ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BÙI TRƢỜNG GIANG
CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC
NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
(Qua khảo sát một số trƣờng Đại học, Cao đẳng
ngành Giao thông vận tải)
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
-
BÙI TRƢỜNG GIANG
CHẤT LƢỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC
NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
(Qua khảo sát một số trƣờng Đại học, Cao đẳng
ngành Giao thông vận tải)
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 85
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. HOÀNG CHÍ BẢO
HÀ NỘI - 2012
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. TẦM QUAN TRỌNG VÀ YÊU CẦU CỦA VIỆC ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY 9
1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực ngành Giao
thông vận tải 9
1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực 9
1.1.2. Quan niệm về đào tạo nguồn nhân lực 14
1.1.3. Đặc điểm đào tạo nguồn nhân lực trong các trường của ngành
Giao thông vận tải ở Việt Nam hiện nay 19
1.2. Những nhân tố tác động đến quá trình đào tạo nguồn nhân lực của
ngành Giao thông vận tải ở Việt Nam hiện nay 25
1.2.1. Tác động của trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội đến quá
trình đào tạo nguồn nhân lực ngành Giao thông vận tải 25
1.2.2. Tác động của cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước đến quá
trình đào tạo nguồn nhân lực ngành Giao thông vận tải 28
1.2.3. Tác động của chất lượng đội ngũ làm công tác quản lý và nội
dung, chương trình, phương pháp đào tạo đến quá trình đào tạo
nguồn nhân lực ngành Giao thông vận tải 35
1.3. Vai trò và yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực của ngành Giao thông vận
tải ở Việt Nam hiện nay 39
1.3.1. Vai trò của việc đào tạo nguồn nhân lực trong ngành Giao thông
vận tải ở Việt Nam hiện nay 39
1.3.2. Những yêu cầu trong đào tạo nguồn nhân lực của ngành Giao
thông vận tải ở Việt Nam hiện nay 48
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY 55
2.1.
Thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ngành Giao thông vận tải ở Việt Nam
hiện nay
55
2.1.1. Thực trạng đội ngũ những người làm công tác đào tạo nguồn
nhân lực của ngành Giao thông vận tải ở Việt Nam hiện nay 55
2.1.2. Thực trạng nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo
nguồn nhân lực của ngành Giao thông vận tải ở Việt Nam hiện
nay 65
2.1.3. Thực trạng nhận thức, học tập, nghiên cứu của sinh viên trong
ngành Giao thông vận tải ở Việt Nam hiện nay 72
2.1.4. Thực trạng tổ chức bộ máy quản lý và điều kiện vật chất phục
vụ công tác đào tạo nguồn nhân lực của ngành Giao thông vận
tải ở Việt Nam hiện nay 82
2.2. Những vấn đề đặt ra trong đào tạo nguồn nhân lực của các trường
thuộc ngành Giao thông vận tải ở Việt Nam hiện nay 87
2.2.1. Sự bất cập giữa yêu cầu của công cuộc đổi mới với năng lực còn
hạn chế của đội ngũ làm công tác đào tạo 87
2.2.2. Sự bất cập giữa yêu cầu cao của công cuộc công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế với hạn chế về nội
dung, chương trình, phương pháp đào tạo nguồn nhân lực trong
các trường của ngành 90
2.2.3. Sự bất cập giữa yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải đào tạo được nhiều nhân lực có
trình độ cao với môi trường đào tạo còn nhiều hạn chế 92
2.2.4. Sự bất cập giữa tính năng động của kinh tế thị trường với sức ỳ
của công tác đào tạo nguồn nhân lực trong các trường của ngành
Giao thông vận tải ở Việt Nam hiện nay 93
Chƣơng 3. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY 97
3.1. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
ngành Giao thông vận tải ở Việt Nam hiện nay 97
3.1.1. Phát triển số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác
đào tạo trong các trường ngành Giao thông vận tải ở Việt Nam
hiện nay 97
3.1.2. Đa dạng hóa chương trình, hình thức đào tạo trong các trường
thuộc ngành Giao thông vận tải ở Việt Nam hiện nay 105
3.1.3. Phát huy tính tích cực học tập, nghiên cứu của sinh viên trong
đào tạo nguồn nhân lực ở các trường của ngành Giao thông vận
tải ở Việt Nam hiện nay 108
3.1.4. Đổi mới công tác tổ chức, công tác quản lý trong đào tạo nguồn
nhân lực ở các trường của ngành Giao thông vận tải ở Việt Nam
hiện nay 114
3.1.5. Bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, tăng cường cơ sở vật
chất và xây dựng các cơ sở đào tạo từ các nguồn đầu tư, tạo môi
trường thuận lợi cho công tác đào tạo nguồn nhân lực trong các
trường của ngành Giao thông vận tải ở Việt Nam hiện nay 119
3.2. Kiến nghị 122
3.2.1. Bộ Giao thông vậ n tả i cần sớm bổ sung và hoàn thiện quy hoạch
về phát triển giáo dục-đào tạo để nâng cao chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực 122
3.2.2. Ngành Giao thông vậ n tả i cần chủ động , tích cực thực hiện các
chủ trương chính sách liên quan đến chất lượng đào tạo nguồn
nhân lực 122
3.2.3. Đối với các Bộ, Ngành có liên quan đến chất lượng đào tạo
nguồn nhân lực 123
3.2.4. Đối với các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan tới đào tạo
nguồn nhân lực 124
3.2.5. Nâng cao nhận thức các cấp lãnh đạo trong ngành Giao thông
vận tải 124
KẾT LUẬN 126
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 129
PHỤ LỤC 133
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, nước ta đang bước vào thời kỳ phát triển mới: thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Toàn
cầu hoá, hội nhập quốc tế là xu thế tất yếu của các quốc gia trên thế giới. Đây
là thời cơ, thuận lợi để các quốc gia hợp tác trao đổi về khoa học và công
nghệ, về kinh nghiệm quản lý, về thị trường hàng hoá và lao động, khai thác
và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, khoáng sản… dẫn đến những
biến đổi mạnh mẽ trong đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của mỗi
quốc gia.
