Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

YẾU TỐ GIÁO DỤC VÀ SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.33 KB, 38 trang )

Trường ĐHSP thành phố Hồ Chí Minh
Lớp: Sư phạm mầm non 1B
Môn: giáo dục học
ĐỀ TÀI:
GVHD: Ân Thị Hảo
Tên nhóm: Candies
Danh sách nhóm:
Phạm Thị Nhẫn SBD: K36.902.060
Phạm Thị Mai SBD: K36.902.042
Nguyễn Thị Thanh Nhã SBD: K36.902.061
Trần Thị Thanh Nga SBD: K36.902.053
Vũ Thị Tú My SBD:K36.902.046
Thành phố Hồ Chí Minh ngày 4 tháng 4 năm 2011
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách
Mục lục
1
Trang 2
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách
LỜI MỞ ĐẦU
Nhân cách không có sẵn bằng cách bộc lộ dần các bản năng nguyên thủy, mà nhân
cách là các cấu tạo tâm lý mới được hình thành trong quá trình sống-giao tiếp, vui chơi,
học tập, lao động. Nhân cách con người không phải được đẻ ra mà là được hình thành. Quá
trình hình thành nhân cách chịu sự chi phối của nhiều yếu tố: yếu tố bẩm sinh – di truyền,
môi trường tự nhiên và hoàn cảnh xã hội, giáo dục và hoạt động cá nhân. Mỗi yếu tố đều
có vai trò quyết định. Song với tính cách là phương thức, là con đường, giáo dục, hoạt
dộng có vai trò quyết định tron quá trình hình thành và phát triển nhân cách con người.
Để hình thành nhân cách con người phải đề cao vai trò của giáo dục và hoạt động cá
nhân. Bởi đây là hai nhân tố quyết định trực tiêp sự hình thảnh và phát triển nhân cách.
Qua đề tài này ta cho ta thấy được những quan điểm khác nhau nói về giáo dục, sự ảnh
hưởng của yếu tố giáo dục đến các yếu tố khác, và quá trình phát triển giáo dục cũng như
ảnh hưởng của yêu tố cá nhân đên nhân cach.


C/ YẾU TỐ GIÁO DỤC VÀ SỰ HÌNH THÀNH,
1
Trang 3
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách
PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
I Khái niệm giáo dục
Giáo dục là quá trình được tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi hoặc biến đổi
nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của người dạy và người học theo hướng tích cực.
Nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách người học bằng những tác động có ý thức từ bên
ngoài, góp phần đáp ứng các nhu cầu tồn tại và phát triển của con người trong xã hội
đương đại.
Giáo dục – dưới dạng chung nhất – là sự chuẩn bị cho thế hệ trẻ bước vào xã hội.
Trong quá trình giáo dục, các thế hệ đang lớn phải lĩnh hội những gì xã hội đã tích lũy
được, nghhiax là tiếp thu những tri thức ở mức độ phát triển đã đạt tới của chúng , nắm
vững những kĩ năng lao động, tiếp thu các tiêu chuẩn và kinh nghiệm ứng xử trong xã hội,
và xây dựng được một hệ thống quan điểm nhất định về cuộc sống. Trong quá trình giáo
dục phải hình thành đượcnhững phẩm chất cầ thiết để giái quyết các nhiệm vụ mới chưa hề
đặt ra trước thế hệ cha anh. Muốn vậy phải rèn luyện kĩ năng thu lượm các kiến thức cần
thiết, kĩ năng thích nghi với các điều kiện luôn thay đổi của cuộc sống và lao động, kĩ năng
thực hiện hoạt động sáng tạo.
Theo từ "Giáo dục" tiếng Anh - "Education" - vốn có gốc từ tiếng La tinh "Educare"
có nghĩa là "làm bộc lộ ra". Có thể hiểu "giáo dục là quá trình, cách thức làm bộc lộ ra
những khả năng tiềm ẩn của người được giáo dục".
Giáo dục bao gồm việc dạy và học và đôi khi nó cũng mang ý nghĩa như là quá trình
truyền thụ, phổ biến tri thức, truyền thụ sự suy luận đúng đắn, truyền thụ sự hiểu biết. Giáo
dục là nền tảng cho việc truyền thụ, phổ biến văn hóa từ thế hệ này đến thế hệ khác. Giáo
dục là phương tiện để đánh thức và nhận ra khả năng, năng lực tiềm ẩn của chính mỗi cá
nhân, đánh thức trí tuệ của mỗi người. Nó ứng dụng phương pháp giáo dục, một phương
pháp nghiên cứu mối quan hệ giữa dạy và học để đưa đến những rèn luyện về tinh thần, và
làm chủ được các mặt như: ngôn ngữ, tâm lý, tình cảm, tâm thần, cách ứng xử trong xã hội.

