Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 131 trang )



TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ
LUẬN CHÍNH TRỊ


NGUYỄN GIANG TUỆ MINH



QUAN HỆ LỢI ÍCH KINH TẾ GIỮA NGƯỜI LAO ĐỘNG
VÀ NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY



LUẬN VĂN TH.S KINH TẾ




Người hướng dẫn: Chu Văn Cấp





Hà Nội 2006





3
BẢNG QUY ƢỚC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CNXH:
Chủ nghĩa xã hội
CNH-HĐN:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CĐ:
Cao đẳng
CPH:
Cổ phần hoá
DNCVĐTNN:
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
DN:
Doanh nghiệp
ĐTNN:
Đầu tư nước ngoài
ĐH:
Đại học
ILO:
Tổ chức Lao động Thế giới
KCN:
Khu công nghiệp
KCX:
Khu chế xuất
LĐTB&XH:
Lao động Thương binh và Xã hội
HĐLĐ:

Hợp đồng lao động
LĐLĐ:
Liên đoàn Lao động
TLĐLĐVN:
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam
TNHH:
Trách nhiệm hữu hạn
FDI:
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài





4
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam đã chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, bắt đầu từ việc thông
qua Luật Đầu tư nước ngoài vào năm 1987 và thực thi từ đầu năm 1988, trong
gần 20 năm qua khu vực đầu tư nước ngoài đã phát triển nhanh chóng và
được công nhận là bộ phận cấu thành của nền kinh tế với những đóng góp
không nhỏ vào sự phát triển chung của nền kinh tế đất nước. Sự tăng trưởng
về số lượng cũng như qui mô các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
trong cả nước đã góp phần làm tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu,
nâng cao trình độ công nghệ của nền kinh tế, chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong
nước, đóng góp ngân sách cho nhà nước… và tạo ra hàng trăm ngàn chỗ làm
việc mới cho người lao động, góp phần đáng kể vào việc giải quyết việc làm,
giảm bớt tình trạng thất nghiệp hiện nay ở nước ta. Thu nhập bình quân của
người lao động làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

nhìn chung cao hơn lao động làm việc trong các loại hình doanh nghiệp khác,
đời sống vật chất của một bộ phận công nhân lao động được cải thiện hơn
trước.
Bên cạnh những mặt tích cực trên, những năm qua mâu thuẫn về mặt
kinh tế - xã hội trong khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng
đã xuất hiện và có xu hướng gia tăng đưa đến tình trạng đình công trái luật
của công nhân mà nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ những mâu thuẫn về lợi
ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao động. Tình hình đó
không những gây tổn hại cho người lao động, làm thiệt hại kinh tế cho doanh
nghiệp, mà còn gây ảnh hưởng xấu tới tình hình trật tự, an ninh xã hội, môi
trường đầu tư, trước hết là khung khổ pháp luật thu hút nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài.


5
Xuất phát từ thực tiễn nêu trên và nhằm góp phần giải toả những mâu
thuẫn kinh tế - xã hội trong khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,
tôi chọn đề tài “Quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng
lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” làm đề tài luận
văn thạc sĩ kinh tế chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề lợi ích và lợi ích kinh tế được bắt đầu thu hút được sự quan tâm
nghiên cứu của các nhà khoa học Việt Nam từ đầu những năm 1980, nhất là
từ khi Đảng ta quyết định thực hiện đường lối đổi mới, phát triển nền kinh tế
hàng hoá theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Các công trình
nghiên cứu có liên quan trực tiếp đến vấn đề lợi ích và doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài đã được công bố trong các cuốn sách:
“Bàn về các lợi ích kinh tế” do Đào Duy Tùng chủ biên (1982), Nhà
xuất bản Sự thật, Hà Nội.
“Những giải pháp chính trị, kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư

nước ngoài vào Việt Nam do Nguyễn Khắc Thân, Chu Văn Cấp đồng chủ
biên (1996), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội.
“Lợi ích động lực phát triển xã hội”do Nguyễn Linh Khiếu chủ biên
(1999), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
“Tạo việc làm cho người lao động qua trực tiếp đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam” do Bùi Anh Tuấn biên soạn, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội,
2000.
- Dương Thuỵ Mỹ, “Mấy vấn đề về người lao động Việt Nam trong các
xí nghiệp liên doanh với nước ngoài” (Tạp chí Công tác tư tưởng và văn hoá,
số 6/1995).
- Trần Đình Giám, “Nguyên nhân chính dẫn đến đình công ở một số xí
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài” (Tạp chí Lao động và xã hội, số 6/1996).


6
- Phụng Hiệp, “Xây dựng mối quan hệ hài hòa giữa đại diện lao động
và người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp” (Tạp chí Lao động và
Công đoàn, số 1/1997).
- Ngoài ra còn có một số cuộc hội thảo, hội nghị liên quan đến vấn đề
quan hệ lợi ích trong các doanh nghiệp.
Các công trình nghiên cứu nói trên đã tiếp cận vấn đề lợi ích, lợi ích
kinh tế. Vai trò của lợi ích trong sự phát triển của xã hội, của con người và
mối quan hệ giữa các lợi ích dưới nhiều góc độ khác nhau. Các công trình viết
về doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đề cập đến loại hình doanh
nghiệp, vai trò vị trí của nó…, và cũng mới chỉ đề cập đến vấn đề lợi ích một
cách chung chung đặt trong tổng thể các mối quan hệ khác liên quan đến
người lao động và người sử dụng lao động. Nhìn chung còn ít công trình
nghiên cứu vấn đề quan hệ lợi ích kinh tế giữa người sử dụng lao động và
người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở
nước ta dưới góc độ kinh tế chính trị. Vì vậy đề tài luận văn vẫn cần thiết và

có ý nghĩa lý luận thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích: Làm rõ bản chất, nội dung và thực trạng quan hệ lợi ích
kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao động trong các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp nhằm
giải quyết tốt quan hệ lao động và lợi ích giữa người lao động và người sử
dụng lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
* Nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận về lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế,
các hình thức thể hiện quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử
dụng lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta.