Việt Nam đã trở thành thành viên của Liên Hợp Quốc và là thành viên
thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đã tham gia vào các tổ
chức quốc tế như ASEAN, APEC… Đó là thời cơ lớn nhưng cũng đan xen cả
những thách thức lớn đối với sự phát triển của Việt Nam. Để đón kịp thời cơ,
khai thác có hiệu quả những thuận lợi và chủ động vượt qua những thách thức
chúng ta phải phát huy năng lực tư duy, trí tuệ và sáng tạo của con người Việt
Nam, thực hiện những đột phá về thể chế kinh tế thị trường, kết cấu hạ tầng
và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực như Đại hội XI của Đảng đã xác định.
Đây là vấn đề cơ bản và quyết định sự phát triển bền vững của nước ta.
Nguồn nhân lực nước ta trong một thời gian dài do bị tác động của
chiến tranh, của thời kỳ bao cấp kéo dài cùng với điều kiện kinh tế - xã hội
còn lạc hậu nên đã có những hạn chế nhất định. Điều đó đã ảnh hưởng rất lớn
đến sự phát triển năng lực tư duy, trí tuệ và sáng tạo của con người Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế. Giáo dục - Đào tạo có một
vị trí quan trọng trong phát triển nguồn nhân lực. Giáo dục trong hệ thống các
nhà trường là con đường ngắn nhất và khoa học nhất để truyền thụ tri thức
cho người học một cách cơ bản, có hệ thống và hiệu quả nhất.
2
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước
ta, nhằm đưa đất nước từ nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành một nước
công nghiệp hiện đại. Đó là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt
động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội, từ sử dụng sức
lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến khoa học, công
nghệ, phương tiện, kỹ thuật hiện đại. Để thực hiện chủ trương trên, Nghị
quyết Trung ương 2 khoá VIII của Đảng đề ra “phát triển giáo dục và đào tạo
là quốc sách hàng đầu” và “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố
cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” [17, tr.85]. Sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta không chỉ là công cuộc xây dựng kinh tế,
mà còn là quá trình biến đổi sâu sắc trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
nhằm đưa xã hội phát triển lên một trình độ mới về chất, do đó, phát triển con
người, đào tạo nguồn nhân lực đang là vấn đề cấp bách, then chốt, phải đi
trước một bước, góp phần tăng trưởng kinh tế đi đôi với giải quyết các vấn đề
xã hội. Từ nhận thức đó, Đảng ta đã khẳng định: “Nâng cao dân trí, bồi
dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết
định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [17, tr.21].
Ngành giao thông vận tải hiện nay là một trong những ngành mũi nhọn
của đất nước, quản lý các lĩnh vực như: cầu đường bộ, đường sông, đường
biển, đường sắt, đường hàng không, đăng kiểm trên cả nước, do đó phải có
một đội ngũ các nhà quản lý, kỹ sư, kỹ thuật viên có trình độ cao về chuyên
môn nghiệp vụ. Đáp ứng yêu cầu đó, trong những năm qua các trường đại
học, cao đẳng của ngành Giao thông vận tải đã đào tạo ra một đội ngũ kỹ
sư, kỹ thuật viên giỏi, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá của ngành nói riêng và ở Việt Nam nói chung.
Việt Nam có thể trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại
vào năm 2020 hay không điều đó còn tùy thuộc vào việc xây dựng và thực
hiện chiến lược nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực. Vì vậy, việc
3
nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành Giao thông vận tải trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề cấp
thiết, căn bản và lâu dài đối với sự phát triển kinh tế, xã hội của Việt Nam.
Với ý nghĩa đó, tác giả chọn đề tài “Chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
ngành Giao thông vận tải ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm qua ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu
về đào tạo nguồn nhân lực. Nhiều công trình đi sâu nghiên cứu về nâng cao
năng lực nhận thức, tư duy của con người trong phát triển kinh tế, xã hội,
đánh giá thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta, đề xuất những giải pháp
nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Nổi bật có các công trình nghiên cứu
như:
- “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của PTS. Mai Quốc Chánh (chủ biên),
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Cuốn sách đã phân tích vai trò của
nguồn nhân lực và việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, từ đó đề xuất
những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nước
ta đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- “Phát triển nguồn nhân lực giáo dục đại học Việt Nam” do TS. Đỗ
Minh Cương - PGS. TS Nguyễn Thị Loan chủ biên, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2001. Cuốn sách làm rõ quan điểm, định hướng chiến lược và
giải pháp chủ yếu cho việc phát triển năng lực giáo dục bậc cao ở nước ta
trong thời kỳ mới.
- “Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam” của TS.
Bùi Thị Ngọc Lan, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Cuốn sách tập
trung làm rõ quan niệm về trí tuệ và nguồn lực trí tuệ; vai trò, đặc điểm,
thực trạng phát huy và xu hướng phát triển của nguồn lực trí tuệ Việt Nam
4
- bộ phận tinh hoa trong nguồn nhân lực Việt Nam thời gian qua. Trên cơ
sở đó, tác giả đưa ra những phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát
huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- “Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài” do PGS. TS Nghiêm
Đình Vỳ và TS Nguyễn Đắc Hưng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2002. Cuốn sách đã giới thiệu khái quát về lịch sử giáo dục Việt Nam,
những cơ hội, thách thức và nhiệm vụ đặt ra đối với giáo dục Việt Nam
trong những năm đầu của thế kỷ XXI. Từ đó, các tác giả đưa ra một số giải
pháp, kiến nghị nhằm phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng tài năng và nguồn nhân
lực cho đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- “Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn
nước ta” của PGS. Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1996. Cuốn sách giới thiệu khái quát về vai trò của nguồn nhân lực ở
một số nước trên thế giới dưới tác động của giáo dục - đào tạo, đồng thời
nêu bật vai trò của giáo dục - đào tạo trong việc phát triển nguồn nhân lực
ở Việt Nam.
