Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.14 KB, 20 trang )

ĐỀ TÀI:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Thực trạng nhân lực Việt Nam:
Tài sản là của cải vật chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng. Tài
sản được sử dụng triệt để để tạo ra lợi nhuận tối đa. Còn tài sản trí tuệ là một
loại tài sản vô hình, không thể xác định bằng các đặc điểm vật chất của chính nó
nhưng lại có giá trị lớn và có khả năng sinh ra lợi nhuận. Nó là thước đo hiệu
quả kinh doanh, sức cạnh tranh và khả năng phát triển của doanh nghiệp trước
mắt và trong tương lai. Các loại tài sản hữu hình nói chung, việc sử dụng tài sản
đồng nghĩa với việc làm cho giá trị tài sản giảm đi.
Tuy nhiên, đối với tài sản trí tuệ, phạm vi và đối tượng sử dụng tài sản càng
rộng thì giá trị tài sản càng lớn. Ngày nay, chính vì sự nhận định nhân lực là tài
sản của doanh nghiệp nên chủ doanh nghiệp luôn khai thác và sử dụng triệt để,
vắt kiệt sức lao động của người lao động. Và cỗ máy chuyên dụng để tạo ra lợi
nhuận này đã lỗi thời hay bị hư hỏng nặng sẽ bị tiêu hủy và tiến hành mua cỗ
máy mới. Từ đó tạo cho tâm lý người lao động tính thụ động, tự biến mình thành
cỗ máy chuyên dụng và chấp nhận sự sa thải khi đã kém hiệu quả hoạt đông.
Chẳng hạn: Ai cũng nhìn thấy chính đội ngũ nhân viên lành nghề, có kỹ
thuật; ban lãnh đạo có chuyên môn, tài năng chính là một tài sản vô cùng to lớn
của công ty, song tại sao tài sản này lại không được ghi nhận trong bất kỳ một
báo cáo nào của công ty? Xét về quan điểm kế toán, công ty phải có quyền kiểm
soát đối vơi tất cả tài sản của mình, trong khi đó, đội ngũ nhân viên và ban lãnh
1
đạo thì công ty chỉ có thể kiểm soát được qua hợp đồng lao động. Như vậy, nếu
muốn định giá được thì cũng chỉ có thể xác định trong một khoảng thời gian
nhất định, cụ thể là kết thúc một năm tài chính bởi không phải ai cũng có thể
hoặc muốn đóng góp lâu dài cho công ty được.
Con người luôn là yếu tố hàng đầu của sự phát triển kinh tế, đặc biêt
trong điều kiện cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Muốn nâng cao


năng suất lao động,tăng trưởng và phát triển kinh tế mà chỉ có các phương tiện
công nghệ thì chưa đủ, mà còn cần phát triển một cách tương xứng năng lực
của con người sử dụng những phương tiện đó. Vậy con người là yếu tố cơ bản
của tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững.
Để có nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
tăng trưởng và phát triển kinh tế phải coi việc đầu tư cho giáo dục, đào tạo là
một trong những hướng chính của đầu tư phát triển. Phải đào tạo ra một cơ cấu
nhân lực đồng bộ bao gồm các lĩnh vực khoa học tự nhiên,khoa học xã hội,
khoa học kỹ thuật, cán bộ quản lý nghiệp vụ kinh tế, cán bộ trong các ngành
kinh doanh, công nhân kỹ thuật.
Vấn đề nguồn nhân lực thực chất là vấn đề con người. Xây dựng nguồn
nhân lực Việt Nam tức là xây dựng con người Việt Nam có đủ tầm vóc, tố chất,
tiêu chuẩn, tài đức, đủ sức đảm đương công việc được giao.
Tổ chức Y tế thế giới (WHO) vừa công bố dân số Việt Nam là 87 triệu
người, xếp thứ 13 trên thế giới về dân số. Theo tính toán của Quỹ Dân số Liên
hiệp quốc, đến giữa thế kỷ XXI, dân số Việt Nam có thể đạt ngưỡng 100 triệu
người. Ngân hàng thế giới (WB) đánh giá chất lượng nguồn nhân lực của Việt
Nam hiện nay đạt 3,79 điểm (thang điểm 10), xếp thứ 11 trong số 12 nước ở
châu Á tham gia xếp hạng. Chỉ số cạnh tranh nguồn nhân lực Việt Nam đạt
2
3,39/10 điểm và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam xếp thứ 73/133
nước được xếp hạng. Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam hiện nay là 75.
Nguồn nhân lực từ nông dân: Nông dân Việt Nam chiếm khoảng hơn 61
triệu 433 nghìn người, bằng khoảng 73% dân số của cả nước. Cả nước có
khoảng 113.700 trang trại, 7.240 hợp tác xã nông, lâm nghiệp, thủy sản; có 217
làng nghề, 40% sản phẩm từ các ngành, nghề của nông dân được xuất khẩu đến
hơn 100 nước. Như vậy, so với trước đây, nông thôn nước ta đã có những
chuyển biến tích cực.
Tuy nhiên, nguồn nhân lực trong nông dân ở nước ta vẫn chưa được khai
thác, chưa được tổ chức đầy đủ. Người nông dân chẳng có ai dạy nghề trồng lúa.