• Dạy học là một hình thức giáo dục đặc biệt quan trọng và cần thiết cho sự phát triển
trí tuệ, hoàn thiện nhân cách học sinh.
1
Trang 4
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách
• Quá trình dạy học nói riêng và quá trình giáo dục nói chung luôn gồm các thành tố
có liên hệ mang tính hệ thống với nhau: mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục,
phương pháp giáo dục, phương tiện giáo dục, hình thức tổ chức và chỉ tiêu đánh giá.
Sự giáo dục của mỗi cá người bắt đầu từ khi sinh ra và tiếp tục trong suốt cuộc đời.
(Một vài người tin rằng, sự giáo dục thậm chí còn bắt đầu trước khi sinh ra, theo đó một
số cha mẹ mở nhạc, hoặc đọc cho những đứa trẻ trong bụng mẹ với hy vọng nó sẽ ảnh
hưởng đến sự phát triển của đứa trẻ sau này). Với một số người quá trình đấu tranh giành
giật sự sống, giành giật sự thắng lợi trong cuộc sống cung cấp kiến thức nhiều hơn cả sự
truyền thụ kiến thức ở các trường học. Các cá nhân trong gia đình có ảnh hưởng lớn đến
hiệu quả giáo dục, thường có ảnh hưởng nhiều hơn, mặc dù việc dạy dỗ trong gia đình có
thể không mang tính chính thức, chỉ có chức năng giáo dục rất thông thường.
♣ Quan điểm giáo dục theo Macxit
Theo Mác, giáo dục là một hình thái ý thức xã hội, là một bộ phận của thượng tầng kiến
trúc. Cũng như tôn giáo, đạo đức, pháp quyền, trong xã hội giai cấp, giáo dục bao giờ
cũng mang tính giai cấp, giáo dục luôn luôn là công cụ của giai cấp thống trị xã hội “giai
cấp nào thống trị tư liệu sản xuất vật chất thì cũng chiếm đoạt phương tiện sản xuất tinh
thần”. chỉ có thể xây dựng một nền giáo dục của giai cấp vô sản khi giai cấp đó giành
được quyền thống trị xã hội.
♣ Khái niệm giáo dục từ thuở ấu thơ
Giáo dục từ thưở ấu thơ đề cập đến vấn đề giáo dục từ những năm ấu thơ, một trong
những thời kỳ nhạy cảm nhất trong cuộc sống. Theo như NAEYC (Hiệp hội quốc gia về
giáo dục trẻ nhỏ), quá trình này trải dài từ lúc con người sinh ra cho đến khi 8 tuổi.
Cụm từ khác được dùng với nghĩa “giáo dục từ thưở ấu thơ” là “học tập từ thưở ấu thơ”,
“chăm sóc từ thửơ ấu thơ”.
Giáo dục từ thưở ấu thơ thường tập trung vào quá trình học tập thông qua các hoạt động

