Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

Vai trò của tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (889.41 KB, 124 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




NGUYỄN THỊ KIM THANH



VAI TRÒ CỦA TƯ DUY BIỆN CHỨNG ĐỐI VỚI CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY







LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC








HÀ NỘI - 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ





NGUYỄN THỊ KIM THANH



VAI TRÒ CỦA TƯ DUY BIỆN CHỨNG ĐỐI VỚI CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC


Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 80




Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. ĐẶNG HỮU TOÀN





HÀ NỘI - 2013
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1. TƯ DUY BIỆN CHỨNG VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI CÁN

BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ KINH TẾ Ở NƯỚC TA 7
1.1. Tư duy và tư duy biện chứng 7
1.1.1. Tư duy là quá trình phản ánh ở trình độ lý tính đối với hiện
thực khách quan 7
1.1.2. Bản chất và đặc điểm của tư duy biện chứng 14
1.2. Vai trò cuả tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý
kinh tế 32
1.2.1. Khái niệm lãnh đạo, quản lý kinh tế 33
1.2.2. Tư duy lãnh đạo, quản lý kinh tế 38
1.2.3. Vai trò của tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý
kinh tế 41
Chương 2. THỰC TRẠNG TƯ DUY VÀ YÊU CẦU NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ
TƯ DUY BIỆN CHỨNG ĐỐI VỚI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN
LÝ KINH TẾ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 46
2.1. Thực trạng tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ở
nước ta hiện nay 46
2.1.1. Những nhân tố ảnh hưởng đến tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay 46
2.1.2. Những ưu điểm và nhược điểm trong tư duy của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay 61
2.2. Yêu cầu nâng cao trình độ tư duy biện chứng của đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay 76
2.2.1. Nắm bắt các quy luật của kinh tế thị trường 76
2.2.2. Tư duy về kinh tế phải thật sự năng động, nhạy bén, sáng tạo 77
2.2.3. Kết hợp chặt chẽ giữa tư duy về kinh tế với tư duy về chính trị 78
2.2.4. Kết hợp tư duy về kinh tế với tư duy về pháp quyền, đạo đức,
văn hóa, xã hội và môi trường 80
2.2.5. Tư duy phải hướng tới hiệu quả và lợi ích kinh tế 82
Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA TƯ DUY BIỆN
CHỨNG ĐỐI VỚI CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ KINH TẾ Ở

NƯỚC TA HIỆN NAY 84
3.1. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước 84
3.1.1. Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa là cơ sở hình thành tính năng động, sáng tạo
của tư duy 84
3.1.2. Thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là nhân tố
phát triển tư duy biện chứng duy vật ở cán bộ lãnh đạo, quản lý
kinh tế 93
3.2. Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức văn hóa, khoa
học - công nghệ và nâng cao trình độ lý luận cho cán bộ lãnh
đạo, quản lý kinh tế 98
3.2.1. Nâng cao trình độ tư duy biện chứng thông qua đào tạo, bồi
dưỡng tri thức văn hóa nói chung và khoa học kinh tế, quản lý
kinh tế nói riêng 98
3.2.2. Nâng cao trình độ tư duy biện chứng thông qua công tác đào
tạo, bồi dưỡng về lý luận 100
3.3. Đổi mới công tác tổ chức và công tác cán bộ, coi trọng việc rèn luyện,
nâng cao trình độ tư duy biện chứng cho cán bộ lãnh đạo, quản
lý kinh tế thông qua hoạt động thực tiễn của họ 106
KẾT LUẬN 111
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 114
1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực tiễn đổi mới ở Việt Nam trong những năm vừa qua đã khẳng định
rằng, cán bộ là một nhân tố quyết định thành bại của sự nghiệp cách mạng, là
khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Hiện nay, công cuộc đổi mới, mà

trọng tâm là đổi mới kinh tế ở nước ta chỉ có thể thắng lợi khi các cán bộ có đủ
phẩm chất và năng lực cần thiết, có trình độ tư duy cao đáp ứng được nhiệm vụ
mới - đó là tư duy biện chứng.
Nhận thức rõ điều đó, nghị quyết các đại hội Đảng trong nhưng năm
đổi mới cũng như nhiều nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng và
Bộ Chính trị đã thường xuyên nhấn mạnh tầm quan trọng của tư duy, trí tuệ
đối với cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế. Đại hội XI của Đảng
(2011) một lần nữa khẳng định chủ trương tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ
công tác cán bộ; thực hiện tốt chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; đổi mới tư duy, cách làm, khắc phục những yếu kém
trong từng khâu của công tác cán bộ; xây dựng và thực hiện nghiêm các cơ
chế, chính sách phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; trọng dụng
những người có đức, có tài; nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ; chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp,…
Với một đội ngũ khá đông được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau và
trưởng thành từ thực tiễn chỉ đạo sản xuất, kinh doanh, cán bộ lãnh đạo, quản
lý kinh tế ở nước ta thời gian qua đã góp phần không nhỏ đưa đất nước thoát
ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những thế mạnh về phẩm chất đạo đức, kinh
nghiệm thực tiễn và năng lực tư duy, những yếu kém về tư duy lý luận, sự lạc
hậu của tư duy so với sự phát triển của thực tiễn, mà đặc biệt là sự yếu kém về
tư duy biện chứng được biểu hiện trên các căn bệnh trong phương pháp tư
duy, như lối tư duy siêu hình, kinh nghiệm chủ nghĩa, giáo điều, bảo thủ, chủ
2

quan duy ý chí đã dẫn tới những sai lầm nghiêm trọng trong chỉ đạo hoạt
động kinh tế. Những yếu kém về tư duy biện chứng, về phương pháp tư duy
của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế đang là một vấn đề hết sức cấp
bách cần phải giải quyết khi nước ta đang tập trung phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ, sự thành công hay không thành

