Đẩy mạnh việc nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học- công
nghệ mới
3. Làm tốt công tác điều tra cơ bản, thăm dò địa chất
4. Chuẩn bị lực lượng lao động cho sự nghiệp CNH- HĐH đất nước
5. Vấn đề xây dựng kết cấu hạ tầng
6. Vấn đề nâng cao hiệu lực, vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước
V. Vai trò của CNH- HĐH trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
hiện nay
C. Kết luận
D. Danh mục tài liệu tham khảo
Trang 1
A. ĐẶT VẦN ĐỀ
Hiện nay trên thế giới sự phát triển của công nghệ
thông tin, công nghệ tri thức đồng diễn ra với tốc độ
chóng mặt, cuộc cách mạng đó đã đem đến thành tựu
to lớn cho nhiều nước biết vận dụng vào hàng sản
xuất, đưa họ trở thành nhiều cường quốc phát triển
trên thế giới hiện nay. Việt Nam đang ở trong thời kỳ
quá độ lên CNXH, nền kinh tế vẫn ở trong trình độ
thấp, chịu ảnh hưởng của nền kinh tế phong kiến kéo
dài, nông nghiệp vẫn chủ yếu là trồng lúa. Nền công
nghiệp lạc hậu chưa có thành tựu nào quan trọng đóng
góp cho nền kinh tế quốc dân. Muốn đưa nền kinh tế
đi lên để có thể sánh ngang với các nước trong khu
vực Đông nam á Thái Bình Dương.. và để trở thành
con Rồng kinh tế thì công nghiệp hoá hiện đại hoá
phải được coi trọng, đánh giá đùng mức sự cần thiết
của nó trong giai đoạn hiện nay.
Trong quá trình thực hiện CNH- HĐH nền kinh tế nước ta đã đạt được những
thành tựu lớn: Đã xây dựng được một cơ sở vật chất kỹ thuật nhất định cho xã hội
mới, đã chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ hơn( tăng tỷ trọng của các
nghành công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu GDP, phát triển nông nghiệp toàn diện
hơn..) Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân. Vậy thế nào là
CNH- HĐH? và vai trò của CNH- HĐH ở nước ta trong sự nghiệp xây dựng
CNXH ở nước ta hiện nay như thế nào?
CNH- HĐH hiểu theo nghĩa chung và khái quát là chuyển một nước có nền
kinh tế lạc hậu thành một nước công nghiệp hiện đại với trình độ kỹ thuật và
công nghệ tiên tiến, năng suất lao động cao trong các nghành kinh tế quốc
dân.
Trong cuốn sách giáo khoa kinh tế chính trị của Liên Xô(cũ) được dịch sang
tiếng Việt Nam năm 1958 đã đưa ra định nghĩa:” Công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa
Trang 2
là phát triển công nghiệp trước hết là công nghiệp nặng, sự phát triển ấy cần thiết
cho sự tạo nên nền kinh tế quốc dân trên cơ sở kỹ thuật tiên tiến”.
Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khoá VII có đoạn viết:” Công nghiệp
hoá là quá trình biến đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh tế, xã hội từ sử dụng
sức lao động thủ công la chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng
với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, tạo ra năng suất lao
động cao”
<1.tr4>
Như vậy quá trình công nghiệp hoá đất nước nhằm giải quyết hai nội dung cơ bản
là: Thay đổi kỹ thuật- công nghệ trong nền kinh tế, làm cho lực lượng sản xuất phát
triển và hình thành cơ cấu kinh tế mới, tiến bộ, hợp lí với các ngành nghề, quy mô
sản xuất kinh doanh phù hợp.
Đặt CNH- HĐH trong bối cảnh chung của phát triển kinh tế với nội dung cơ bản là
phát triển cơ cấu kinh tế trên cơ sở công nghiệp hiện đại nhằm đẩy mạnh nhịp độ
phát triển đồng thời hướng vào việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội. Tổ chức
phát triển tốt CNH- HĐH mới có khả năng thực tế để quan tâm đầy đủ đến sự phát
triển tự do và toàn diện của nhân tố con người.