vui chơi của trẻ em. Cụm “giáo dục từ thưở ấu thơ” thường được dùng để định nghĩa các
chương trình mẫu giáo hoặc nhà trẻ.
1
Trang 5
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách
Giáo dục từ thưở ấu thơ chính là quá trình nghiên cứu về sự phát triển của trẻ nhỏ. Việc
giáo dục trẻ các kiến thức cơ bản về kỹ năng nhận thức, xã hội, cảm xúc và thể chất trong
quá trình từ khi sinh ra đến năm 8 tuổi là rất quan trọng.
Các nghiên cứu trong lĩnh vực và các nhà giáo dục từ thưở ấu thơ đều coi phụ huynh như
một phần không thể tách rời của quá trình giáo dục từ thưở ấu thơ. giáo dục hoặc phụ
huynh. Tồn tại nhiều hình thức giáo dục từ thưở ấu thơ tuỳ thuộc vào niềm tin của nhà
Phần lớn thời gian trong 2 năm đầu đời được dùng vào việc bước đầu tạo ra “cảm giác về
bản thân” của trẻ, hay còn gọi là bước đầu xây dựng nhân dạng. Đây là phần quyết định
trong quá trình phát triển của trẻ - sự nhìn nhận đầu tiên về bản thân, cách thức hoạt động
của trẻ, mức kỳ vọng của bản thân vào các hoạt động. Vì lý do này, công việc chăm sóc
từ thưở ấu thơ phải đảm bảo ngoài việc tuyển chọn và tập huấn các giáo viên một cách kỹ
lưỡng, nội dung chương trình phải nhấn mạnh mối liên kết với gia đình, văn hoá và ngôn
ngữ của quê hương, nghĩa là giáo viên cần phải quan tâm tới mỗi trẻ theo giáo trình phù
hợp với sự phát triển, cá nhân và văn hoá. Các trung tâm nên hỗ trợ gia đình hơn là thay
thế gia đình.
Nếu trẻ không nhận được sự nuôi dưỡng, ảnh hưởng và khuyến khích đầu đủ từ giáo
viên/phụ huynh trong quá trình cốt yếu này, trẻ có thể phát triển không toàn diện, điều này
không chỉ ảnh hưởng tới thành công ở nhà trẻ, mẫu giáo mà còn trong cuộc đời sau này
của trẻ.
Tóm lại, có thể nói rằng, giáo dục đó là quá trình mà thế hệ cha anh truyền lại kinh
nghiệm lịch sử - xã hội cho các thế hệ mới nhằm chuẩn bị cho họ bước vào cuộc sống và
lao động để bảo đảm sự phát triển hơn nữa của xã hội và của cá nhân.
Như vậy, theo nghĩa rộng, nói đến giáo dục là nói đến sự tác động tới con người của toàn
thể xã hội và của thực tiễn xung quanh.
Đối với trẻ thơ, giai đoạn đầu tiên của đời người ( từ lọt lòng đến 6 tuổi) gióa dục nhằm

phát triển các chức năng tâm lí, hình thành những cơ sở ban đầu của nhân cách con người,
chuẩn bị cho những giai đoạn phát triển sau được thuận lợi.
Các quan điểm về giáo dục
Giáo dục Ai Cập Cổ Đại
1
Trang 6
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách
• Thực hành nghề nghiệp của những người bình dân,
• Giáo dục trí tuTệ sơ đẳng: tập đọc, viết, làm toán, hình học.
• Giáo dục cao đẳng dành cho các tu sĩ, những nhà kiên trúc và sau cùng là thư kí.
• Các tu sĩ nắm giữ khoa học (thiên văn, toán học, cơ học và y học) và ý tưởng tôn
giáo.
• Phương pháp dạy học là bắt chước và đào luyện trí nhớ, đôi khi học toán dưới dạng
trò chơi.
• Kỉ luật được duy trì bằng roi vọt
Giáo dục Ấn Độ
• Giáo dục theo kiểu chân truyền: Sư phụ-Đồ đệ
• Nội dung giáo dục thiên về tôn giáo (kinh Vệ đà)-văn phạm (chữ Phạn), thi ca, triết
lí và luật pháp kiểu tôn giáo, y khoa, thiên văn, toán học.
• Phương pháp chủ yếu là đào luyện trí nhớ, học thuộc lòng, không chú trọng thể dục
• Có sự giảng dạy theo kiểu tập thể sơ cấp và các giảng tập viên, học nhóm
Giáo dục Ba Tư
• Giáo dục mang tính quý tộc và quân phiệt.
• Nên giáo dục do quốc gia đảm trách: đứa trẻ ra khỏi gia đình lúc 7 tuổi được nuôi
nấng và canh chừng trong nhà chung.
• Giáo dục thể chất, quân sự, rèn luyện để trở thành người lính.
Giáo dục Kinh Thánh
• Kinh thánh chứa đựng các vấn đề giáo dục.
• Đầu tiên là do người mẹ,
• Sau đó ở nhà thờ trẻ học đọc, viết, âm nhạc, khiêu vũ và đào luyện về tôn giáo.