7
+ Phân tích thực trạng về quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động và
người sử dụng lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở nước
ta trong thời gian qua.
+ Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm giải quyết tốt quan hệ lợi ích
kinh tế giữa người lao động và người sử dụng lao động trong doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài .
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Lợi ích kinh tế và quan hệ lợi ích kinh tế giữa
người lao động và người sử dụng lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài ở nước ta.
* Phạm vi nghiên cứu: được giới hạn trong thời gian từ khi có Luật
đầu tư nước ngoài ở Việt Nam (1987) đến 2005. Đặc biệt quan tâm tới các số
liệu 2000-2005.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, các quan
điểm đường lối của Đảng, nhà nước Việt Nam và các lý luận kinh tế liên quan.

* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp truyền
thống của khoa học kinh tế chính trị, nhất là phương pháp khảo sát, phân tích,
so sánh, đối chiếu, thống kê, tổng hợp , khái quát vấn đề và nghiên cứu tổng
kết thực tiễn
6. Đóng góp của luận văn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu
tham khảo cho việc hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội nhằm điều
chỉnh quan hệ lợi ích kinh tế, xây dựng quan hệ lao động lành mạnh trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Ngoài ra, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các
nghiên cứu, giảng dạy các chuyên đề kinh tế liên quan.


8
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương, 7 tiết.


9
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ QUAN HỆ LỢI ÍCH
KINH TẾ GIỮA NGƢỜI LAO ĐỘNG VÀ NGƢỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG
TRONG DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƢ NƢỚC NGOÀI
1.1. Căn cứ lý luận của quan hệ lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp
có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài
1.1.1. Những luận điểm cơ bản về lợi ích kinh tế
Con người ngay từ khi mới xuất hiện đã tiến hành các hoạt động kinh
tế. Hoạt động kinh tế luôn luôn giữ vai trò trung tâm trong mọi hoạt động xã
hội và nó là cơ sở các hoạt động văn hoá, tư tưởng, chính trị…

Trong hoạt động kinh tế, con người đều có động cơ. Động cơ thúc đẩy
con người hành động. Mức độ hành động (mạnh hay yếu) tuỳ thuộc vào mức
độ chín muồi của động cơ, mà sự chín muồi của động cơ lại phụ thuộc vào
nhận thức và thực hiện lợi ích của họ. Có nhiều loại động cơ: kinh tế, chính
trị, tư tưởng, tinh thần… Nhưng suy cho cùng thì động cơ kinh tế quyết định
sức mạnh và nội dung của các động cơ khác. Ph. Ăngghen: xét đến cùng, mọi
cuộc cách mạng được tiến hành “thì trước hết vấn đề là ở những lợi ích kinh
tế”.
• Lợi ích và lợi ích kinh tế
- Lợi ích: Trong các tác phẩm của C.Mác thì những từ: lợi ích, ích lợi,
có lợi được sử dụng như là cùng nghĩa và có thể thay thế nhau. Lợi ích không
phải là một cái gì trừu tượng và có tính chất chủ quan, mà cơ sở của lợi ích là
nhu cầu của con người. Con người có nhiều loại nhu cầu do đó có nhiều loại
lợi ích. Ví dụ: nhu cầu vật chất dẫn đến lợi ích vật chất, nhu cầu chính trị dẫn
đến lợi ích chính trị, nhu cầu văn hoá dẫn đến lợi ích văn hoá tinh thần…


10
- Lợi ích kinh tế: Lợi ích kinh tế nảy sinh trong điều kiện tồn tại xã hội
của con người, những nhu cầu vật chất của con người khi được xác định về
mặt xã hội thì nó trở thành cơ sở, nội dung của lợi ích kinh tế.
Lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất, nó được qui
định một cách khách quan bởi phương thức sản xuất, bởi hệ thống quan hệ sản
xuất, trước hết là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất. Như vậy, lợi ích kinh tế
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của các chủ thể lợi ích kinh tế. V.I. Lênin
trong tác phẩm: Nội dung kinh tế của chủ nghĩa dân tuý và Sự phê phán trong
cuốn sách của ông Xtơ-ru-vê về nội dung đó, đã viết: “Lợi ích của giai cấp này
hay giai cấp khác xác định một cách khách quan theo vai trò mà họ có trong hệ
thống quan hệ sản xuất, theo những hoàn cảnh và điều kiện sống của họ”.
Là hình thức biểu hiện của quan hệ sản xuất, lợi ích kinh tế thể hiện