CNH- HĐH còn tạo vật chất kỹ thuật cho việc củng cố tăng cường tiềm lực phát
triển quốc phòng vững mạnh,có thể chúng ta mới có thể yên tâm phát triển kinh tế
và phát triển kinh tế mạnh thì mới có thể tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền an
ninh quốc phòng phát triển. Mặt khác CNH- HĐH còn tạo ra nhiều khả năng cho
việc thực hiện tốt phân công và hợp tác quốc tế khoa học công nghệ tăng cường
trọng lượng tiếng nói của ta trên diễn đàn quốc tế. Trong giai đoạn hiện nay, tính
quy luật của giá thành công nghiệp hoá càng đòi hỏi bức thiết đối với nước ta vì
nguy cơ tụt hậu ngày càng xa với các nước trên thế giới và trongkhu vực. Theo số
liệu thu nhập năm 1983 thì GNP trên đầu người của Việt Nam là 220USD, trong khi
đó Singgapo là 19092USD/đầu người. ĐàI Loan là 11900 USD/ đầu người. Hàn
Quốc là 844 USD/đầu người. Malayxia là 3713 USD/ đầu người. TháI Lan là 2130
USD/đầu người. Philipin là 913USD/đầu người Inđônêsia là 830 USD/đầu người..
Mức sống 220 USD/đầu người, các nước Hàn Quốc, Đài Loan, Philipin,
Malayxia..cũng đã đạt được từ mấy chục năm trước đây. Về mặt trình độ công
Trang 3
nghiệp hoá của nước ta cũng bị tụt hậu so với họ rất nhiều.Nguyên nhân là do năng
suất lao động của ta thấp hơn họ nhiều lần. Nếu tính theo già mua tương đương thì
thu nhập bình quân đầu người hàng năm của Việt Nam là 1023 trong khi đó
Inđônêsia là 2181 Philipin là 2303, Thái Lan la 3985 Malayxia là 6140. Để tránh
khỏi tụt hậu xa hơn nữa, để phát triển xa hơn nữa trên con đường đã chọn chúng ta
không còn cách nào khác là đẩy mạnh CNH- HĐH đất nước.
Chính tầm quan trọng to lớn đó của CNH- HĐH là lí do em chọn nội dung “Công
nghiệp hoá - Hiện đại hoá và vai trò của nó trong sự nghiệp xây dựng CNXH ở
nước ta hiện nay” làm đề tài cho bàI tiểu luận của mình. Thông qua bàI viết này em
hy vọng có thêm hiểu biết kiến thức về CNH- HDH.
Trang 4
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Tính tất yếu khách quan và tác dụng của sự nghiệp CNH - HĐH
1. Tính tất yếu khách quan
Khi bước vào thời kỳ quá dộ lên CNXH,trong diêu kiện cơ sở vật chất- kỹ thuật
còn ở trình đọ thấp kém, công cụ lao động thô sơ, cơ cấu kinh tế dựa trên nông
nghiệp là chủ yếu, đa số dan cư sống bằng nghề nông nghiệp, cơ cấu nghành nghề
trong nông nghiệp cũng đơn giản – cơ bản là độc canh lúa nước. Nền sản xuất vật
chất của xã hội dựa trên sản xuất nhỏ là chủ yếu và mang nặng tính tự cấp tự túc,
tỷ xuất hàng hoá trong nên kinh tế tế thấp. Trong đIêu kiện chiến tranh ác liệt, nền
kinh tế với cơ sở vật chất – kỹ thuật nói trên khó tồn tại và phát triển bình thường.
Cho năm 1990, công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm 22,6% thu nhập quốc dân. Thu
nhập bình quân đầu người là nước thuộc nhóm nghèo nhất thế giới và có nguy cơ
tụt hậu xa hơn.
Từ tình hình nói trên. nếu không có sự thay đổi và phát triển thì nền kinh tế
không thể tăng trưởng nhanh, đất nước không thể vượt qua tình trạng nghèo nàn
và kém phát triển. Vì vậy , con đường tất yếu để ta thoát khỏi tình trạng đó là phảI
tiến hành CNH-HĐH .
Bên cạnh yêu cầu thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội của xã hội mới là dân
giàu nước mạnh ,xa hội công bằng văn minh, sự nghiệp CNH- HĐH đất nước ở
nước ta con do yêu cầu của sự phát triển kinh tế hàng hoá quyết định. Sản phẩm
của nền sản xuất xã hội không chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu của xã hội nói chung,
mà chúng còn phảI được đem bán, chúng phảI có khả năng cạnh tranh trên thị
trường , có khả năng giữ vững và mở rộng thị trường .v.v. Dop vậy, các sản phẩm
hàng hoá và dịch vụ phảI được sản xuất dựa trên môt nền tảng vững chắc của cơ
sơ vât chất –kỹ thuật hiên dại một cơ cáu lành nghề linh hoạt,hợp lý ,chi phí trên
một dơn vi sản phẩm ở mức thấp nhât .Phân công lao dộng ở trình dộ cao, kỹ thuật
hiện đại, tạo ra các sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị trường, khả năng thu lợi nhuận
lớn, tăng khả năng tích luỹ cho nèn kinh tế vầ tham gia vào quan hệ kinh tế quốc
tế ở mưc độ cao hơn.Từ đó lại thúc đẩy kinh tế trong nước phát triển hơn nữa.