• Coi trọng giáo dục và người thầy.
• Chú ý giáo dục cả các em nữ.
• Học toán, thiên văn, văn chương, địa lý, lịch sử, triết học, kinh thánh
Giáo dục Hy Lạp Cổ Đại
• Giáo dục quân sự ở Spart chủ yếu là phát triển thể chất, kỹ năng chiến đấu, tư cách
công dân: tính tập thể, yêu nước.
1
Trang 7
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách
• Giáo dục tự do và nhân bản ở Athens
-Người mẹ là nhà GD đầu tiên của trẻ,
-Chú ý tính toàn diện,
-Các khoa học: kiến trúc, điêu khắc, thiên văn, triết lí, toán học, y học, sinh học, hóa học,
vật lý… đều phát triển và được truyền đạt.
-Dành cho các nhà khoa học những điều kiện nghiên cứu thuận lợi.
Giáo dục Xocrat (469-399 TCN)
• Theo trường phái duy tâm chủ quan
• Nổi tiếng về sự hoài nghi và cách dạy học hỏi
– đáp để tự tìm ra chân lý.
Phương pháp hỏi – đáp được gọi là “thuật đỡ
đẻ” hay là “phương pháp Xôcrát”
• Từ tìm hiểu sự vật hiện tượng cụ thể dẫn dắt
đến kết luận.
Giáo dục Đemocrit(460-370 TCN)
• Theo quan điểm duy vật
• Giáo dục kết hợp với lao động sản xuất thì mới
có kết quả tốt.
• Đề cao việc học tập tri thức tự nhiên
• Không muốn giáo dục tôn giáo cho trẻ em
Giáo dục Platon (427-348 TCN)

1
Trang 8
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách
• Giáo dục giúp cho con người có lý trí.
• Giáo dục mẫu giáo theo cách của người mẹ.
• Trẻ lớn có thể học ở trường và ngoài trời.
• Giáo dục có chọn lọc cho phù hợp với khả
năng của từng người, ai giỏi thì được học
lên mãi.
• Người giỏi nhất sẽ được chọn để đứng đầu nhà nước.
• Đánh giá cao vai trò của giáo dục.
• Giáo dục là nhiệm vụ của tất cả mọi người, của toàn xã hội.
• Giáo dục con người là cả quá trình lâu dài.
Giáo dục Aristot (384-322 TCN)
• Con người có 3 thành tố: xương
thịt, ý chí và lí trí; vì vậy nôi dung GD phải
tương ứng như: có GD thể chất, đạo đức, trí
tuệ.
• Trẻ em phát triển qua 3 thời kì: 0-7
tuổi; 7-14; 14-21 có những đặc điểm riêng;
chú ý tuổi dậy thì (14).
• Đánh giá cao vai trò của GD gia đình, của người mẹ.
• Giáo dục La Mã
• Tiếp thu nền văn minh Hy Lạp.
• Quan tâm giáo dục gia đình và pháp luật.
• Kích thích học tập bằng hình phạt.
• Phương pháp học chủ yếu là bắt chước.
• Dạy ngoại ngữ cho học sinh.
1
Trang 9

Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách
• Đã loại bỏ một phần khoa học và nghệ thuật của Hy Lạp.
Giáo dục Quách Ty Liêng (118-42 TCN)
• Chú ý giáo dục ngôn ngữ.
• Quan tâm lời nói, hùng biện.
• Tạo cho trẻ niềm vui học tập.
• Kết hợp học tập và nghỉ ngơi, vui chơi giải trí.
• Chống lại lối dạy học bằng roi vọt.
• Chú trọng thuyết phục.
• Thầy giáo phải yêu mến học trò
Giáo dục Trung Hoa Cổ Đại
• Kể từ 3000 năm TCN. Nền văn minh Trung Hoa xuất hiện.
• Giáo dục chịu ảnh hưởng nhiều của Đạo giáo, Nho giáo và Phật giáo.
• Nho giáo: Khổng Tử , Tăng Tử, Tử Tư, Mạnh Tử, Đổng Trọng Thư, Chu
Hy
T KHỔNG TỬ (551-479)
+Mục đích giáo dục: Nhân nghĩa, trung chính
Quân tử phải học đạo để thương người, trị người.
Tiểu nhân học đạo để dễ sai khiến, biết phục tùng.
Giáo dục làm cho dân giàu, nước mạnh
Giáo dục phục vụ chính trị: đức trị và tu thân
+Nội dung giáo dục: Đạo – đức
Trung tâm là Nhân
• Nhân là đức làm người vừa tu nhân vừa ái nhân.
• Hiếu: yêu người nhà thì mới biết yêu người ngoài
• Trung với nước.
• Nghĩa: việc gì đáng làm thì làm, không hề mưu tính cái lợi cho mình cũng không
cần biết hậu quả ra sao, không cố chấp.
• Lễ là ngọn, nhân là gốc, làm điều nhân cho mình chứ đâu do người.
1