Họ đều tự làm. Đến lượt con cháu họ cũng tự làm. Có người nói rằng, nghề
trồng lúa là nghề dễ nhất, không cần phải hướng dẫn cũng có thể làm được. Ở
các nước phát triển, họ không nghĩ như vậy.
Mọi người dân trong làng đều được hướng dẫn tỷ mỷ về nghề trồng lúa
trước khi lội xuống ruộng. Hiện có từ 80 đến 90% lao động nông, lâm, ngư
nghiệp và những cán bộ quản lý nông thôn chưa được đào tạo. Điều này phản
ánh chất lượng nguồn nhân lực trong nông dân còn rất yếu kém. Sự yếu kém này
đẫ dẫn đến tình trạng sản xuất nông nghiệp nước ta vẫn còn đang trong tình
trạng sản xuất nhỏ, manh mún, sản xuất theo kiểu truyền thống, hiệu quả sản
xuất thấp. Việc liên kết "bốn nhà" (nhà nước, nhà nông, nhà khoa học, nhà
doanh nghiệp) hiện đang còn là hình thức.
Tình trạng đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, làm cho một bộ phận lao
động ở nông thôn dôi ra, không có việc làm. Từ năm 2000 đến năm 2007, mỗi
năm nhà nước thu hồi khoảng 72 nghìn ha đất nông nghiệp để phát triển công
nghiệp, xây dựng đô thị.
3
Chính vì nguồn nhân lực trong nông thôn chưa được khai thác, đào tạo,
cho nên một bộ phận nhân dân ở nông thôn không có việc làm ở các khu công
nghiệp, công trường. Tình trạng hiện nay là các doanh nghiệp đang thiếu nghiêm
trọng thợ có tay nghề cao, trong khi đó, lực lượng lao động ở nông thôn lại dư
thừa rất nhiều; chất lượng lao động rất thấp.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do khâu tổ chức lao động và quy
hoạch lao động trong nông thôn chưa tốt. Chính sách đối với nông nghiệp, nông
dân, nông thôn chưa đồng bộ, chưa mang tínhkhuyến khích và tính cạnh tranh.
Nguồn nhân lực từ công nhân: Về số lượng giai cấp công nhân Việt Nam
hiện nay có khoảng 10 triệu người (kể cả khoảng 500 nghìn công nhân đang làm
việc ở nước ngoại, tại trên 40 nước và vùng lãnh thổ với hơn 30 nhóm ngành
nghề ở nước ngoài và 2 triệu hộ lao động kinh doanh cá thể). Số công nhân có
trình độ cao đẳng, đại học ở Việt Nam có khoảng 150 nghìn người. Nhìn chung,
công nhân có tay nghề cao chiếm tỷ lệ thấp so với đội ngũ công nhân nói

chung.
Cả nước, tính đến năm 2007, có 262 trường dạy nghề, 599 trung tâm dạy
nghề. Trường trung cấp công nghiệp đến năm 2008 là 275. Theo số liệu mới
thống kê được, tính đến cuối năm 2010, cả nước có 123 trường cao đẳng dạy
nghề, 303 trường trung cấp nghề; 810 trung tâm dạy nghề; hơn 1.000 cơ sở khác
có tham gia dạy nghề. Dạy nghề trình độ trung cấp từ 75,6 nghìn tăng lên 360
nghìn người; có khoảng 600 nghề có nhu cầu đào tạo.
Đến cuối năm 2010, cả nước có 123 trường cao đẳng dạy nghề; 303 trường
trung cấp nghề; 810 trung tâm dạy nghề, hơn 1.000 cơ sở khác có tham gia dạy
nghề. Dạy nghề trình độ trung cấp từ 75,6 nghìn tăng lên 360 nghìn người.
4
Trong các ngành nghề của công nhân, tỷ lệ công nhân cơ khí và công
nhân làm việc trong các nhà máy, xí nghiệp công nghiệp nặng còn rất thấp,
khoảng 20% trong tổng số công nhân của cả nước, trong khi đó, công nhân trong
các ngành công nghiệp nhẹ, chế biến thực phẩm lại chiếm tỷ lệ cao, khoảng
40%.
Vì đồng lương còn thấp, công nhân không thể sống trọn đời với nghề, mà
phải kiêm thêm nghề phụ khác như đi làm xe ôm trong buổi tối và ngày nghỉ,
làm nghề thủ công, buôn bán thêm, cho nên đã dẫn đến tình trạng nhiều người
vừa là công nhân, vừa không phải là công nhân.
Nhìn chung, qua hơn 25 năm đổi mới, cùng với quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp công nhân nước ta đã có những chuyển biến
tích cực, tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng được nâng lên
từng bước. Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam, việc làm và đời
sống của giai cấp công nhân ngày càng được cải thiện.
Bên cạnh đó, sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được yêu
cầu về số lượng, chất lượng, kỹ năng nghề nghiệp; thiếu nhiều các chuyên gia kỹ
thuật, công nhân lành nghề; tác phong công nghiệp và kỷ luật lao động còn
nhiều hạn chế; phần lớn công nhân xuất thân từ nông dân, chưa được đào tạo cơ
bản và có hệ thống. "Địa vị chính trị của giai cấp công nhân chưa thể hiện đầy

