Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Các điều kiện kinh tế - xã hội cho sự hình thành và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
=================================




ĐẶNG THỊ TRANG



CÁC ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI
CHO SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
TRI THỨC Ở VIỆT NAM


LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ






HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
=================================



ĐẶNG THỊ TRANG




CÁC ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI
CHO SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM


Luận văn thạc sĩ chuyên ngành : Kinh tế Chính trị
Mã số: 60 31 01



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phí Mạnh Hồng




HÀ NỘI -2012
DANH MỤC BẢNG

Bảng 1.1: So sánh khái quát các thời đại kinh tế 13
Bảng 1.2: Các nhân tố và mối tương tác, động thái của
một hệ thống đổi mới quốc gia 24
Bảng 1.3: Đánh giá SWOT 41
Bảng 1.4: Chỉ số KBE của Hàn Quốc
*
, năm 2000 42
Bảng 1.5: Chỉ tiêu R&D đã thực hiện và dự tính 43
Bảng 2.1: Ma trận KAM tính cho Việt Nam 47
Bảng 2.2: Tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo, năm 2011 61

Bảng 2.3 : Thứ bậc, Điểm đánh giá Chỉ số Đổi mới /Sáng tạo
của Việt nam và các nước xung quanh 66





1
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 3
1. Tính cấp thiết của đề tài 3
2. Tình hình nghiên cứu 4
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7
5. Phương pháp nghiên cứu 8
6. Đóng góp của luận văn 8
7. Kết cấu của luận văn 9
Chương 1. CÁC ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI CẦN THIẾT
CHO SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ TRI THỨC 10
1.1 Bản chất và đặc trưng của kinh tế tri thức 10
1.1.1 Sự xuất hiện nền kinh tế tri thức trên thế giới 10
1.1.2 Bản chất nền kinh tế tri thức 12
1.1.3 Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức 14
1.2 Các điều kiện kinh tế - xã hội có tính chất tiền đề cho việc hình thành, phát
triển kinh tế tri thức. 21
1.2.1 Các điều kiện chung. 22
1.2.2 Cơ hội và thách thức đối với các nước đang phát triển trong việc xác lập
các điều kiện hình thành nền kinh tế tri thức. 30
1.3 Những kinh nghiệm từ quá trình phát triển nền kinh tế tri thức ở một số nước

và bài học đối với Việt Nam 33
1.3.1 Kinh nghiệm của Singapore 33
1.3.2 Kinh nghiệm của Trung Quốc 37
1.3.3 Kinh nghiệm của Hàn Quốc 41
1.3.4 Một số bài học 45
Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM 47
2.1 Phân tích các điều kiện cơ bản hình thành và phát triển nền kinh tế
tri thức ở Việt Nam 47
2.1.1 Môi trường thể chế 52





2
2.1.2 Nguồn nhân lực và hệ thống giáo dục đào tạo 61
2.1.3 Năng lực khoa học, công nghệ và hệ thống đổi mới quốc gia 65
2.1.4 Cơ sở hạ tầng thông tin và truyền thông 68
2.2 Đánh giá chung 71
2.2.1 Những kết quả tích cực 71
2.2.2 Những hạn chế. 74
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY CÁC ĐIỀU KIỆN
HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRI THỨC
Ở VIỆT NAM 78
3.1. Quan điểm về việc chuẩn bị các điều kiện thúc đẩy sự phát triển kinh tế tri
thức ở Việt Nam. 78
3.1.1 Coi việc tích cực chuẩn bị các điều kiện để phát triển kinh tế tri thức là
cách tận dụng tốt nhất cơ hội phát triển mà thời đại mang lại 78
3.1.2 Tích cực hội nhập quốc tế 80

3.1.3. Thực sự coi con người là nguồn nhân lực số một trong phát triển đất
nước 82
3.2 Các giải pháp cơ bản 82
3.2.1 Tiếp tục hoàn thiện môi trường thể chế hướng đến kinh tế tri thức 82
3.2.2 Tăng cường đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng
công nghệ – thông tin hiện đại. 83
3.2.3 Đổi mới căn bản giáo dục - đào tạo để phát triển nhanh nguồn nhân lực
chất lượng cao. 88
3.2.4 Tăng cường hệ thống đổi mới quốc gia để sử dụng có hiệu quả tri thức
phục vụ phát triển. 93
KẾT LUẬN 95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 97






