Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Giáo dục đạo đức mới với sự hình thành, phát triển nhân cách thế hệ trẻ ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 115 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ





VŨ THỊ HUÊ






GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC MỚI VỚI SỰ HÌNH THÀNH,
PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH THẾ HỆ TRẺ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY







LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC















HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




VŨ THỊ HUÊ




GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC MỚI VỚI SỰ HÌNH THÀNH,
PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH THẾ HỆ TRẺ
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY





LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC




Chuyên ngành: Triết học
Mã số : 60 22 80





Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN THẾ KIỆT









HÀ NỘI - 2012
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1. ĐẠO ĐỨC MỚI, TẦM QUAN TRỌNG CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC
MỚI TRONG VIỆC HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH THẾ
HỆ TRẺ 8
1.1. Nhân cách và những nhân tố tác động đến sự hình thành, phát triển
nhân cách thế hệ trẻ 8
1.1.1. Nhân cách và tính quy luật của sự hình thành nhân cách 8
1.1.2. Những nhân tố tác động đến sự hình thành, phát triển nhân
cách thế hệ trẻ 22

1.2. Đạo đức mới và vai trò của giáo dục đạo đức mới trong việc hình
thành phát triển nhân cách đối với thế trẻ hiện nay 36
1.2.1. Đạo đức mới, giáo dục đạo đức mới 36
1.2.2. Vai trò và nội dung của giáo dục đạo đức mới trong việc hình
thành phát triển nhân cách đối với thế hệ trẻ hiện nay 46
Chương 2. GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC MỚI TRONG VIỆC HÌNH THÀNH, PHÁT
TRIỂN NHÂN CÁCH THẾ HỆ TRẺ HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP 66
2.1. Thực trạng giáo dục đạo đức mới trong việc hình thành, phát triển
nhân cách thế hệ trẻ hiện nay ở Việt Nam và nguyên nhân của nó 66
2.1.1. Những thành tựu đạt được trong công tác giáo dục đạo đức mới
với việc hình thành, phát triển nhân cách thế hệ trẻ hiện nay 66
2.1.2. Một số hạn chế trong công tác giáo dục đạo đức mới với việc
hình thành và phát triển nhân cách cho thanh niên, sinh viên trong
các trường đại học ở Hà Nội hiện nay 72
2.1.3. Nguyên nhân của thực trạng trên 77
2.2. Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả giáo
dục đạo đức mới với việc hình thành, phát triển nhân cách cho thế
hệ trẻ hiện nay ở Việt Nam 79
2.2.1. Phương hướng 79
2.2.2. Một số giải pháp chủ yếu nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức
mới với việc hình thành, phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ hiện
nay ở Việt Nam 87
KẾT LUẬN 104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 106


1
MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Một năm khởi đầu từ mùa
xuân. Một đời khởi đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”. Nếu
không có tuổi trẻ, sẽ không có sự phát triển nối tiếp lịch sử của mỗi quốc gia,
dân tộc cũng như không có sự phát triển của nhân loại. Kế thừa và vận dụng
sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta khảng định: “Thanh niên là rường
cột của nước nhà, chủ nhân tương lai của đất nước, là lực lượng xung kích
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, một trong những nhân tố quyết định sự
thành bại của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hội nhập
quốc tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Trong mọi thời kỳ cách mạng, Đảng
Cộng sản Việt Nam luôn luôn coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ
cả về trình độ học vấn, chuyên môn đến lý tưởng cách mạng, bản lĩnh chính
trị, đạo đức v.v để tuổi trẻ trở thành người chủ tương lai của dân tộc vừa
“hồng” vừa “chuyên”, là lớp người xứng đáng kế tục sự nghiệp cách mạng
của Đảng, của dân tộc vì mục tiêu “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Do
đó, Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và
rất cần thiết”.
Hiện nay, nước ta đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO). Nền kinh tế nước ta ngày càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế
thế giới. Cơ cấu xã hội cũng đang trong quá trình biến đổi. Phân hóa giàu
nghèo,phân tầng xã hội diễn ra phức tạp. Tình hình trên đã và đang tác động
đến thế hệ trẻ về ý thức chính trị, tâm trạng, đạo đức lối sống v.v Quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng chủ nghĩa xã hội, mở cửa hội nhập quốc tế đang làm cho những tác
động đó ngày càng mạnh mẽ và sâu rộng hơn.

2
Trải qua hơn 25 năm đổi mới, những thành tựu đạt được trong mọi lĩnh
vực đã tác động tích cực đến thanh niên, tạo điều kiện cho họ tiến bộ về chính
trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, trình độ học vấn, khoa học công nghệ. Thanh

niên đã kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của Đảng. Trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội đã và đang xuất hiện những nhà quản lý, nhà doanh
nghiệp, nhà khoa học, nhà hoạt động nghệ thuật có đức, có tài trong độ tuổi
thanh niên. Nét nổi bật của thanh niên nước ta là ý chí vươn lên, tinh thần cần
cù, sáng tạo trong lao động sản xuất, ham mê nghiên cứu và ứng dụng khoa
học công nghệ để thoát nghèo nàn, lạc hậu, làm giàu cho bản thân gia đình và
xã hội.
Có thể nói, đại bộ phận thanh niên cơ bản giữ vững đạo đức cách mạng,
sống trong sạch, giản dị, lành mạnh, biết vươn tới các giá trị chân, thiện, mĩ.
Thanh niên sống có hoài bão, có lý tưởng, có niềm tin tương lai tươi sáng của
dân tộc. Họ dám đấu tranh để bảo vệ cái đúng, bảo vệ lẽ phải, bảo vệ sự công
bằng, lên án cái xấu, cái ác như tham nhũng, lãng phí Những tấm gương cao
đẹp hy sinh thân mình vì hạnh phúc của nhân dân luôn được tuổi trẻ ngưỡng
mộ, học tập và làm theo. Điều đó cho thấy, thanh niên nước ta hiện nay vẫn ý
thức rõ trách nhiệm trước Tổ quốc và nhân dân, mong muốn được đóng góp
vào công cuộc xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn như Bác Hồ
kính yêu hằng mong ước.
Tuy nhiên, mặt trái của kinh tế thị trường, những thách thức của hội
nhập quốc tế, cùng với những âm mưu thủ đoạn nham hiểm của các thế lực
thù địch đang tác động mạnh mẽ đến thanh niên, khiến cho không ít người
chạy theo lối sống thực dụng, sa ngã, hư hỏng, xa rời các giá trị đạo đức tốt
đẹp của dân tộc, có thái độ thờ ơ, bàng quan trước các sự kiện kinh tế, chính
trị của đất nước. Một số thanh niên mơ hồ về bản chất, âm mưu, thủ đoạn của
kẻ thù. Điều nguy hiểm hiện nay là đã xuất hiện bộ phận thanh niên tôn thờ
chủ nghĩa cá nhân, sống ích kỷ, chạy theo lợi ích vật chất, coi trọng đồng tiền
là trên hết. Cá biệt có một số thanh niên vi phạm vào các tệ nạn xã hội, vi