công của quá trình này phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
lý kinh tế hiện nay.
Vì vậy, vấn đề đặt ra là phải nghiên cứu một cách sâu sắc vai trò tư duy
biện chứng, cũng như đánh giá đúng những mặt mạnh, mặt yếu về phương
diện tư duy ở cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế, làm rõ tầm quan trọng của tư
duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế trong quá trình đổi
mới hiện nay. Trên cơ sở đó, đề xuất những phương hướng, giải pháp đúng
đắn nhằm phát triển, rèn luyện, nâng cao trình độ tư duy biện chứng cho đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế. Đây cũng là yêu cầu cấp bách mà cả lý
luận và thực tiễn hiện nay đang đặt ra. Vì những lý do đó, tác giả đã chọn vấn
đề "Vai trò của tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế
ở nước ta hiện nay" làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề tư duy và tư duy biện chứng duy vật đã được đề cập đến một
cách toàn diện, có hệ thống và sâu sắc trong các tác phẩm kinh điển của chủ
nghĩa Mác- Lênin. Ở Liên xô trước đây, vấn đề này chủ yếu được bàn đến khi
các tác giả trình bày về lịch sử triết học, về phép biện chứng, lôgíc học hoặc
những vấn đề của lý luận nhận thức.
Xin nêu một số công trình quan trọng sau:
- I.X. Narxki, Gorxki: Phép biện chứng của nhận thức khoa học,
Mátxcơva, 1978;
N.C. Vắctômin: Thực tiễn - tư duy - tri thức, Mát-xcơva, 1978.
- M.M. Rôdentan: Nguyên lý lôgíc biện chứng, Trường Đảng cao cấp
Nguyễn Ái Quốc, 1979;
3

- K.C. Orutjep: Lôgic biện chứng, Mátxcơva, 1981;
- I.D. Anđrâyep: Lôgíc biện chứng, Mát-xcơva, 1985;
- Lịch sử phép biện chứng mácxít. Từ khi xuất hiện chủ nghĩa Mác đến
giai đoạn Lênin. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1986;

- A.P. Septulin: Phương pháp nhận thức biện chứng, Nxb Sách giáo
khoa Mác-Lênin, Hà Nội, 1987
Ở Việt Nam, trong thời kỳ đổi mới đất nước, đã có rất nhiều công trình
tập trung nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau của vấn đề tư duy, tư duy
biện chứng và thu được kết quả to lớn.
Xin nêu một số công trình cơ bản sau:
- Lê Hữu Tầng: Về phương pháp biện chứng, Triết học, số 3/1984;
- Ngô Thành Dương: Một số khía cạnh về phép biện chứng duy vật,
Nxb Sách giáo khoa Mác-Lênin, Hà Nội, 1986.
- Nguyễn Văn Linh: Đổi mới tư duy và phong cách, Nxb Sự thật, Hà
Nội, 1987.
- Nguyễn Duy Quý: Đổi mới tư duy: Nội dung và phương hướng, Triết
học, số 1/1987;
- Nguyễn Ngọc Long: Năng lực tư duy lý luận trong quá trình đổi mới
tư duy, Tạp chí Cộng sản, số 10/1987;
- Lê Hữu Nghĩa: Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của cán
bộ ta, Triết học, số 2/1988;
- Trần Hữu Tiến: Đổi mới tư duy lý luận - vấn đề cấp bách hiện nay,
trong sách: “Mấy vấn đề cấp bách về đổi mới tư duy lý luận”, Học viện
Nguyễn Ái Quốc, Hà Nội, 1988;
- Lại Văn Toàn: Đổi mới tư duy. Tư duy lý luận trong sự nghiệp đổi
mới, Triết học, số 1/1988;
- Nguyễn Trọng Chuẩn (chủ biên): Về sự phát triển của xã hội ta hiện
nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991.
4

- Phạm Ngọc Quang: Thử vận dụng lý luận về mâu thuẫn vào thời kỳ
quá độ ở nước ta, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991;
- Vũ Văn Viên: Suy nghĩ về những định hướng trong nghiên cứu và
giảng dạy Lô gích học thời gian tới, Triết học, số 1/1992;

- Hồ Bá Thâm: Nâng cao năng lực tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo
chủ chốt cấp xã hiện nay, Luận án PTS, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội, 1994;
- Trần Văn Phòng: Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa ở đội ngũ cán bộ nước
ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, Luận án PTS, Học viện Chính
trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1994;
Tuy nhiên, có một điểm chung là đa số các tác giả đều tiếp cận vấn đề
từ góc độ triết học, do đó thường tập trung vào giải quyết những vấn đề lý
luận chung, mang tính khái quát và phổ biến. Bên cạnh đó cũng có một số tác
giả bàn riêng về tư duy kinh tế, nhưng trong các tác phẩm này mối liên hệ
giữa tư duy biện chứng với tư duy kinh tế dường như chưa được quan tâm
đúng mức. Như vậy, cho đến nay, dường như chưa có công trình khoa học
nào nghiên cứu một cách riêng biệt, có hệ thống và chuyên sâu về vai trò của
tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích của luận văn: Trên cơ sở làm sáng tỏ vai trò của tư duy
biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế, cũng như thực trạng tư
duy của đội ngũ cán bộ này ở nước ta, luận văn đề xuất một số giải pháp cơ
bản nhằm nâng cao trình độ tư duy biện chứng cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ các phạm trù tư duy, tư duy biện chứng
- Làm rõ vai trò tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế.
5

- Phân tích thực trạng tư duy của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh
tế ở nước ta hiện nay và yêu cầu nâng cao trình độ tư duy biện chứng ở đội
ngũ cán bộ này.
- Đề xuất phương pháp và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực và
trình độ tư duy biện chứng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện

nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tư duy biện chứng của cán bộ
lãnh đạo, quản lý kinh tế cấp chiến lược ở nước ta.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là vai trò của tư duy biện chứng đối
với cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế cấp chiến lược ở nước ta từ khi đổi mới
đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhất là những nguyên lý của phép
biện chứng, lý luận nhận thức và lôgíc biện chứng. Luận văn quán triệt tư tưởng
Hồ Chí Minh, vận dụng các Nghị quyết của Đảng, sử dụng các công trình của
các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan đến đề tài luận văn.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả luận văn đã sử dụng các phương
pháp, như phân tích và tổng hợp; qui nạp và diễn dịch; lịch sử và lôgíc;
phương pháp so sánh; phương pháp thống kê và các phương pháp khác.
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ vai trò của tư duy biện chứng đối với cán bộ lãnh
đạo, quản lý kinh tế cấp chiến lược ở nước ta hiện nay.
- Khái quát một số đặc điểm nói lên thực trạng tư duy ở cán bộ lãnh
đạo, quản lý kinh tế, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao
trình độ tư duy biện chứng cho đội ngũ cán bộ này ở nước ta hiện nay.
6

Kết quả nghiên cứu trong luận văn có thể được sử dụng như một tài
liệu tham khảo cho công tác đào tạo, qui hoạch và sử dụng cán bộ, đặc biệt là
cán bộ lãnh đạo, quản lý kinh tế ở nước ta hiện nay.
Kết quả của luận văn cũng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và giảng dạy Triết học, Xây dựng Đảng, Kinh tế học trong hệ
thống các trường Đảng, các trường đại học và cao đẳng ở nước ta.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương, 7 tiết.

