Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

Nâng cao chất lượng hoạt động quản trị tài chính tại Công ty TNHH VIETNAMLAND

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1005.1 KB, 70 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN NGÂN HÀNG – TÀI CHÍNH
CHUYÊN ĐỀ
THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Đề tài:
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH
TẠI CÔNG TY TNHH VIETNAMLAND
Giảng viên hướng dẫn : ThS. Hoàng Khánh
Sinh viên thực hiện : Trịnh Thùy Trang
Mã sinh viên : BH204176TC
Lớp : Tài chính doanh nghiệp K24
Hà Nội - 2015
MỤC LỤC
PHỤ LỤC
DANH MỤC VIẾT TẮT
TNHH : trách nhiệm hữu hạn
VCSH : vốn chủ sở hữu
GDP : tổng sản phẩm quốc nội
SX-TM-DV : sản xuất, thương mại, dịch vụ
CNTT : công nghệ thông tin
TNDN : thu nhập doanh nghiệp
TSCĐ : tài sản cố định
XNK : xuất nhập khẩu
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
SƠ ĐỒ:
b)Các giải pháp khác 60
LỜI MỞ ĐẦU

Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, doanh nghiệp muốn tồn tại và
phát triển một cách bền vững thì bên cạnh những yếu tố về môi trường
kinh tế, môi trường chính trị và pháp luật một việc làm rất quan trọng và


cần thiết chính là việc quản trị tài chính. Cụ thể là việc phân tích tình hình
tài chính và đưa ra các phương pháp quản lý hợp lý nhằm mục đích cuối
cùng là tăng giá trị tài sản cho chủ sở hữu.
Chất lượng hoạt động quản trị tài chính không cao chính là nguyên
nhân lớn nhất dẫn đến sự thất bại của doanh nghiệp. Vấn đề về vốn, quản
trị tài chính cũng luôn là những vấn đề quan trọng trong quá trình từ
khởi sự đến thành công của một doanh nghiệp. Nhưng trên thực tế, không
phải doanh nghiệp nào cũng nhận thức được đầy đủ về vấn đề này, đặc
biêt là các doanh nghiệp trẻ.
Việc làm rõ thực trạng, chất lượng hoạt động quản trị tài chính tại
công ty và nâng cao chất lượng hoạt động này thông qua việc tiến hành
phân tích tài chính một cách thường xuyên giúp những nhà quản lý đánh
giá được chính xác chất lượng của hoạt động tài chính cũng như tình hình
sản xuất kinh doanh của công ty từ đó đưa ra những định hướng, kế
hoạch, giải pháp giúp nâng cao chất lượng quản trị tài chính, nhằm đảm
bảo cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra thông
suốt, thực hiện đúng theo tiêu chí đề ra của doanh nghiệp về quản lý tài
sản và nguồn vốn và thi hành đúng các quy định của pháp luật.
Công ty TNHH Vietnamland là một công ty thành viên trực thuộc tập
đoàn Vietnamland có nhiệm vụ chính là xây dựng các công trình tòa nhà,
tổ hợp trung tâm thương mại, văn phòng, khu căn hộ … Việc kinh doanh
những tài sản có giá trị lớn khiến cho nhà doanh nghiệp nhận thức được rõ
ràng tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng hoạt động quản trị tài chính
doanh nghiệp.
Sau một thời gian thực tập tại công ty Vietnamland, được sự dìu dắt của
giáo viên hướng dẫn cùng sự giúp đỡ rất nhiệt tình của các cô chú trong công
ty, em đã được tìm hiểu các hoạt động của công ty trong thời gian ba năm từ
2012 đến 2014, sau đó nghiên cứu bằng phương pháp tổng hợp và so sánh,
đánh giá làm rõ để từ đó đưa ra kết luận về tình hình chất lượng hoạt động
quản trị tài chính của công ty và những giải pháp nhằm mục đích nâng cao

chất lượng hoạt động quản trị tài chính tại công ty TNHH Vietnamland.
Tất cả những kết quả mà em thu thập đã được trình bày và phân tích cụ
thể thông qua việc hoàn thành xong đề án tốt nghiệp với đề tài: NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY
TNHH VIETNAMLAND với kết cấu gồm ba chương chính như sau:
Chương 1 : Cơ sở lý luận về chất lượng hoạt động quản trị tài chính
doanh nghiệp
Chương 2: Thực trạng chất lượng hoạt động quản trị tài chính công ty
TNHH Vietnamland
Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động quản trị tài chính
tại công ty TNHH Vietnamland
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn thực tập
và tập thể nhân viên công ty TNHH Vietnamland đã giúp em hoàn thành đề
án này.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG QUẢN
TRỊ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1 Tổng quan về chất lượng hoạt động quản trị tài
chính doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm
1.1.1.1 Khái niệm về hoạt động quản trị tài chính doanh nghiệp
a) Khái niệm tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là chỉ là một bước trong số các bước đi của hệ
thống tài chính trong nền kinh tế. Để có được hoạt động sản xuất kinh doanh
thì doanh nghiệp phải sở hữu được một số vốn nhất định và đi kèm với nó là
quá trình hình thành, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp.
Chính các luồng tiền tệ đi vào và đi ra khỏi doanh nghiệp đã tạo thành sự vận
động của các luồng tài chính của doanh nghiệp. Những quá trình tạo lập, phân
phối và sử dụng các vốn tiền tệ của doanh nghiệp thì đi cùng với nó chính là
quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với các chủ thể trong nền kinh tế.