đủ"
1
.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do quá trình phát triển kinh tế - xã
hội trong quá trình đổi mới đã mở ra một giai đoạn lịch sử mới trong sự phát
triển của giai cấp công nhân Việt Nam. Bên cạnh đó, những hạn chế, yếu kém
trong phát triển kinh tế - xã hội ảnh hưởng không nhỏ đến việc làm, đời sống,
tâm tư, tình cảm của công nhân; những chính sách về giai cấp công nhân tuy đã
ban hành, nhưng chưa sát hợp với tình hình thực tế của giai cấp công nhân.
5
Trong các doanh nghiệp và người sử dụng lao động, không ít trường hợp còn vi
phạm chính sách đối với công nhân và người lao động.
Nguồn nhân lực từ trí thức, công chức, viên chức: Nếu tính sinh viên đại
học và cao đẳng trở lên được xem là trí thức, thì đội ngũ trí thức Việt Nam trong
những năm gần đây tăng nhanh. Riêng sinh viên đại học và cao đẳng phát triển
nhanh: năm 2000, cả nước có 899,5 nghìn người; năm 2002: 1.020,7 nghìn
người; năm 2003: 1.131 nghìn người; năm 2004: 1.319,8 nghìn người. Năm
2005: 1,387,1 nghìn người; năm 2006 (mới tính sơ bộ: prel): 1,666, 2 nghìn
người,…
Cả nước có khoảng 14 nghìn tiến sĩ và tiến sĩ khoa học; 1.131 giáo sư; 5.253
phó giáo sư; 16 nghìn người có trình độ thạc sĩ; 30 nghìn cán bộ hoạt động khoa
học và công nghệ; 52.129 giảng viên đại học, cao đẳng, trong đó có 49% của số
47.700 có trình độ thạc sĩ trở lên, gần 14 nghìn giáo viên trung cấp chuyên
nghiệp, 11.200 giáo viên dạy nghề và 925 nghìn giáo viên hệ phổ thông; gần
9.000 tiến sĩ được điều tra, thì có khoảng 70% giữ chức vụ quản lý và 30% thực
sự làm chuyên môn.
Đội ngũ trí thức Việt Nam ở nước ngoài, hiện có khoảng 300 nghìn người
trong tổng số gần 3 triệu Việt kiều, trong đó có khoảng 200 giáo sư, tiến sĩ đang
giảng dạy tại một số trường đại học trên thế giới.
Số trường đại học tăng nhanh. Tính đến đầu năm 2007, Việt Nam có 143

trường đại học, đại học, học viện
2
; 178 trường cao đẳng; 285 trường trung cấp
chuyên nghiệp và 1.691 cơ sở đào tạo nghề. Cả nước hiện có 74 trường và khối
trung học phổ thông chuyên với tổng số 47,5 nghìn học sinh tại 63/64 tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương và 7 trường đại học chuyên. Tỷ lệ học sinh trung học
phổ thông chuyên so với tổng dân số của cả nước đạt 0,05%, còn chiếm rất thấp
so với thế giới.
6
Các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày càng phát triển. Vào năm học
2007-2008, cả nước có gần 6 nghìn cơ sở giáo dục mầm non, 95 trường tiểu học,
33 trường trung học cơ sở, 651 trường trung học phổ thông, 308 cơ sở dạy nghề,
72 trường trung cấp chuyên nghiệp và 64 trường cao đẳng, đại học là các cơ sở
giáo dục ngoài công lập.
Số học sinh, sinh viên học tại các cơ sở giáo dục ngoài công lập ngày
càng tăng. Năm học 2007-2008, tỷ lệ học sinh, sinh viên ngoài công lập là
15,6% (năm 2000 là 11,8%), trong đó, tỷ lệ học sinh phổ thông là 9%, học sinh
trung cấp chuyên nghiệp là 18,2%, học nghề là 31,2%, sinh viên cao đẳng, đại
học là 11,8%.
Cả nước có 1.568/3.645 học sinh đọat giải trong kỳ thi học sinh giỏi quốc
gia trung học phổ thông năm học 2007-2008.
Đầu năm 2008, Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam đã trình lên Thủ tướng
Chính phủ Việt Nam dự án đào tạo 20 nghìn tiến sĩ trong giai đoạn 2007-2020 ở
cả trong nước và ngoài nước.
Nhà nước đã dành một khoản ngân sách chi cho giáo dục và đào tạo là
76.200 tỷ đồng, chiếm 20% tổng chi ngân sách nhà nước, tăng 14,1% so với
thực hiện năm 2007.
Bên cạnh nguồn nhân lực là trí thức trên đây, nguồn nhân lực là công
chức, viên chức (cũng xuất thân từ trí thức) công tác tại các ngành của đất nước
cũng tăng nhanh:

Tổng số công chức, viên chức trong toàn ngành xuất bản là gần 5 nghìn
người làm việc tại 54 nhà xuất bản trong cả nước (trung ương 42, địa phương
12).
7
Tổng số nhà báo của cả nước là 14 nghìn phóng viên chuyên nghiệp và
hàng nghìn cán bộ, kỹ sư, nghệ sĩ, nhân viên làm việc trong các cơ quan báo chí
và hàng chục nghìn người khác là cộng tác viên, nhân viên, lao động tham gia
các công đoạn in ấn, tiếp thị quảng cáo, phát hành, làm việc tại 687 cơ quan báo
chí, hơn 800 báo, tạp chí, báo điện tử, đài phát thanh, truyền hình.
Đội ngũ công chức, viên chức của ngành thuế Việt Nam hiện có gần 39
nghìn người; ngành hải quan của Việt Nam là 7.800 người, ngành kho bạc là
13.536 người.
Tính đến tháng 6-2005, đội ngũ cán bộ nghiên cứu, hoạch định chính
sách pháp luật của các cơ quan trung ương là 824 người, trong đó có 43 tiến sĩ
luật (chiếm 5,22%), 35 tiến sĩ khác (chiếm 4,25%), 89 thạc sĩ luật (chiếm
10,08%), 43 thạc sĩ khác (chiếm 5,22%), 459 đại học luật (chiếm 55,70%), 223
đại học khác (chiếm 27,06%), 64 người có 2 bằng vừa chuyên môn luật, vừa
chuyên môn khác (chiếm 7,77%),… Cả nước có 4.000 luật sư (tính ra cứ 1 luật
sư trên 24 nghìn người dân).
Trí thức, công chức, viên chức trong các ngành nghề khác của các cơ
quan trung ương và địa phương cũng tăng nhanh.
Tổng nhân lực các hội, liên hiệp hội, viện, trung tâm (NGO) hiện có
52,893 người.
Bên cạnh sự tăng nhanh từ nguồn nhân lực trí thức, công chức, viên chức
đã dẫn ra trên đây, thấy rằng, ở Việt Nam hiện nay, chất lượng nguồn nhân lực
từ trí thức, công chức, viên chức còn yếu kém và bất cập. Đa số công chức, viên
chức làm việc trong các cơ quan công quyền chưa hội đủ những tiêu chuẩn của
một công chức, viên chức như trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin
học, ảnh hưởng nhiều đến chất lượng công việc. Có 63% tổng số sinh viên tốt
8

nghiệp ra trường chưa có việc làm; không ít đơn vị nhận người vào làm, phải
mất 1-2 năm đào tạo lại. Trong số 37% sinh viên có việc làm, thì cũng không
đáp ứng được công việc. Bằng cấp đào tạo ở Việt Nam chưa được thị trường lao
động quốc tế thừa nhận. Năm 2007, số sinh viên tốt nghiệp đại học là 161.411
người. Theo ước tính, mỗi tấm bằng đại học, người dân bỏ ra 40 triệu đồng, còn
nhà nước đầu tư khoảng 30 triệu đồng. Như vậy, với tỷ lệ 63% số sinh viên ra
trường chưa có việc làm, cho thấy kinh phí đầu tư của sinh viên thất nghiệp
(161.411 sinh viên x 63% x 70 triệu), ít nhất thất thoát 7.117 tỷ đồng (trong đó,
4.067 tỷ đồng của dân và 3.050 tỷ đồng của nhà nước).
Việt Nam có khoảng 2,6 triệu người có trình độ đại học trở lên. Con số
này có thể nói tương đương với 2,6 triệu trí thức nước nhà.
Nói tóm lại, nguồn nhân lực từ nông dân, công nhân, trí thức (trong đó có
công chức, viên chức) ở Việt Nam, nhìn chung, còn nhiều bất cập. Sự bất cập
này đã ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm đổi
mới, kinh tế đất nước tuy có tăng từ 7,5 đến 8%, nhưng so với kinh tế thế giới
thì còn kém xa. Theo báo cáo của Ngân hàng thế giới (WB) và tập đoàn tài
chính quốc tế (IFC), công bố ngày 26-9-2007, kinh tế Việt Nam xếp thứ 91/178
nước được khảo sát.
Có thể rút ra mấy điểm về thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam:
- Nguồn nhân lực ở Việt Nam khá dồi dào, nhưng chưa được sự quan tâm
đúng mức, chưa được quy hoạch, chưa được khai thác, chưa được nâng cấp, còn
đào tạo thì chưa đến nơi đến chốn, nhiều người chưa được đào tạo.
- Chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, dẫn đến tình trạng mâu thuẫn giữa
lượng và chất.
9
- Sự kết hợp, bổ sung, đan xen giữa nguồn nhân lực từ nông dân, công
nhân, trí thức,… chưa tốt, còn chia cắt, thiếu sự cộng lực để cùng nhau thực hiện
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Có thể đánh giá tổng quát về nhân lực Việt Nam hiện nay là số lượng
đông, chất lượng không đông, thể hiện là tay nghề thấp, chưa có tác phong công

nghiệp, chưa có những tổng công trình sư, kỹ sư, nhà khoa học thật sự giỏi; chưa
có những chuyên gia giỏi; chưa có những nhà tư vấn, nhà tham mưu giỏi; chưa
có những nhà thuyết trình giỏi; chưa có những nhà lãnh đạo, nhà quản lý giỏi.
Báo chí nước ngoài bình luận người Việt Nam khá thông minh, rất nhanh nhạy
trong việc nắm bắt và tiếp thu cái mới. Tiếc rằng, lại chưa được khai thác đầy
đủ, đào tạo chưa bài bản, điều đó ảnh hưởng đến chất lượng nhân lực và ảnh
hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam.
2. Phương hướng và giải pháp về phát triển nhân lực Việt Nam:
Về những giải pháp phát triển nhân lực Việt Nam đến năm 2020 đã được
thể hiện trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và được thông
qua tại Đại hội XI của Đảng (tháng 1-2011). Chiến lược phát triển nhân lực Việt
Nam thời kỳ 2011-2020 đã được Chính phủ thông qua trong Quyết định số
579/QĐ-TTg, ngày 19-4-2011. Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai
đoạn 2011-2020 cũng đã được Thủ tướng Chính phủ ký tại Quyết định
1216/QĐ-TTg, ngày 22-7-2011. Đó là những văn bản pháp lý quan trọng có tính
định hướng để phát triển nhân lực Việt Nam đến năm 2020, phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một bước đột phá
chiến lược, yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công
nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tạo lợi thế cạnh
10
tranh, bảo đảm đưa nền kinh tế của đất nước phát triển nhanh, bền vững, hiệu
quả.
Phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020 nhằm đưa nhân lực đất
nước trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng nhất để tạo sự phát triển bền vững,
ổn định xã hội, hội nhập quốc tế. Xây dựng nhân lực chất lượng cao có nghĩa là
xây dựng đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ, nhất là các chuyên gia, tổng
công trình sư, kỹ sư đầu ngành, công nhân có tay nghề cao, có trình độ chuyên
môn - kỹ thuật tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực, có đủ năng
lực nghiên cứu, tiếp nhận, chuyển giao và đề xuất những giải pháp khoa học,