Trang 10
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách
• Có sáng suốt thì mới có đức nhân, biết giúp người mà không hại người và hại mình
(trí).
• Khổng Tử nói cho Tử Lộ biết 6 đức bị che lấp:
-Ham đức nhân mà không ham học thì bị che lấp là ngu muội,
-Ham đức trí mà không ham học thì bị che lấp là phóng đãng,
-Ham đức tín mà không ham học thì bị che lấp là bị tổn hại,
-Ham đức ngay thẳng mà không ham học là bị che lấp là gắt gao,
-Ham đức dũng mà không ham học thì bị che lấp là loạn động,
-Ham cương cường mà không ham học thì bị che lấp là cuồng bạo
+ Phương pháp giáo dục
 Phù hợp với đối tượng
 Hỏi-đáp
 Ví von, dẫn chứng, liên hệ thực tế
 Phát huy tính tích cực
 Quan hệ thầy trò thân thiện
Mạnh Tử (479-381)
• Phát triển tư tưởng của Khổng Tử.
• Theo thuyết tính thiện (nhân chi sơ tính
bản thiện): biểu hiện ở 4 đức: nhân-nghĩa-
lễ-trí; đề cao nhân nghĩa. Con người vốn
có lòng trắc ẩn (thương xót), tu ố (then ghét), từ nhượng (cung kính), thi phi (phân
biệt phải trái).
• Giáo dục phải theo chuẩn mực, phép tắc đã được định ra do các Thánh hiền.
• Người học phải chuyên tâm, trì chí, khiêm tốn và cầu tiến.
• Chú ý lương tâm, sự hổ thẹn và tùy đối tượng.
1
Trang 11
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách

• Không vì lợi mà vì nhân
Mạc Tử (479-381 TCN)
• Suốt đời hăm hở, kiên nhẫn làm việc nghĩa.
• Chủ trương “kiêm ái”
• Nhận biết đúng sai bằng tam biểu: thiên chí, minh quỷ và thánh vương xưa, tai mắt
của trăm họ.
• Chú trọng lý do tại sao, để làm gì.
• Phê phán chiến tranh, sự giẫn dữ và hung bạo.
• Phê phán Nho giáo; không chú ý đến lợi ích, phân biệt..
• Bản tính con người như một tấm lụa trắng, sau này tấm lụa ấy thành màu gì là do
người đời và cuộc đời nhuộm nên.
Pháp gia
• Nho gia lấy nhân-nghĩa-lễ-trí-tín, Mặc gia lấy “kiêm ái” để trị nước, còn Đạo gia
theo “vô vi nhị trị”, thì Pháp gia đề cao pháp luật trong phép trị nước.
• Đại biểu cho Pháp gia là: Quản Trọng-Thận Đáo-Thân Bất Hại-Thương Ửơng-Hàn
Phi Tử.
II Vai trò của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách
Giáo dục là quá trình hoạt động tự giác, chủ động đến con người nhằm thỏa mãn nhu cầu
hình thành và phát triển nhân cách cá nhân và đáp ứng yêu càu của xã hội. Giáo dục là
toàn bộ những tác động của nhà trường, gia đình và xã hội.
Trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách, giáo dục giữ vai trò chủ đạo, Điều đó
được thể hiện như sau:
+ Giáo dục vạch ra nội dung và chiều hướng của sự phát triển nhân cách và tổ chức cho
nhân cách phát triển theo nội dung và chiều hướng đã vạch ra.
+ Giáo dục là con đường thuận lợi nhất để cá nhân tiếp thu kinh nghiệm lịch sử, xã hội để
tạo ra sự phát triển nhân cách.
1
Trang 12
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách

+ Giáo dục là yếu tố tác động vào sự phát triển nhân cách có hiệu quả nhất vì đó là hoạt
động có tổ chức, có kế hoạch, có phương pháp khoa học…
+ Giáo dục có thể phát huy những mặt ưu điểm của các yếu tố khác và khắc phục, bù đắp
những khiếm khuyết của các yếu tố khác
VD: Bồi dưỡng trẻ có năng khiếu thành tài năng, giáo dục cho trẻ mù, thiểu năng trí tuệ,
người có hoàn cảnh khó khăn…
+ Giáo dục còn có khả năng uốn nắn những sai lệch của nhân cách cho phù hợp với yêu
cầu của xã hội.
Tuy vậy, chúng ta cũng không nên tuyệt đối hóa vai trò của giáo dục, coi giáo dục là
vạn năng. Bởi vì nhân cách con người còn chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khác.
1 Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển nhân cách
Theo thuyết tiền đỉnh(thuyết sinh học)
Sự phát triển nhân cách do yếu tố di truyền quyết định, môi trường và giáo dục
không có vai trò gì trong sự phát triển nhân cách
Quan điểm đặc trung cho dòng phái nguồn gốc sinh học trong việc giải thích sự phát triển
nhân cách là quan điểm về “những đặc điểm bẩm sinh”của trẻ là xu thế, hiểu hành vi và
sự phát triển của con người một cách đơn giản, máy móc. Đối với những người theo học
thuyết nguồn góc sinh học thì nhân tố sinh học, mà trước hết là tính di truyền là nhân tố có
tác dộng quyết định. Sai lầm cơ bản của thuyết này là tuyệt đối hóa ảnh hưởng của yếu tố
di truyền
Theo thuyết duy cảm
Môi trường là yếu tố quyết định sự phát triển nhân cách , giáo dục là van năng
Quan điểm của John locke (là đại biểu của triết học duy vật duy cảm Anh) đưa ra
nguyên lí “tabula- tấm bảng sạch’, linh hồn chúng ta khi mới sinh ra, có thể nói như một
tờ giấy trắng, không có một kí hiệu hay ý niệm nào cả. mọi tri thức con người không phải
là bẩm sinh, mà là kết quả của nhận thức. chúng dần có được nhờ kinh nghiệm. mọi quá
trình nhận thức đều phải xuất phát từ các co quan trong cảm tính. Linh hồn con ngưởi
không đơn giản là tấm bảng sạch hoàn toàn thụ động trướn hoàn cảnh xung quanh, mà có
vai trò nhất định.
1

Trang 13
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách
Thuyết này cho rằng trẻ em như tờ giấy trắng, môi trường và giào dục tác động như thế
nào thì sẽ phát triển như thế ấy. sai lầm cơ bản của thuyết này là tuyệt đối hóa ảnh hưởng
của yếu tố môi trường và giáo dục
Giáo dục tự do
Quan niệm của Jean Jacques Rousseau (nhà triết học khai sáng Pháp) đề nghị nên giáo
dục xã hội theo nguyên tắc tự nhiên và nguyên tắc tự do. Theo ông, khi mới sinh ra con
người có những khuynh hướng tự nhiên và tích cực.Ông cho rằng trẻ em không thụ động
tiếp nhận các chỉ dẫn của người lớn, mà tham gia một cách tích cực và chủ động vào việc
hình thành trí tuệ và nhân cách của mình. Mọi sự can thiệp của người lớn vào sự phát triển
của trẻ em đều có hại. vậy lên ông mướn giáo dục theo nguyên tắc tự do.
Quan điểm của Macxit về vai trò của giáo dục
T Đóng góp lớn lao nhất của Mác về mặt giáo dục là đã phát hiện ra bản chất xã hội của
con người.
Đó chính là quy luật của sự phát triển và giáo dục nhân cách con người trong xã hội loài
người, đó là sự khác biệt giữa con người và con vật.
- C.Mác đã tiếp thu tất cả những quan điểm duy vật của nhân loại về con người và bản
chất người. Mác cũng thừa nhận rằng con người là một thực tế tự nhiên, là một thực thể
sinh vật do quá trình biến đổi của hoàn cảnh tự nhiên và hoàn cảnh xã hội.
- Song, Mác lại khẳng định hoàn cảnh tạo ra con người trong chừng mực con người tạo
hoàn cảnh , nghĩa là cái hoàn cảnh tạo ra con người ấy cũng chính là do con người đã tạo
ra.
- Theo Mác, trong quá trình hình thành nhân cách, điều kiện quyết định là hoạt động thực
tiễn, hoạt động lao động và hoạt động xã hội. Đó là quan điểm biện chứng để phân biệt
Mác với các quan điểm phi Mác xít. Hoạt động xã hội và lao động vừa là điều kiện để
hình thành nhân cách vừa là thước đo, đánh giá tính chủ thể của mỗi cá nhân.
- Đối với giáo dục, giai cấp vô sản ý thức sâu sắc rằng muốn đào tạo con người phát triển
toàn diện, muốn xây dựng một nền giáo dục mới thì phải tiến hành cuộc cách mạng chính
trị, cách mạng xã hội làm thay đổi quan hệ xã hội, thiết lập xã hội mới, và chỉ trên quan hệ