Các quan hệ tài chính doanh nghiệp chủ yếu gồm có 4 mối quan hệ: quan
hệ giữa doanh nghiệp và nhà nước được hình thành trong quá trình doanh
nghiệp nộp thuế cho nhà nước hoặc nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp, giữa
doanh nghiệp với thị trường tài chính thông qua hoạt động vay ngắn hạn hoặc
phát hành cổ phiếu, trái phiếu để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn. Tuy nhiên
trong mối quan hệ này, doanh nghiệp phải trả lãi vay và vốn vay, lãi cổ phần
cho các nhà tài trợ. Tiền chưa sử dụng có thể đem đầu tư chứng khoán hoặc
gửi vào ngân hàng để sinh lời.
Quan hệ chặt chẽ giữa doanh nghiệp với các thị trường hàng hóa, dịch
vu, thị trường sức lao động nhằm mục đích mua sắm thiết bị máy móc, nhà
xưởng, tìm kiếm người lao động… Thông qua thị trường đó xác định cụ thể
nhu cầu hàng hóa và dịch vụ cần cung ứng từ cơ sở này mà hoạch định ngân
sách đầu tư, kế hoạch sản xuất, tiếp thị phù hợp với nhu cầu của thị trường.
Quan hệ giữa các bộ phận sản xuất-kinh doanh, giữa cổ đông và người quản
lý, giữa cổ đông và chủ nợ, giữa quyền sử dụng vốn và quyền sở hữu vốn gọi
chung là quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp. Các mối quan hệ này được thể
hiện thông qua các chính sách của doanh nghiệp như: chính sách cổ tức, chính
sách đầu tư, chính sách về cơ cấu vốn, chi phí…
Hoạt động quản trị tài chính doanh nghiệp là việc lựa chọn để đưa ra
các quyết định tài chính và thực hiện nó nhằm đem lại lợi ích cho doanh
nghiệp mà cụ thể là việc tối đa hóa lợi nhuận, tăng giá trị doanh nghiệp và
khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Hoạt động quản trị
tài chính chiếm vị trí quan trọng trong quá trình quản trị doanh nghiệp.
Hoạt động này là hoạt động hàng đầu trong việc đưa ra các quyết định tài
chính của doanh nghiệp.
b) Nội dung quản trị tài chính doanh nghiệp
Để có thể tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, nhà doanh nghiệp
phải thông qua phương thức giải quyết ba vấn đề quan trọng: Một là nên đầu
tư dài hạn vào đâu và bao nhiêu để phù hợp với loại hình sản xuất kinh doanh
mục tiêu của doanh nghiệp? Hai là doanh nghiệp có thể khai thác nguồn vốn

đầu tư ở đâu? Ba là vấn đề quản lý hoạt động tài chính của doanh nghiệp như
thế nào. Tuy ba vấn đề này không phải là toàn bộ những vấn đề của doanh
nghiệp nhưng đây là những vấn đề lớn và mang tính tiên quyết nhất. Nghiên
cứu tài chính doanh nghiệp thực chất chính là nghiên cứu cách thức giải quyết
ba vấn đề đó.
Như vậy, một doanh nghiệp nên đầu tư dài hạn vào những tài sản nào?
Câu hỏi này liên quan đến bên trái bảng Cân đối kế toán. Giải đáp cho vấn đề
này là dự toán vốn đầu tư- đó là quá trình kế hoạch hóa và quản lý đầu tư dài
hạn của doanh nghiệp. Trong quá trình này, nhà quản lý tài chính phải tìm
kiếm cơ hội đầu tư sao cho thu nhập do đầu tư đem lại lớn hơn chi phí đầu tư.
Điều đó có nghĩa là, giá trị hiện tại các dòng tiền do các tài sản tạo ra phải lớn
hơn giá trị hiện tại các khoản chi phí hình thành các tài sản đó. Tất nhiên, việc
lựa chọn loại tài sản và cơ cấu tài sản hoàn toàn tùy thuộc vào đặc điểm của
từng loại hình kinh doanh.
Nhà quản lý tài chính không phải chỉ quan tâm tới việc sẽ nhận được
bao nhiêu tiền mà còn phải quan tâm tới việc khi nào nhận được và nhận được
như thế nào. Đánh giá quy mô, thời hạn và rủi ro của các dòng tiền trong
tương lai là vấn đề cốt lõi của quá trình dự toán vốn đầu tư.
Doanh nghiệp có thể có được vốn bằng cách nào để đầu tư dài hạn?
Vấn đề này liên quan đến bên phải bảng Cân đối kế toán, liên quan đến cơ cấu
vốn của doanh nghiệp. Cơ cấu vốn của doanh nghiệp thể hiện tỉ trọng của nợ
và vốn của chủ ( Vốn tự có) do chủ nợ và cổ đông cung ứng. Nhà quản lý tài
chính phải cân nhắc, tính toán để quyết định doanh nghiệp nên vay bao nhiêu.
Một cơ cấu giữa nợ và vốn của chủ như thế nào là tốt nhất. Nguồn vốn nào
thích hợp đối với doanh nghiệp.
Vấn đề thứ ba liên quan tới quản lý tài sản lưu động, tức là quản lý các
tài sản ngắn hạn của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính ngắn hạn gắn liền với
các dòng tiền nhập quỹ và dòng tiền xuất quỹ. Nhà quản lý tài chính cần phải
xử lý sự lệch pha của các dòng tiền. Quản lý ngắn hạn các dòng tiền không
thể tách rời với vốn lưu động ròng của doanh nghiệp. Vốn lưu động ròng