trong tất cả 4 khâu của quá trình tái sản xuất xã hội: sản xuất, phân phối, trao
đổi và tiêu dùng. Phải khẳng định rằng: ở đâu có hoạt động sản xuất kinh
doanh thì ở đó có lợi ích kinh tế và chủ thể hoạt động sản xuất kinh doanh
cũng là chủ thể các lợi ích kinh tế.
• Vai trò của lợi ích kinh tế trong sự phát triển kinh tế - xã hội
Lợi ích kinh tế là một trong những vấn đề sống còn của sản xuất và đời
sống. Lịch sử đã từng chứng minh, động lực thúc đẩy con người hành động
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội không phải là cái gì khác ngoài lợi ích
của họ. Chính những lợi ích đó đã gắn bó con người với cộng đồng của mình
và tạo ra ở con người những sự kích thích, thôi thúc, khát vọng và sự say mê
trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Lợi ích kinh tế được nhận thức và thực hiện đúng thì nó sẽ là động lực
kinh tế thúc đẩy con người hành động. (lưu ý: nhận thức lợi ích là quá trình
mang tính chủ quan. Cái khách quan được biểu hiện dưới dạng chủ quan). Khi
các lợi ích kinh tế được nhận thức và thực hiện đúng sẽ làm nảy sinh các hoạt


11
động làm chủ, đồng thời tạo ra sự say mê, kích thích hoạt động thực tiễn của
con người. Do đó, lợi ích kinh tế thể hiện như là một trong những động lực cơ
bản của sự tiến bộ xã hội nói chung, phát triển sản xuất kinh doanh nói riêng.
Ph. Angghen cho rằng: Lợi ích kinh tế đó là những động cơ đã lay chuyển
những quần chúng đông đảo. Và khi chúng biến thành sự kích thích hoạt động
của con người “thì chúng lay chuyển đời sống nhân dân”.
Lợi ích kinh tế còn có vai trò quan trọng trong việc củng cố, duy trì các
mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể sản xuất kinh, doanh. Một khi con người
(chủ thể) tham gia vào các hoạt động kinh tế đều nhằm đạt tới các lợi ích nhất
định. Đạt được những lợi ích kinh tế tương xứng với kết quả sản xuất, kinh
doanh thì mới đảm bảo nâng cao tính ổn định và sự phát triển của các chủ thể
lợi ích. Ngược lại, khi không mang lại lợi ích hoặc lợi ích không được thực

hiện đầy đủ thì sẽ làm cho các mối quan hệ giữa các chủ thể xuống cấp. Nếu
tình trạng đó kéo dài thì sớm muộn sẽ dẫn đến tình trạng tiêu cực trong hoạt
động sản xuất kinh doanh.
1.1.2. Các mối quan hệ cơ bản trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư quốc tế mà nhà đầu tư
nước ngoài góp một lượng vốn đủ lớn để thiết lập các cơ sở sản xuất, kinh
doanh: nhờ đó cho phép họ trực tiếp tham gia quản lý, điều hành đối tượng
mà họ bỏ vốn đầu tư, cùng với các đối tác nước nhận đầu tư chia sẻ rủi ro và
thu lợi nhuận từ những hoạt động đầu tư đó.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có một số đặc điểm sau:
Một là: Về vốn góp của chủ ĐTNN, phải đóng góp một lượng vốn tối
thiểu theo qui định của từng nước, qua đó để họ có quyền được trực tiếp tham
gia điều hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư.


12
Các nước phương Tây nói chung, qui định lượng vốn này phải chiếm
trên 10% cổ phần của doanh nghiệp nước ngoài thì mới được xem là đầu tư
trực tiếp. Có nước qui định là 25%, hoặc có nước qui định có cổ phần tuy
dưới 25% nhưng nếu có một trong những điều kiện sau đây đều được xem là
đầu tư trực tiếp: cử nhân viên quản lý hoặc nhân viên kỹ thuật đến doanh
nghiệp đầu tư, cung cấp kỹ thuật, cung cấp nguyên liệu; mua sản phẩm của
doanh nghiệp, giúp đỡ tiền vốn, cho vay hoặc đầu tư theo hình thức thương
mại có hoàn trả… [13].
Hai là, về quyền điều hành quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài phụ thuộc vào mức vốn góp. Nếu nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100%
vốn thì doanh nghiệp đó hoàn toàn do chủ đầu tư nước ngoài điều hành, có
thể trực tiếp hoặc thuê người quản lý.
Ba là, chia lợi nhuận, nhà đầu tư nước ngoài thu được lợi nhuận đầu tư

phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Lãi, lỗ được
phân chia theo tỷ lệ góp vốn trong pháp định, sau khi đã trừ đi thuế lợi tức và
các khoản đóng góp cho nước chủ nhà.
Bốn là: về hình thức đầu tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài thường được áp
dụng dưới các hình thức: Hợp đồng hợp tác kinh doanh; doanh nghiệp liên
doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Doanh nghiệp có vốn ĐTNN tại Việt Nam được hiểu là các đơn vị kinh
tế, cơ sở sản xuất, kinh doanh hàng hoá dịch vụ một cách hợp pháp theo nhu
cầu của thị trường, có sự tham gia và góp vốn của bên quản lý nước ngoài với
tỷ lệ góp vốn không thấp hơn 30% (trường hợp đặc biệt không thấp hơn 20%)
vốn pháp định của doanh nghiệp, được thành lập và hoạt động theo Luật Đầu
tư nước ngoài tại Việt Nam và các văn bản pháp luật liên quan, nhằm thu lợi
nhuận hoặc mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội.