công nghệ, kỹ thuật, giải quyết những vấn đề cơ bản của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng đội ngũ doanh nhân quản lý doanh nghiệp,
có khả năng tổ chức, khả năng cạnh tranh; xây dựng hệ thống các cơ sở đào tạo
nhân lực tiên tiến, hiện đại, đa dạng, cơ cấu ngành nghề đồng bộ; xây dựng sự
nghiệp giáo dục tiên tiến, hiện đại và một xã hội học tập toàn diện để tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao.
Theo Quyết định số 1216/QĐ, ngày 22-7-2011 của Thủ tướng Chính phủ,
về việc phê duyệt quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020,
thì trong 10 năm tới cần tăng nhanh tỷ lệ nhân lực qua đào tạo trong nền kinh tế
với cơ cấu hợp lý. Tổng số nhân lực qua đào tạo năm 2015 là khoảng 30,5 triệu
người (chiếm khoảng 55,0% trong tổng số 55 triệu người làm việc trong nền
kinh tế đất nước) và năm 2020, có khoảng gần 44 triệu người (chiếm khoảng
70,0% trong tổng số gần 63 triệu người làm việc trong nền kinh tế). Trong tổng
số nhân lực qua đào tạo, số nhân lực đào tạo qua hệ thống dạy nghề đến năm
2015 có khoảng 23,5 triệu người (tăng 77%). Đến năm 2020 có khoảng 34,4
triệu người (bằng 78,5%). Số nhân lực đào tạo qua hệ thống giáo dục - đào tạo
11
đến năm 2015 có khoảng 7 triệu người (bằng 23%), đến năm 2020 có khoảng
9,4 triệu người (bằng 21,5%).
Về cơ cấu bậc đào tạo, năm 2015, số nhân lực qua đào tạo ở bậc sơ cấp
nghề khoảng 18 triệu người, chiếm khoảng 59% tổng số nhân lực đã qua đào tạo
của nền kinh tế; bậc trung cấp khoảng 7 triệu người (khoảng 23%); bậc cao
đẳng gần 2 triệu người (khoảng 6%); bậc đại học khoảng 3,3 triệu người
(khoảng 11%); bậc trên đại học khoảng 200 nghìn người (khoảng 0,7%).
Năm 2020, số nhân lực đào tạo ở bậc sơ cấp nghề khoảng gần 24 triệu người
(khoảng 54%) tổng số nhân lực qua đào tạo của nền kinh tế; bậc trung cấp nghề
khoảng gần 12 triệu người (khoảng 27%); bậc cao đẳng hơn 3 triệu người
(khoảng 7%); bậc đại học khoảng 5 triệu người (khoảng 11%) và bậc trên đại
học khoảng 300 nghìn người (khoảng 0,7%).
Phát triển nhân lực đến năm 2020 của các ngành, lĩnh vực, khu vực như

công nghiệp; xây dựng; dịch vụ; nông, lâm, ngư nghiệp; giao thông vận tải; tài
nguyên, môi trường; du lịch; ngân hàng; tài chính; công nghệ thông tin; năng
lượng hạt nhân; đào tạo nhân lực để đi làm việc ở nước ngoài đã được quy định
cụ thể trong Quyết định 1216.
Nhân lực chủ thể cũng đã được định hình: Cán bộ lãnh đạo là những
người đứng đầu cấp trưởng và phó của các cơ quan trung ương: Đảng, Quốc hội,
Chính phủ, các tổ chức chính trị - xã hội cấp trung ương; cơ quan đảng, hội đồng
nhân dân, ủy ban nhân dân, các sở, ban, ngành và tương đương; đoàn thể và các
tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh, thành phố, trực thuộc trung ương.
Đến năm 2015, tổng số cán bộ lãnh đạo của cả nước có khoảng 200 nghìn
người, trong đó, số người có trình độ cử nhân đến thạc sĩ, tiến sĩ là hơn 120
12
nghìn người. Đến năm 2020 có khoảng 220 nghìn người, trong đó, số người có
trình độ từ cử nhân đến thạc sĩ, tiến sĩ là 147 nghìn người.
Tổng số lãnh đạo các cấp cần bồi dưỡng từ năm 2011 đến năm 2015 là
khoảng 20 nghìn người; từ năm 2016 đến năm 2020 khỏng 15 nghìn người.
Đội ngũ công chức, viên chức của cả nước đến năm 2015 có khoảng 5,3
triệu người, trong đó, số công chức, viên chức có trình độ cử nhân, thạc sĩ, tiến
sĩ khoảng 2,8 triệu người, chiếm khoảng 52% trong tổng số đội ngũ công chức,
viên chức của cả nước. Đến năm 2020, số công chức, viên chức của cả nước có
khoảng 6 triệu người, trong đó, số công chức, viên chức có trình độ cử nhân,
thạc sĩ, tiến sĩ có khoảng 3,8 triệu người, chiếm khoảng 63% trong tổng số đội
ngũ công chức, viên chức của cả nước.
Tỷ lệ công chức, viên chức cần bồi dưỡng, nâng cao chuyên môn, nghiệp
vụ từ năm 2011 đến năm 2015 khoảng 20%; thời kỳ 2016-2020 khoảng 15%
tổng số công chức, viên chức.
Đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ đến năm 2015 tăng lên khoảng 103
nghìn người, trong đó, số người có trình độ trên đại học khoảng 28 nghìn người.
Đến năm 2020 có khoảng 154 nghìn cán bộ khoa học, công nghệ, trong đó, số
người có trình độ trên đại học khoảng 40 nghìn người.