được xác định là khoản chênh lệch giữa tài sản lưu động và nợ ngắn hạn. Một
số vấn đề về quản lý tài sản lưu động sẽ được làm rõ như: Doanh nghiệp nên
nắm giữ bao nhiêu tiền và dự trữ? Doanh nghiệp có nên bán chịu không? Nếu
bán chịu thì nên bán với thời hạn nào? Doanh nghiệp sẽ tài trợ ngắn hạn bằng
cách nào? Mua chịu hay vay ngắn hạn và trả tiền ngay? Nếu vay ngắn hạn thì
doanh nghiệp nên vay ở đâu và vay như thế nào?
c) Cơ sở nghiên cứu quản trị tài chính doanh nghiệp
Một hàng hóa, dịch vụ đầu vào hay một yếu tố sản xuất là một hàng
hóa hay dịch vụ mà các nhà doanh nghiệp mua sắm để sử dụng trong quá
trình sản xuất- kinh doanh của họ. Các hàng hóa, dịch vụ đầu vào được kết
hợp với nhau để tạo ra các hàng hóa, dịch vụ đầu ra; đó là hàng loạt các hàng
hóa, dịch vụ có ích được tiêu dùng hoặc được sử dụng cho quá trình sản xuất-
kinh doanh khác. Như vậy, trong một thời kì nhất định, các doanh nghiệp đã
chuyển hóa các hàng hóa, dịch vụ đầu vào thành các hàng hóa, dịch vụ đầu ra
để trao đổi. Mối quan hệ giữa tài sản hiện có và hàng hóa, dịch vụ đầu vào,
hàng hóa, dịch vụ đầu ra( tức là quan hệ giữa bảng Cân đối kế toán và Báo
cáo kết quả kinh doanh) có thể được mô tả như sau:
Sơ đồ 1.1
Sự vận động của dòng vật chất bên trong doanh nghiệp
Trong số các tài sản mà doanh nghiệp nắm giữ có một loại tài sản đặc
biệt- đó là tiền. Chính dự trữ tiền cho phép doanh nghiệp mua các hàng hóa,
dịch vụ cần thiết để tạo ra những hàng hóa và dịch vụ phục vụ cho mục đích
trao đổi. Mọi quá trình trao đổi đều được thực hiện thông qua trung gian là tiền
và khái niệm dòng vật chất và dòng tiền phát sinh từ đó, tức là dịch chuyển
hàng hóa, dịch vụ và sự dịch chuyển tiền giữa các đơn vị, tổ chức kinh tế.
Như vậy, tương ứng với dòng vật chất đi vào ( hàng hóa, dịch vụ đầu vào)
là dòng tiền đi ra; ngược lại, tương ứng với dòng vật chất đi ra ( hàng hóa, dịch
vụ đầu ra) là dòng tiền đi vào. Quy trình này được mô tả qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.2
Sự vận động của dòng tiền bên trong doanh nghiệp


Sản xuất chuyển hóa
Dòng tiền đi ra (xuất quỹ)Dòng vật chất đi vào
Dòng vật chất đi ra
Dòng tiền đi vào (Nhập quỹ)
Hàng hóa và dịch vụ (mua vào)
Sản xuất – chuyển hóa
Hàng hóa và dịch vụ (bán ra)
Sản xuất, chuyển hóa là một quá trình công nghệ. Một mặt, nó đặc trưng
bởi thời gian chuyển hóa hàng hóa và dịch vụ, mặt khác, nó được đặc trưng
bởi các yếu tố cần thiết cho sự vận hành- đó là tư liệu lao động và sức lao
động. Quá trình công nghệ này có tác dụng quyết định tới cơ cấu vốn và hoạt
động trao đổi của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp thực hiện hoạt động trao đổi hoặc với thị trường cung
cấp hàng hóa, dịch vụ đầu vào hoặc với thị trường phân phối- tiêu thụ hàng
hóa, dịch vụ đầu ra và tùy thuộc vào tính chất hoạt động sản xuất- kinh doanh
của doanh nghiệp. Các quan hệ tài chính của doanh nghiệp được phát sinh từ
chính quá trình trao đổi đó. Qúa trình này quyết định sự vận hành của sản
xuất và làm thay đổi cơ cấu vốn của doanh nghiệp.
Phân tích các quan hệ tài chính của doanh nghiệp cần dựa trên hai khái
niệm căn bản là dòng và dự trữ Dòng chỉ xuất hiện trên cơ sở tích lũy ban
đầu những hàng hóa, dịch vụ hoặc tiền trong mỗi doanh nghiệp và nó sẽ làm
thay đổi khối lượng tài sản tích lũy của doanh nghiệp. Một khối lượng tài sản,
hàng hóa hoặc tiền được đo tại một thời điểm là một khoản dự trữ. Trong khi
một khoảng dự trữ chỉ có ý nghĩa tại một thời điểm nhất định thì các dòng chỉ
được đo trong một thời kì nhất định. Quan hệ giữa dòng và dự trữ là cơ sở nền
tảng của tài chính doanh nghiệp.
1.1.1.2 Khái niệm về chất lượng hoạt động quản trị tài chính doanh
nghiệp
Chất lượng hoạt động quản trị tài chính doanh nghiệp được thể hiện