13
Theo khái niệm trên hiện nay doanh nghiệp có vốn đầu nước ngoài ở
Việt Nam chủ yếu có hai loại: doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài.
• Doanh nghiệp liên doanh:
Ở đây chỉ xin đề cập đến hình thức liên doanh theo tỷ lệ vốn có mức độ
khác nhau giữa các bên chủ nhà với các cá nhân và các tổ chức kinh tế nước
ngoài. Theo điều 2 chương 1- Luật Đầu tư nước ngoài đã được sửa đổi thì
doanh nghiệp liên doanh “là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác
thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa
Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước
ngoài, hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp
tác với doanh nghiệp Việt Nam, hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với
nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh”.
Như vậy theo văn bản pháp luật đó, khái niệm “Doanh nghiệp liên

doanh” được hiểu là sự liên doanh, liên kết giữa các tổ chức kinh tế và cá
nhân Việt Nam với các tổ chức kinh tế và cá nhân nước ngoài thuộc một hay
nhiều quốc tịch khác nhau. Những trường hợp trái với qui định này thì không
được coi là doanh nghiệp liên doanh.
Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức Công ty trách
nhiệm hữu hạn và là pháp nhân Việt Nam. Mỗi bên liên doanh chịu trách
nhiệm đối với bên kia. Như vậy thực chất của doanh nghiệp liên doanh với
nước ngoài là doanh nghiệp hỗ hợp do hai hoặc nhiều bên cùng đóng góp tài
sản (dưới hình thức tiền mặt, thiết bị máy móc, nhà xưởng, đất đai) cùng quản
lý, cùng phân phối lợi nhuận, cùng chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ tài sản đóng góp. Vì
thế ở Trung Quốc, doanh nghiệp thuộc loại này được gọi là doanh nghiệp hùn
vốn.
• Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài


14
Doanh nghiệp có vốn nước ngoài 100% là doanh nghiệp của nhà đầu tư
nước ngoài được Chính phủ Việt Nam phê chuẩn việc thành lập, đầu tư 100%
vốn, tự chịu lỗ lãi. Dù là 100% vốn nước ngoài nhưng doanh nghiệp thuộc
loại này cũng là một pháp nhân Việt Nam, hoạt động theo luật pháp Việt
Nam, được luật pháp Việt Nam bảo vệ. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
về thực chất là một “giao kèo” một “hợp đồng cho thuê” có điều kiện của
nước chủ nhà với các nhà đầu tư nước ngoài.


15
• Đặc điểm quan hệ sản xuất của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
Cũng như bất kỳ khu vực kinh tế nào khác, quan hệ sản xuất của khu
vực kinh tế có vốn ĐTNN cũng bao gồm ba mỗi quan hệ là quan hệ về sở
hữu, quan hệ về quản lý và quan hệ về phân phối. Các quan hệ này có những

điểm chung, nhưng cũng có những đặc điểm riêng biệt của nó. Sở dĩ như thế
là vì, khu vực có vốn ĐTNN có nhiều yếu tố đặc thù về kinh tế, văn hoá, con
người. Chính vì vậy, việc nghiên cứu những nét đặc thù của quan hệ sản xuất
trong khu vực kinh tế có vốn ĐTNN để có những qui định chính sách phù hợp
là vấn đề cần thiết cả về lý luận và thực tiễn.
Thứ nhất, về quan hệ sở hữu.
Cũng như các khu vực kinh tế khác, một trong những nội dung của
quan hệ sản xuất là quan hệ sở hữu các nguồn vốn. Trong khu vực có vốn
ĐTNN sở hữu vốn thuộc về nhà đầu tư nước ngoài. Khi nói về khu vực kinh
tế có vốn ĐTNN, trước hết người ta thường nhấn mạnh là nhà đầu tư vốn, có
tư bản. Chính điều đó đã hấp dẫn việc thu hút đầu tư nước ngoài.
Rõ ràng là, muốn đầu tư ra nước ngoài, nhà đầu tư trước hết phải có
vốn, có tư bản, nhà đầu tư mới có thể xây dựng được nhà máy, mua sắm trang
thiết bị, thuê công nhân tại các nước sở tại để tiến hành sản xuất kinh doanh.
Tuy nhiên cũng cần phải hiểu thêm, vốn của nhà đầu tư bao gồm không
chỉ vốn riêng có của nhà đầu tư nước ngoài mà còn có cả nguồn vốn mà nhà
đầu tư vay của các ngân hàng và dân cư ở nước ta. Vấn đề là cần có một môi
trường pháp lý để bảo toàn vốn cho chủ sở hữu vốn đó.
Thứ hai, về quan hệ quản lý
Dù nhà đầu tư nước ngoài hoạt động bằng nguồn vốn tự có hay nguồn
vốn đi vay, về mặt pháp lý họ phải chịu trách nhiệm bảo toàn và phát triển


16
nguồn vốn của mình. Chính vì thế các nhà đầu tư nước ngoài là người chủ
hoặc đóng vai trò quan trọng trong công tác điều hành, quản lý doanh nghiệp.
Tuy nhiên trong điều kiện hiện nay, cùng với việc tách quyền sở hữu và
quyền sử dụng vốn là việc tách rời chủ sở hữu doanh nghiệp với chủ kinh
doanh. Ngày càng có nhiều nhà đầu tư thuê giám đốc điều hành hoạt động của
doanh nghiệp của mình ở các nước sở tại.Thông qua hoạt động đó nhà kinh