xã hội đó mới xây dựng nhân cách của con người xã hội tương lai được.
1
Trang 14
Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách
- Luận đề của Mác về bản chất xã hội của con người là cơ sở lý luận để các nhà giáo dục
hiểu rõ bản chất, động lực, các quy luật của quá trình giáo dục, dạy học xã hội chủ nghĩa.
Chỉ có quán triệt sâu sắc luận đề bản chất xã hội của con người mới có thể giải thích được
tất cả những hiện tượng giáo dục vô cùng phức tạp đã xảy ra trong xã hội loài người.
- Ở góc độ giáo dục, phải thấy hết những đóng góp của Mác là cung cấp cho khoa học
giáo dục một phương pháp luận vững chắc để xây dựng lý luận giáo dục xã hội chủ nghĩa,
xây dựng nền giáo dục xã hội chủ nghĩa và tổ chức thực hiện quá trình giáo dục con người
của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
T Mác đã vạch ra quy luật tất yếu của xã hội tương lai là đào tạo, giáo dục những con
người phát triển toàn diện.
- Con người phát triển toàn diện là mơ ước của con người, vì con người có ý thức vươn
tới sự toàn diện và đó là sự khác biệt giữa con người và con vật.
- Tri thức tối thiểu và cũng là ước muốn tối đa của người nguyên thủy là kinh nghiệm lao
động hái lượm, săn bắt, tổ chức thị tộc, bộ lạc, lễ nghi tôn giáo. Đến khi xã hội loài người
phân chia giai cấp thì quá trình giáo dục cũng được phân chia theo giai cấp.
- Việc đào tạo, giáo dục các thế hệ phát triển toàn diện là điều kiện để phát triển xã hội
xây dựng kinh tế, văn hóa, khoa học kĩ thuật.
- Theo tinh thần của Mác, con người phát triển toàn diện sẽ là mục đích của nên giáo dục
cộng sản chủ nghĩa, và con người phát triển toàn diện là người phát triển đầy đủ, tối đa
năng lực sẳn có về tất cả mọi mặt đạo đức, trí tuệ, thể chất, tình cảm, nhận thức, năng lực,
óc thẩm mỹ và có khả năng cảm thụ được tất cả những hiện tượng tự nhiên, xã hội xảy ra
xung quanh, đồng thời có thể sáng tạo ra những cái mới theo khả năng của bản thân.
- Vì vậy, con người phát triển toàn diện theo quan điểm của Mác, trước hết phải là sự phát
triển không ngừng của tất cả các mặt. song, điều đó không mâu thuẩn với sự phát triển
thiên hướng, phát triển năng khiếu chuyên biệt, mà ngược lại, sự phát triển các mặt là tạo
điều kiện cho các năng lực chuyên biệt càng hoàn thiện và càng phát triển tốt hơn.

T Mác đã vạch ra những nguyên tắc cơ bản để đào tạo, giáo dục những con người phát
triển toàn diện của xã hội tương lai.
1
Trang 15

×