chính qua việc có thực hiện được mục tiêu đã đề ra hay không? lợi nhuận mà
chủ sở hữu thu được có tăng lên hay không. Việc quản trị tài chính là công
việc trọng yếu quyết định tính độc lập, sự thành bại của doanh nghiệp. Quản
lý có hiệu quả thì ngoài chủ sở hữu, mọi doanh nghiệp liên kết hay hợp tác
đều có hiệu quả, ngược lại đều phải chịu thua thiệt.
1.1.2 Nội dung cơ bản về hoạt động quản trị tài chính doanh nghiệp
Nội dung cơ bản của các hoạt động quản trị tài chính doanh nghiệp bao gồm:
- Hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp: Là hoạt động chủ yếu, quyết định sự
phát triển và khả năng tăng trưởng của doanh nghiệp. Trong hoạt động đầu tư,
doanh nghiệp bỏ vốn dài hạn nhằm hình thành và bổ sung những tài sản cần thiết để
thực hiện những mục tiêu kinh doanh.
- Hoạt động huy động vốn trong doanh nghiệp: Vốn là điều kiện không thể
thiếu được để một doanh nghiệp được thành lập và tiến hành các hoạt động sản
xuất- kinh doanh. Vì vậy quản lý vốn của doanh nghiệp có ý nghĩa quan trọng trong
quản lý tài chính doanh nghiệp.
- Hoạt động quản trị tài chính ngắn hạn: Tài sản lưu động là những tài sản
ngắn hạn và thường xuyên luân chuyển trong quá trình kinh doanh. Quản trị tài
chính ngắn hạn (tài sản lưu động) có ảnh hưởng rất quan trọng đối với việc hoàn
thành nhiệm vụ chung của doanh nghiệp.
- Hoạt động quản trị tài sản dài hạn: Là một phạm trù kinh tế phản ánh trình
độ, năng lực khai thác và sử dụng vốn tài sản của doanh nghiệp vào hoạt động sản
xuất, kinh doanh nhằm mục đích tối đa hóa lợi ích và tối thiểu hóa chi phí
1.2 Các hoạt động quản trị tài chính doanh nghiệp
1.2.1 Hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp
Đầu tư là hoạt động chính quyết định sự phát triển thành công cuả doanh
nghiệp. Tùy theo những mục đích khác nhau mà có thể phân loại đầu tư của
doanh nghiệp theo những tiêu thức khác nhau. Chẳng hạn, nếu muốn phân
loại đầu tư của doanh nghiệp theo cơ cấu tài sản đầu tư ta có thể chia ra thành
đầu tư tài sản cố định, đầu tư tài sản lưu động, đầu tư tài sản tài chính. Trong
đó, đầu tư tài sản cố định nghĩa là doanh nghiệp mua sắm, cải tạo, mở rộng tài

sản cố định như máy móc thiết bị, xây lắp nhà xưởng… Các tài sản cố định
được đầu tư có thể là tài sản cố định hữu hình hoặc tài sản cố định vô hình.
Loại hình đầu tư tài sản lưu động nghĩa là khoản đầu tư nhằm hình thành các
tài sản lưu động cần thiết để đảm bảo cho các hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp diễn ra thông suốt. Hình thức đầu tư tài sản tài chính lại
được thể hiện qua việc doanh nghiệp mua cổ phiếu, trái phiếu hoặc tham gia
góp vốn liên doanh với các doanh nghiệp khác.
Ngoài ra tùy theo mục đích đầu tư ta có thể phân loại đầu tư thành: đầu
tư năng lực sản xuất; đầu tư đổi mới sản phẩm; đầu tư đổi mới thiết bị; đầu tư
mở rộng sản xuất kinh doanh; đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm; đầu tư
mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm… Việc phân loại này giúp các nhà quản
lý tài chính xác định hướng đầu tư và kiểm soát được tình hình đầu tư theo
những mục tiêu đã định.
1.2.2 Hoạt động tài trợ trong doanh nghiệp
Đối với các nhà đầu tư, mối quan tâm hàng đầu của họ là thời gian hoàn
vốn, mức sinh lãi và sự rủi ro. Vì vậy, họ cần các thông tin về điều kiện tài
chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh và tiềm năng tăng trưởng của
các doanh nghiệp.
Trong công ty cổ phần, các nhà đầu tư chính là các cổ đông, những
người sẽ cùng doanh nghiệp hưởng mọi thành công cũng như hứng chịu
những rủi ro mà doanh nghiệp gặp phải. Những rủi ro này chính là việc
giá cổ phiếu trên thị trường tụt dốc, dẫn đến nguy cơ phá sản của doanh
nghiệp. Bởi vậy, mọi quyết định họ đưa ra luôn có sự cân nhắc giữa mức
độ rủi ro và lợi nhuận họ thu được. Mối quan tâm lớn nhất của các nhà
đầu tư chính là khả năng tăng trưởng, tối đa hóa lợi nhuận. Trước hết họ
quan tâm tới lĩnh vực đầu tư và nguồn tài trợ. Trên cơ sở phân tích các
thông tin về tình hình hoạt động, về kết quả kinh doanh hàng năm, các
nhà đầu tư sẽ đánh giá được khả năng sinh lợi và triển vọng phát triển của
doanh nghiệp từ đó đưa ra những quyết định phù hợp. Các nhà đầu tư sẽ
chỉ chấp thuận đầu tư vào một dự án nếu ít nhất có một điều kiện là giá trị

hiện tại ròng của nó dương. Khi đó lượng tiền của dự án tạo ra sẽ lớn hơn
lượng tiền cần thiết để trả nợ và cung cấp một mức lãi suất yêu cầu cho
nhà đầu tư. Số tiền vượt quá đó mang lại sự giàu có cho những người sở
hữu doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, chính sách phân phối cổ tức và cơ cấu nguồn tài trợ của
doanh nghiệp cũng là vấn đề không nhỏ góp phần vào quyết định của nhà
đầu tư bởi chính nó tác động trực tiếp lên thu nhập của họ. Ta biết rằng thu
nhập của cổ đông bao gồm phần cổ tức được chia hàng năm và phần giá trị
tăng thêm của cổ phiếu trên thị trường. Một nguồn tài trợ với tỷ trọng nợ và
vốn chủ sở hữu hợp lý sẽ tạo đòn bẩy tài chính tích cực vừa giúp doanh
nghiệp tăng vốn đầu tư vừa làm tăng giá cổ phiếu và thu nhập trên mỗi cổ
phiếu (EPS).
Hơn nữa các cổ đông chỉ chấp nhận đầu tư mở rộng quy mô doanh
nghiệp khi quyền lợi của họ ít nhất không bị ảnh hưởng. Bởi vậy, các yếu tố
như tổng số lợi nhuận ròng trong kỳ có thể dùng để trả lợi tức cổ phần, mức
chia lãi trên một cổ phiếu năm trước, sự xếp hạng cổ phiếu trên thị trường và
tính ổn định của thị giá cổ phiếu của doanh nghiệp cũng như hiệu quả của
việc tái đầu tư luôn được các nhà đầu tư xem xét trước tiên khi thực hiện phân
tích tài chính.
1.2.3 Hoạt động quản trị tài chính ngắn hạn
Một hoạt động rất quan trọng của quản trị tài chính doanh nghiệp chính
là hoạt động quản trị tài chính ngắn hạn mà trong đó nó được thể hiện qua các
hoạt động quản lý dự trữ tồn kho, quản lý tiền mặt, quản lý khoản phải thu.
1.2.3.1 Quản lý dự trữ tồn kho
Để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh- sản xuất luôn diễn ra thuận lợi
và thông suốt thì việc dự trữ vật tư và hàng tồn kho là hết sức cần thiết. Việc
sản xuất đến đâu mua hàng đến đó sẽ mang đến rất nhiều rủi ro cho doanh
nghiệp nếu lỡ như sản phẩm làm ra bị ảnh hưởng bởi các tác nhân bên ngoài
khiến chúng bị hỏng hóc, biến chất… làm ảnh hưởng đến chất lượng sản
phẩm dẫn đến không tiêu thụ được chẳng hạn. Vì thế luôn luôn phải có