- Bên cạnh đó, còn có các bài viết, các chuyên đề nghiên cứu được
đăng trên các báo, tạp chí đề cập nhiều đến vấn đề nguồn lực con người
như: “Nguồn lực con người trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
nước ta đến năm 2000” của GS.TS Nguyễn Trọng Chuẩn, Tạp chí Triết
học, số 4, 1990; “Ảnh hưởng của văn hóa đối với việc phát huy nguồn lực
con người” của GS,TS. Hoàng Chí Bảo đăng trên tạp chí Triết học, số
1,1993; “Con người mới xã hội chủ nghĩa - lý luận và phương pháp luận
nghiên cứu” của GS,TS. Hoàng Chí Bảo đăng trên tạp chí Triết học, số
2,1998; “Một số vấn đề về phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa” của GS Phạm Minh Hạc, Tạp chí Lao động và xã hội,
số 3, 2001
5
- Đặc biệt là chương trình khoa học cấp Nhà nước KHXH-05 “Nghiên
cứu văn hoá, con người, nguồn nhân lực đầu thế kỷ XXI” (11/2003). Có
những công trình đáng chú ý như: “Ảnh hưởng của tiến bộ khoa học, kỹ thuật
và công nghệ đến việc nghiên cứu và phát triển con người và nguồn nhân lực
những năm đầu thế kỷ XXI” của TSKH Lương Việt Hải; “Phát triển nguồn
nhân lực Việt Nam đầu thế kỷ XXI” của TS Nguyễn Hữu Dũng; “Một số
những thay đổi của quản lý nguồn nhân lực Việt Nam trong quá trình chuyển
đổi nền kinh tế trong cơ chế thị trường” của TS Vũ Hoàng Ngân.
Nhìn chung, các công trình đều khẳng định yêu cầu phát triển đào tạo
nguồn nhân lực và ý nghĩa của việc nhận thức đúng đắn các chính sách phát
triển đào tạo nguồn nhân lực. Song, do yêu cầu của thời đại và của sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kỳ Việt Nam hội nhập kinh tế quốc
tế, vì mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, việc tiếp tục nghiên cứu một
cách có hệ thống các quan điểm cơ bản về nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, phân tích thực trạng và luận chứng một số giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay vẫn là một việc làm cần thiết cả về
lý luận và thực tiễn.
Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về đào tạo nguồn nhân lực
trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Hầu hết các công trình nghiên
cứu này đã tập trung nghiên cứu các phương diện khác nhau của sự phát triển
đào tạo nguồn nhân lực của Việt Nam và đề xuất những giải pháp để đào tạo
nguồn nhân lực, từ giáo dục - đào tạo đến giải quyết việc làm, đổi mới cơ chế,
chính sách nhằm phát triển nguồn nhân lực ở nước ta. Tuy nhiên, chưa có
công trình nào đi sâu nghiên cứu “Chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
ngành Giao thông vận tải ở Việt Nam hiện nay”. Chọn vấn đề này làm đề tài
luận văn thạc sỹ, tác giả mong muốn góp một phần nhỏ bé vào việc nâng cao
chất lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành Giao thông vận tải ở nước ta trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
6
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở làm rõ thực trạng đào tạo nguồn nhân lực ở các trường trong
ngành Giao thông vận tải ở nước ta hiện nay, luận văn đề xuất những những
giải pháp và kiến nghị chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
ngành Giao thông vận tải trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Làm rõ khái niệm: nguồn nhân lực, đào tạo nguồn nhân lực, từ đó
phân tích những đặc điểm, những nhân tố tác động và vai trò của việc đào tạo
nguồn nhân lực ngành Giao thông vận tải trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.
+ Phân tích thực trạng của việc đào tạo nguồn nhân lực ngành Giao
thông vận tải hiện nay.
+ Đề xuất một số giải pháp cơ bản và những kiến nghị nhằm nâng cao
chất lượng và hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực ngành Giao thông vận tải
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu chất lượng đào tạo nguồn nhân lực bao
gồm chủ thể đào tạo, đối tượng đào tạo, môi trường đào tạo và các hoạt động
tổ chức, quản lý đào tạo ở một số trường đại học, cao đẳng của ngành Giao
thông vận tải ở Việt Nam hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu công tác đào tạo nguồn nhân lực trong
phạm vi ngành Giao thông vận tải thuộc Bộ Giao thông vận tải quản lý, đặc
biệt từ khi thực hiện chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước từ năm 1997 đến nay.
7
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận, phương pháp luận nghiên cứu của luận văn là chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề con
người, nhân tố con người. Vận dụng các quan điểm đó vào việc đào tạo nguồn
nhân lực ở Việt Nam hiện nay.
* Cơ sở thực tiễn:
Luận văn bám sát thực tiễn đổi mới trong 25 năm qua, đặc biệt là thực
tiễn đào tạo nguồn nhân lực ở một số trường đại học, cao đẳng thuộc ngành
Giao thông vận tải ở Việt Nam hiện nay.
* Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và phương pháp duy
vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,
lôgic và lịch sử, thống kê, điều tra xã hội , gắn lý luận với thực tiễn chính trị-
xã hội để triển khai các nội dung nghiên cứu.
6. Đó ng gó p củ a luậ n văn
* Đóng góp mới về khoa học của luận văn:
Luận văn góp phần làm rõ thực trạng vấn đề đào tạo nguồn nhân lực ở
một số trường đại học, cao đẳng của ngành Giao thông vận tải ở Việt Nam
hiện nay, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn
nhân lực trong các trường của ngành Giao thông vận tải ở Việt Nam hiện nay.
* Ý nghĩa thực tiễn của luận văn:
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho công
tác quản lý, nghiên cứu, giảng dạy và học tập về vấn đề đào tạo nguồn nhân
lực trong các trường của ngành Giao thông vận tải ở Việt Nam hiện nay.