doanh vẫn bảo tồn được quyền sở hữu vốn của họ, đồng thời, những giám đốc
điều hành, đội ngũ cán bộ quản lý tiếp thu được kỹ năng điều hành sản xuất
kinh doanh hiện đại.
Thứ ba, về quan hệ phân phối.
Phân phối trong khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện
theo nguyên tắc của kinh tế thị trường, đó là phân phối dựa vào sở hữu và
đóng góp các nguồn lực cho hoạt động sản xuất, kinh doanh.
• Các mối quan hệ cơ bản của kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Để hiểu rõ thêm bản chất của kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, cần
thiết phải làm rõ các mỗi quan hệ cơ bản trong hoạt động của kinh tế có vốn
đầu tư nước ngoài.
Một là, quan hệ giữa nước chủ nhà với các nhà đầu tư nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại nước ta có những vai trò tích cực và trở
thành nhân tố thúc đẩy CNH-HĐH nền kinh tế quốc dân, thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong họat động
đầu tư trực tiếp nước ngoài, ta thấy nổi lên mối quan hệ cơ bản, quan trọng-
quan hệ giữa nước chủ nhà với nhà đầu tư nước ngoài. Trong mối quan hệ
này, các nhà đầu tư là những người chủ sở hữu các nguồn vốn đầu tư và mục
đích đầu tư của họ là nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Trái lại, với tư cách là nước
chủ nhà, nước nhận đầu tư có quyền xem xét và quyết định cho phép đầu tư


17
(kể cả ngành nghề, địa bàn đầu tư…) trên đất nước mình và nước chủ nhà có
thể dùng luật pháp của mình để điều chỉnh của các dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Từ đây cho thấy: mối quan hệ giữa nước chủ nhà và nhà đầu tư trong
hoạt động kinh tế này là rất bình đẳng và về nguyên tắc không ai có thể dùng
ý chí của mình để áp đặt cho các đối tác của mình.
Quan hệ giữa nước chủ nhà với các nhà đầu tư nước ngoài còn thể hiện
ở mối quan hệ về lợi ích giữa hai bên.

Theo đuổi và bằng mọi cố gắng để thu được lợi ích kinh tế cao nhất là
mục tiêu đặt ra của cả các bên liên quan đến hoạt động đầu tư. Tuy vậy, trên
thực tế một dự án trực tiếp đầu tư nước ngoài chỉ có thể được thực thi khi lợi
ích kinh tế được phân chia một cách hợp lý giữa nhà đầu tư nước ngoài và
nước chủ nhà - nước nhận đầu tư. Điều này lại phụ thuộc vào việc giải quyết
tốt mối quan hệ giữa quyền sở hữu với quyền điều hành quản lý sản xuất kinh
doanh và phân chia lợi ích cho các bên.
Hai là, quan hệ lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Quan hệ lao động trước hết là quan hệ giữa giới quản lý, người sử dụng
lao động và người lao động, quan hệ giữa chủ sở hữu hay là đại diện của chủ
sở hữu với người lao động làm thuê. Mối quan hệ này được thực hiện thông
qua hợp đồng lao động giữa mỗi công nhân và người chủ, cũng như hợp đồng
lao động tập thể giữa đại diện chủ sở hữu và đại diện người lao động.
Theo quan niệm “truyền thống” thì quan hệ giữa chủ (người sử dụng
lao động) - thợ (người làm công, làm thuê) là “quan hệ bóc lột”. Song trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN thì quan niệm về
“quan hệ bóc lột” đã có sự thay đổi và có sự điều chỉnh. Điều này được lý giải
bởi bản chất của nhà nước XHCN - Nhà nước của dân, do dân, vì dân - do
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, luôn luôn kiên trì mục tiêu, lý tưởng: Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo định hướng


18
XHCN, tiến tới xoá bỏ chế độ người bóc lột người. Từ đó, nhà nước có thể sử
dụng pháp luật, áp dụng các chính sách, biện pháp cần thiết để hạn chế “sự
bóc lột” đến mức có thể chấp nhận được trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa giới quản lý, người sử dụng lao động và
người lao động trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN tốt hay xấu, phần lớn
tuỳ thuộc vào:
- Trình độ tổ chức, quản lý lao động tại doanh nghiệp.

- Quyền và trách nhiệm của tổ chức công đoàn tại doanh nghiệp.
- Giải quyết thoả đáng mối quan hệ lợi ích giữa giới quản lý và người
lao động (đặc biệt là lợi ích đối với người lao động).
Mối quan hệ này còn thể hiện ở chỗ: hoạt động đầu tư trực tiếp nước
ngoài lấy hiệu quả kinh tế làm mục tiêu tối ưu, trong đó “nhân tố con người”
giữ vai trò quyết định, vì thế trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp có
vốn ĐTNN cũng góp phần tích cực vào việc đào tạo một đội ngũ công nhân,
chuyên gia có khả năng lao động, tay nghề cao và có tác phong, kỷ luật công
nghiệp… làm tăng thêm tiềm lực cho nền kinh tế quốc dân.
1.2. Quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động và người sử dụng
lao động trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là một loại hình kinh tế mới ở
nước ta, các mối quan hệ lợi ích kinh tế trong các doanh nghiệp này có đặc
thù riêng, do tính đa dạng về kinh tế, văn hoá và ngôn ngữ trong quan hệ giữa
người lao động và người sử dụng lao động tại các doanh nghiệp có vốn
ĐTNN. Để làm rõ về mỗi quan hệ lợi ích kinh tế giữa người lao động và
người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp này, trước hết ta cần làm rõ
lợi ích kinh tế của từng chủ thể:


19
1.2.1. Lợi ích kinh tế của người lao động trong doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài
Người lao động bao gồm tất cả những người làm việc với các chủ sử
dụng lao động nhằm mục đích lấy tiền và thuộc quyền điều khiển của người
chủ trong thời gian làm việc. Người lao động có thể là: cán bộ, nhân viên làm
công tác quản lý; những người thợ có chuyên môn tay nghề làm những công
việc kỹ thuật; những lao động phổ thông làm những công việc giản đơn không
đòi hỏi có khả năng hay qua đào tạo chuyên môn.
Người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là

một bộ phận của lực lượng công nhân lao động nước ta. Cùng với sự tăng
nhanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, số lượng người lao
động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng tăng lên không
ngừng. Tính đến hết năm 2005, đã có khoảng 1 triệu lao động làm việc trong
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài [10, tr.153].
Cũng giống như những người lao động Việt Nam khác, người lao động
trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có nhu cầu làm việc và
mong muốn được hưởng lợi ích kinh tế xứng đáng với thành quả lao động mà
công sức họ đã bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Lợi ích kinh tế của
người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thể
hiện với tư cách là từng cá nhân, đồng thời với tư cách là tập thể thông qua tổ
chức công đoàn. Luật Lao động của nước ta đã qui định đầy đủ phương thức
hợp đồng lao động giữa đại diện doanh nghiệp và người lao động, cách tính
tiền lương và trả lương, bảo hiểm xã hội, quyền và nghĩa vụ của người lao
động đối với doanh nghiệp, kể cả quyền được đình công. Người lao động cần
có nhận thức đúng lợi ích, quyền lợi và những nghĩa vụ của mình trong các
doanh nghiệp có vốn ĐTNN, bởi vì thành công của doanh nghiệp cũng đồng


20
thời là sự đảm bảo thu nhập ngày càng gia tăng và điều kiện làm việc ngày
càng được cải thiện đối với họ.
- Việc làm ổn định:
Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được
thừa nhận là việc làm.
Việc làm là vấn đề mọi người lao động đều quan tâm vì nó là tiền đề để
có thu nhập và thông qua công việc người lao động mới có cơ hội bộc lộ tài
năng và nâng cao kiến thức. Trong việc làm vấn đề quan trọng đối với người
lao động nhất là tính ổn định và phù hợp. Với việc làm ổn định và công việc
phù hợp với năng lực, trình độ, sức khoẻ của bản thân là điều kiện để người

lao động có cơ hội tăng thu nhập và cải thiện đời sống. Ngược lại việc làm
không thường xuyên, công việc không phù hợp sẽ dẫn tới thu nhập của người
lao động bấp bênh, đời sống không đảm bảo. Vì vậy việc làm trở thành động
lực thúc đẩy người lao động ra sức học tập, nâng cao kỹ năng để có được chỗ
làm việc phù hợp với năng lực, đáp ứng với yêu cầu của doanh nghiệp. Nhu
cầu được làm việc đã gắn người lao động vào với doanh nghiệp, gắn trách
nhiệm của họ với sản phẩm cuối cùng, họ ý thức rõ ràng về hiệu quả công
việc và trách nhiệm của mình trước doanh nghiệp.
- Thu nhập:
Thu nhập là toàn bộ những khoản tiền mà người lao động nhận được từ
doanh nghiệp bao gồm tiền lương, tiền thưởng, tiền làm thêm giờ, các loại trợ
cấp hay được hưởng một phần lợi nhuận của doanh nghiệp.
Tiền lương, tiền công là phần cơ bản nhất trong thu nhập của người lao
động, giúp cho họ và gia đình trang trải các chi tiêu, sinh hoạt, dịch vụ cần thiết.
Tiền lương, tiền công được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người sử dụng
lao động và người có sức lao động phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường.


21
Trong xã hội nói chung và trong nền kinh tế thị trường nói riêng, tiền
lương luôn là mối quan tâm hàng đầu của người lao động trong mọi thành
phần kinh tế. Người lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài nước ngoài thực chất là những người làm thuê, vì thế tiền lương của họ
thực chất là giá cả sức lao động, nên nó chịu ảnh hưởng bởi quan hệ cung-
cầu lao động. Tiền lương là động lực trực tiếp tác động mạnh mẽ, là chất kích
thích quan trọng thiết yếu, điều mà người lao động quan tâm đầu tiên khi thoả
thuận hợp đồng làm việc. Ngưòi lao động sẽ thấy phấn khởi, thoả mãn khi sức
lao động của họ bỏ ra được thù lao xứng đáng, kích thích họ tìm tòi sáng tạo
để không ngừng nâng cao năng suất lao động, không ngừng cống hiến để tăng
thu nhập, nâng cao đời sống của bản thân và gia đình.

Mức lương cụ thể của người lao động được hưởng phụ thuộc vào trình
độ chuyên môn nghiệp vụ, tay nghề và mức độ phức tạp của công việc mà
người đó đang đảm nhận, phụ thuộc vào độ dài ngày lao động và cường độ
lao động… Trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển
mạnh mẽ như hiện nay, những lao động có trình độ chuyên môn, tay nghề cao
sẽ có nhiều cơ hội có được việc làm với mức thu nhập cao và ngược lại,
những lao động giản đơn với tay nghề thấp sẽ khó có thể có được thu nhập
cao như mong muốn.
Trong từng doanh nghiệp mức lương do hai bên (người lao động và
người sử dụng lao động) thoả thuận trong hợp đồng lao động và được trả theo
năng suất lao động, chất lượng và hiệu qủa công việc. Mức lương của người
lao động không được thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước qui định.
Với đặc thù riêng trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, việc
qui định mức lương tối thiểu là vấn đề nhạy cảm bởi vì mức lương tối thiểu
của người lao động được qui định sao cho vừa đảm bảo mức sống của người
lao động vừa khuyến khích được đầu tư. Nếu qui định mức lương tối thiểu