Trang 5
Ngoài những cơ sở kinh tế đã nêu trên, sự nghiệp CNH đất nước ở nước ta
còn do yêu cầu bảo vệ tổ quốc, tăng cường tiềm lực quốc phòng của quốc gia chi
phối.
Sự nghiệp xây dựng, phát triển kinh tế ở mỗi nước luôn đi đôi với sự nghiệp
bảo vệ, giữ gìn những thành quả mọi mặt đã đạt được. Trong tình hình phức tạp
của bầu không khí chính trị kinh tế hiện nay, các lực lượng phản động trong nước
và ngoài nước luôn tìm mọi cách để cản trở, phá hoại sự nghiệp phát triển kinh tế
nói riêng và sự nghiệp xây dựng xã hội mới ở nước ta nói chung. Vì vậy chúng ta
luôn phảI tăng cường, củng cố, hiện đại hoá lực lượng quốc phòng để nó trở thành
lực lượng hùng mạnh, có khả năng bảo vệ vững chắc tổ quốc XHCN, để cùng
chung sức với các dân tộc bảo vệ nền hoà bình thế giới, bảo vệ độc lập dân tộc,
chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Hiện đại hoá quốc phòng, tăng sức mạnh
vật chất – kỹ thuật cho lực lượng vũ trang, dành thế chủ động trong mọi biến động
chính trị.. chỉ có thể thực hiện được trên cơ sở một nền công nghiệp hiện đại và
một nền kinh tế phát triển mạnh vững chắc.
Tóm lại tính tất yếu khách quan của CNH- HDH được bắt nguồn từ
yêu cầu của sự phát triển kinh tế, chính trị xã hội, yêu cầu củng cố an ninh quốc
phòng và yêu cầu của việc mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoàI của đất nước.
1. Tác dụng của CNH- HDH
Việc thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước có tác dụng về
nhiều mặt.
- CNH- HDH, xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại và cơ
cấu kinh tế mới tạo điều kiện biến đổi về chất lượng sản xuất, tăng năng suất lao
động, tăng sức chế ngự của con người với thiên nhiên, tăng trưởng kinh tế và phát
triển kinh tế, do đó góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân; góp phần
quyết định tới thắng lợi cuả xã hội mới của nước ta.
- CNH- HĐH tạo đIều kiện vật chất cho việc củng cố, tăng cường vai trò kinh
tế của nhà nước, nâng cao năng lực tích luỹ cuả đất nước và tạo công ăn việc làm
cho người lao động.
- Mỗi bước phát triển mới của cơ sở vật chất- kỹ thuật do quá trình công nghiệp
hoă đem lại sẽ tạo ra những đIều kiện mới cho việc xây dựng nền văn hoá mới, thủ
Trang 6
tiêu tình trạng lạc hậu về xã hội, tạo thuận lợi cho sự phát triển tự do toàn diện của
con người- nhân tố trung tâm của thời đại, đưa đất nước đến trình độ văn minh cao
hơn.
- CNH- HĐH góp phần cung cấp và đảm bảo cho quốc phòng cac yếu tố vật chất-
kỹ thuật có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để thực hiện tốt nhiệm vụ giữ gìn an ninh,
chủ quyền cuả đất nước.
- CNH- HĐH tạo nhiều khả năng cho nước ta trong việc tham gia vào phân công
lao động và hợp tác quốc tế, do đó tận dụng được sức mạnh trong nước và sức
mạnh kinh tế quốc tế.