8
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
Chƣơng 1: Tầ m quan trọ ng và yêu cầ u củ a việ c đà o tạ o nguồ n nhân
lự c.
Chƣơng 2: Thự c trạ ng và nhữ ng vấ n đề đặ t ra trong đà o tạ o nguồ n
nhân lự c.
Chƣơng 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chấ t lượ ng đà o tạ o
nguồ n nhân lự c .
9
Chƣơng 1
TẦM QUAN TRỌNG VÀ YÊU CẦU CỦA VIỆC ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH GIAO THÔNG VẬN TẢI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực và đào tạo nguồn nhân lực
ngành Giao thông vận tải
1.1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực là khái niệm đồng nghĩa với khái niệm nguồn lực con
người, đây là khái niệm có nội dung đa dạng, được đề cập dưới nhiều góc độ
khác nhau. Trong lý luận về lực lượng sản xuất, con người được coi là yếu tố
quan trọng hàng đầu, là yếu tố quan trọng nhất, quyết định sự vận động và
phát triển của lực lượng sản xuất, quyết định quá trình sản xuất và do đó,
quyết định năng xuất lao động và tiến bộ xã hội. Con người còn có mặt trong
quan hệ sản xuất trên cả 3 bình diện: quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ
quản lý và quan hệ phân phối. Nguồn lực con người cũng đồng thời là nguồn
nhân lực. Nguồn nhân lực là nguồn lực của mọi nguồn lực, là nội lực của sự
phát triển của tất cả các quốc gia. Đó là nguồn lực có trí tuệ, có khả năng phục
hồi và tự tái sinh, tự phát triển; đồng thời nguồn nhân lực vừa là chủ thể vừa
là khách thể của quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Mỗi một lĩnh vực, một
ngành nghề nhất định lại có nguồn nhân lực riêng của mình với những yêu
cầu, đặc điểm riêng nhất định. Tính chất, đặc điểm, vai trò của nguồn nhân
lực trong từng lĩnh vực cụ thể có những đặc thù riêng, đồng thời lại mang
những tính chất, vai trò, đặc điểm chung của nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực là nguồn lực về con người và được nghiên cứu dưới
nhiều góc độ khác nhau. Trong luận văn này, tác giả nghiên cứu nguồn nhân
lực với tư cách là lực lượng lao động. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
đã đưa ra quan niệm: nguồn nhân lực là tiềm năng về lao động trong một thời
10
kỳ xác định của một quốc gia, bao hàm trong đó nguồn nhân lực ở một địa
phương, một ngành hay một vùng xác định. Đây là nguồn lực quan trọng nhất
của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Quan niệm này cần được diễn đạt cụ thể thêm trên các nội dung: thứ
nhất, nguồn nhân lực với tư cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội,
bao gồm toàn bộ dân cư có cơ thể phát triển bình thường, có khả năng lao
động; thứ hai, nguồn nhân lực là nguồn lực với tư cách là yếu tố của sự phát
triển kinh tế - xã hội, là khả năng lao động của xã hội được hiểu theo nghĩa
hẹp hơn, bao gồm nhóm dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động,
có khả năng tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Với cách hiểu
này, nguồn nhân lực tương đương với nguồn lao động; thứ ba, nguồn nhân
lực có thể hiểu đó là tổng hợp các cá nhân những con người cụ thể tham gia
vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể chất và tinh thần của các
cá nhân được huy động vào quá trình lao động, phát triển kinh tế - xã hội. Đó
là cách xem xét một cách toàn diện về nguồn nhân lực.
Cần quan niệm nguồn nhân lực trên quan điểm toàn diện và khoa học.
Bộ Luật Lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định:
những người trong độ tuổi từ đủ 15 đến 60 tuổi đối với nam và từ đủ 16 đến
55 tuổi đối với nữ, đều thuộc vào nguồn nhân lực trong độ tuổi lao động.
Những người trong độ tuổi lao động nhưng không có khả năng lao động, do
điều kiện sức khoẻ, bệnh tật, sinh lý… thì không nằm trong khái niệm nguồn
nhân lực mà chúng ta nghiên cứu. Như vậy, nguồn nhân lực cần phải được
xem xét, đánh giá trên ba bình diện: số lượng (số dân); chất lượng con người,
bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất;
và cơ cấu nguồn nhân lực.
Con người là một thực thể tự nhiên và xã hội, không chỉ sống trong môi
trường tự nhiên mà còn sống trong môi trường xã hội. Theo quan điểm triết
học Mác-Lênin, hoạt động của con người chủ yếu là hoạt động sản xuất, hoạt
11
động cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội và thông qua những hoạt động này con
người cải tạo chính bản thân mình. Con người, bằng hoạt động lao động, đã
làm biến đổi tự nhiên, sáng tạo ra lịch sử - xã hội đồng thời làm biến đổi
chính mình. Các yếu tố tự nhiên và xã hội trong mỗi con người gắn bó chặt
chẽ và khăng khít với nhau, nhưng bản chất con người là một bản chất xã hội,
là tổng hoà tất cả các quan hệ xã hội như Mác đã khẳng định. Chính hoạt
động lao động và hoạt động thực tiễn nói chung đã làm biến đổi tâm lý của
con người, làm cho con người mang tính người, tính xã hội và cũng chính
hoạt động thực tiễn đó đã làm cho nhu cầu sinh vật ở con người mang tính
người là nhu cầu có tính xã hội. Yếu tố tâm lý trong mỗi con người không
phải tồn tại bên cạnh yếu tố xã hội mà chúng hòa quyện vào nhau, tác động
lẫn nhau. Bản tính tự nhiên của con người được chuyển vào bản tính xã hội
của con người và được cải biến đi trong quá trình hoạt động thực tiễn. Con
người tuy là một sinh vật, một động vật nhưng có suy nghĩ, có ý thức khác với
động vật bị bản năng thống trị.