Về đội ngũ giáo viên, giảng viên trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và
đại học đến năm 2015, số giáo viên, giảng viên bậc trung cấp chuyên nghiệp có
khoảng 38 nghìn người, trong đó, có khoảng 30% có trình độ thạc sĩ trở lên; số
giáo viên, giảng viên bậc cao đẳng khoảng 33,5 nghìn người, trong đó khoảng
6% tổng số giáo viên, giảng viên có trình độ tiến sĩ; số giáo viên, giảng viên bậc
đại học khoảng 62,1 nghìn người, trong đó, số người có trình độ tiến sĩ khoảng
23%. Đến năm 2020, số giáo viên, giảng viên bậc trung cấp chuyên nghiệp
13
khoảng 48 nghìn người, trong đó, khoảng 38,5% có trình độ thạc sĩ trở lên; số
giáo viên, giảng viên bậc cao đẳng khoảng 44,2 nghìn người, trong đó, tỷ lệ giáo
viên, giảng viên có trình độ tiến sĩ khoảng 8%; số giáo viên, giảng viên bậc đại
học khoảng 75,8 nghìn người, trong đó, số giáo viên, giảng viên có trình độ tiến
sĩ khoảng 30%.
Về đội ngũ giáo viên, giảng viên dạy nghề đến năm 2015, số giáo viên,
giảng viên dạy nghề các bậc khoảng 51 nghìn người, trong đó, giáo viên, giảng
viên cao đẳng nghề khoảng 13 nghìn người; giáo viên, giảng viên trung cấp
nghề khoảng 24 nghìn người; giáo viên, giảng viên sơ cấp nghề khoảng 14
nghìn người. Đến năm 2020, số giáo viên, giảng viên dạy nghề các bậc khoảng
77 nghìn người, trong đó, giáo viên, giảng viên cao đẳng nghề là 28 nghìn
người; giáo viên, giảng viên trung cấp nghề khoảng 31 nghìn người; giáo viên,
giảng viên sơ cấp nghề khoảng 28 nghìn người.
Về đội ngũ cán bộ y tế đến năm 2015, tổng số cán bộ y tế có khoảng 385
nghìn người, trong đó, số bác sĩ khoảng từ 74 - 75 nghìn người (đạt 41 cán bộ y
tế/10 nghìn dân, trong đó, đạt khoảng 8 bác sĩ/10 nghìn dân). Đến năm 2020,
tổng số cán bộ y tế có khoảng 500 nghìn người, trong đó, số bác sĩ khoảng từ 96
- 97 nghìn người (đạt 52 cán bộ y tế/10 nghìn dân, trong đó, đạt khoảng 10 bác
sĩ/10 nghìn dân).
Đội ngũ cán bộ văn hóa, thể thao đến năm 2015 có khoảng 88 nghìn
người. Đến năm 2020 có khoảng 113 nghìn người, trong đó, lĩnh vực văn hóa
năm 2015 khoảng 57 nghìn người và năm 2020 khoảng 75 nghìn người; lĩnh vực

thể thao năm 2015 khoảng 22 nghìn người và năm 2020 khoảng 28 nghìn người.
Về đội ngũ cán bộ tư pháp đến năm 2020 cần bổ sung thêm khoảng 700
chấp hành viên, khoảng 1.300 thẩm tra viên, thẩm tra viên chính, khoảng 4.300
đến 4.500 thư ký thi hành án, 1.600 kế toán. Đến năm 2020, ngành tư pháp cần
14
bổ sung thêm khoảng 18 nghìn luật sư và khoảng 2 nghìn công chứng viên, đào
tạo cán bộ pháp luật cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (mỗi doanh nghiệp cần từ
1 đến 2 cán bộ pháp luật). Các cơ quan tư pháp địa phương đến năm 2020 cần
khoảng 17 nghìn người.
Về đội ngũ cán bộ tòa án đến năm 2020 cần bổ sung khoảng 1 nghìn
người mỗi năm, trong đó có khoảng 500 thẩm phán. Như vậy, nhu cầu nhân lực
của ngành tòa án đến năm 2020 là khoảng 22 nghìn cán bộ, công chức.
Về đội ngũ doanh nhân đến năm 2015, cả nước có khoảng từ 1,5 đến 2
triệu người. Tỷ lệ doanh nhân có trình độ cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ, tiến sĩ chiếm
khoảng 78% tổng số đội ngũ doanh nhân. Đến năm 2020, cả nước có khoảng từ
2,5 đến 3 triệu doanh nhân. Tỷ lệ doanh nhân có trình độ cử nhân, kỹ sư, thạc sĩ,
tiến sĩ chiếm khoảng 80% trong tổng số đội ngũ doanh nhân.
Nhân lực để phát triển của các ngành kinh tế biển; nhân lực của các lực
lượng vũ trang; nhân lực các vùng kinh tế - xã hội (vùng trung du và miền núi
phía bắc, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng bắc Trung Bộ và duyên hải miền
Trung, vùng Tây Nguyên, vùng đông Nam Bộ, vùng đồng bằng sông Cửu Long)
đều đã được quy hoạch tổng thể.
Quy mô đào tạo trong các trường đại học, cao đẳng năm 2020 có khoảng
3,4 - 3,9 triệu sinh viên. Tỷ lệ sinh viên vào năm 2020 là từ 350 - 400 người/trên
1 vạn dân.
Mạng lưới trường đại học và cao đẳng vào năm 2020 sẽ có tổng cộng 573
trường, trong đó, 259 trường đại học và 314 trường cao đẳng. Trong giai đoạn
2011-2015 sẽ thành lập thêm 158 trường (70 trường đại học và 88 trường cao
đẳng).
15