7

Chương 1
TƯ DUY BIỆN CHỨNG VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ ĐỐI VỚI CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ KINH TẾ Ở NƯỚC TA

1.1. Tư duy và tư duy biện chứng
1.1.1. Tư duy là quá trình phản ánh ở trình độ lý tính đối với hiện
thực khách quan
Tư duy là một thuộc tính cố hữu của con người, là một trong những tiêu
chí để đánh giá năng lực hoạt động nhận thức và thực tiễn của các chủ thể.
Việc nghiên cứu tư duy, vì lẽ đó, đã từ lâu rất được chú trọng. Tư duy của con
người được nghiên cứu trong những lĩnh vực khoa học khác nhau. Chẳng hạn:
sinh lý học nghiên cứu tư duy với tính cách là hoạt động của hệ thần kinh cao
cấp; tâm lý học nghiên cứu tư duy trong sự tác động qua lại của hệ thần kinh
cao cấp, não người, với môi trường xung quanh; điều khiển học nghiên cứu về
cơ chế điều khiển giữa tư duy và các hoạt động vật chất của cơ thể, tìm ra mối
tương quan giữa tư duy con người và hoạt động tự điều khiển của các hệ
thống máy móc; nhận thức luận nghiên cứu tư duy trong mối tương quan giữa
chủ thể và khách thể trong quá trình nhận thức, trong quan hệ giữa tri thức và
hiện thực; lôgíc học nghiên cứu những hình thức và những quy luật của tư
duy đúng đắn nhằm nhận thức chân lý, v.v.
Trong lịch sử triết học đã có những quan điểm tách rời tư duy khỏi
dạng vật chất có tổ chức cao là bộ não người, tách rời tư duy khỏi hoạt động
thực tiễn xã hội. Quan điểm đó có chăng chỉ thừa nhận tư duy của những "cá
nhân riêng lẻ như là một cái gì sinh ra từ một số bản nguyên tinh thần đứng

trên vật chất và ý thức của những con người riêng lẻ" [132, tr. 635]. Chẳng
hạn, đó là quan điểm của triết học Hêghen.
Hêghen không hiểu tư duy theo nghĩa thông thường. Với Hêghen, tư
duy rộng hơn năng lực chủ quan thuần túy. Ông không chỉ hiểu tư duy theo
nghĩa bó hẹp trong phạm vi ý thức cá nhân như một năng lực chủ quan của
8

con người, mà hiểu theo nghĩa rộng. Đó là ý niệm tuyệt đối đã sáng tạo ra giới
tự nhiên và con người. Tư duy của con người là giai đoạn phát triển cao nhất,
trong đó ý niệm tuyệt đối nhận thức được bản thân nó.
Hêghen phân biệt hai loại tư duy: Tư duy tự nó - chính là ý niệm tuyệt đối
tạo thành bản chất của toàn bộ hiện thực; Tư duy cho nó - tức là tư duy con
người. Tư duy tự nó là tư duy ở giai đoạn phát triển cao nhất. Chỉ có ở đây
mới có tư duy theo đúng nghĩa của danh từ này. Hêghen khẳng định: "Giới tự
nhiên chỉ là tư duy thể hiện dưới dạng các sự vật vật chất, hay còn gọi là tư
duy khách quan vô thức, còn tư duy con người là tư duy chủ quan có ý thức.
Chúng đồng nhất về nội dung Tư duy của mỗi người phải hoạt động theo
những quy luật chung của tư duy, tức tư duy tự nó" [137, tr. 207].
Trái lại, quan điểm của chủ nghĩa Mác cho rằng:
Tư duy - sản phẩm cao nhất của một dạng vật chất được tổ chức một
cách đặc biệt là bộ não, quá trình phản ánh tích cực thế giới khách quan trong
các khái niệm, phán đoán, lý luận, v.v. Tư duy xuất hiện trong quá trình hoạt
động sản xuất xã hội của con người và bảo đảm phản ánh thực tại một cách
gián tiếp, phát hiện những mối liên hệ hợp quy luật của thực tại [132, tr. 634].
Ph. Ăngghen viết: "Nếu người ta đặt câu hỏi rằng tư duy và ý thức là
gì, chúng từ đâu đến, thì người ta sẽ thấy rằng chúng là sản vật của bộ óc con
người" [67, tr. 55] ; "Ý thức, cũng như tư duy của chúng ta có vẻ siêu cảm
giác như thế nào đi chăng nữa, cũng chỉ là sản vật của một khí quan vật chất,
nhục thể, tức bộ óc" [68, tr. 408].
Tư duy là một sản phẩm xã hội cả về những đặc điểm của sự xuất hiện

lẫn phương thức hoạt động, cả về các kết quả của nó. Mặc dầu không tách
khỏi bộ não, song tư duy vẫn không thể được lý giải một cách hoàn toàn chỉ
bằng các quá trình sinh lý của não. Ngoài yếu tố sinh học được xem là yếu tố
cơ bản của tư duy, yếu tố xã hội là yếu tố có tính chất quyết định. Bởi lẽ, tư
duy chỉ tồn tại trong mối liên hệ không thể tách rời khỏi hoạt động lao động
và ngôn ngữ - hoạt động mang đặc trưng của xã hội loài người. Theo C. Mác,
9

ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng.
Thiếu ngôn ngữ tư duy không tồn tại được. Ngôn ngữ không chỉ là công cụ để
con người giao tiếp, trao đổi tư tưởng với nhau, mà nó còn là phương tiện lưu
trữ tư duy, thực hiện cơ chế "di truyền" xã hội, phản ánh khái quát về sự vật,
tổng kết các hoạt động của con người giữa các thế hệ nối tiếp nhau trong lịch
sử. Tư duy phản ánh sự vật, còn ngôn ngữ thể hiện, biểu đạt sự vật. Nếu như
tư duy có chức năng khái quát, tạo thông tin, thì ngôn ngữ là công cụ chuyển
tải thông tin.
Khả năng phản ánh thực tại một cách khái quát của tư duy được biểu
hiện ở khả năng con người có thể xây dựng được những khái niệm chung, và
cao hơn nữa là các phạm trù. Gắn liền với việc xây dựng các khái niệm, là
việc phát hiện ra các quy luật tương ứng. Tư duy phản ánh thực tại một cách
gián tiếp, xuất phát từ chỗ phân tích những sự kiện có thể tri giác được một
cách trực tiếp, nó cho phép nhận thức được những gì không thể tri giác được
nhờ các giác quan. Nghĩa là, từ những tri thức có thể nhận thức được bởi các
giác quan, quá trình tư duy làm cho con người có khả năng nhận thức được
đối tượng mà không thông qua giác quan cụ thể - nhận thức gián tiếp.
Tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức, là sự phản ánh khái
quát, gián tiếp, tích cực và sáng tạo về thế giới. Tính tích cực của tư duy thể
hiện ở chỗ nó vượt lên nhận thức cảm tính, tự nó xây dựng nên hệ thống các
tri thức về hiện thực khách quan trong tính toàn vẹn, phản ánh được bản chất
của sự vật. Căn cứ trên bản chất của con người là một thực thể năng động,

sáng tạo, luôn muốn vươn tới nhận thức thế giới và cải tạo thế giới, V.I. Lênin
cho rằng, thế giới không thỏa mãn con người và con người quyết định biến
đổi thế giới bằng hành động thực tiễn của mình. Tư duy còn có năng lực xây
dựng các khái niệm, phạm trù, liên kết chúng lại thành các "mạng lưới", hệ
thống hóa các tri thức, chỉ ra mối liên hệ, quan hệ giữa chúng với nhau, khái
quát được các quy luật chi phối tự nhiên, xã hội, và bản thân nó - tư duy, để từ
đó khám phá (có thể bằng con đường trực tiếp hoặc gián tiếp) các tri thức
10

mới. Tuy nhiên, năng lực sáng tạo của tư duy ở mỗi người là không giống
nhau, nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố căn bản như: điều kiện lịch sử xã hội, thể
chất của con người, môi trường xã hội
Có thể nói tư duy mang bản chất người, thuộc phạm trù trí tuệ người,
giúp cho con người nhận thức, khám phá các thuộc tính, các mặt, các mối liên
hệ của sự vật, hiện tượng, đi sâu tới từng cấp độ của bản chất, phát hiện ra
những quy luật vận động và phát triển của hiện thực khách quan.
Quá trình tư duy cũng đồng thời là quá trình vận dụng tri thức vào đời
sống hiện thực. Hoạt động thực tiễn lịch sử xã hội quy định tư duy. Trong quá
trình cải tạo giới tự nhiên, cải tạo xã hội, con người cũng cải tạo chính bản
thân mình, biến đổi và phát triển tư duy: "Trí tuệ con người đã phát triển song
song với việc người ta học cải biến tự nhiên" [67, tr. 720].
Nếu như hoạt động thực tiễn của con người là nguồn gốc, động lực chủ
yếu của tư duy, thì chính thực tiễn cũng là tiêu chuẩn cao nhất của tư duy, là cái
điều chỉnh tư duy. C. Mác nói: "Vấn đề tìm hiểu xem tư duy con người có thể
đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý
luận, mà là một vấn đề thực tiễn" [64, tr. 9-10]. Thực tiễn là nơi cung cấp tài liệu
cho tư duy.
Các giác quan phản ánh hiện thực thành các dữ liệu, với tính năng động
và sáng tạo, với hàng loạt các thao tác: phân tích, tổng hợp, khái quát hóa,
trừu tượng hóa, v.v., tư duy chế biến chúng, tạo ra tri thức mới, phản ánh bản

chất của đối tượng. Những tri thức này lại được đưa vào thực tiễn để kiểm tra,
đồng thời để triển khai sức mạnh của nó.
V.I.Lênin đã diễn đạt một cách cô đọng biện chứng của tư duy trừu
tượng và trực quan sinh động cùng với thực tiễn như sau: "Từ trực quan sinh
động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con
đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách
quan" [55, tr. 179].
Tư duy có một số đặc trưng sau:
11

Thứ nhất: Tư duy phản ánh cái chung. Cái chung ở đây được hiểu là
những dấu hiệu, những thuộc tính chung của sự vật. Tư duy là trình độ nhận
thức ở mức lý tính, và chỉ ở trình độ nhận thức này mới có thể phản ánh được
những thuộc tính chung, mang tính phổ biến và cơ bản của sự vật.
Trong hiện thực khách quan, cái chung tồn tại như cái chung của nhiều
sự vật, đồng thời, nó cũng không tách rời cái riêng, cái đặc thù. Cần phân biệt
cái chung trong hiện thực và trong tư duy. Nếu như trong hiện thực, cái chung
không tách ra một cách độc lập mà nằm trong cái riêng, thì trong tư duy, cái
chung được phân xuất thành ra thành cái tồn tại tự nó, tách khỏi cái riêng cảm
tính, được trừu tượng hóa khỏi mọi cái riêng cảm tính.
Thứ hai: Trừu tượng hóa cũng là nét đặc trưng của tư duy. Như trên
đã trình bày, trong hiện thực cái chung không tách khỏi cái riêng. Việc tách
cái chung ra khỏi cái riêng trong tư duy chính là sự trừu tượng hóa. Nói như
vậy không có nghĩa việc tách cái chung ra khỏi cái riêng là tất cả sự trừu
tượng hóa của tư duy. V.I.Lênin nói về tính ưu việt của sự trừu tượng hóa như
sau: "Những sự trừu tượng về vật chất, về quy luật tự nhiên, sự trừu tượng về
giá trị, v.v., Tóm lại, tất cả những sự trừu tượng khoa học (đúng đắn, nghiêm
túc, không tùy tiện) phản ánh giới tự nhiên sâu sắc hơn, chính xác hơn, đầy đủ
hơn" [55, tr. 179].
Thứ ba: Tư duy phản ánh thế giới khách quan một cách gián tiếp. Tư

duy có tính gián tiếp vì tư duy phải dựa trên cơ sở các hình thức nhận thức
cảm tính. Cảm giác, tri giác, biểu tượng là những hình thức nhận thức trực
tiếp với sự vật. Nhờ tính gián tiếp, có khả năng tách rời nhất định với sự vật
nên tư duy có sức mạnh to lớn trong sự phản ánh thế giới. Song điều đó cũng
tạo nên khả năng dễ rơi vào ảo tưởng, thoát ly thực tế.
Thứ tư: Tư duy phản ánh thế giới khách quan một cách tích cực, sáng
tạo trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người. Tư duy của con người là để
chỉ đạo cho hành động của con người, nó có xu hướng "hướng ngoại", hiện
thực hóa chứ không dừng lại ở trong đầu óc con người. V.I. Lênin cho rằng sự
12