3
phạm pháp luật. Nhiều vụ án được khám phá trong thời cho thấy tỉ lệ tội
phạm trong thanh niên có chiều hướng gia tăng. Tại Đại hội X Đảng ta chỉ rõ:

“Tình trạng suy thoái xuống cấp về đạo đức, lối sống, sự gia tăng tệ nạn xã
hội và tội phạm đáng lo ngại nhất là trong lớp trẻ” [16, tr.172-173]. Vậy tại
sao trong bộ phận thế hệ trẻ hiện nay lại có sự sa sút về phẩm chất đạo đức,
lối sống, ý thức pháp luật như vậy. Làm thế nào để khắc phục tình trạng trên.
Làm sao xã hội phải giáo dục bồi dưỡng thế hệ trẻ vươn lên để trở thành
những con người phát triển về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về
tinh thần, trong sáng về đạo đức có một nhân cách phát triển toàn diện, là
động lực cho sự phát triển xã hội Việt Nam? Đây là tình huống có vấn đề mà
trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội chúng ta phải chú ý giáo dục, xây
dựng. Trong các nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển nhân cách
của thế hệ trẻ thì giáo dục đạo đức mới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi
chính thông qua giáo dục đạo đức mới sẽ góp phần quan trọng vào việc hình
thành trong mỗi con người những phẩm chất đạo đức trong sáng, một nhân
sinh quan sống tích cực, giúp thế hệ trẻ đứng vững trên mặt trận văn hóa, tư
tưởng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, hội nhập quốc tế hiện nay.
Tất cả những điều trình bày trên đây là những lý do tôi chọn đề tài:
“Giáo dục đạo đức mới với sự hình thành, phát triển nhân cách thế hệ trẻ ở
Việt Nam hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thời gian gần đây có nhiều công trình bài viết, nhiều công trình nghiên
cứu liên quan đến đề tài. Tiêu biểu là một số công trình sau đây:
Một số đề tài nghiên cứu các vấn đề có liên quan đến đạo đức và giáo
dục đạo đức:
Đề tài cấp Đại học Quốc gia Hà Nội (2003), “Đạo đức thế hệ trẻ trong
quá trình chuyển hóa sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam - thực trạng vấn đề và giải pháp”; Thái Duy Tuyên chủ biên (Hà
Nội, 1994), “Tìm hiểu định hướng giá trị của Thanh niên Việt Nam trong điều

4
kiện kinh tế thị trường”; Mạc Văn Trang chủ nhiệm (1995), “Đặc điểm lối

sống sinh viên hiện nay và những phương hướng, biện pháp giáo dục lối sống
cho sinh viên” (mã số B94- 38 - 32 ); Bùi Văn Huệ (1996) “Một số suy nghĩ
về giáo dục nhân cách cho giáo sinh ở các trường Sư phạm” tạp chí Đại học
và giáo dục chuyên nghiệp số 7; Vương Thị Bích Thuỷ (2000) “Kế thừa và
phát huy các giá trị văn hoá truyền thống trong bối cảnh toàn cầu hoá” Tạp
chí lý luận; Phạm Huy Thành (2009), “Vấn đề xây dựng đạo đức mới cho thế
hệ trẻ Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay”.
Các công trình nghiên cứu nhân cách, nhân cách thanh niên, nhân cách
thế hệ trẻ, xây dựng bồi dưỡng nhân cách cho thế hệ trẻ:
Mạc Văn Trang (1992) “Những phẩm chất nhân cách cần giáo dục cho
sinh viên” Tạp chí Nghiên cứu Đại học và chuyên nghiệp, số 4; Đỗ Huy
(1993) “Thẩm định những chuẩn mực giá trị trên bình diện nhân cách” tạp chí
Triết học số 3; Nguyễn Quang Uẩn chủ biên (1995), “Giá trị - định hướng giá
trị nhân cách và giáo dục giá trị”; Lê Đức Phúc (1995) “Hình thành và phát
triển nhân cách trong kinh tế thị trường” tạp chí Cộng sản số 6; GS Lê Thi
(1997) “Vai trò gia đình trong việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam”;
Đặng Cảnh Khanh (2000) “Vấn đề toàn cầu hoá và thế hệ trẻ Việt Nam hiện
nay” Tạp chí Cộng sản, Luận án TS của Đặng Thành Quang (2005), “Xây
dựng lối sống có văn hoá cho thanh niên thành phố trong công cuộc đổi mới
theo định hướng xã hội chủ nghĩa”; Trần Văn Miều (2007) “Bồi dưỡng đạo
đức cách mạng cho thế hệ trẻ” Tạp chí xây dựng Đảng.
Hoàng Đức Nhuận chủ biên (1995), “Kết quả điều tra về vai trò của
nhà trường trong việc hình thành và phát triển nhân cách con người Việt
Nam”; Nguyễn Trọng Bảo chủ biên (1996), “Gia đình, nhà trường, xã hội với
việc phát hiện, tuyển chon, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ người tài”;
Đỗ Huy (2002), “Cơ chế, chuẩn mực đạo đức xã hội và những hành vi đạo
đức cá nhân”, Tạp chí Triết học,