Nhân tố con người, đặc biệt là sức lao động, là yếu tố quan trọng của
lực lượng sản xuất, đặc trưng cho khả năng phát triển không ngừng của nền
sản xuất xã hội. Người ta thường quan niệm nhân tố sức lao động là một
phạm trù tổng hợp bao gồm các thành tố: thể lực, tâm lực (đạo đức) và trí lực.
Thể lực của con người chịu ảnh hưởng của mức sống vật chất, sự chăm sóc
sức khỏe, y tế và sự rèn luyện của từng con người cụ thể. Thể lực có ý nghĩa
quan trọng quyết định năng lực hoạt động của con người. Phải có thể lực con
người mới có thể phát triển trí tuệ và các quan hệ của mình trong xã hội. Tâm
lực được quan niệm là phẩm chất đạo đức, nhân cách. Trí lực được xác định
bởi tri thức chung về khoa học (khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và khoa
học xã hội), trình độ kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm làm việc và kỹ năng
tư duy xét đoán sự vật, hiện tượng của mỗi người. Nhờ trí tuệ, con người đã
khai thác, chế ngự thiên nhiên và sử dụng nó để bảo tồn và phát triển xã hội
12
của mình. Trí lực của con người được phát triển thông qua giáo dục, đào tạo
và hoạt động lao động sản xuất, hoạt động thực tiễn của bản thân con người.
Nhân tố sức lao động với tư cách là nhân lực, là nguồn nhân lực xét trên các
bình diện của cấu trúc cá thể, cá nhân không chỉ biểu hiện ở thể lực, trí lực mà
còn là tâm lực. Đó là phẩm chất đạo đức, nhân cách, là giá trị gốc của con
người đã trưởng thành. Như vậy, nguồn nhân lực xã hội là tổng hoà các sức
mạnh và các giá trị của các nguồn nhân lực cá thể hợp thành.
Từ cách tiếp cận trên, nguồn nhân lực có thể được hiểu là:
Nguồn nhân lực là dạng đặc biệt của nguồn lực nói chung, là tổng thể
các yếu tố tạo nên sức mạnh của con người và cộng đồng xã hội; là tổng thể
số lượng dân, chất lượng con người và cơ cấu số dân với tất cả sức mạnh và
khả năng của nó có thể huy động vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, nguồn nhân lực là tổng thể các yếu tố tạo nên sức mạnh của
con người và cộng đồng xã hội; là tổng thể số lượng dân, chất lượng con
người và cơ cấu số dân. Chúng ta, cần phân tích trên các yếu tố chính hợp
thành như sau:
Thứ nhất, yếu tố số lượng.
Số lượng là yếu quan trọng đầu tiên của nguồn nhân lực. Không có số
lượng đến mức cần thiết thì không thể phát huy được sức mạnh của nguồn
nhân lực. Số lượng là “cốt vật chất” của nguồn nhân lực. Số lượng nguồn
nhân lực được xác định dựa trên quy mô dân số, cơ cấu tuổi, giới tính và sự
phân bố dân cư theo khu vực và vùng lãnh thổ của dân số.
Thứ hai, yếu tố chất lượng.
Chất lượng nguồn nhân lực là một yếu tố có nội dung rộng lớn, nói lên
trình độ toàn diện của nguồn nhân lực, được thể hiện thông qua một số chỉ
tiêu chủ yếu:
Chỉ tiêu về tình trạng sức khỏe của con người, đó là trạng thái thoải mái
về thể chất và tinh thần của con người. Các chỉ tiêu cơ bản phản ánh sức khỏe
13
là thể lực (chiều cao, cân nặng), bệnh tật, tuổi thọ. Sức khỏe là nhân tố tác
động trực tiếp đến cả số lượng và chất lượng nguồn nhân lực. Người lao động
có sức khỏe tốt, có thể mang lại lợi ích kinh tế - xã hội nhiều hơn nhờ việc
huy động sức mạnh, sự bền bỉ, dẻo dai và tập trung trí tuệ cao trong khi thực
hiện công việc; nếu sức khoẻ không tốt, thì đó là chất lượng nguồn lực thấp,
không đáp ứng được yêu cầu phát triển của kinh tế - xã hội.
Chỉ tiêu về trình độ học vấn và trình độ chuyên môn nghiệp vụ, chuyên
môn kỹ thuật của người lao động là chỉ tiêu quan trọng về chất lượng nguồn
nhân lực. Trình độ học vấn được biểu hiện bằng tỷ lệ biết chữ, sự lĩnh hội các
tri thức và kỹ năng theo nhóm tuổi, theo các cấp độ trong hệ thống giáo dục
phổ thông, giáo dục nghề nghiệp. Trình độ chuyên môn kỹ thuật là sự hiểu biết
các tri thức lý thuyết về nghề và các kỹ năng thực hành về chuyên môn kỹ
thuật và nghiệp vụ nào đó của người lao động.
Chỉ tiêu về năng lực, phẩm chất của người lao động là chỉ tiêu rất quan
trọng của nguồn nhân lực, bao gồm: tập quán, thói quen, phong cách, đạo đức,
lối sống, truyền thống, văn hóa dân tộc. Trong chất lượng nguồn nhân lực, cần
xác định rằng, sức khoẻ thể lực là điều kiện và tiền đề, học vấn chuyên môn
kỹ thuật là cốt yếu nhưng phẩm chất đạo đức nhân cách (bao hàm cả ý thức
chính trị) là nền tảng, là gốc. Con người mà không có đạo đức thì dù có năng
lực và tài năng đến mấy cũng không thể đóng góp vào sự nghiệp chung về
phát triển cộng đồng xã hội.
Thứ ba, yếu tố về cơ cấu.