nguyên liệu dự trữ và hàng tồn kho dù nó không trực tiếp tạo ra lợi nhuận
nhưng lại có vai trò rất lớn để cho quá trình sản xuất- kinh doanh được tiến
hành bình thường.
Hàng hóa tồn kho có ba loại: nguyên vật liệu thô phục vụ cho quá trình
sản xuất, kinh doanh; sản phẩm dở dang và thành phẩm. Tuy nhiên nếu doanh
nghiệp ko tính toán kĩ càng mà để nguồn dự trữ này quá lớn sẽ gây ra tốn kém
về chi phí cũng như ứ đọng vốn còn nếu quá ít lại làm gián đoạn hoạt động
sản xuất kinh doanh gây ra hàng loạt những hệ quả xấu tiếp theo.
Thông thường dây chuyền sản xuất càng dài thì sẽ càng có nhiều công
đoạn, giữa những công đoạn này bao giờ cũng tồn tại những bán thành phẩm
nên càng nhiều công đoạn thi tồn kho trong quá trình sản xuất càng lớn. Sau
khi tiến hành sản xuất xong thì có thể vì nhiều lý do: độ “trễ” nhất định giữa
sản xuất và tiêu dùng hay có thể do phải đủ lô hàng mới xuất xưởng được
nên hầu như các doanh nghiệp đều chưa tiêu thụ hết sản phẩm. Từ đó ta thấy
những doanh nghiệp sản xuất mang tính thời vu hay quy trình chế tạo tốn
nhiều thời gian thì lượng dự trữ, tồn kho sản phẩm sẽ lớn
1.2.3.2 Quản lý tiền mặt
Quản lý tiền mặt chính là hình thức quản lý tiền giấy và tiền gửi ngân
hàng. Sự quản lý này gắn kết chặt chẽ với các loại tài sản liên quan đến tiền
mặt như các loại chứng khoán có khả năng thanh khoản cao. Các loại chứng
khoán này giữ vai trò như một bước đệm cho tiền mặt phòng trương hợp như
khi doanh nghiệp đã sử dụng hết lượng tiền mặt mình có để chi trả cho các
hóa đơn, họ phải bán các chứng khoán có tính thanh khoản cao này để có lại
được lượng tiền như ban đầu với chi phí chuyển đổi thấp và dễ dàng.
Chi phí cho việc lưu giữ tiền mặt ở đây chính là chi phí cơ hội, là lãi
suất mà doanh nghiệp bị mất đi. Chi phí đặt hàng chính là chi phí bán các
chứng khoán. Nếu lãi suất càng cao thì doanh nghiệp càng giữ ít tiền mặt và
ngược lại nếu chi phí cho việc bán chứng khoán càng cao thì họ càng giữ
nhiều tiền mặt.
Trong thực tiễn hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, lượng tiền

vào ra của doanh nghiệp thường rất lớn nhưng không đều đặn, không dự kiến
trước được nên chi phí cho việc mua bán chứng khoán sẽ trở nên rất nhỏ và
có thể diễn ra hàng ngaỳ ở các doanh nghiệp. Bằng việc nghiên cứu và phân
tích thực tiễn các nhà kinh tế học đã đưa ra mức dự trữ tiền mặt dự kiến dao
động trong một khoản tức là lượng tiền dự trữ sẽ biến thiên từ cận thấp nhất
đến giới hạn cao nhất. Nếu lượng tiền mặt ở dưới mức thấp (giới hạn duới) thì
doanh nghiệp phải bán chứng khoán để có lượng tiền mặt ở mức dự kiến,
ngược lại tại giới hạn trên doanh nghiệp sử dụng số tiền vượt quá mức giới
hạn mua chứng khoán để đưa lượng tiền mặt về mức dự kiến.
1.2.3.3 Quản lý các khoản phải thu
Để nâng cao tính cạnh tranh trên thị trường, các doanh nghiệp có thể sử
dụng chiến lược về chất lượng sản phẩm, về quảng cáo, về dịch vụ giao hàng
và các dịch vụ sau khi mua bán như vận chuyển, lắp đặt… Tuy nhiên, trong
nền kinh tế thị trường, việc mua bán chịu là một việc không thể thiếu. Tín
dụng thương mại có thể làm cho doanh nghiệp đứng vững trên thị trường
và trở nên giàu có nhưng cũng có thể đem đến những rủi ro cho hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Điều đó được thể hiện trên những nét cơ
bản sau:
- Tín dụng thương mại tác động đến doanh thu bán hàng. Do được trả
tiền chậm nên sẽ có nhiều khách hàng mua hàng hóa của doanh nghiệp
hơn, từ đó làm cho doanh thu tăng. Khi cấp tín dụng thương mại cho
khách thì doanh nghiệp bị chậm trễ trong việc trả tiền và vì tiền có giá trị
theo thời gian nên doanh nghiệp sẽ quy định giá cao hơn.
- Tín dụng thương mại làm giảm được chi phí tồn kho của hàng hóa
- Tín dụng thương mại làm cho tài sản cố định được sử dụng có hiệu
quả hơn và hạn chế phần nào về hao mòn vô hình
- Khi cấp tín dụng thương mại cho khách hàng có thể làm tăng chi
phí trong hoạt động của doanh nghiệp
- Tín dụng thương mại làm tăng chi phí đòi nợ, chi phí trả cho nguồn
tài trợ để bù đắp sự thiếu hụt ngân quỹ. Thời hạn cấp tín dụng càng dài thì