5
Các công trình nghiên cứu giá trị giáo dục đạo đức với việc phát triển

nhân cách sinh viên.
Luận án Tiến sĩ: “Giáo dục đạo đức với sự hình thành và phát triển
nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Trần Sỹ
Phán (2000).
Luận án Tiến sĩ: “Vai trò của đạo đức đối với sự hình thành nhân cách
của con người Việt Nam trong điều kiện đổi mới hiện nay” của Lê Thị Thủy
(2000).
Luận văn Thạc sĩ “Giá trị văn hóa tinh thần truyền thống với việc bồi
dưỡng nhân cách cho sinh viên Việt Nam hiện nay” của Hà Thị Thùy Dương
(2001).
Luận án Tiến sĩ Triết học “Giáo dục lý luận Mác-Lênin với việc hình
thành và phát triển nhân cách ở sinh viên Việt Nam hiện nay” của Hoàng Anh
(2006).
Qua những tài liệu tìm được, vấn đề giáo dục đạo đức mới với việc
hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ hiện nay vẫn là khoảng đất
trống. Và thực tế chúng tôi thấy, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách
có hệ thống và khảo sát trực tiếp giáo dục đạo đức mới với sự hình thành và
phát triển nhân cách thế hệ trẻ hiện nay ở Việt Nam.
Đề tài luận văn này hy vọng có được những đóng góp vào việc nghiên
cứu làm rõ vấn đề này. Tác giả luôn ý thức đây là một vấn đề quan trọng và
một hướng nghiên cứu mới cần đi sâu. Những thành tựu nghiên cứu cũng như
những giá trị khoa học nhiều mặt của các công trình được công bố trong và
ngoài nước là tài liệu quý cho tôi tham khảo kế thừa trong quá trình nghiên
cứu đề tài luận văn này.

6
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Góp phần làm sáng tỏ vai trò và thực trạng của giáo dục đạo đức mới
trong sự hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ hiện nay ở Việt Nam, từ

đó đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu
quả giáo dục đạo đức mới với việc hình thành, phát triển nhân cách của đối
tượng này ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ luận văn
- Làm rõ vai trò của giáo dục đạo đức mới trong việc hình thành phát
triển nhân cách thế hệ trẻ.
- Làm rõ thực trạng giáo dục đạo đức mới trong việc hình thành, phát
triển nhân cách thế hệ trẻ hiện nay ở Việt Nam và nguyên nhân của nó.
- Đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
hiệu quả giáo dục đạo đức mới với việc hình thành, phát triển nhân cách của
thế hệ trẻ hiện nay ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Thế hệ trẻ là một khái niệm rộng chỉ lực lượng xã hội đông đảo ở
nhiều lứa tuổi nhưng luận văn chủ yếu nghiên cứu ở nhóm từ 16 đến 30 tuổi.
Do đó, khi nói sự hình thành, phát triển nhân cách thế hệ trẻ chính là đề cập
sự hình thành và phát triển nhân cách ở những người thuộc độ tuổi này.
- Việc khảo sát những tác động của giáo dục đạo đức mới với sự hình
thành, phát triển nhân cách thế hệ trẻ Việt Nam cũng tập trung chủ yếu trong
giai đoạn từ 1986 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về thanh niên, về vấn đề
đạo đức và giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ.

7
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của Chủ
nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử, các phương pháp lịch
sử và logic, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh, phương pháp điều

tra xã hội học nhằm thực hiện mục đích mà đề tài đặt ra.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ mối quan hệ nội tại giữa đạo đức mới -
nhân cách, là cơ sở khoa học để luận giải vai trò và thực trạng của giáo dục
đạo đức mới trong sự hình thành và phát triển nhân cách thế hệ trẻ hiện nay.
Luận văn đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục đạo đức mới với việc hình thành, phát triển nhân cách cho thế hệ trẻ
hiện nay.
* Ý nghĩa thực tiễn của luận văn:
Kết quả nghiên cứu của luận văn này có thể sử dụng làm tài liệu tham
khảo trong giảng dạy và nghiên cứu triết học về vấn đề đạo đức, nhân cách,
con người ở các trường Đại học, Cao đẳng, trường Chính trị Tỉnh, Thành phố
cũng như ở các cơ quan làm công tác tư tưởng văn hoá, các đối tượng quan
tâm đến đề tài.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 2 chương, 4 tiết:
Chương 1: Đạo đức mới, tầm quan trọng của giáo dục đạo đức mới
trong việc hình thành, phát triển nhân cách thế hệ trẻ.
Chương 2: Giáo dục đạo đức mới trong việc hình thành, phát triển
nhân cách thế hệ trẻ hiện nay - thực trạng và giải pháp.

8
Chương 1
ĐẠO ĐỨC MỚI, TẦM QUAN TRỌNG
CỦA GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC MỚI TRONG VIỆC HÌNH THÀNH,
PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH THẾ HỆ TRẺ

1.1. Nhân cách và những nhân tố tác động đến sự hình thành, phát
triển nhân cách thế hệ trẻ

1.1.1. Nhân cách và tính quy luật của sự hình thành nhân cách
1.1.1.1. Khái niệm nhân cách
Ngay từ thời cổ đại, Arixtot (384 - 322) đã cho rằng con người là “một
động vật chính trị”. Ở đây, bước đầu ông đã thấy được vai trò của xã hội, của
giáo dục đạo đức tác động đến sự hình thành và phát triển của con người như
là một nhân cách.
Thuật ngữ nhân cách với ý nghĩa khoa học xuất hiện đầu tiên trong tâm
lý học phương Tây vào thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Khi đó người ta quan
niệm “nhân cách là cái mặt nạ có tính chất xã hội của cái tôi bên trong. Khi
nào cái mặt nạ đó trùng với cái tôi thì nhân cách phát triển chín muồi” [34].
Cho đến nay khái niệm nhân cách được hiểu theo nhiều nghĩa khác
nhau do sự khác nhau về cách tiếp cận, về lập trường quan điểm và khuynh
hướng nghiên cứu. Có thể nêu một số quan điểm tiêu biểu như:
Quan niệm sinh vật hóa về nhân cách
Tiêu biểu cho khuynh hướng này là lý luận về nhân cách trong học
thuyết phân tâm của S.Freud (1856-1939). Theo Freud: Bản chất nhân cách là
thuộc tính sinh vật hay sinh vật hóa thuộc tính nhân cách Từ đó, ông đưa ra
định nghĩa: Nhân cách là những tình cảm, những cố gắng và những tư tưởng
phát sinh từ những mâu thuẫn giữa tính hiểu chiến của chúng ta, động cơ thúc
đẩy việc tìm kiếm để thỏa mãn nhu cầu một cách sinh học và sự kiềm chế xã
hội chống lại chúng [26, tr.345].

9
Những nhà khoa học phát triển học thuyết phân tâm của Freud cũng
đưa ra một số quan niệm khác nhau về nhân cách.
Theo thuyết “siêu đẳng bù trừ” của Adler, nhân cách là sự vươn lên
mức hoàn thiện vì con người luôn có mặc cảm kém cỏi. Sự cố gắng vươn lên
ấy làm cho một số người trở thành ưu việt hơn người khác. Lòng mong muốn
trội hơn người khác, muốn có quyền uy đối với người khác được xem là
những đức tính bẩm sinh quy định nhân cách của con người.