3
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Kinh tế tri thức là một nền kinh tế toàn cầu đang diễn ra rất mạnh, lan toả nhanh
và làm biến đổi sâu sắc các quá trình sản xuất, cách thức kinh doanh và mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội loài người. Đây không chỉ là cách mạng trong kỹ thuật, trong kinh
tế mà còn là cách mạng trong các khái niệm, trong tư duy, trong cách sống, cách làm
việc, trong các quan hệ xã hội…Một phương thức sản xuất của cải mới - khởi phát từ
các nước phát triển, khác hẳn với các phương thức cũ dần xuất hiện. Đi đôi với quá
trình biến đổi lực lượng sản xuất, từ kinh tế công nghiệp chuyển lên nền kinh tế tri
thức, là quá trình toàn cầu hóa; và trên thực tế đang hình thành nền kinh tế tri thức toàn

cầu. Đó là xu thế phát triển tất yếu khách quan, lôi cuốn tất cả các quốc gia, không loại
trừ ai, cho dù là ở những mức độ không đồng đều.
Kinh tế tri thức đặt ra cho các nước đang phát triển những cơ hội và thách
thức hoàn toàn mới: làm sao để nắm lấy thời cơ, phát triển kinh tế tri thức để rút
ngắn khoảng cách so với các nước phát triển. Nhiều nước đã đề ra “chiến lược đi tắt
vào kinh tế tri thức”, “chiến lược công nghiệp hoá dựa vào tri thức”, “sử dụng tri
thức cho phát triển”,
Trong bối cảnh chuyển tiếp đặc biệt ấy của lịch sử thì việc hình thành và
phát triển kinh tế tri thức cũng đã và đang đòi hỏi cần được thực hiện ở ngay chính
Việt Nam. Nhưng hình thành và phát triển kinh tế tri thức lại cần phải có những
điều kiện nhất định của nó. Câu hỏi đặt ra là liệu Việt Nam có thể và có khả năng
tiếp cận nền kinh tế tri thức hay không khi đất nước đang ở trong bối cảnh xuất phát
điểm thấp, là một nước nông nghiệp nghèo nàn quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua
giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Lúc này bài toán “kinh tế tri thức” không còn
có thể giải quyết bằng những phương pháp cũ truyền thống, chúng ta không thể tiến
hành công nghiệp hoá xong rồi mới phát triển kinh tế tri thức như các nước phát
triển. Bởi lẽ, chúng ta không thể chờ đợi các điều kiện cho sự hình thành kinh tế tri
thức ở nước ta tự nó chín muồi được. Do vậy, con đường duy nhất, nút gỡ duy nhất





4
của chúng ta hiện nay là vừa đi tắt đón đầu tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, vừa phải chuẩn bị và xây dựng những điều kiện kinh tế - xã hội cho sự
hình thành và phát triển kinh tế tri thức. Vậy những điều kiện là gì và xây dựng các
điều kiện đó như thế nào lại là một vấn đề cấp bách. Do đó, việc tìm hiểu, nhận
diện, phân tích và đánh giá những điều kiện về kinh tế - xã hội để hình thành và
phát triển kinh tế tri thức, những mặt được và chưa được ở Việt Nam nhằm tìm ra

những giải pháp chiến lược bảo đảm cho đất nước tiến nhanh và vững chắc trở
thành vấn đề thực tiễn cực kì quan trọng.
2. Tình hình nghiên cứu
Mặc dù những ý tưởng về sự xuất hiện một nền “kinh tế mới” “kinh tế hậu
công nghiệp” đã được đề cập từ những năm 70, 80 của thế kỉ XX trong một số công
trình của các nhà tương lai học (điển hình là bộ sách “Cú sốc tương lai”, “Làn song
thứ ba”của Alvin Toffler), song phải đến những năm 90 của thế kỉ XX, vấn đề kinh
tế tri thức mới thực sự thu hút sự quan tâm đặc biệt của giới khoa học và các nhà
hoạch định chính sách ở nhiều quốc gia, đặc biệt là ở các nước đang phát triển.
Nhiều học giả nổi tiếng và các tổ chức quốc tế đã công bố những công trình nghiên
cứu về kinh tế tri thức, trong đó một số tài liệu đã được biên tập và dịch ra tiếng
Việt như: Cuốn “Kinh tế tri thức- Xu thế mới của xã hội thế kỉ XXI”, Nxb Chính trị
quốc gia, năm 2000 do Ngô Quý Tùng biên soạn; Lester Thurow (2000): "Sáng tạo
của cải”; Damel Cohen và Michèle Debonneuil (2001): "Nền kinh tế mới”, chương
trình Diễn đàn kinh tế Việt- Pháp, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Ở nước ta vấn đề kinh tế tri thức cũng ngày càng được nhiều người quan
tâm. Những năm vừa qua, nhiều Hội thảo khoa học, đề tài và bài báo bàn luận về
kinh tế tri thức ở những góc độ khác nhau. Có thể liệt kê một số hoạt động như: Ban
Khoa Giáo TW, Bộ KH, CN &MT, Bộ ngoại giao đồng chủ trì hội thảo “Kinh tế tri
thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, năm 2000. Các nhà khoa học trong
hội thảo đưa ra những vấn đề chung của kinh tế tri thức và đặt ra bài toán phát triển
kinh tế tri thức ở Việt Nam. Tác giả Đặng Mộng Lân viết cuốn “Kinh tế tri thức,
những khái niệm và vấn đề cơ bản”, Nxb Thanh niên, năm 2002; Phạm Quang