Chính vì những tác dụng to lớn, tích cực, toàn diện đã nêu trên, từ đại hội III dến
nay, Đảng ta luôn khẳng định vị trí hết sức quan trọng của CNH- HĐH trong sự
nghiệp xây dựng xã hội mới ở nước ta. Đồng thời, qua mỗi lần đại hội, Đảng ta lại
nhận thức sâu thêm và cụ thể hoá thêm nhiệm vụ này cho thích hợp với đIều kiện
và hoàn cảnh của đất nước ta trong những thời kỳ. Trong hội nghị Đại biểu toàn
quốc giữa nhiệm kỳ của Đại Hội VII, Đảng ta còn nêu rõ:” Đây là nhiệm vụ trung
tâm có tầm quan trọng hàng đầu trong thời gian tới. CNH- HĐH là con đường
thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn so với các nước xung quanh, giữ được ổn định
chính trị, xã hội, bảo vệ được độc lập, chủ quyền và định hướng XHCN”
<1.tr27>
II. Nội dung cơ bản của sự nghiệp CNH- HĐH ở nước ta trong các thời kỳ
1. Những yếu tố chủ yếu tác động đến sự nghiệp công nghiệp hoá ở nước ta
Sự nghiệp CNH-HĐH đất nước từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc chiụ tác động
của nhiều yếu tố : khách quan, chủ quan,bên trong, bên ngoài , kinh tế,chinh trị xã
hội, khoa học công nghệ v. .v. Các yếu tố trên diễn ra trong từng thời kỳ , với tưng
quốc gia có khác nhau . Để thuận lợi trong nghiên cứu, người ta thường khái quát
thành hai loại: yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài
Các yếu tố bên trong bao gồm: tièm năng kinh tế tự nhiên của quốc gia(vị
trí địa ly, nguồn tài nguyên , khoáng sản trên ,trong lòng đất, tài nguyên rừng, nguồn
đọng vật cùng các nguồn thuỷ hải sản v.v.) tiềm năng kinh tế –xã hội (lực lượng lao
Trang 7
động,truyền thống văn hoá , lịch sử, các nghề thủ công truyền thống cuả dân tộc ...
năng lượng định hướng lãnh đạo của Đảng cầm quyền cùng sự điêu tiết của nhà
nước . Các yếu tố bên ngoài bao gồm: các thành tựu khoa học- công nghệ thế giới,
đường lối đối ngoại của các quốc gia, tất cả những thành tựu cũng như những xu
hướng biến động của nền kinh tế toàn cầu.
Cả yếu tố bên trong lẫn yếu tố bên ngoài đều là điều kiện phát triển kinh tế nói
chung, đồng thời cũng là những điều kiện quyết định nội dung CNH- HĐH nói riêng
của mỗi quốc gia.
Hai yếu tố bên ngoài có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến nội dung của công nghiệp
hoá là cách mạng khoa học kỹ thuật và quan hệ kinh tế quốc tế.
Về cách mạng khoa học kỹ thuật, đây là yếu tố tác động sâu sắc đến nhiều mặt trong
đời sống kinh tế, xã hội của các nước, là yếu tố chủ yếu đưa nền văn minh nhân loại
từ trình độ thấp lên trình độ cao và do đó nó có tác động trực tiếp, mạnh mẽ đến sự
nghiệp CNH- HĐH ở các nước chậm phát triển. Cho đến nay, trong lịch sử đã diễn
ra ba cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật vĩ đại và mỗi cuộc cách mạng đó có đặc
trưng cơ bản riêng.
Cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất ( cách mạng công nghiệp) diễn ra ở Anh
bắt đầu những năm 60 của thế kỷ XVIII và kết thúc vào năm 1820. Nội dung cơ bản
của nó là biến lao động thủ công thành lao động cơ khí, trong đó về năng lượng đặc
trưng là việc sử dụng máy hơi nước.
Cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ 2 diễn ra từ nửa sau thế kỷ XIX. Nội dung và
đặc trưng cơ bản của nó là phát minh và ứng dụng rộng rãi động cơ đốt trong và
điện năng.
Cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ ba được gọi là cách mạng khoa học- công
nghệ bởi những phát minh khoa học đều trực tiếp dẫn đến hình thành các nguyên lý
công nghệ sản xuất chứ không chỉ dừng lại ở công cụ sản xuất như các thời kỳ
trước.
Cách mạng khoa học- công nghệ có nhiều nội dung. Về quy mô và dung lượng tri
thức, các nhà khoa học đã đánh giá chúng phát triển theo cấp số nhân. Nhưng ở đây
chỉ đề cập đến những nội dung có liên quan đến các kỹ thuật, công nghệ đang có
Trang 8
triển vọng nhất hiện nay. Đó là: kỹ thuật điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ vật
liệu mới, công nghệ sinh học và công nghệ vũ trụ.