Theo mô hình phân biểu học của Jung (1876-1961), nhà tâm lý học Thụy
Điển, đặc trưng của nhân cách trước hết là xúc cảm và tình cảm. Ông cho rằng,
đặc điểm thể tạng và đặc điểm sinh lý là nhân tố quy định nhân cách.
Trong nghiên cứu của nhà tâm lý học hành vi K.Lewin, nhân cách được
xem như là” trường tâm lý bên trong” của con người [9, tr.73].
Có thể liệt kê rất nhiều quan niệm về nhân cách theo nhiều khuynh
hướng khác nhau của các nhà tâm lý học phương Tây. Những điểm chung
trong các quan niệm của họ là: nhân cách dường như là những biểu hiện,
những trạng thái, quá trình thuộc về yếu tố sinh học. Họ gần như phủ nhận
vai trò của yếu tố xã hội hoặc không đánh giá đúng tác động của những yếu
tố đó.
Chúng tôi cho rằng, nhân cách hiểu theo nghĩa chung nhất là sự biểu
hiện Người của con người. Bản chất con người mang tính xã hội (với nghĩa,
tính xã hội là chỗ phân biệt con người với sinh vật khác, giữa nhân tính và thú
tính), thì nhân cách là trình độ xã hội hóa, là chất lượng xã hội mà mỗi cá thể
người thẩm thấu, chuyển hóa trong quá trình tham gia vào đời sống xã hội. Vì
vậy, không thể quan niệm nhân cách chỉ thuộc về cái sinh học. Không ai có
thể hình dung được “nhân cách của một con vật” hay “nhân cách của một đứa
trẻ sơ sinh”. Mặc dù, đứa trẻ, ngay từ khi mới sinh ra đã là một con người với
tất cả những đặc điểm, những yếu tố của sự phát triển theo quy luật sinh học.

10
Quan niệm xã hội hóa nhân cách
Đối lập với khuynh hướng sinh vật hóa nhân cách là khuynh hướng xã
hội hóa nhân cách. Theo khuynh hướng này nhân cách, bản chất, bản tính của
con người không liên hệ với tồn tại của nó về mặt sinh học. Những đại biểu
của trường phái này coi nhân cách của con người là sản phẩm thuần túy của
kinh tế, văn hóa, xã hội. Trên thực tế, họ gần như phủ nhận vai trò của yếu tố
sinh học trong sự phát triển của con người và nhân cách. Một số tác giả thuộc
trường phái xã hội học Pháp (E.Đuyêcơhem), giải thích những hành vi của

con người bằng nguyên nhân tư tưởng , bằng ý thức xã hội, đã tuyệt đối hóa
những nhân tố xã hội trong việc xác định sự phát triển tâm lý và tinh thần của
con người.
Nhà triết học người Đức M.Seele là một đại biểu tiêu biểu của triết học
nhân bản Tư sản cuối thế kỷ XX. Trong quan niệm của ông, con người trước
hết là một bản thể tinh thần. Mà tinh thần - theo ông lại ở ngoài sự sống. Quan
điểm lý luận của M. Seele đã coi con người là bản thể tinh thần trừu tượng và
đem quy những quan hệ hiện thực phong phú của con người với thế giới bên
ngoài thành quan hệ tinh thần.
Những đại biểu của chủ nghĩa nhân học triết học dù xem xét con người
dưới góc nào thì trong quan niệm của họ con người vẫn là một thực thể trừu
tượng, phi xã hội, phi lịch sử với một bản chất vĩnh hằng. Họ quan niệm nhân
cách là một cách tiên nghiệm xuất phát từ tinh thần. Thực chất đó là một thứ
siêu hình học, là sự siêu nghiệm hóa tinh thần của hiện thực. Nó cũng đối lập
với quan niệm Mác xít về con người và nhân cách [78, tr.116].
Họ không thấy rằng các hiện tượng tâm lý, ý thức của con người có
nguồn gốc sinh học, từ các yếu tố trong chương trình di truyền. Họ tuyệt đối
hóa tác động của môi trường sống, hoàn cảnh xã hội và giáo dục đến mức cho
rằng chỉ có hoàn cảnh mới quyết định mọi hiện tượng tâm lý, khả năng, phẩm
chất con người.

11
Quan niệm Macxit về nhân cách
Quan niệm macxit về nhân cách đối lập với kiểu giải thích trừu tượng,
siêu thời gian và siêu lịch sử về nhân cách.
Những luận giải khoa học về bản chất con người, vị thế của con người
trong thế giới tự nhiên và xã hội của triết học Mác đã đặt nền móng khoa học cho
mọi nghiên cứu về con người, về nhân cách một cách đúng đắn và triệt để nhất.
Trong lĩnh vực nghiên cứu con người và nhân cách, các nhà khoa hoc
Xô Viết đã có nhiều đóng góp xuất sắc. Do có nhiều cách tiếp cận khác nhau

(triết học, tâm lý học, xã hội học) nên ngay giữa các nhà khoa học cùng đứng
trên lập trường Macxit cũng có nhiều ý kiến khác nhau trong quan niệm về
nhân cách.
Có thể khái quát một số quan niệm về nhân cách tương đối phổ biến
trong học thuật như sau:
Nhân cách được hiểu như là cá nhân con người với tư cách là chủ thể
của các mối quan hệ và hoạt động có ý thức.
Nhân cách được hiểu như là các phẩm chất mang tính ổn định, những
thuộc tính sinh vật hoặc thuộc tính xã hội tạo nên bản chất của nhân cách.
Nhân cách được hiểu là toàn bộ mối quan hệ xã hội của cá nhân.
Nhân cách được hiểu như là một cấu trúc tâm lý, những trạng thái,
thuộc tính tâm lý, hệ thống tâm lý của cá nhân.
Ở Việt Nam, lâu nay việc nghiên cứu và giảng dạy về nhân cách chủ
yếu theo hướng tâm lý học. Gần đây, trong một số bài viết trên các tạp chí,
sách, báo khoa học đã đề cập đến nhiều khía cạnh của vấn đề nhân cách. Một
số tác giả khi định nghĩa nhân cách đã đưa ra những ý kiến mới từ những cách
nhìn rộng - hẹp khác nhau.
Trong từ điển tiếng Việt (Văn Tân chủ biên), nhân cách được quan
niệm là “Phẩm chất của con người” [73, tr.38-40]. Trong “Đại từ điển tiếng
Việt” (Nguyễn Như Ý chủ biên), nhân cách được hiểu như là “tư cách và