Đó là cơ cấu về số dân, cơ cấu nguồn nhân lực, về độ tuổi, giới tính; cơ
cấu về thành phần xã hội, dân tộc, tôn giáo; cơ cấu về trình độ học vấn; trình
độ chuyên môn nghề nghiệp, cơ cấu về vùng miền…Toàn bộ cơ cấu đó phản
ánh tính hợp lý hay không hợp lý, sự phù hợp hay không phù hợp của sự phân
bố nguồn nhân lực trong một quốc gia, trong một ngành, một lĩnh vực nhất
định, trong một giai đoạn lịch sử cụ thể nhất định.
14
1.1.2. Quan niệm về đào tạo nguồn nhân lực
* Khái niệm đào tạo nguồn nhân lực
Đào tạo nguồn nhân lực là sự trang bị, phát triển có hệ thống những
kiến thức, kỹ năng mà mỗi cá nhân cần có để thực hiện đúng một nghề hoặc
một nhiệm vụ cụ thể nhất định, đáp ứng nhu cầu của đời sống kinh tế - xã hội.
Sự cần thiết của đào tạo có thể do nhu cầu cá nhân của người được đào tạo,
hoặc do nhu cầu phát triển nhân lực của tổ chức, của xã hội. Theo mục đích
của người được đào tạo, có các tiêu chí phân loại: đào tạo, đào tạo lại và bồi
dưỡng. Tương ứng với nội dung, thời gian đào tạo và mức độ đánh giá kết
quả đào tạo là bằng cấp hay chứng chỉ.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, đào tạo nguồn nhân lực là quá trình
tác động đến con người nhằm làm cho con người lĩnh hội và nắm vững những
tri thức, kỹ năng, kỹ xảo một cách có hệ thống, chuẩn bị cho con người thích
nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công lao động nhất định,
góp phần của mình vào sự phát triển kinh tế - xã hội, duy trì và phát triển xã
hội. Về cơ bản, đào tạo nguồn nhân lực là việc giảng dạy và học tập ở các nhà
trường gắn với việc giáo dục đạo đức, nhân cách cho đối tượng được đào tạo,
để hình thành cho đối tượng giáo dục đào tạo những phẩm chất, năng lực cần
thiết, đáp ứng những nhu cầu phát triển của xã hội trong mỗi giai đoạn cụ thể,
thúc đẩy xã hội phát triển. Tuy nhiên, mỗi một lĩnh vực khác nhau, trong
những giai đoạn khác nhau, thì mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo
nguồn nhân lực lại có sự khác nhau.
Từ sự phân tích trên, có thể quan niệm rằng:
Đào tạo nguồn nhân lực là một quá trình hoạt động có mục đích, có tổ
chức của các chủ thể nhằm hình thành và phát triển có hệ thống các tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo, thái độ, tình cảm… để hoàn thiện nhân cách cho mỗi cá
nhân, tạo tiền đề cho họ có thể vào đời hành nghề một cách có năng suất và
15
hiệu quả, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của sự phát
triển kinh tế - xã hội.
Quá trình đào tạo nguồn nhân lực được tiến hành chủ yếu trong các cơ
sở đào tạo như nhà trường, trung tâm, viện hoặc ở cơ sở sản xuất, với những
mục tiêu, nội dung, chương trình hoàn chỉnh và có hệ thống cho mỗi khóa học
và với những thời gian quy định, với các trình độ khác nhau. Kết thúc khóa
học, kết thúc đào tạo ở trường, các đối tượng được đào tạo nếu đáp ứng được
yêu cầu đào tạo thì được cấp bằng tốt nghiệp hoặc chứng chỉ học vấn, chuyên
môn nhất định. Yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội là định hướng trực tiếp của
đào tạo nguồn nhân lực. Theo đó, yêu cầu của sự phát triển ngành Giao thông
vận tải là mục đích cụ thể và là yếu tố quy định trực tiếp nội dung, chương
trình của đào tạo nguồn nhân lực của ngành Giao thông vận tải. Luật Giáo dục
năm 1998 quy định hệ thống giáo dục quốc dân nước ta gồm bốn bậc: đó là
giáo dục mầm non; giáo dục phổ thông; giáo dục nghề nghiệp (chuyên nghiệp
và dạy nghề) và giáo dục đại học. Để đào tạo bậc cao còn có đào tạo sau đại
học và trên đại học.
Như vậy, đào tạo nguồn nhân lực ở đây bao gồm đào tạo qua các bậc
giáo dục chuyên nghiệp (trung học chuyên nghiệp và dạy nghề) và đào tạo
qua bậc giáo dục đại học.
Đào tạo nguồn nhân lực có thể hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Với
nghĩa rộng, trong đào tạo nguồn nhân lực có bồi dưỡng và đào tạo lại, đó là
quá trình hoạt động gắn với hoạt động đào tạo nghề nghiệp và chỉ diễn ra sau
khi người học tham gia vào quá trình này đã một lần được đào tạo và công
nhận bởi một văn bằng tương ứng. Đào tạo lại nguồn nhân lực là đào tạo
những người đã có nghề, họ cần được nâng cao, làm mới kiến thức và kỹ năng
để hoàn thiện thêm cho mình về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đáp ứng yêu
cầu phát triển của thực tiễn. Bồi dưỡng là nhằm nâng cao kiến thức và kinh
nghiệm để người lao động có thể đảm nhận công việc phức tạp hơn. Đào tạo
16
nguồn nhân lực không chỉ đơn thuần là quá trình trang bị kiến thức nhất định
về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ xảo, mà còn là giáo dục lý tưởng, ý
thức về nghề nghiệp, định hướng tư tưởng cho người lao động, để họ có thể
đảm nhận và hoàn thành tốt hơn một công việc nhất định, cống hiến tốt hơn
cho sự phát triển kinh tế - xã hội, có ích hơn đối với xã hội.
* Nội dung đào tạo nguồn nhân lực
Yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội là yếu tố quy định chương
trình, nội dung đào tạo nguồn nhân lực. Nội dung đào tạo nguồn nhân lực hiện
nay tập trung vào những vấn đề cơ bản sau đây:
Các hướng đào tạo gồm: giáo dục chuyên nghiệp, đào tạo trung học
chuyên nghiệp, đào tạo nghề theo các trình độ, đặc biệt là đào tạo nghề có
trình độ cao, đào tạo đại học, sau đại học với nghĩa là đào tạo chuyên gia.