chuyển hóa từ tư duy đến thực tại là rất quan trọng đối với lịch sử. Tư duy có
thể dự báo tương lai, tạo ra những giả thuyết khoa học, những lý thuyết hết
sức trừu tượng, tạo ra những mô hình lý tưởng cho hiện thực.
Tất cả những đặc trưng trên đây của tư duy có liên hệ chặt chẽ với
nhau, giả định lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau.
Tư duy là lĩnh vực hết sức phong phú, đa dạng và phức tạp. Nó vừa
mang dấu ấn của chủ thể tư duy, vừa mang dấu ấn của nội dung khách thể
được phản ánh trong tư duy.
Tư duy bao giờ cũng gắn liền với các chủ thể nhất định, vì thế khi nói về
tư duy thường người ta cũng quan tâm đến năng lực và trình độ tư duy của các
chủ thể. Năng lực tư duy là khả năng nhận thức và khái quát của chủ thể nhận
thức. Đó là từ những hiện tượng, thuộc tính rời rạc, riêng lẻ của sự vật, hiện
tượng, trong đầu óc chủ thể nhận thức diễn ra một quá trình với những thao tác
tư duy nhằm trừu tượng hóa và khái quát hóa để nắm bắt được bản chất và các
quy luật qui định sự tồn tại, phát triển của sự vật. Năng lực tư duy còn thể hiện
ở năng lực nhận thức và vận dụng lý luận vào thực tiễn đời sống; ngoài ra năng
lực tư duy của chủ thể hoạt động còn biểu hiện ở chỗ biết tổng kết kinh
nghiệm, khái quát hóa kinh nghiệm thực tiễn thành lý luận và xây dựng mô
hình lý luận mới phù hợp với sự vận động và phát triển của thực tiễn.

Năng lực tư duy của chủ thể còn phụ thuộc cả vào yếu tố di truyền. gen
di truyền quy định các kiểu thần kinh bẩm sinh của chủ thể. Nó là nhân tố vật
chất tạo nên khí chất của con người. Chẳng hạn, khí chất hăng hái: loại này
ứng với kiểu thần kinh mạnh, linh hoạt. Người có khí chất này thường nhận
thức nhanh, phản ứng nhanh, tính tình vui vẻ, các mối quan hệ xã hội nhanh
chóng, giao tiếp rộng rãi Hay, loại khí chất bình thản, ứng với kiểu thần
kinh cân bằng. Loại người này có nhận thức và phản ứng chậm hơn nhưng
bình tĩnh, chín chắn, sâu sắc, có khả năng kiềm chế, tính tự chủ cao, biểu hiện
tình cảm kín đáo, tác động vào mọi người một cách nhẹ nhàng theo kiểu "mưa
dầm thấm lâu"
13

Những người có một trong hai khí chất nói trên, phù hợp với công tác
lãnh đạo, quản lý. Người cán bộ lãnh đạo, quản lý thành đạt thường là người
có một trong những kiểu thần kinh nhu vậy. Yếu tố di truyền bẩm sinh của cá
nhân về hệ thần kinh và não bộ tạo nên sự khác biệt giữa cá nhân với cá nhân,
chứa đựng những yếu tố sinh học tự tạo trong cuộc sống cá thể. Thế nhưng,
đặc điểm di truyền, yếu tố gen có được bảo tồn ở thế hệ sau hay không, và nó
thể hiện ở mức độ nào còn là do hoàn cảnh sống, môi trường xã hội quyết
định. Như vậy, hệ thần kinh, gen di truyền cũng như năng khiếu của cá nhân
chỉ là tiền đề để hình thành năng lực, chứ không quy định trước sự phát triển
của năng lực tư duy. Trong hoạt động và thông qua hoạt động của con người,
tiền đề sinh học bẩm sinh mới được phát triển nhanh chóng, những yếu tố
chưa hoàn thiện sẽ tiếp tục được hoàn thiện thêm và cơ chế bù trừ sẽ hình
thành để bù đắp những khuyết nhược điểm của mỗi cá nhân do yếu tố di
truyền quy định. Chính vì lẽ đó, thiên hướng về hoạt động nào đó sẽ làm cho
tư duy về lĩnh vực đó phát triển. Ví như, nếp sống trong môi trường gia đình
và xã hội có truyền thống kinh doanh sẽ tạo ra thiên hướng của con người đối
với lĩnh vực hoạt động này. Có thể coi đó là dấu hiệu của năng lực đang hình
thành. Vậy, có thể khẳng định rằng, chính nhân tố xã hội quyết định tư duy

của con người và tri thức là điều kiện để năng lực tư duy của chủ thể phát
triển. Tri thức là vốn hiểu biết mà con người tích lũy được và năng lực tư duy
sẽ làm tăng vốn hiểu biết của con người lên một cách nhanh chóng.
Năng lực tư duy không tách rời trình độ tư duy. Khi nói về trình độ tư
duy là nói về cấp độ, mức độ hay những khả năng xác định của tư duy. Đó là
trình độ tư duy thấp và trình độ tư duy cao; đó là trình độ tư duy tiền khoa học
và trình độ tư duy khoa học; đó là trình độ tư duy khoa học thấp và trình độ tư
duy khoa học cao
Trình độ tư duy như thế nào thường được biểu hiện qua các phương
pháp tư duy. Trình độ tư duy thấp, kém khoa học thường bộc lộ ra ở phương
pháp tư duy mang nặng tính chất kinh nghiệm, bề ngoài. Với trình độ tư duy
14

này, chủ thể nhận thức mới dừng lại mô tả bề ngoài các hiện tượng riêng lẻ,
mới chỉ là tập hợp ghi nhớ các biểu hiện hình thức của sự vật; không biết gạt
bỏ các yếu tố đơn lẻ, ngẫu nhiên, thứ yếu để nắm lấy những mối liên hệ,
những thuộc tính bên trong của sự vật và hiện tượng.
Còn trình độ tư duy lý luận là sự phản ánh hiện thực một cách gián tiếp
bằng các phạm trù, nguyên lý, qui luật. Ở đó, chủ thể nhận thức sử dụng ngôn
ngữ và các hình thức tư duy để phân tích, tổng hợp và khái quát các tài liệu
cảm tính, nhằm nắm bắt các thuộc tính, các mối liên hệ mang tính bản chất,
các qui luật nội tại quy định sự tồn tại và phát triển của sự vật và hiện tượng.
Về mặt loại hình tư duy triết học, trình độ phát triển cao nhất của tư
duy là tư duy biện chứng duy vật. Nó là sự thống nhất chặt chẽ giữa chủ nghĩa
duy vật và phương pháp biện chứng. Năng lực tư duy biện chứng là tổng hợp
tất cả các phẩm chất của tư duy ở trình độ cao, là khả năng đưa ra những
quyết định đúng đắn, hợp lý, kịp thời của chủ thể. Đó còn là khả năng lãnh
đạo, quản lý tổ chức để biến quyết định thành hiện thực.
1.1.2. Bản chất và đặc điểm của tư duy biện chứng
1.1.2.1. Bản chất tư duy biện chứng