12
phẩm chất, đạo đức của con người”. Trong từ điển tâm lý (Nguyễn Khắc
Viện- chủ biên), nhân cách là “tổng hòa tất cả những gì hợp thành một con
người, một cá nhân với bản sắc và cá tính rõ nét: Đặc điểm thể chất, tài năng,
phong cách, ý chí đạo đức, vai trò xã hội. Và là một cá nhân có ý thức về bản
thân, đã tự khảng định được, giữ được phần nào tính nhất quán trong mọi
hành vi” [83, tr.190].
Trong công trình: “Mô hình nhân cách thanh niên năm 2000”, tác giả
Phạm Hoàng Gia cho rằng: Mô hình nhân cách là “mẫu người lý tính” của xã

hội trong những thời kỳ lịch sử nhất định [22, tr.47].
Theo như tác giả Thái Ninh: “Nhân cách là cái đặc trưng xã hội của con
người, thể hiện bản chất xã hội của con người đã có ý thức và tự ý thức về
cuộc sống của mình” [67, tr.119].
Tác giả Phạm Minh Hạc xem “Nhân cách là tổ hợp các thái độ, thuộc
tính riêng trong quan hệ hành động của từng người với tự nhiên, thế giới đồ
vật do loài người tự sáng tạo, với xã hội và với bản thân” [24, tr.21].
Từ cách tiếp cận hệ thống về con người và văn hóa, tác giả Hoàng Chí
Bảo cho rằng: “Nhân cách là một giá trị văn hóa” [6, tr.3].
Nhìn chung, các định nghĩa đều có những giá trị nhất định về mặt khoa
học. Tuy nhiên, mỗi định nghĩa chỉ phản ánh được một khía cạnh nào đó của
nhân cách.
Dưới góc độ xã hội học, nhân cách được xem như là những nhân vật,
những cá nhân có vai trò nhất định trong xã hội.
Dưới góc độ tâm lý học, nhân cách là một cấu trúc tâm lý, những thuộc
tính tâm lý hay bộ mặt tâm lý của cá nhân.
Dưới góc độ giá trị học, nhân cách là mối quan hệ giữa giá trị của chủ
thể, với giá trị của nhóm, của cộng đồng và của nhân loại.
Dưới góc độ đạo đức học, nhân cách là những phẩm chất đạo đức của
cá nhân, như tính trung thực, dũng cảm, vị tha, nhân hậu, cần cù…

13
Trên thực tế, việc sử dụng khái niệm nhân cách để chỉ một khía cạnh,
một thành phần như những phẩm chất đạo đức hoặc các đặc điểm tâm lý của
con người là một hạn chế cho tính khoa học của khái niệm nhân cách hiện
đang được dùng trên một số sách báo đại chúng.
Triết học Mác-Lênin không hạn chế nhân cách trong mặt này hay mặt
khác, mà xem nhân cách như một chỉnh thể cá nhân có tính lịch sử cụ thể,
tham gia vào hoạt động thực tiễn, đóng vai trò chủ thể của nhận thức và cải
tạo thế giới, chủ thể của quyền hạn và nghĩa vụ, của những chuẩn mực đạo

đức, thẩm mỹ và của các chuẩn mực xã hội khác.
Từ việc khảo sát các quan niệm về nhân cách, theo chúng tôi, nhân
cách là hệ thống giá trị làm Người mà cá nhân đạt được với sự trưởng thành
về phẩm chất và năng lực trong quá trình thực hiện các chức năng xã hội của
mình, được xã hội đánh giá và thừa nhận
Nhân cách là những phẩm chất, những trạng thái, những tính chất xu
hướng bên trong của từng cá nhân. Đó là thế giới của cái “tôi” do tác động
tổng hợp của các yếu tố cơ thể và xã hội hết sức riêng biệt tạo nên để cá nhân
đó có thể tồn tại và hình thành tính riêng của mình đối với bản thân và xã hội
[27, tr.24].
Để có thể hiểu sâu sắc hơn về khái niệm nhân cách chúng ta tìm hiểu
một số khái niệm liên quan với khái niệm “Nhân cách”
Khái niệm “nhân cách” có mối liên hệ mật thiết với các khái niệm “con
người”, “cá nhân”, nhưng không phải là những khái niệm đồng nhất. Để làm
rõ khái niệm nhân cách cần phải phân biệt nội dung cơ bản của những khái
niệm đó.
Trước hết, khái niệm “con người” (persons) dùng để chỉ một chỉnh thể
sinh vật - xã hội. Cơ thể con người là một thực thể sinh vật, ở bậc thang cao
nhất của sự tiến hóa vật chất. Là một loại sinh vật (Homo Sapiens), con người
có những đặc thù cấu trúc cơ thể là tiền đề vật chất cho mọi sự phát triển của

14
nó. Yếu tố sinh vật trong con người là “những yếu tố hữu sinh, hữu cơ, những
cái về mặt phát sinh gắn bó với tổ tiên động vật con người” [13, tr.13]. Đặc
biệt, bộ não phát triển là tổ chức vật chất cao nhất trong điều kiện tồn tại xã
hội của con người, có khả năng phản ánh thế giới, có khả năng tiếp thu và
truyền đạt cho người khác những kinh nghiệm lịch sử xã hội.
Sự xuất hiện con người đầu tiên là do sự đột biến sinh vật hay chỉ bằng
con đường biến đổi dần dần cho đến nay vẫn còn có những ý kiến khác nhau
giữa các nhà khoa học [47], [76]. Những lập luận của Ăngghen “Lao động

sáng tạo ra con người” với hàm ý lao động là yếu tố quyết định nhất trong quá
trình chuyển biến từ con vượn thành con người có ý thức vẫn giữ nguyên giá
trị: “Trước hết là lao động; sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn
ngữ; đó là hai sức kích thích chủ yếu đã ảnh hưởng đã ảnh hưởng đến bộ óc
của vượn, làm cho bộ óc đó dần dần biến chuyển thành bộ óc của con người”,
và “khi bộ óc phát triển, thì các công cụ trực tiếp của bộ óc, tức là các giác
quan, cũng song song phát triển theo” [46, tr.647]. Xét về mặt chủng loài
cũng như cá thể, những tổ chức tự nhiên của con người với tất cả những chức
năng của nó đều được phát triển và hoàn thiện trong hoạt động thực tiễn.
Bằng hoạt động lao động và giao tiếp, thế giới tinh thần của con người được
hình thành là bước chuyển dịch từ phát triển từ sinh học sang hình thành các
hệ thống riêng có của xã hội. Con người là chủ thể của ý thức mà ngay từ đầu,
ý thức đã là sản phẩm xã hội. Yếu tố xã hội trong con người là “tất cả những
quan hệ, những biến đổi xuất hiện do ảnh hưởng của các điều kiện xã hội
khác nhau, những quy định về mặt xã hội tạo nên cá nhân con người”[13,
tr.13]. Những đặc trưng cơ bản của con người khảng định con người là đỉnh
cao của sự phát triển tự nhiên đồng thời là một thực thể xã hội: có lao động, ý
thức và ngôn ngữ. Kết quả là con người được sinh thành như một chỉnh thể
sinh vật - xã hội”. Cái tự nhiên (sinh vật) và cái xã hội ở con người không