- Kỹ thuật điện tử: thành tựu nổi bật của kỹ thuật điện tử là việc phát minh
và sử dụng rộng rãi máy tính điện tử. Trong thời gian ngắn máy tính điện tử đã trải
qua bốn thế hệ, thế hệ thứ năm chuẩn bị ra đời với khả năng có thể giải hàng trăm
tỷ phép tính trong một giây. Hiện tại máy tính không chỉ để tính toán mà là
phương tiện cho hầu như tất cả các hoạt động của con người và là cơ sở thiết yếu
của công nghệ thông tin hiện đại.
- Công nghệ thông tin: là lĩnh vực công nghệ phát triển nhanh nhất, thúc
đẩy quá trình chuyển từ xã hội công nghiệp sang xã hội thông tin.
Những bước phát triển nhảy vọt của công nghệ thông tin gắn liền với sự hoàn thiện
của máy tính. Một bước nhảy vọt trong công nghệ thông tin những năm gần đây là
sự ra đời của mạng máy tính. Từ cuối những năm 1980 đến đầu những năm 1990
mạng máy tính phát triển, nối mọi nơi trên thế giới, làm hình thành siêu xa lộ thông
tin và internet.
- Công nghệ vật liệu mới: được hình thành bằng việc sử dụng phương pháp
khoa học để chế tạo vật liệu thay thế cho vật liệu tự nhiên. Nhiếu loại vật liệu mới
với những ưu điểm đặc biệt đã ra đời
- Công nghệ sinh học: đang được dự kiến là công nghệ hàng đầu khi bước
vào thế kỷ XXI.
Trong đó những bộ phận đang được nghiên cứu và ứng dụng nhiều nhất là: Gen
( hay công nghệ di truyền); công nghệ dung hợp tế bào ( tổng hợp tế bào từ những
tế bào sinh vật có tính di truyền khác nhau); công nghệ gây men ( công nghệ phản
ứng sinh vật). Trong đó thành công lớn nhất của các nhà khoa học là đã vẽ được
bản đồ gen của con người vào những ngày đầu của thế kỷ XXI.
- Công nghệ vũ trụ: bao gồm việc nghiên cứu chế tạo các thiết bị máy móc cho
việc bay vào vũ trụ( như vệ tinh nhân tạo, phi thuyền trở người, phi thuyền đóng tên
lửa) và đang dự kiến lợi dụng những điều kiện đặc biệt của khoảng không vũ trụ ( vô
trùng, trọng lực cực nhỏ..) để chế tạo những sản phẩm mới ( như dược phẩm có độ
sạch cao..).
Trang 9
Trong các nước phát triển hiện nay, cách mạng khoa học- công nghệ đang diễn ra
sôi nổi, mạnh mẽ và có tác động rất to lớn. Tác động cơ bản nhất là làm thay đổi cơ
cấu các ngành kinh tế ở các nước phát triển.Nó thể hiện trên nhiều mặt. Nó làm thay
đổi tỷ lệ giữa ba ngành lớn ( công nghiệp,nông nghiệp, dịch vụ). Ngành thứ nhất
không ngừng thu nhỏ lại, tỷ lệ ngành thứ hai lúc đầu mở rộng sau đó thu nhỏ, ngành
thứ ba không ngừng mở rộng. Nó làm thay đổi cơ cấu nội bộ từng ngành lớn ví dụ
như ở ngành dịch vụ các ngành phục vụ truyền thống như ngân hàng, bảo hiểm, ăn
uống.. không ngừng được mở rộng; các nghề tư vấn, thiết kế.. đang có xu hướng
tăng lên; các ngành phục vụ cho phát triển đới sống hiện đại như y tế, giáo dục, du
lịch.. phát triển tương đối nhanh. Đặc biệt công nghệ cao đang hiện đại hoá các
ngành sản xuất và dịch vụ truyền thống tạo ra những ngành nghề mới, giá trị tăng
cao, thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu hướng về kinh tế tri thức.
Từ làm thay đổi cơ cấu ngành nghề cách mạng khoa học- công nghệ còn làm
thay đổi cơ cấu sản phẩm trong điều kiện khoa học- kỹ thuật mới là làm giảm vật tư,
giảm năng lượng, giảm không gian và giảm lao động. Nó còn làm thay đổi chế độ,
cách thức sản xuất ra sản phẩm. Sản xuất tập trung, quy mô lớn, sản xuất hàng loạt
và chủng loại ít được thay thế bằng sản xuất phi tập trung, quy mô nhỏ, khối lượng
nhỏ, chủng loại nhiều.