chi phí ròng càng lớn.
Xác suất không trả tiền của người mua làm cho lợi nhuận bị giảm,
nếu thời hạn cấp tín dụng càng dài thì rủi ro càng lớn. Với những tác động
nêu trên buộc các nhà quản lý phải so sánh giữa thu nhập và chi phí tăng
thêm, từ đó để quyết định có nên cấp tín dụng thương mại không? và các
điều khoản trong đó như thế nào cho phù hợp. Thực tiễn cho thấy doanh
thu có khuynh hướng tăng lên khi các tiêu chuẩn tín dụng được nới lỏng.
1.3 Phương pháp đánh giá chất lượng hoạt động quản trị tài chính
doanh nghiệp
1.3.1 Tổng quan phương pháp đánh giá chất lượng quản trị tài chính
doanh nghiệp
Phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến trong phân tích tài
chính là phương pháp so sánh trong đó phương pháp cụ thể là phương pháp
tỉ số. Phương pháp tỉ số là phương pháp trong đó các tỉ số được sử dụng để
phân tích. Đó là các tỉ số đơn được thiết lập bởi chỉ tiêu này so với chỉ tiêu
khác. Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều kiện áp dụng
ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. Bởi lẽ, thứ nhất: Nguồn thông tin
kế toán và tài chính được cải tiến và được cung cấp đầy đủ hơn. Đó là cơ
sở để hình thành những tỉ lệ tham chiếu tin cậy cho việc đánh giá một tỉ số
của một doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp; thứ hai: Việc áp dụng
công nghệ tin học cho phép tích lũy dữ liệu và thúc đẩy nhanh quá trình
tính toán hàng loạt các tỉ số; thứ ba: Phương pháp phân tích này giúp nhà
phân tích khai thác có hiệu quả những số liệu và phân tích một cách hệ
thống hàng loạt tỉ số theo chuỗi thời gian liên tục hoặc theo từng giai đoạn.
Về nguyên tắc, với phương pháp tỉ số, cần xác định được các ngưỡng,
các tỉ số tham chiếu. Để đánh giá tình trạng tài chính của một doanh nghiệp
cần so sánh các tỉ số của doanh nghiệp với các tỉ số tham chiếu. Như vậy,
phương pháp so sánh luôn được sử dụng kết hợp với các phương pháp phân
tích tài chính khác. Khi phân tích, nhà phân tích thường so sánh theo thời
gian (so sánh kì này với kì trước) để nhận biết xu hướng thay đổi tình hình

tài chính của doanh nghiệp theo không gian (so sánh với mức trung bình
ngành) để đánh giá vị thế của doanh nghiệp trong ngành.
1.3.2. Phân tích khả năng thanh toán
Đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các
khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp
a) Tỷ số khả năng thanh toán hiện thời
Tỷ số khả năng thanh toán hiện thời
=
Tài sản ngắn hạn
Nợ ngắn hạn
• Ý nghĩa :
Một đồng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp được tài trợ bởi bao nhiêu
đồng Tài sản ngắn hạn. Qua đó, cho biết khái quát khả năng của doanh nghiệp
trong việc thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của mình.
b) Tỷ số khả năng thanh toán nhanh
Tỷ số khả
năng thanh
= (Tiền + Đầu tư Tài chính ngắn hạn + Phải thu ngắn hạn)
toán nhanh
Nợ ngắn hạn
• Ý nghĩa :
Một đồng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp được tài trợ bởi bao nhiêu
đồng tài sản có tính thanh khoản cao (tức là, tài sản có thể nhanh chóng
chuyển đổi thành tiền phục vụ cho việc thanh toán). Qua đó, cho biết khả
năng của doanh nghiệp trong việc nhanh chóng thanh toán các khoản nợ ngắn
hạn của mình.
c) Tỷ số khả năng thanh toán tức thời
Tỷ số khả năng thanh toán tức thời
=
Tiền

Nợ ngắn hạn
• Ý nghĩa :
Một đồng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp được tài trợ bởi bao nhiêu
đồng tài sản tiền (là loại tài sản có thể ngay lập tức sử dụng phục vụ cho việc
thanh toán). Qua đó, cho biết khả năng của doanh nghiệp trong việc ngay lập
tức thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của mình.
•Các tỷ số trên có thể so sánh với:
+ 1
+ Số kỳ trước
+ Số trung bình ngành
Tỷ số càng cao → Khả năng thanh toán càng tốt.
1.3.3 Phân tích cơ cấu tài chính
Chỉ tiêu này phản ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả
năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp
a)Tỷ số nợ trên tổng tài sản (hệ số nợ)
Tỷ số nợ trên tổng tài sản (hệ số nợ)
=
Nợ phải trả
Tổng tài sản
•Ý nghĩa :
Trung bình cứ trong 100 đồng tài sản mà doanh nghiệp đang có, thì có
bao nhiêu đồng vốn doanh nghiệp có được là từ việc đi vay mượn.
b)Tỷ số vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản
Tỷ số vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản
=
Vốn chủ sở hữu
Tổng tài sản
•Ý nghiã:
Trung bình cứ trong 100 đồng tài sản mà doanh nghiệp đang có, thì có
bao nhiêu đồng vốn doanh nghiệp có được không phải là từ việc đi vay mượn.