Về mạng lưới trường cao đẳng nghề, trường trung cấp nghề, trung tâm
dạy nghề (gọi chung là cơ sở dạy nghề): Đến năm 2015 có 190 trường cao đẳng
nghề, trong đó, có 60 trường ngoài công lập; 300 trường trung cấp nghề, trong
đó, có 100 trường ngoài công lập; 920 trung tâm dạy nghề, trong đó có 320
trung tâm ngoài công lập. Đến năm 2020 có khoảng 230 trường cao đẳng nghề,
trong đó, có 80 trường ngoài công lập; 310 trường trung cấp nghề, trong đó có
120 trường ngoài công lập; 1.050 trung tâm dạy nghề, trong đó có 350 trung tâm
ngoài công lập.
Tổng vốn đầu tư cho phát triển nhân lực đến năm 2020 (gồm giáo dục và
đào tạo; dạy nghề; y tế; chăm sóc sức khỏe, ) khoảng 2.135 nghìn tỷ VNĐ,
chiếm 12% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Để thực hiện những chỉ tiêu trên, cần có những giải pháp:
Một là: Phải xác định cho rõ nguồn nhân lực là tài nguyên quý giá nhất
của Việt Nam trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Một đất nước rất
ít tài nguyên thiên nhiên như ở Việt Nam, cần phải lấy nguồn nhân lực làm tài
nguyên thay thế, gọi là tài nguyên nguồn nhân lực, hoặc tài nguyên con người.
Muốn vậy, phải làm cho mọi người thấy rõ vai trò và trách nhiệm đào tạo và sử
dụng nhân lực, biến thách thức và chất lượng nhân lực thành lợi thế cạnh tranh
trên phương diện toàn cầu. Đây là nhiệm vụ của toàn xã hội, mang tính xã hội;
là trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, quản lý, của nhà trường, của doanh nghiệp,
của gia đình cũng như của bản thân mỗi người lao động. "Đây chính là thể hiện
quan điểm phát triển con người, phát triển kinh tế - xã hội vì con người và do
con người, là một trong những nội dung cơ bản của phát triển bền vững"
3
.
Hai là: Mở cuộc vận động sâu rộng trong toàn xã hội về nhân lực Việt
Nam phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát động
phong trào thi đua yêu nước tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Đẩy mạnh công
16
tác tuyên truyền, góp phần giúp cho mọi người hiểu rõ về các chính sách phát

triển nhân lực. Vận động các doanh nghiệp tham gia đào tạo nhân lực để sử
dụng với chất lượng ngày càng cao.
Ba là: Xây dựng hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về nhân lực, việc
làm, giáo dục, đào tạo, chính sách tiền lương, khen thưởng, đãi ngộ; chính sách
trọng dụng chuyên gia, tham mưu, kỹ sư, tổng công trình sư, nhà thiết kế, phát
minh, gọi chung là nhân tài, chính sách về môi trường, điều kiện, phương tiện
làm việc; chính sách việc làm, thu nhập, bảo hiểm, bảo trợ xã hội; chính sách
cho các cơ quan khoa học NGO. Tổ chức tốt việc việc thực hiện các chính sách
đó. Cải cách chế độ tiền lương cho đội ngũ giáo viên, giảng viên, có chế độ ưu
đãi cho người học.
Bốn là: Đổi mới quản lý nhà nước về phát triển nhân lực; hoàn thiện bộ
máy quản lý phát triển nhân lực nhằm nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhân lực; đổi mới phương pháp giáo dục, quản lý nhân lực, thấu tình đạt
lý, nhìn rõ đúng sai, kịp thời rút kinh nghiệm về quản lý nhân lực. Tổ chức bộ
máy quản lý nhân lực từ trung ương đến địa phương. Nhân sự cho bộ máy này
phải là những chuyên gia giỏi về nghiên cứu nhân tài, nhân lực trong và ngoài
biên chế nhà nước. Làm rõ chức năng, nhiệm vụ của bộ máy này là tư vấn, tham
mưu, đề xuất; thu thập, phân tích các số liệu về nguồn nhân lực ở tất cả các
ngành, các cấp.
Năm là: Tiến hành điều tra, khảo sát thường xuyên về nhân lực và chất
lượng nhân lực ở tất cả các ngành, các cấp, địa phương và cả nước;bảo đảm cân
đối cung - cầu nhân lực để phát triển kinh tế - xã hội trong phạm vi cả nước và
trong từng ngành, từng cấp.
17
Sáu là: Đổi mới đào tạo và dạy nghề theo hướng hiện đại, phù hợp với
hoàn cảnh Việt Nam, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước và hội nhập quốc
tế, chủ yếu là hội nhập kinh tế quốc tế.
Bảy là: Đổi mới quản lý nhà nước về đào tạo và dạy nghề từ trung ương
đến địa phương; tổ chức hợp lý hệ thống cấp bậc đào tạo; thực hiện phân cấp
quản lý đào tạo giữa bộ, ngành, địa phương; quy hoạch lại mạng lưới các trường