Tư duy biện chứng đã được hình thành từ rất sớm ở trình độ tự phát,
chất phác. Trong triết học phương Đông (Trung Quốc, Ấn Độ ) cổ đại không
bàn trực tiếp về tư duy biện chứng, song đã có những yếu tố của tư duy biện
chứng trong các học thuyết của họ.
Trong triết học Trung Quốc, Lão Tử, Trang Tử, Huệ Thi là các triết gia
điển hình có những tư tưởng biện chứng về tự nhiên, xã hội. Trong tác phẩm
Đạo đức kinh của Lão Tử có những mệnh đề nổi tiếng như: "Đạo khả đạo, phi
thường đạo, danh khả danh phi thường danh" [130, tr. 33], "Thiên hạ vạn vật
sinh ư Hữu, Hữu sinh ư Vô" [130, tr. 202], "Đạo sinh Nhất, Nhất sinh Nhị,
Nhị sinh Tam, Tam sinh vạn - vật. Vạn - vật phụ âm nhi bão dương, Xung khí
dĩ vi hòa" [130, tr. 210], phản ánh thế giới khách quan luôn vận động, biến
đổi khôn lường, những tư tưởng này đã diễn tả biện chứng của khách quan
15

kéo theo biện chứng của khái niệm. Tư tưởng của Lão Tử cũng có một số
điểm giống với tư tưởng của Phật giáo trong quan niệm về vô thường. Phật
giáo còn đặt vấn đề về luân hồi, nghiệp báo, nhân quả để diễn tả biện chứng
của thế giới khách quan.
Học thuyết Âm - Dương, diễn tả sự chuyển hóa, thống nhất của hai mặt
đối lập: Thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát
quái, bát quái biến hóa vô cùng. Còn trong thuyết Ngũ hành các yếu tố cơ
bản: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ nằm trong các quan hệ tương sinh, tương
khắc vừa gắn bó mật thiết với nhau, nương tựa vào nhau để tồn tại và phát
triển, vừa xung khắc, hủy hoại, tiêu diệt nhau.
Cùng với những thành tựu triết học biện chứng của các dân tộc phương
Đông cổ đại, các nhà triết học cổ đại Hy Lạp đã hoàn thành hình thức lịch sử
đầu tiên của tư duy biện chứng, ở trình độ cổ sơ, chất phác. Tính chất thô sơ
trong tư duy biện chứng của người Hy Lạp biểu hiện một cách rõ ràng trong
quan niệm của họ về vật chất nguyên thủy, vật chất đầu tiên, phát sinh từ
những hiện tượng thiên hình vạn trạng có thể cảm biết được. Chẳng hạn,

Hêraclít cho rằng: Vạn vật bắt nguồn từ lửa lại chuyển biến thành lửa và luôn
luôn thay đổi hình thức tồn tại của nó. Ông là người đã nêu lên một luận điểm
biện chứng nổi tiếng là người ta không thể tắm được hai lần trên cùng một
dòng sông, bởi vì nước của dòng sông luôn chảy. Luận điểm đó nói lên sự vận
động, biến đổi không ngừng của sự vật.
Aristốt là đại diện xuất chúng của tư duy biện chứng cổ đại. Ông đã
phát biểu tư tưởng biện chứng về sự phát triển của giới tự nhiên, về vật thể
chuyển hóa từ trạng thái này sang trạng thái khác, về sự chuyển biến từ khả
năng thành hiện thực. Khi khảo sát hình thức và phạm trù của tư duy lý luận,
ông đã nhấn mạnh một cách biện chứng mối liên hệ giữa khái niệm, nghĩa là
sự phản ánh bằng khái niệm mối liên hệ lẫn nhau tồn tại trong thế giới khách
quan. Song, Aristốt cũng như các bậc tiền bối của ông chưa vượt ra khỏi
phạm vi quan niệm chung về giới tự nhiên.
16

Những phương pháp tư duy biện chứng thô sơ ấy phần lớn là tự phát và
còn nhiều hạn chế. Tư duy đó chỉ có thể dùng để nhận thức bức tranh tổng quát
thế giới, mà không thể dùng để nghiên cứu quá trình, hiện trạng và các sự vật
riêng lẻ được. Tư duy này chỉ hạn chế trong bức tranh tổng quát của hiện thực
xung quanh mà giác quan trực tiếp cảm thấy được, vì thế, không nêu ra được
mâu thuẫn nội tại vốn có và sự phát triển của một quá trình nhất định. Do đó,
quan niệm chung về mâu thuẫn, vận động và phát triển của tư duy biện chứng
cổ đại có được dường như là do nhận thức trực quan mà có.
Tư duy biện chứng như vậy đương nhiên không thể chiến thắng được
tư duy siêu hình, thậm chí có lúc nó còn cùng tồn tại với siêu hình học trong
những nhà triết học Hy Lạp cổ đại. Ph. Ăngghen nhận xét như sau:
Hình thức thứ nhất là triết học Hy Lạp. Trong triết học này, tư duy biện
chứng xuất hiện với tính chất thuần phác tự nhiên Chính vì người Hy Lạp
chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích giới tự nhiên, cho nên họ hãy còn quan
niệm giới tự nhiên là một chỉnh thể và đứng về mặt toàn bộ mà xét chỉnh thể