15
phải là song song tồn tại mà làm môi giới cho nhau, thâm nhập vào nhau và in
dấu lên toàn bộ hoạt động sống của con người” [12, tr.28].
Con người là một thực thể sinh vật - xã hội mang bản chất xã hội, là
chủ thể của hoạt động nhận thức và thực tiễn, của những quan hệ xã hội và
giao tiếp. Còn khái niệm nhân cách nói lên trình độ phát triển và trưởng thành
về chất lượng xã hội của con người. Con người đã từng được xem như là” hoa
của đất”, thì nhân cách của con người chính là bông hoa ấy. Khái niêm con
người và khái niệm nhân cách không đồng nhất.
Khái niệm cá nhân, trước hết dùng để chỉ một con người với tất cả đặc

điểm cấu tạo cơ thể đại biểu cho loài; thứ hai là một “nguyên tử” đơn nhất
riêng rẽ của cộng đồng xã hội” [85, tr.25]. Với tư cách là một thành viên của
xã hội, con người được cụ thể hóa trong những cá nhân hiện thực ở cấp độ
này, con người được đặc trưng bằng nhiều thuộc tính như:tính chỉnh thể sinh
học - xã hội, tính ổn định trong sự tương tác với môi trường. Nói một cách
khác, mỗi cá nhân là một chỉnh thể đơn nhất gồm cả một hệ thống những đặc
điểm cụ thể, riêng biệt, không lặp lại giữa các cá thể về hình dáng, sức khỏe,
năng lượng, trí tuệ, ý chí, tình cảm…
Khái niệm cá nhân được dung trong mối quan hệ với cái đối lập là “xã
hội” mỗi con người ngay cả đứa trẻ mới sinh ra đã tiềm tang trong nó những
điều kiện và khả năng để trở thành cá nhân như: cấu tạo cơ thể, hệ thần kinh,
các giác quan… nhưng con người chỉ được xem là một cá nhân khi nó đã đạt
tới độ trưởng thành về mặt thể lực,trí tuệ, và các phẩm chất xã hội. Chỉ trong
mối quan hệ với xã hội, con người mới là một cá nhân. Thông qua quan hệ xã
hội và những hoạt động xã hội, mỗi cá nhân khảng định cái “tôi” có bản sắc
riêng, có đặc tính riêng và đạt được những trình độ nhận thức nhất định như là
kết quả phát triển nội tại của chính nó. Sự phát triển của cá nhân phụ thuộc
vào sự phong phú của những quan hệ xã hội mà cá nhân đó tham dự. Trong
tác phẩm “Hệ tư tưởng Đúc”, C.Mác đã viết: Chỉ trong cộng đồng cá nhân

16
mới có những phương tiện để phát triển toàn diện những khả năng, khiếu của
mình; chỉ trong cộng đồng mới có thể có tự do cá nhân. Vấn đề đặt ra là ở
chỗ, phải tạo ra môi trường xã hội trong đó những phẩm chất và năng lực
không bị hòa tan mà được phát triển tới trình độ tự ý thức, tự biểu hiện tự
đánh giá, tự điều chỉnh hành vi của mình với tư cách chủ thể của hoạt động,
của lịch sử cùng với việc ra quá trình hình thành cá nhân, giải quyết một cách
khoa học mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội, triết học Mác đã chỉ ra rằng: xã
hội sẽ vận động đến một trình độ mà ở đó “sự phát triển tự do và toàn diện
của mọi người là điều kiện cho sự phát triển và toàn diện của mỗi người”.

Con người tồn tại với tư cách một cá nhân đích thực - cá nhân mang nhân
cách phát triển và toàn diện.
Để định nghĩa tương đối hoàn chỉnh về nhân cách, đã là một vấn đề
khó, đi tìm cấu trúc của nhân cách lại là vấn đề khó hơn. Có quan niệm cho
rằng: nhân cách bao gồm ba lĩnh vực cơ bản: nhận thức ( gồm tri thức và
năng lực trí tuệ); rung cảm (tình cảm và thái độ); ý chí (các phẩm chất ý chí,
kỹ năng, thói quen…). Quan niệm khác coi nhân cách gồm 4 tiểu cấu trúc: xu
hướng nhân cách; kinh nghiệm; các đặc điểm quá trình tâm lý; các thuộc tính
sinh học chủ yếu. Một quan niệm khác tương đối phổ biến, được nhiều người
thừa nhận hơn, cho rằng: cấu trúc nhân cách gồm: xu hướng của nhân cách;
những khả năng của nhân cách; phong thái hành vi của nhân cách; hệ thống
điều khiển của nhân cách.
Theo A.G Xpirkin thì cấu trúc của nhân cách gồm: tư chất di truyền
sinh học; tác động của các nhân tố xã hội (môi trường, điều kiện, các chuẩn
mực, sự điều chỉnh) và hạt nhân xã hội - tâm lý của nó - “cái tôi”, trong đó
“cái tôi” giữ vị trí hết sức quan trọng, nó tựa như là cái xã hội bên trong của
nhân cách, là “yếu tố bản chất của cấu trúc nhân cách, là trung tâm tinh thần -
ý nghĩa, điều chỉnh - dự báo tối cao của nhân cách” [85, tr.26-27]. Như vậy
cấu trúc của nhân cách gồm đức và tài, năng lực thể chất và năng lực trí tuệ ở