đại học, cao đẳng, trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề. Khuyến khích thành lập
các trường đại học, cao đẳng tư thục tại các nơi có điều kiện, góp phần đẩy
nhanh số lượng và chất lượng nguồn nhân lực được đào tạo.
Tám là: Đổi mới cách xây dựng nền giáo dục, đào tạo phục vụ nhu cầu xã
hội; thực hiện đúng yêu cầu học để làm việc, giúp nước, giúp dân; xây dựng cơ
sở đào tạo theo hướng đào tạo đến đâu sử dụng đến đó.
Chín là: Xây dựng hệ thống quốc gia để kiểm tra, đánh giá chất lượng
giáo dục và đào tạo; xử lý việc thực hiện quy hoạch phát triển nhân lực trên
phạm vi cả nước, bảo đảm phát triển hài hòa, cân đối.
Mười là: Bảo đảm và huy động nguồn vốn cho phát triển nhân lực; đẩy
mạnh xã hội hóa để tăng cường các nguồn vốn cho phát triển nhân lực.
Mười một là: Đẩy mạnh hợp tác quốc tế để phát triển nguồn nhân lực và
chuyên giao công nghệ hiện đại về Việt Nam.
Mười hai là: Nâng cao hơn nữa đến chất lượng con người và chất lượng
cuộc sống. Chất lượng con người, trước hết, phải tính đến vấn đề chất lượng
sinh nở. Ngành y tế phải có những quy định cụ thể về chất lượng sinh nở như
kiểm tra sức khỏe, bệnh tật, tính di truyền và vợ chồng quan hệ để sinh con,…,
trước khi chính quyền cấp giấy đăng ký giá thú. Hiện nay, tại Việt Nam, đang có
tình trạng đẻ vô tội vạ, đẻ không tính toán, cân nhắc, nhất là ở nông thôn, làm
18
cho những đứa con sinh ra bị còi cọc, không phát triển được trí tuệ. Thậm chí có
những người bị nhiễm chất độc da cam mà vẫn đẻ ra những đứa con dị tật. Có
người tính rằng, tại Việt Nam, cứ 10 đứa trẻ sinh ra, có 1 người bị dị tật bẩm
sinh. Vì vậy, phải tăng cường chất lượng hoạt động của các cơ quan chức năng.
Khi có chất lượng con người, phải tính đến chất lượng cuộc sống, có
nghĩa là phải nuôi dưỡng về vật chất và tinh thần của con người sinh ra, bảo đảm
cho họ có thể lực dồi dào, trí tuệ minh mẫn. Về vấn đề này, Việt Nam còn kém
xa so với nhiều nước.
Mười ba là: Nhà nước xây dựng chiến lược nguồn nhân lực gắn với chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xác định

thật rõ xây dựng nguồn nhân lực là trách nhiệm của các nhà hoạch định chính
sách và tổ chức thực hiện chính sách, trách nhiệm của cả hệ thống chính trị.
Mười bốn là: Để xây dựng chất lượng con người phải có sự gắn kết với
chất lượng cuộc sống xã hội; có sự gắn kết chặt chẽ giữa xã hội - nhà trường -
gia đình để tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao trong tương lai.
Mười lăm là: Hằng năm, Nhà nước cần tổng kết về lý luận và thực tiễn về
nguồn nhân lực ở Việt Nam, đánh giá đúng mặt được, mặt chưa được, kịp thời
rút ra những kinh nghiệm, trên cơ sở đó mà phát huy mặt tốt, khắc phục mặt
chưa tốt.
Chính phủ và các cơ quan chức năng phải có chính sách, biện pháp kết
hợp thật tốt giữa đào tạo và sử dụng trong tổng thể phát triển kinh tế của đất
nước, đáp ứng có hiệu quả nguồn lao động có chất lượng cao cho yêu cầu phát
triển của nền kinh tế.
Nói tóm lại, nếu không làm tốt vấn đề tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
cho đất nước, thì khó lòng đạt được mục tiêu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở
19
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Trên thực tế, có nhiều quốc
gia đang phát triển, trở thành nước có thu nhập trung bình, nhưng rất ít nước tiếp
tục đi lên được để trở thành một nước công nghiệp, vì những nước này, không
có chính sách hiệu quả để phát triển nguồn nhân lực.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr. 45.
2. Theo Phụ lục dự thảo "Chiến lược Phát triển giáo dục Việt Nam 2009-
2020", công bố trên internet, đến 30-12-2008, năm học 2007-2008, Việt Nam có
160 trường đại học, đại học, học viện. Theo Báo cáo số 760/BC-BGD ĐT, ngày
29-10-2009 của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tính đến tháng 9-2009, cả nước có 376
trường đại học và cao đẳng, tăng gấp 3,7 lần so với năm 1987.
3. Quyết định số 1216-QĐ/TTg, ngày 22-7-2011 của Thủ tướng Chính phủ:
"Phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 2011-2020",
www.chinhphu.vn.

20

×