• Các tỉ số trên so sánh với:
+ Số kỳ trước
+ Số trung bình ngành
Hệ số nợ càng cao, hệ số vốn chủ sở hữu càng thấp → Mức độ lệ thuộc
về mặt tài chính vào bên ngoài càng cao, khả năng tự chủ về mặt tài chính
càng thấp.
c)Tỷ số nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu
Tỷ số nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu
=
Nợ phải trả
Vốn chủ sở hữu
•Ý nghĩa:
Trung bình ứng với một đồng vốn mà chủ sở hữu doanh nghiệp phải tự
mình bỏ ra, doanh nghiệp phải đi vay mượn thêm bao nhiêu đồng vốn nữa thì
mới đáp ứng đủ nhu cầu vốn kinh doanh.
•Các tỉ số trên so sánh với:
+ 1
+ Số kỳ trước
+ Số trung bình ngành
Tỷ số càng cao → Mức độ lệ thuộc về mặt tài chính vào bên ngoài càng
cao, khả năng tự chủ về mặt tài chính càng thấp.
d) Tỷ số khả năng thanh toán lãi vay
Tỷ số khả năng thanh toán lãi vay
=
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
Lãi vay
* Ý nghĩa:
Một đồng chi phí lãi vay mà doanh nghiệp phải trả trong kỳ được tài trợ bởi
bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế và lãi.
* Các tỉ số trên so sánh với:

+ 1
+ Số kỳ trước
+ Số trung bình ngành
TIE càng cao → càng tốt.
TIE < 1 → DN làm ăn thua lỗ
1.3.4 Phân tích khả năng hoạt động
Đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho việc sử dụng tài nguyên, nguồn lực
của doanh nghiệp
a) Hiệu suất hàng tồn kho
Hiệu suất hàng tồn kho
=
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho bình quân
* Ý nghĩa :
- Trong kỳ đã qua, trung bình một đồng vốn mà doanh nghiệp đầu tư
vào hàng tồn kho hoàn thành được bao nhiêu vòng chu chuyển.
* Các tỉ số trên so sánh với:
+ Số kỳ trước
+ Số trung bình ngành
- Tỷ số càng cao → càng tốt.
b)Kỳ thu tiền trung bình
Kỳ thu tiền trung bình
=
Khoản phải thu bình quân
Doanh thu thuần bình quân ngày
• Ý nghĩa:
Chỉ tiêu này cho biết bình quân độ dài thời gian tính từ khi doanh nghiệp
giao hàng cho đến khi doanh nghiệp nhận được tiền hàng trong kỳ đã qua.
• Các tỉ số trên so sánh với:
+ Số kỳ trước

+ Số trung bình ngành
Tỷ số càng nhỏ → Càng nhanh thu được tiền hàng.
c)Hiệu suất tài sản cố định
Hiệu suất tài sản cố định
=
Doanh thu thuần
Tài sản cố định ròng bình quân
* Ý nghĩa:
- Trong kỳ đã qua, trung bình một đồng vốn mà doanh nghiệp đầu tư vào
tài sản cố định hoàn thành được bao nhiêu vòng chu chuyển.
- Trong kỳ đã qua, trung bình một đồng tài sản cố định tạo ra được bao
nhiêu đồng doanh thu thuần.
* Các tỉ số trên so sánh với:
+ Số kỳ trước
+ Số trung bình ngành
Tỷ số càng cao → càng tốt.
d) Hiệu suất tổng tài sản
Hiệu suất tổng tài sản
=
Doanh thu thuần
Tổng tài sản bình quân
* Ý nghĩa:
- Trong kỳ đã qua, trung bình một đồng vốn mà doanh nghiệp đầu tư vào
sản xuất kinh doanh hoàn thành được bao nhiêu vòng chu chuyển.
- Trong kỳ đã qua, trung bình một đồng tài sản tạo ra được bao nhiêu
đồng doanh thu thuần.
* Các tỉ số trên so sánh với:
+ Số kỳ trước
+ Số trung bình ngành
Tỷ số càng cao → càng tốt.

1.3.5 Phân tích khả năng sinh lợi
Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiêu quả sản xuất- kinh doanh tổng hợp
nhất của một doanh nghiệp
a) Tỷ suất doanh lợi doanh thu
Tỷ suất doanh lợi doanh thu
=
Lợi nhuận sau thuế
Doanh thu thuần
• Ý nghĩa:
Trong kỳ đã qua, trung bình cứ trong 100 đồng doanh thu thuần thì có
bao nhiêu đồng là lợi nhuận sau thuế.
b) Tỷ số khả năng sinh lời cơ bản của tài sản
Tỷ số khả năng sinh lời cơ bản
của tài sản
=
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
Tổng tài sản bình quân
• Ý nghĩa:
Trong kỳ đã qua, trung bình một đồng tài sản của doanh nghiệp tạo ra
được bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế và lãi vay.
c) Tỷ suất doanh lợi tổng tài sản
Tỷ suất doanh lợi tổng tài sản
=
Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản bình quân
• Ý nghĩa :
Trong kỳ đã qua, trung bình một đồng tài sản của doanh nghiệp tạo ra
được bao nhiêu đồng thu nhập cho những người chủ sở hữu.
d) Tỷ suất doanh lợi Vốn chủ sở hữu
Tỷ suất doanh lợi Vốn chủ sở hữu