17
một con người dưới sự điều khiển của “cái tôi” tự ý thức, tự đánh giá. Trong
cấu trúc này “đức” được coi là thành phần đặc biệt của nhân cách. Thành
phần này gồm: 1) phẩm chất xã hội (thế giới quan, niềm tin, lý tưởng, thái độ
chính trị - xã hội, trong đó, thế giới quan là thuộc tính kết cục chủ yếu của
nhân cách, là đặc quyền của con người vươn tới tầm cao của tinh thần) (A.G
Xpirkin); 2) phẩm chất cá nhân (còn gọi là đạo đức, tư cách của cá nhân); 3)
phẩm chất ý chí (tính kỷ luật, tính mục đích, tính quả quyết, tính kiên trì, tính
dũng cảm); 4) cung cách ứng xử (tác phong, lễ tiết, tính khí… của con người).
Thành phần thứ hai của cấu trúc nhân cách là “tài”; đó là các năng lực

thích ứng với xã hội của con người, là hiệu suất hiệu quả trong một lĩnh vực
hoạt động nào đó của họ. Các năng lực đó bao gồm: 1) năng lực xã hội hóa
(khả năng thích nghi, năng lực sáng tạo, cơ động, mềm dẻo trong, cuộc sống xã
hội); 2) năng lực chủ thể (khả năng biểu hiện tính độc đáo, đặc sắc, nét riêng có
của cá nhân); 3) năng lực hành động (khả năng hành động có tính mục đích,
chủ động, tích cực, sáng tạo với năng lực và hiệu quả cao); 4) năng lực giao
lưu, giao tiếp xã hội [23, tr.94]. Cách hiểu khái quát nhất về cấu trúc nhân cách
bao gồm “đức và tài”, năng lực thể chất và năng lực tinh thần. Thực chất, nhân
cách là một chỉnh thể thống nhất của nhiều thuộc tính, phẩm chất, xu hướng,
khả năng, phong thái, hành vi, tính chất… bên trong, riêng biệt của mỗi cá
nhân, nó nói lên sự khác nhau giữa cá nhân này với cá nhân khác.
1.1.1.2. Tính quy luật của sự hình thành nhân cách
Sự hình thành và phát triển của nhân cách gắn liền với sự phát triển
của con người qua quá trình giáo dục, tự giáo dục và hoạt động thực tiễn.
Phẩm chất xã hội và lý tưởng trong xã hội của chủ thể sáng tạo phù hợp
với yêu cầu nhân văn hóa con người trong một đời sống cộng đồng đang
hướng tới những giá trị, mục tiêu phát triển bền vững, nhằm thực hiện m ột xã
hội "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", một thế giới
tiến bộ, nhân văn. Như thế, để có được nhân cách sáng tạo, con người không

18
phải chỉ có nỗ lực cá nhân, mà còn phải được giáo dục, tức là có sự chuẩn bị,
trang bị và hướng dẫn nhân cách trở thành nhân cách sáng tạo, con người sáng
tạo. Có thể đưa ra đây những yêu cầu chủ yếu đối với hoạt động giáo dục hiện
nay để "sản xuất" ra những nhân cách sáng tạo nhằm đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững trong thời đại toàn cầu hóa. Cung cấp những tri thức nhiều mặt
mang tính hiện đại do các thành tựu khoa học mà nhân loại hiện nay đã đem
lại với tính cách là tài sản chung của mọi xã hội. Những tri thức khoa học này
không chỉ là mảnh đất nuôi dưỡng trí tuệ con người, mà điều chủ yếu hơn,
chúng là bàn đạp để mọi sáng tạo của cá nhân có thể nảy nở, cất cánh.

Bất cứ một sáng tạo nào cũng đều bắt nguồn từ thực tiễn, do thực tiễn
quy định, thúc đẩy, đánh giá, kiểm chứng, định hướng và cuối cùng là hiện
thực hóa mục đích của sáng tạo. Chính vì vậy, mọi nội dung hay mọi phương
thức giáo dục đều phải được tồn tại trong thực tiễn. Một nhân cách sáng tạo
phải được đào luyện trong thực tiễn mà nhân cách đó muốn tham gia bằng sự
sáng tạo của mình. Quá trình hoạt động thực tiễn cũng chính là môi trường
học tập để sáng tạo, thử nghiệm, thử thách sự sáng tạo và xác định mục tiêu
của sáng tạo.
Giáo dục khả năng nắm bắt thực tiễn và hoạt động thực tiễn là một yêu
cầu, một nguyên tắc của giáo dục nhân cách sáng tạo. Hoạt động sáng tạo là
một tổng thể bao gồm cả phương thức, phương pháp sáng tạo tức là cách
chuyển năng lực sáng tạo của chủ thể sáng tạo và tư liệu sáng tạo của cuộc
sống hiện thực thành kết quả sáng tạo, sản phẩm sáng tạo. Nếu phương pháp
sáng tạo là một công cụ khoa học, thì việc giáo dục, đào tạo con người sử
dụng công cụ đó có một ý nghĩa cần thiết và quan trọng. Tính quy định của
giáo dục phương thức sáng tạo phương pháp sáng tạo là ở chỗ: Chủ thể sáng
tạo phải được trang bị các phương thức, phương pháp sáng tạo đã được xác
định cùng với những nguyên tắc chung, nguyên lý phổ biến của chúng. Chủ
thể sáng tạo phải có năng lực lựa chọn phương thức sáng tạo, phương pháp

19
sáng tạo sao cho phù hợp với đối tượng sáng tạo và mục tiêu sáng tạo. Khả
năng chủ quan của chủ thể sáng tạo phải làm chủ được phương thức, phương
pháp sáng tạo có trong tay, đồng thời, tạo ra được những cái cần thiết chưa có
trong chúng để có thể đáp ứng đầy đủ các yêu cầu cụ thể, riêng biệt do quá
trình thực thi sáng tạo đặt ra. Kỹ năng, kỹ xảo và công nghệ sử dụng phương
thức sáng tạo, phương pháp sáng tạo là yêu cầu bắt buộc đối với mọi nhận
thức và mọi hành động cụ thể trong quá trình sáng tạo.
Cần lưu ý rằng, nội dung, mục đích của bất kỳ một sáng tạo nào cũng
đều phải nhằm nhân văn hóa con người và xã hội, cải thiện môi trường sinh