22
quá cao sẽ ảnh hưởng đến việc khuyến khích đầu tư, nhưng qui định quá thấp
sẽ ảnh hưởng tới đời sống của người lao động.
Để đảm bảo công bằng trong trả lương cho người lao động, người sử
dụng lao động phải xây dựng thang, bảng lương và định mức lao động. Số bậc
của thang bảng lương phụ thuộc vào mức độ phức tạp , cấp bậc công việc và
quản lý. Định mức lao động được xây dựng trên cơ sở cấp bậc công việc và
phù hợp với cấp bậc công nhân. Mức lao động qui định là mức lao động trung
bình tiên tiến, đảm bảo số đông người lao động thực hiện được mà không phải
kéo dài thời gian làm việc tiêu chuẩn. Mức lao động mới được sửa đổi, bổ
sung phải được áp dụng thử tối đa không quá 3 tháng, sau đó mới được ban
hành chính thức.

Ngoài tiền lương, người lao động còn được hưởng một khoản tiền do
người sử dụng lao động trích thưởng từ lợi nhuận hàng năm để phân phối lại.
Đây cũng là một biện pháp làm cho người lao động gắn bó với doanh nghiệp,
tạo động lực mới cho sản xuất, đồng thời là sự thừa nhận đóng góp của người
lao động vào giá trị thặng dư của doanh nghiệp.
- Đảm bảo an toàn vệ sinh lao động
Đây là một trong những vấn đề thuộc điều kiện lao động của người lao
động tại doanh nghiệp, có ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ nặng nhọc, căng
thẳng và mệt mỏi khi lao động, trực tiếp tác động đến sức khoẻ và năng suất
lao động của người lao động.
An toàn vệ sinh lao động là người sử dụng lao động phải đảm bảo môi
trường an toàn và vệ sinh lao động, đảm bảo sức khoẻ, an toàn tính mạng cho
người lao động trong thời gian làm việc tại doanh nghiệp. Tạo ra những điều
kiện vệ sinh như thường xuyên giữ cho nơi làm việc của người lao động sạch
sẽ, không gian thoáng đãng, đủ ánh sáng, đạt tiêu chuẩn vệ sinh cho phép về
bụi, hơi, khí độc, phóng xạ, điện từ trường, nóng, ẩm, ồn, độ rung…Vì vậy


23
nếu doanh nghiệp luôn quan tâm cải thiện điều kiện lao động, đảm bảo các
chế độ trang thiết bị, phương tiện bảo vệ cá nhân để người lao động được làm
việc trong điều kiện an toàn vệ sinh, thường xuyên phổ biến và bồi dưỡng
kiến thức về an toàn vệ sinh lao động người lao động, thì sẽ tạo điều kiện để
người lao động được đảm bảo về sức khoẻ, có điều kiện để hoàn thành tốt
công việc của mình, tăng năng suất lao động, tăng thu nhập cho bản thân và
gia đình.
Việc doanh nghiệp đảm bảo về an toàn vệ sinh lao động cũng có nghĩa
là doanh nghiệp đã tạo các điều kiện để bảo vệ và duy trì khả năng lao động
lâu dài của công nhân trong quá trình lao động, là một trong những nguyên
tắc của tái sản xuất sức lao động cho con người.

- Đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, nâng cao trình độ
Đào tạo, bồi dưỡng là hoạt động nhằm trang bị kiến thức căn bản hay
huấn luyện, nâng cao kỹ năng thành thạo nghề nghiệp cho người lao động, để
họ hoàn thành tốt nhiệm vụ hiện tại hoặc phù hợp với nhiệm vụ trong tương
lai của doanh nghiệp.
Việc làm và đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho người lao động là
hai mặt của một vấn đề có liên quan mật thiết với nhau, liên quan mật thiết
đến thu nhập và đời sống của người lao động. Bồi dưỡng, nâng cao trình độ
chuyên môn cho người lao động đồng nghĩa với người sử dụng lao động đã
bỏ ra một khoản ngân sách, một quĩ thời gian giành cho người lao động học
tập nâng cao trình độ.
Việc bồi dưỡng tay nghề, nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao
động có thể tiến hành bằng nhiều hình thức: kèm cặp, bồi dưỡng tại chỗ, mở
các lớp học tại doanh nghiệp, hoặc gửi công nhân đi học tại các cơ sở đào tạo,
có thể là ngắn hạn, có thể là dài hạn, tổ chức tham quan các doanh nghiệp


24
khác hoặc các doanh nghiệp ở nước ngoài, qua đó người lao động cũng có thể
học tập, chia sẻ kinh nghiệm với nhau.
Xét về mặt lợi ích kinh tế thì trước hết người lao động được bồi dưỡng
đào tạo đã được hưởng nguồn lợi từ ngân quĩ đào tạo mà người sử dụng lao
động bỏ ra. Nhưng cái lợi lớn hơn mà người lao động thu được đó là qua việc
bồi dưỡng, nâng cao trình độ thì kỹ năng chuyên môn, trình độ tay nghề của
người lao động được nâng lên. Trên cơ sở đó người lao động có khả năng
nâng cao năng suất lao động, đáp ứng yêu cầu đổi mới công nghệ của doanh
nghiệp, có thể đảm nhận được những công việc ở cấp bậc cao hơn, có cơ hội
thăng tiến và tăng tiền lương cùng các khoản phụ cấp khác.
- Điều kiện nhà ở, đi lại
Quyền có nhà ở là một quyền cơ bản của con người được Nhà nước