Giáo dục chuyên nghiệp trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực có mục
tiêu và nội dung giáo dục cụ thể. Nội dung của giáo dục chuyên nghiệp là
phải tập trung vào đào tạo năng lực nghề nghiệp, coi trọng giáo dục đạo đức,
rèn luyện sức khỏe, nâng cao trình độ học vấn theo yêu cầu đào tạo nguồn
nhân lực. Kết hợp học lý thuyết với rèn luyện kỹ năng hành nghề trong quá
trình đào tạo thợ lành nghề.
Đào tạo trung học chuyên nghiệp là một hướng, một nội dung quan
trọng của đào tạo nguồn nhân lực. Mục tiêu đào tạo nguồn nhân lực của
trường trung học chuyên nghiệp là đào tạo những cán bộ thực hành có trình
độ trung học về kỹ thuật nghiệp vụ kinh tế, giáo dục, văn hóa, y tế và nghệ
thuật. Đối tượng đào tạo là học sinh đã tốt nghiệp trung học cơ sở, phổ thông
trung học và cũng có thể tuyển sinh từ công nhân và nhân viên nghiệp vụ đã
tốt nghiệp các trường dạy nghề cùng ngành để đào tạo và cấp bằng tốt nghiệp
trung học chuyên nghiệp nhằm phát triển nguồn nhân lực. Nội dung đào tạo
nguồn nhân lực của hệ thống trường trung học chuyên nghiệp được chia thành
4 nhóm: nhóm những kiến thức chung; nhóm những kiến thức về kỹ thuật cơ
17
sở cho nhóm ngành; nhóm những kiến thức về kỹ thuật chuyên môn của
ngành và nhóm các kỹ năng, kỹ xảo thực hành cho những nhân viên của một
vài nghề chính trong ngành. Các nhóm này cùng hoàn thiện, bổ sung cho nhau
trong quá trình đào tạo để tạo nên chất lượng nguồn nhân lực cần thiết.
Đào tạo nghề là một hướng quan trọng và rất cần thiết của đào tạo
nguồn nhân lực. Luật Giáo dục nước ta quy định “dạy nghề dành cho người
có trình độ học vấn và có sức khỏe phù hợp với nghề cần học, được thực hiện
dưới một năm đối với các chương trình dạy nghề ngắn hạn, từ 1 - 3 năm đối
với chương trình dạy nghề dài hạn”. Theo Quyết định 48/2002/QĐ-TTg ngày
01/4/2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch mạng lưới
trường dạy nghề giai đoạn 2002 - 2010, quy định trình độ đào tạo nghề gồm
các nội dung đào tạo, mà đào tạo nguồn nhân lực ngành Giao thông vận tải
cũng cần phải thực hiện. Đào tạo bán lành nghề là đào tạo nhằm trang bị một số
kiến thức và kỹ năng nghề nhất định cho nguồn nhân lực. Đào tạo lành nghề là
đào tạo nhằm trang bị kiến thức và kỹ năng nghề diện rộng hoặc chuyên sâu
cho người lao động, làm cho họ có khả năng đảm nhận những công việc phức
tạp trong sản xuất. Đào tạo trình độ cao là đào tạo nhằm trang bị kỹ năng nghề
thành thạo và nắm vững kiến thức chuyên môn kỹ thuật cần thiết dựa trên nền
học vấn trung học phổ thông hoặc trung học chuyên nghiệp để có khả năng
vận hành các thiết bị hiện đại và xử lý được các tình huống phức tạp, đa dạng
trong các dây chuyền sản xuất tự động, công nghệ hiện đại, nâng cao chất
lượng chuyên môn, kỹ thuật cho người lao động.
Giáo dục đại học và sau đại học là một hướng đào tạo rất quan trọng
nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành Giao thông vận tải. Đào tạo
cao đẳng và đại học có mục tiêu là đào tạo nguồn nhân lực có trình độ cao,
đào tạo các chuyên gia cho tất cả các lĩnh vực phục vụ sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Đào tạo sau đại học gồm hai bậc: đào tạo thạc sỹ và đào tạo
tiến sỹ dành cho những người đã tốt nghiệp đại học và đáp ứng các yêu cầu
18
tuyển chọn. Mục tiêu đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ ngành Giao thông vận tải là đào
tạo những chuyên gia giỏi có khả năng độc lập sáng tạo trong hoạt động
chuyên môn, trong nghiên cứu khoa học, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
ngành Giao thông vận tải.
Nội dung đào tạo là toàn diện, hệ thống và chuyên sâu, tập hợp hệ
thống các kiến thức về văn hóa, xã hội, khoa học và công nghệ, các kỹ năng
và kỹ xảo lao động, các chuẩn mực giá trị về đạo đức, tư tưởng, lối sống và
nhận thức chung để đảm bảo sự phát triển toàn diện nhân cách, phát triển toàn
diện nguồn nhân lực. Trong đó, kỹ năng, kỹ xảo thực hành nghề là phần cơ
bản, then chốt của nội dung đào tạo. Nội dung đào tạo cơ bản được quy định
trong nguyên tắc xây dựng chương trình đào tạo đối với từng ngành chuyên
môn nhất định, đối với ngành Giao thông vận tải cũng yêu cầu phải có nội
dung cụ thể riêng về kỹ năng, kỹ xảo thực hành nghề và đạo đức nghề nghiệp
cho nguồn nhân lực được đào tạo trong ngành Giao thông vận tải.