Cách mạng khoa học- công nghệ còn tác động đến yếu tố chủ thể của nền sản xuất
xã hội là người lao đông. Người lao động sử dụng kỹ thuật công nghệ mới, đòi hỏi
phải có nhiều kỹ năng và trí tuệ hơn. Do đó chi phí đào tạo tay nghề cho ngưòi lao
động cao hơn trước. Không những thế công nghệ- kỹ thuật mới còn làm thay đổi cơ
cấu lao động. Nghành thứ ba phát triển đã tạo cơ hội kiếm việc làm cho nhiều người
lao động dôi ra trong các ngành khác và số lao động mới của xã hội.
Ngoài ra cách mạng khoa học- công nghệ trong các nước phát triển còn làm thay đổi
việc phân bố địa bàn sản xuất: Một mặt nó tạo điều kiện mở rộng phạm vi không
gian, phân bố địa bàn hoạt động sản xuất; mặt khác nó hạn chế tác động của hoàn
cảnh tự nhiên đối với việc bổ trí lực lượng sản xuất trong nền kinh tế.
Tác động chung nhất của cách mạng khoa học- công nghệ trong các quốc gia phát
triển là nó làm tăng năng suất lao động xã hội ở các nước tăng lên rất cao. Thêm
nữa, cuộc cách mạng này đã tạo cho mọi quốc gia những cơ hội để phát triển. Như
Trang 10
ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường.. thuộc về các nước phát triển. Vì thế các nước
chậm phát triển đang đứng trước những thách thức to lớn. Khoảng cách chênh lệch
giàu- nghèo giữa các nước ngày càng mở rộng, cạnh tranh kinh tế diễn ra ngày càng
gay gắt.
Về quan hệ kinh tế quốc tế trong những năm gần đây kinh tế hàng hoá đã phát triển
vượt khỏi phạm vi quốc gia và mở rộng ra phạm vi quốc tế. Sự phát triển của kinh tế
hàng hoá đến trình độ cao- kinh tế thị trường đã làm cho thị trường thế giới phát
triển cả về chiều rộng lẫn chiếu sâu. Từ đó, thị trường thế giới và kinh tế hàng hoá
đà thúc đẩy mạnh mẽ quá trình phân công lao động quốc tế và sự hợp tác quốc tế
cũng như sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế của các quốc gia cũng tăng
lên.Mức độ và phạm vi của quan hệ kinh tế quốc tế đã phát triển chưa từng thấy
trong những năm gần đây.
Việc tham gia và mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế có tác động nhiều mặt đến
quá trình phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp hoá nói riêng của các quốc gia.
Sự tác động đó bao gồm cả tác động tích cực lấn tiêu cực, song tác động tích cực là
chủ yếu. Quan hệ kinh tế quốc tế tạo khả năng to lớn để nước ta có thể tiếp cận
những thành tựu vĩ đại của cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, thu hút thêm
các nguồn vốn bên ngoài, học hỏi kinh nghiệm tổ chức quản lí của các nước đi trước
trên con đường công nghiệp hoá đất nước. Nó cũng giúp chung ta tiếp nhận sự giúp
đỡ của bạn bè năm châu, giải quyết những khó khăn mà khả năng đất nước bị hạn
chế, sử dụng có hiệu quả hơn những nguồn lực bên trong vốn có của đất nước mình.
Về yếu tố bên trong:
Nếu như các yếu tố bên ngoài là cách mạng khoa học- kỹ thuật và quan hệ
kinh tế quốc tế tác động mạnh hơn đến yếu tố kỹ thuật, công nghệ trong quá trình
CNH- HĐH đất nước thì yếu tố bên trong đặc biệt là các tiềm năng kinh tế- các lợi
thế so sánh của Việt Nam lại có tác động nhiều hơn đến cơ cấu ngành nghề trong
quá trình CNH- HĐH ở nước này
Dù kỹ thuật hiện đại hay thô sơ thì Việt Nam vẫn phải phát triển kinh tế và
thực hiện CNH- HĐH đất nước trên cơ sở những tiềm năng kinh tế của mình. Song
các yếu tố bên ngoài sẽ có tác động rất tích cực đến việc sử dụng các tiềm năng, các
Trang 11