=
Lợi nhuận sau thuế
Vốn chủ sở hữu bình quân
• Ý nghĩa:
Trong kỳ đã qua, trung bình một đồng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp
tạo ra được bao nhiêu đồng thu nhập cho những người chủ sở hữu.
e) Tỷ suất sinh lợi vốn cổ phần thường
Tỷ suất sinh lợi
vốn cổ phần
thường
=
(Lợi nhuận sau thuế - Cổ tức trả cho cổ đông ưu đãi)
Vốn cổ phần thường bình quân
• Ý nghĩa:
Trong kỳ đã qua, trung bình một đồng vốn cổ phần thường tạo ra được
bao nhiêu đồng thu nhập cho các cổ đông thường của doanh nghiệp.
f) Thu nhập một cổ phần thường
Thu nhập một
cổ phần thường
=
(Lợi nhuận sau thuế - Cổ tức trả cho cổ đông ưu đãi)
Số cổ phần thường lưu hành bình quân
• Ý nghĩa :
Trong kỳ đã qua, trung bình ứng với một cổ phiếu thường được doanh
nghiệp sử dụng để huy động vốn, doanh nghiệp tạo ra được bao nhiêu đồng
thu nhập cho những người chủ sở hữu.
• Các tỉ số trên so sánh với:
+ Số kỳ trước
+ Số trung bình ngành
Tỷ số càng cao → càng tốt.

1.3.6 Hạn chế của phương pháp nghiên cứu
1.3.6.1 Chất lượng thông tin sử dụng
Chất lượng thông tin mà cụ thể là chất lượng báo cáo tài chính được
chọn lọc và đưa ra một cách chính xác, đầy đủ chính là yếu tố quan trọng
hàng đầu quyết định chất lượng phân tích tài chính, đây là điều kiện tiên
quyết giúp nhà quản lý đưa ra quyết định chuẩn xác và đúng thời điểm bởi
một khi thông tin sai lệch, không đúng thì kết quả mà phân tích tài chính đem
lại cũng sẽ không đúng, không có ý nghĩa gì.
Căn cứ vào những thông tin nội bộ trực tiếp phản ánh tình hình tài chính
doanh nghiệp đến những thông tin bên ngoài liên quan đến môi trường kinh
tế, chính trị của doanh nghiệp, nhà quản lý sẽ đánh giá được tình hình tài
chính doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và dự đoán xu hướng phát triển
trong thời gian sau đó.
Nền kinh tế của toàn thế giới luôn biến chuyển không ngừng nghỉ,
tác động liên tục đến điều kiện kinh doanh của doanh nghiệp. Thêm nữa, theo
thời gian giá trị của tiền sẽ bị thay đổi. Chính bởi vậy, sự kịp thời, giá trị dự
đoán sẽ là điểm cần thiết để làm nên sự phù hợp của thông tin. Chất lượng
phân tích tài chính doanh nghiệp sẽ hoàn toàn dựa vào sự phù hợp và độ tin
cậy của thông tin mà nhà quản lý nhận được.
1.3.6.2 Trình độ cán bộ phân tích
Dù đã có được một lượng thông tin dồi dào và chính xác nhưng việc tập
hợp và xử lý thông tin để đưa lại kết quả phân tích tài chính có chất lượng cao
lại là điều không đơn giản. Bởi vậy, trình độ của cán bộ thực hiện phân tích là
điều rất quan trọng. Từ các thông tin thu thập được, các cán bộ phân tích phải
tính toán các chỉ tiêu, thiết lập các bảng biểu từ đó phải gắn kết, tạo lập mối
liên hệ giữa các chỉ tiêu, kết hợp với các thông tin về điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể của doanh nghiệp để lý giải tình hình tài chính của doanh nghiệp, xác định
các điểm mạnh, yếu cũng như nguyên nhân dẫn đến điểm yếu trên. Chính tầm
quan trọng và sự phức tạp của phân tích tài chính đòi hỏi cán bộ phân tích
phải có trình độ chuyên môn cao.

1.3.6.3 Hệ thống các chỉ tiêu trung bình ngành
Tỷ lệ tài chính của một doanh nghiệp được coi là cao hay thấp, tốt hay
xấu bằng cách đem so sánh với các tỷ lệ tương ứng của doanh nghiệp khác có
đặc điểm và điều kiện sản xuất kinh doanh tương tự mà đại diện ở đây là chỉ
tiêu trung bình ngành. Thông qua việc này, người lãnh đạo sẽ biết được vị thế
của doanh nghiệp mình để từ đó đánh giá chính xác thực trạng tài chính
vàhiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mình.
1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động
quản trị tài chính
1.4.1 Các yếu tố khách quan
1.4.1.1 Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế chính là một yếu tố không nhỏ tác động đến mọi hoạt
động của doanh nghiệp mà cụ thể là hoạt động tài chính. Doanh nghiệp sẽ
phải chịu các yếu tố tác động như yếu tố lạm phát, tỉ giá hối đoái, giá cả thị
trường, lãi suất, tiền thuế, GDP, tiền lương, thu nhập và còn cả sự cạnh tranh
trên thị trường, sự tiến bộ của công nghệ.
Những biến động của các yếu tố này có thể tạo ra những lợi ích nhưng
cũng có thể mang đến khó khăn cho doanh nghiệp. Việc của các nhà quản lý
doanh nghiệp phải làm là theo dõi sát sao, phân tích kĩ lưỡng từ đó đó đưa ra
những dự báo về sự thay đổi của từng yếu tố từ đó tìm ra những giải pháp kịp
thời nhằm tận dụng, khai thác triệt để những cơ hội đồng thời giảm thiểu
những rủi ro.
1.4.1.2 Môi trường chính trị và luật pháp

×