ấy. Mối liên hệ phổ biến giữa các hiện tượng tự nhiên chưa được chứng minh
về chi tiết; đối với họ, mối liên hệ đó là kết quả của sự quan sát trực tiếp. Đó
chính là thiếu sót của triết học Hy Lạp, do đó mà sau này, nó buộc phải
nhường chỗ cho những cách nhìn khác. Nhưng chính đó cũng là ưu điểm của
nó so với tất cả các địch thủ siêu hình sau này của nó. Nếu về chi tiết, chủ
nghĩa siêu hình là đúng hơn so với những người Hy Lạp, thì về toàn thể những
người Hy Lạp lại đúng hơn so với chủ nghĩa siêu hình [67, tr. 491].
Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVI, nhờ sự hình thành quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa, nhờ sự phát triển của công nghiệp, thương nghiệp, thủ công
nghiệp, khoa học tự nhiên phát triển nhanh chóng trong nhiều lĩnh vực: thiên
văn học, vật lý học, toán học và đã đạt được những phát minh quan trọng.
Trong thời gian đó khoa học dần dần tích lũy được nhiều tài liệu thực tế, trong
đó có cả những tài liệu về giới động thực vật. Điều đó giúp người ta có thể
tiến hành phân loại động thực vật và nghiên cứu một cách có hệ thống. Trong
17

giai đoạn đầu tiên sưu tầm đó, người ta chỉ nhận thức được những hiện tượng
tự nhiên riêng lẻ, cho nên họ coi sự vật của giới tự nhiên là không có liên
quan, cô lập, không vận động, không biến hóa và không phát triển. Cách nhìn
nhận tự nhiên theo hướng này được các nhà triết học thế kỷ XVII - XVIII coi
là tuyệt đối. Kết quả là tư duy siêu hình thay thế tư duy biện chứng thô sơ của
các nhà triết học cổ đại Hy Lạp. Tuy nhiên sự thống trị của phương pháp tư
duy siêu hình chỉ là tạm thời.
Những nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII như Điđờrô, Hônbách,
Henvêtiút, nhìn chung họ là những nhà siêu hình, song trong các tác phẩm của
họ đã xuất hiện nhiều dự đoán biện chứng thiên tài. Tuy vậy, chỉ đến những
thập niên đầu của thế kỷ XIX, khi mà lượng tài liệu về khoa học tự nhiên
được tích lũy lại khá đầy đủ, mới làm cho người ta có đủ khả năng khái quát
được biện chứng của thế giới.
Như Ph. Ăngghen đã nhận xét: "Nền triết học mới ở Đức đã ra đời và

đã đạt tới đỉnh cao nhất của nó, thể hiện ở Hêghen. Công lao lớn nhất của nó
là đã quay trở lại phép biện chứng, coi đó là hình thức cao nhất của tư duy"
[67, tr. 34]. Tất nhiên, sự quay trở lại với phương pháp tư duy biện chứng của
các nhà triết học và khoa học thời đó mà trong đó Hêghen là đỉnh cao là do
những thành tựu to lớn của khoa học tự nhiên mang lại, chứ không phải như
Hêghen nói đó là sự phát triển của ý niệm thuần túy.
Tư duy biện chứng, theo Hêghen, là sự thống nhất giữa tư duy và tồn
tại. Với ý nghĩa đó, Hêghen đã thực hiện sự phê phán một cách triệt để bất
khả tri luận của Kant và đã đạt tới tư tưởng về sự thống nhất của lịch sử và
lôgíc trong nhận thức, cho phép ông xây dựng được một hệ thống phạm trù có
nội dung sâu sắc.
Theo quan điểm của Hêghen, vạch ra sự phát triển của tư duy có nghĩa
là vạch ra lý luận nhận thức với tính cách là quá trình lôgíc tất yếu của lịch sử
nhận thức. Hệ thống lôgíc chặt chẽ về các phạm trù cũng là lôgíc của quá trình
nhận thức, còn bản thân phạm trù là những điểm tựa, điểm hướng dẫn của quá
18

trình nhận thức. Tuy có những hạn chế nhất định, song học thuyết của Hêghen
về sự phát triển biện chứng của phạm trù có ý nghĩa to lớn trong lịch sử phát
triển tư duy biện chứng, vì trong đó ông đã phỏng đoán tài tình sự phát triển
của các sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan qua sự phát triển của các
khái niệm, phạm trù. Ông cũng đã phỏng đoán được sự thống nhất của những
quy luật của tồn tại và quy luật của tư duy.
Tuy nhiên, tư duy biện chứng ở Hêghen là tư duy biện chứng duy tâm,
bởi vì ông cho rằng biện chứng của ý niệm sản sinh ra biện chứng của sự vật
chứ không phải ngược lại. Vì vậy, C. Mác cho rằng ở Hêghen phép biện
chứng đứng bằng đầu, chỉ cần đặt nó đứng bằng hai chân trên mảnh đất hiện
thực thì mọi việc sẽ sáng tỏ. Đó chính là công việc mà C. Mác và Ph.
Ăngghen đã làm là: cải tạo phép biện chứng duy tâm của Hêghen, xây dựng
phép biện chứng duy vật, cũng tức là tư duy biện chứng duy vật - hình thức

cao nhất của tư duy biện chứng trong lịch sử.
Như vậy, có thể nói, lịch sử phát triển của triết học là lịch sử phát triển
của tư duy triết học, gắn liền với hai phương pháp tư duy: biện chứng và siêu
hình. Tư duy biện chứng và tư duy siêu hình là hai mặt đối lập của phương
pháp tư duy. Trong đó, tư duy siêu hình, theo Ăngghen thì:
Chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối liên hệ
qua lại giữa những sự vật ấy; chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà
không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn
thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những
sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng [67, tr. 37].
Tư duy siêu hình xem xét các khái niệm, với tính cách là phản ánh của
các sự vật, hiện tượng, là những cái riêng biệt không biến đổi, chết cứng. Các
khái niệm tồn tại độc lập nhau, tuần tự khái niệm này nối tiếp khái niệm kia.
Theo phương pháp tư duy siêu hình, sự vật không thể cùng lúc vừa tồn tại vừa
không tồn tại, cái khẳng định và cái phủ định tuyệt đối bài trừ nhau, nguyên
nhân và kết quả tuyệt đối độc lập nhau, nó chỉ thấy sự tồn tại của các sự vật cá
19