Mỗi bậc học khác nhau có nội dung đào tạo khác nhau. Nội dung đào
tạo nhân lực của giáo dục đại học và cao đẳng phải đảm bảo thực hiện
nguyên tắc hiện đại và phát triển, kế thừa và phát huy bản sắc dân tộc, hội
nhập với trình độ thế giới và khu vực. Nội dung cụ thể của mỗi lĩnh vực đào
tạo được xác định theo Điều 36 của Luật Giáo dục và chú trọng yêu cầu của
đất nước, vừa cập nhật trình độ quốc tế. Áp dụng phương pháp giáo dục phải
thể hiện được nguyên lý: lý luận gắn với thực tiễn, giáo dục kết hợp với lao
động sản xuất. Khuyến khích sự chủ động học tập, nghiên cứu, thực nghiệm
của người học kết hợp với việc giảng dạy, hướng dẫn của người thầy. Khoản
2 Điều 36 Luật Giáo dục quy định: nội dung giáo dục sau đại học phải giúp
cho người học phát triển và hoàn thiện kiến thức khoa học cơ bản, kiến thức
chuyên ngành, các bộ môn khoa học Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh;
phát huy năng lực sáng tạo, phát hiện và giải quyết vấn đề thuộc chuyên
ngành đào tạo, có khả năng đóng góp vào sự phát triển khoa học, công nghệ,
19
kinh tế, xã hội của đất nước. Đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sỹ phải đảm bảo
cho học viên được bổ sung và nâng cao những kiến thức đã học ở trình độ đại
học; tăng cường kiến thức liên ngành; có đủ năng lực thực hiện công tác
chuyên môn một cách độc lập, sáng tạo.
Phương pháp đào tạo nguồn nhân lực là việc sử dụng các cách thức,
biện pháp giáo dục, đào tạo của các chủ thể tác động vào đối tượng đào tạo
theo mục tiêu, nội dung nhất định. Đào tạo theo môđul là một biện pháp để
mềm hóa quá trình đào tạo nguồn nhân lực, làm cho việc đào tạo nguồn nhân
lực trở nên linh hoạt, đáp ứng tốt hơn cho nhu cầu của người học và người sử
dụng lao động. Việc liên thông giữa các loại hình đào tạo nguồn nhân lực sẽ
dễ dàng thực hiện khi các chương trình đào tạo được thiết kế theo môđul liên
thông. Đó là việc liên thông đào tạo nghề ngắn hạn và dài hạn; đào tạo nghề -
trung học chuyên nghiệp - cao đẳng kỹ thuật trong đào tạo nguồn nhân lực.
Mặt khác, sử dụng phương pháp này trong đào tạo nguồn nhân lực tạo thuận
lợi cho việc đào tạo lại và chuyển đổi giữa các nghề, trong phát triển nguồn
nhân lực. Gắn lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành là nguyên tắc chi phối
trong thực hiện nội dung, phương pháp đào tạo nguồn nhân lực.
Đào tạo nguồn nhân lực nói chung, đào tạo nguồn nhân lực trong các
trường đại học và cao đẳng ngành Giao thông vận tải nói riêng chịu sự tác
động trực tiếp của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan. Trước hết và trực
tiếp là các nhân tố: trình độ học vấn của nguồn nhân lực; giáo dục lao động
hướng nghiệp ở các trường phổ thông; sự phát triển của kinh tế - xã hội; hệ
thống giáo dục và đào tạo; sự phát triển của thị trường lao động.
1.1.3. Đặc điểm đào tạo nguồn nhân lực trong các trường của ngành
Giao thông vận tải ở Việt Nam hiện nay
Phân tích, làm rõ đặc điểm đào tạo nguồn nhân lực của ngành Giao
thông vận tải ở Việt Nam hiện nay nó có một ý nghĩa cực kỳ quan trọng, làm
cơ sở cho việc xác định, đề xuất yêu cầu, giải pháp nâng cao chất lượng đào
20
tạo nguồn nhân lực trong các trường này đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai
đoạn mới. Hiện nay đào tạo nguồn nhân lực của ngành Giao thông vận tải ở
Việt Nam có một số đặc điểm chính sau đây:
Một là, công tác đào tạo nguồn nhân lực của ngành Giao thông vận tải
quan hệ chặt chẽ với nhu cầu phát triển kinh tế và sự phát triển của ngành
Giao thông vận tải, bởi vì:
Ngành Giao thông vận tải là ngành sản xuất lớn, bao gồm nhiều chuyên
ngành, trong mỗi chuyên ngành lại được chia ra nhiều khối sản xuất khác
nhau, như: vận tải, xếp dỡ, xây dựng công trình, công nghiệp, cơ khí.
Lực lượng lao động làm việc trong đơn vị hành chính, sự nghiệp và sản
xuất kinh doanh có số lượng lớn và nhiều ngành nghề chuyên môn khác nhau,
có tính đặc thù, đòi hỏi trình độ khoa học và công nghệ ngày càng cao, vì vậy
mà đào tạo phải gắn liền với ngành nghề hợp lý.
Hoạt động của ngành xuyên suốt và trải rộng khắp mọi vùng của đất
nước, cho nên nó có tác động trực tiếp đến nền kinh tế của xã hội.
Mặt khác, hầu hết các chuyên ngành trong ngành Giao thông vận tải,
nhất là hàng hải (đặc biệt là vận tải viễn dương), hàng không, tiếp theo là
đường bộ, đường sắt có quan hệ mật thiết với nhau và mang tính quốc tế cao.
Bởi thế, bên cạnh những nguyên tắc cơ bản là “dạy những cái xã hội
cần chứ không phải dạy những cái mình có”, thì việc đào tạo nguồn nhân lực
của ngành Giao thông vận tải còn có những điểm đặc thù liên quan trực tiếp
đến vấn đề phát triển nguồn nhân lực, hướng tới những mục tiêu lâu dài của
xã hội, của ngành, chứ không hoàn toàn đơn thuần căn cứ vào những nhu cầu
dễ thay đổi của thị trường, xã hội.
Đặc điểm này chi phối rất lớn nguồn đào tạo, cả số lượng và chất
lượng, đến việc xác định nội dung, chương trình đào tạo nguồn nhân lực của
ngành Giao thông vận tải nước ta hiện nay.