thái tự nhiên. Nhân cách sáng tạo là nhân cánh tự chủ, tự ý thức và tự giác.
Không có sự nỗ lực, chủ động và tích cực của cá nhân thì sẽ không có sự sáng
tạo, sự tìm tòi cái m ới tiến bộ hơn, giá trị hơn. Chính vì thế, giáo dục nhân
cách sáng tạo là tạo ra mọi nhân tố mọi điều kiện để bản thân nhân cách sáng
tạo tự chuyển hóa chúng thành năng lực cá nhân, thành khả năng bên trong,
thành "do mình, của mình". Mọi sự áp đặt, giản đơn, máy móc, khô cứng
trong giáo dục nhân cách sáng tạo là hoàn toàn xa lạ, phản tác dụng. Nói cách
khác, đó là sự định hướng, chỉ đường, hỗ trợ, tạo mọi tiền đề cần thiết để chủ
thể sáng tạo tự khẳng định "cái mới" của mình.
Sự hình thành và phát triển nhân cách là quá trình thống nhất giữa cá
nhân và xã hội, giữa mặt sinh vật và mặt xã hội. Đó lá sự thống nhất giữa
điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan.
Nhân cách là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác
nhau, như triết học, xã hội học, kinh tế - chính trị học, luật học, tâm lý học, y
học, giáo dục học… Trong đó, quan điểm triết học về nhân cách con người,
về cơ bản, có những khác biệt so với quan điểm của các khoa học cụ thể. Triết
học Mác - Lênin xem nhân cách là "những cá nhân con người với tính cách là
sản phẩm của sự phát triển xã hội, chủ thể của lao động, của sự giao tiếp, của
nhận thức, bị quy định bởi những điều kiện lịch sử - cụ thể của đời sống xã

20
hội". Theo đó, nhân cách trước hết là đặc trưng xã hội của con người, là
"phẩm chất xã hội" của con người. Khi nghiên cứu về nhân cách, một trong
những vấn đề đầu tiên và cũng là then chốt, là vấn đề sự hình thành nhân
cách. Giải quyết vấn đề này theo những cách khác nhau sẽ dẫn tới quan niệm
khác nhau về bản chất của nhân cách. Chính vì thế, sự tranh luận giữa các
trường phái triết học bàn về nhân cách thường xoay quanh chủ đề này. Trong
bài viết này, chúng tôi không có tham vọng trình bày mọi quan điểm của các
trường phái triết học trong lịch sử, mà chỉ tập trung vào quan điểm mácxít về
sự hình thành nhân cách.

Để giải quyết vấn đề nhân cách, chúng ta cần xem xét mối quan hệ giữa
cái sinh vật và cái xã hội trong con người. Bởi vì, con người là một thực thể
sinh vật - xã hội. Trong quá trình phát triển của mình, con người bỏ xa giới
động vật trong sự tiến hoá, nhưng điều đó không có nghĩa là con người đã lột
bỏ tất cả những cái tự nhiên, cái sinh vật.
Khi nói tới những yếu tố sinh học trong con người, có thể hiểu đó là
những yếu tố hữu sinh, hữu cơ, những cái mà về mặt phát sinh, luôn gắn bó
với tổ tông động vật của con người, những cái làm cho con người hình thành
và hoạt động như một cá thể, một hệ thống phục tùng các quy luật sinh học,
hoặc cũng có thể coi đó là toàn bộ tiền đề sinh học của con người.
Những yếu tố xã hội là tất cả những quan hệ, những biến đổi xuất hiện
do ảnh hưởng của các điều kiện xã hội khác nhau, những sự quy định về mặt
xã hội tạo nên cá nhân con người. Trong đại đa số trường hợp, nếu thiếu
chúng thì nhiều đặc tính, nhiều cấu trúc, ví dụ như ngôn ngữ, tư duy trừu
tượng, quy phạm đạo đức… sẽ không bao giờ hình thành được.
Cho đến nay, người ta vẫn còn tranh luận nhiều về mối quan hệ giữa
yếu tố sinh học và yếu tố xã hội trong sự phát triển con người. Nhìn chung, có
hai quan điểm cực đoan về vấn đề này và được biểu hiện trong các trường
phái "chủ nghĩa tự nhiên" (hay còn gọi là "chủ nghĩa sinh vật") và "chủ nghĩa

21
xã hội học". Quan điểm của chủ nghĩa tự nhiên dựa trên những thành tựu sinh
vật học cũng như những thành tựu về dân tộc học của K.Lôrenxơ. Ông cho
rằng, hành vi xã hội của con người bao gồm trong nó những tính quy luật mà
chúng ta có thể biết rõ từ hành vi động vật: "người ta thừa nhận rằng hành vi
xã hội của con người bao gồm trong nó tất cả những tính quy luật… mà
chúng ta được biết rõ ràng nhờ vào nghiên cứu những hành vi của động vật".
Những người theo chủ nghĩa xã hội học đã xây dựng học thuyết của
mình về con người dựa trên quan điểm lý luận của trường phái E.Durkheim
(1858 - 1917), nhà Triết học xã hội, nhà Xã hội học Pháp, người theo chủ

nghĩa thực chứng). Theo họ, các hành vi của con người đều là do tư tưởng, ý
thức xã hội tạo nên đồng thời, trường phái này đã phủ nhận mối liên hệ khách
quan giữa hành vi con người với những điều kiện vật chất của sản xuất và tái
sản xuất con người, với tự nhiên.
Đối lập với hai quan điểm cực đoan trên, triết học Mácxít cho rằng,
trong con người, mối quan hệ giữa cái sinh vật và cái xã hội không phải là đối
lập nhau mà thống nhất với nhau. Có thể thấy rằng, con người là một cơ thể
hữu sinh có trình độ tổ chức sinh học cao nhất và do vậy, quan hệ giữa các
yếu tố sinh vật - xã hội là rất phức tạp, sâu sắc Tổ chức cơ thể của con người,
như các giác quan, hệ thần kinh trung ương là những tiền đề sinh vật, được
xem như cơ sở vật chất và có ảnh hưởng tới sự phát triển con người. Thực tế
đã chứng minh rằng, những khiếm khuyết về mặt cơ thể, về gen… đã có ảnh
hưởng không nhỏ tới sự phát triển con người, tới thế giới quan, định hướng
giá trị của họ, hay những năng khiếu bẩm sinh, những tài năng chính là do
các yếu tố sinh vật chi phối. Một ví dụ khác là, ngày nay, người ta thường
nhắc tới nhịp điệu sinh học (đồng hồ sinh học) như một cơ chế có ảnh hưởng
không nhỏ tới hoạt động của con người, hay nhiều kết quả nghiên cứu khoa
học đã chỉ ra rằng, khi có một bên nào đó hoạt động hoặc ngừng hoạt động thì
con người có sự thay đổi nhất định.

×