biệt mà không thấy mối liên hệ giữa các sự vật ấy, chỉ thấy sự tồn tại của các
sự vật mà không thấy sự hình thành và diệt vong, chỉ thấy trạng thái tĩnh mà
không thấy sự vận động.
Trái lại, tư duy biện chứng là tư duy nhìn nhận sự vật, hiện tượng trong
tính chỉnh thể, toàn diện, trong tính lịch sử của chúng, nghĩa là thấy được sự
ra đời, phát triển, diệt vong của sự vật. Tư duy biện chứng đi sâu phân tích
nguồn gốc, động lực thúc đẩy sự vật phát triển, sự diệt vong của sự vật ấy và
quan hệ của chúng với các sự vật khác. Tư duy biện chứng dựa trên phương
pháp tư duy biện chứng.
Ph. Ăngghen viết: "Phép biện chứng là phương pháp mà điều căn bản
là xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng, trong
mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận động, sự

phát sinh và sự tiêu vong của chúng" [67, tr. 38].
Trên cơ sở kế thừa, chọn lọc, cải tạo các tư tưởng của các nhà triết học
đi trước, C. Mác và Ph. Ăngghen đã xây dựng phép biện chứng duy vật, đặt tư
duy biện chứng lên một trình độ mới, khoa học hơn. Ph. Ăngghen đã định
nghĩa: "Phép biện chứng chẳng qua chỉ là môn khoa học về những quy luật
phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người
và của tư duy" [67, tr. 201]. Do đó, lịch sử phát triển của phép biện chứng
cũng là lịch sử phát triển của tư duy biện chứng.
Tư duy biện chứng là tư duy phản ánh những mối liên hệ, sự vận động,
phát triển của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan.
1.1.2.2. Một số đặc điểm cơ bản của tư duy biện chứng
Tư duy biện chứng mácxít là trình độ cao của tư duy biện chứng ở trình
độ lý luận. Tư duy đó không chỉ dựa trên các quy luật của tự nhiên, xã hội và
tư duy mà còn dựa trên các quy luật biện chứng riêng của tư duy được phản
ánh trong lôgíc biện chứng mácxít. Tư duy biện chứng mácxít có một số đặc
điểm cơ bản sau.
20

a) Nắm bắt và vận dụng được trong tư duy các quy luật phổ biến của
phép biện chứng duy vật.
Tư duy biện chứng là tư duy phản ánh một cách năng động, sáng tạo
biện chứng của thế giới khách quan mà thế giới khách quan tự nó là biện
chứng, do vậy, tư duy, với tư cách là phản ánh lý tính của hiện thực khách
quan cũng tất nhiên phải biện chứng. Nghĩa là, nó phải tuân thủ các quy luật
phổ biến, như quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng - chất, quy luật phủ định
của phủ định v.v Ph. Ăngghen viết:
Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn bộ
giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì
chỉ là phản ánh sự chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên, của sự vận động
thông qua những mặt đối lập, tức là những mặt, thông qua sự đấu tranh

thường xuyên của chúng và sự chuyển hóa cuối cùng của chúng từ mặt đối
lập này thành mặt đối lập kia, resp (tương tự) với những hình thức cao hơn, đã
quy định sự sống của giới tự nhiên [67, tr. 694].
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là một trong
những quy luật quan trọng nhất của tư duy biện chứng. Vì tư duy là phản ánh
lý tính đối với các sự vật hiện tượng; mà các sự vật hiện tượng đã là một đồng
nhất cụ thể của những mặt đối lập, tức mâu thuẫn vốn có bên trong sự vật,
hiện tượng ấy. Do đó, trong phản ánh lý tính ấy, mà các biểu hiện là các hình
thức tư duy như khái niệm, phán đoán, suy lý, cũng tái tạo những mâu thuẫn
ấy trong một chừng mực nhất định.
Mục đích cuối cùng của nhận thức là đạt tới chân lý. Nhưng chân lý là
bao hàm mâu thuẫn - mâu thuẫn giữa chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối.
Quá trình nhận thức là quá trình liên tục khắc phục sự đấu tranh của hai mặt
đối lập đó để liên tiếp tiệm cận tới chân lý tuyệt đối.
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là một trong ba
quy luật cơ bản của tư duy biện chứng không chỉ bởi, tư duy biện chứng tái
tạo biện chứng khách thể trong chủ thể mà bản thân quá trình tư duy biện
21

chứng là một quá trình chứa đựng mâu thuẫn, trong đó có mâu thuẫn giữa
chân lý và sai lầm, mâu thuẫn giữa cảm tính và lý tính và việc giải quyết
mâu thuẫn này chính là sự vận động liên tục của các thế hệ loài người, biến
cái hạn chế của tư duy từng con người cụ thể thành cái tối cao của tư duy con
người nói chung.
Tư duy biện chứng dựa trên sự thống nhất hai giai đoạn nhận thức: cảm
tính và lý tính. Nhận thức cảm tính bao giờ cũng thấp hơn trình độ nhận thức lý
tính. Song nó lại là cơ sở của lý tính, nhưng vấn đề ở chỗ tư duy phải bao quát
toàn bộ "biểu tượng" trong sự vận động của nó, do đó, tư duy phải biện chứng,
nghĩa là tư duy phải nắm được biểu tượng trong tính chỉnh thể của nó. Tư duy
được rút ra từ biểu tượng nhưng tư duy phải bao quát biểu tượng.

Tư duy biện chứng đóng vai trò khái quát từ cái ngẫu nhiên trong lịch
sử thành cái tất yếu. Phương pháp của tư duy biện chứng là sự thống nhất của
các mặt đối lập: phân tích - tổng hợp; quy nạp - diễn dịch, lôgíc - lịch sử, trừu
tượng - cụ thể; các mặt đối lập đó cũng tồn tại trong tư duy biện chứng. Sự
xâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng là động lực phát triển của tư duy
biện chứng.
Tư duy biện chứng là quá trình tư duy mãi không ngừng tiến gần đến
biện chứng của khách thể. Như V.I.Lênin viết: Phản ánh của giới tự nhiên
trong tư tưởng con người phải được hiểu không phải một cách "chết cứng",
"trừu tượng", không phải không vận động, không mâu thuẫn, mà là trong quá
trình vĩnh viễn của vận động, của sự nảy sinh mâu thuẫn và sự giải quyết
những mâu thuẫn đó [51, tr. 207-208].
Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay
đổi về chất và ngược lại. Mọi người đều biết, sự vật chẳng những có tính qui
định về chất mà còn có tính qui định về lượng. Tư duy biện chứng với tính
cách là phản ánh lý tính của sự vật phải tái tạo sự thống nhất giữa chất và
lượng của sự vật đang ở trạng thái nào. Sự phụ thuộc hữu cơ tất yếu giữa tính

×