công nhận và chăm lo thông qua các chính sách tạo điều kiện để mỗi công dân
tạo lập chỗ ở phù hợp với nhu cầu và khả năng của mình. Người xưa có câu
“An cư lạc nghiệp”, có nghĩa con người phải có chỗ ở ổn định thì mới an tâm
để xây dựng sự nghiệp được. Khó khăn về chỗ ở đối với người lao động sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ, do điều kiện nghỉ ngơi, sinh hoạt không
đảm bảo, đồng thời ảnh hưởng đến trật tự an toàn an ninh xã hội, từ nơi ở đến
nơi làm việc cũng như nơi cư trú. Việc thiếu nhà ở và phương tiện đi lại cũng
trực tiếp ảnh hưởng đến việc tái sản xuất sức lao động sau những giờ làm việc
căng thẳng, ảnh hưởng đến sản xuất, công tác và trực tiếp đến năng suất lao
động.
Nhà ở là chính sách xã hội, nhưng nó lại liên quan đến lợi ích của
người lao động. Vì người lao động có chỗ ở tốt sẽ phấn khởi, yên tâm, ổn
định cuộc sống, có điều kiện nghỉ ngơi, sớm hồi phục sức khoẻ, tái sản xuất
sức lao động, trực tiếp góp phần nâng cao năng suất lao động và chất lượng
sản phẩm, thúc đẩy sản xuất phát triển.


25
- Chế độ bảo hiểm
Chế độ bảo hiểm cho công nhân lao động trong các doanh nghiệp nói
chung và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm bảo hiểm xã hội và
bảo hiểm y tế. Đây là hai loại bảo hiểm bắt buộc, ngoài ra tuỳ theo khả năng
tài chính, doanh nghiệp có thể mua thêm các loại bảo hiểm khác cho công
nhân lao động.
Bảo hiểm xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với người lao động thông
qua việc huy động các nguồn đóng góp để trợ cấp cho họ nhằm khắc phục
những khó khăn về kinh tế do bị ngừng hoặc bị giảm thu nhập gây ra bởi ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, mất khả năng lao động, tuổi già,
chết. Đồng thời đảm bảo chăm sóc y tế và trợ cấp cho các thân nhân trong gia
đình người lao động, để góp phần ổn định cuộc sống bản thân người lao động

và gia đình, góp phần đảm bảo an toàn xã hội.
Chế độ bảo hiểm xã hội là một vấn đề lớn, đóng vai trò quan trọng
trong việc ổn định đời sống của người lao động và gia đình họ trong các
trường hợp như: ốm đau, thai sản, chết, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,
hết tuổi lao động hoặc mất việc làm. Khi tham gia bảo hiểm xã hội người lao
động được:
Khám bệnh và điều trị tại các cơ sở y tế theo chế độ bảo hiểm y tế.
Người lao động ốm đau có giấy chứng nhận của thày thuốc cho nghỉ
việc để chữa bệnh tại nhà hoặc điều trị tại bệnh viện thì được trợ cấp ốm đau
do quỹ bảo hiểm xã hội trả.
Khi có đủ điều kiện về tuổi đời và thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội
người lao động được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng.
Người lao động tham gia bảo hiểm xã hội được nhận các khoản trợ cấp
về bảo hiểm xã hội đầy đủ, thuận tiện và đúng thời hạn.


26
Quỹ bảo hiểm xã hội được hình thành từ huy động của các nguồn đóng
góp của người sử dụng lao động, người lao động và hỗ trợ của nhà nước. Nó
thể hiện nghĩa vụ của người lao động và trách nhiệm của người sử dụng lao
động trong việc thực hiện bảo hiểm xã hội, Nhà nước tham gia thông qua việc
hỗ trợ thêm cho quĩ bảo hiểm xã hội. Mức đóng và mức hưởng bảo hiểm xã
hội có mối liên hệ với chính sách tiền lương hoặc tiền công của người lao
động là thu nhập thường xuyên, ổn định.
Như vậy xét về lợi ích kinh tế, người lao động chỉ phải đóng góp một
khoản nhỏ trong thu nhập của mình vào quĩ bảo hiểm xã hội, nhưng đã được
hưởng một khoản thu nhập thay thế khi họ gặp phải các rủi ro, nhằm đảm bảo
đời sống cho họ và những người trong gia đình.
1.2.2. Lợi ích kinh tế của người sử dụng lao động trong doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

Người sử dụng lao động là những người chủ tư liệu sản xuất đồng thời
là người quản lý điều hành doanh nghiệp, hoặc những người được chủ tư liệu
sản xuất uỷ quyền, thuê mướn, bổ nhiệm để trực tiếp thực hiện công việc
quản lý điều hành doanh nghiệp và được toàn quyền sử dụng và trả công
người lao động. Từ khái niệm này cho thấy người sử dụng lao động trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam hiện nay chủ yếu là
những người được ông chủ người nước ngoài thuê quản lý điều hành sản xuất
doanh nghiệp tại Việt Nam.
Lợi ích kinh tế của người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được thể hiện tập trung ở:
- Lợi nhuận:
Đầu tư nước ngoài là hiện tượng kinh tế mang tính qui luật. Hiện tượng
này được V.I.Lênin gọi là xuất khẩu tư bản. Tức là việc đưa tư bản ra nước

×