5
Phan, “Những vấn đề cơ bản về kinh tế tri thức”, Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài

khoa học, Hà Nội, 2002; PGS.TS Lưu Ngọc Trịnh chủ biên cuốn “Bước chuyển
sang nền kinh tế tri thức ở một số nước trên thế giới hiện nay”, Nxb Giáo dục, năm
2002 tổng kết những bài học kinh nghiệm của các nước trong phát triển kinh tế tri
thức và bài học đối với Việt Nam; Tác giả Nguyễn Kế Tuấn chủ biên cuốn“Phát
triển kinh tê tri thức, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt
Nam”, NXB Chính trị Quôc gia, Hà Nội, 2004. Nghiên cứu kinh tế tri thức nhiều
năm, cho đến năm 2006, PGS.TS Phí Mạnh Hồng chủ trì đề tài “Một số vấn đề cơ bản
về kinh tế tri thức – Cơ hội và thách thức đặt ra cho Việt Nam”. Cho đến năm 2009GS
Đặng Hữu chủ biên cuốn“Phát triển kinh tế tri thức gắn với quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam”, Nxb Khoa học xã hội.
Sau đây tác giả xin trình bày tóm tắt nội dung cơ bản một số công trình
nghiên cứu tiêu biểu của các nhà khoa học:
Cuốn “Kinh tế tri thức- Xu thế mới của xã hội thế kỉ XXI”, Nxb Chính trị
quốc gia, năm 2000 được tác giả Ngô Quý Tùng biên soạn, và Nguyễn Đình Phong,
Trần Văn Long, Nguyễn Thị Tiểu Như biên dịch. Tác giả đã trình bày về nguồn
gốc, nội hàm và đặc điểm của kinh tế tri thức; về xu thế mới – tri thức hoá kinh tế
thế giới; Công nghệ kĩ thuật cao - yếu tố cơ bản hàng đầu hình thành kinh tế tri thức
và mối quan hệ giữa kinh tế tri thức với các vấn đề trọng đại của thế giới. Tác giả
cũng phân tích tám ngành công nghệ kĩ thuật cao chủ yếu của nền kinh tế tri thức
như: Công nghệ thông tin, Công nghệ sinh học, Công nghệ nguồn năng lượng mới
và năng lượng tái sinh, Công nghệ vật liệu mới…
Hội thảo “Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam” do Ban
Khoa Giáo TW, Bộ KH, CN &MT, Bộ ngoại giao đồng chủ trì diễn ra năm 2000.
Hội thảo đã tập trung nhấn mạnh và làm rõ khái niệm, bản chất và xu hướng phát
triển của kinh tế tri thức; phân tích và đánh giá các yếu tố hình thành và phát triển
kinh tế tri thức ở Việt Nam như khoa học công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực, hệ
thống giáo dục đào tạo, vai trò của Nhà nước Trên cơ sở đó các tác giả đã đề ra
những chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn tới.






6
Năm 2002 Nxb Giáo dục xuất bản cuốn sách “Bước chuyển sang nền kinh
tế tri thức ở một số nước trên thế giới hiện nay” của PGS.TS Lưu Ngọc Trịnh (chủ
biên). Đây thực sự là một công trình nghiên cứu công phu, với sự tham gia của
nhiều nhà nghiên cứu trong đó các tác giả đã đưa ra nhiều cách tiếp cận khác nhau
về cách hiểu về nền kinh tế tri thức; những đặc trưng chủ yếu; những điều kiện cơ
bản để hình thành nền kinh tế tri thức…Từ đó nghiên cứu bước chuyển sang kinh tế
tri thức ở một số nước và đưa ra những gợi mở cho Việt Nam.
Tác giả Đặng Mộng Lân viết cuốn “Kinh tế tri thức, những khái niệm và vấn
đề cơ bản”, Nxb Thanh niên, năm 2002. Tác giả đã giới thiệu các khái niệm cơ bản
xuất phát của kinh tế tri thức; sự xuất hiện của kinh tế tri thức…; và đề cập đến vấn
đề quan trọng đối với các nước đang phát triển đó là phát triển dựa trên tri thức.
Nghiên cứu kinh tế tri thức dưới một góc nhìn khác, PGS.TS Phí Mạnh Hồng đã
chủ trì đề tài trọng điểm “Một số vấn đề cơ bản về kinh tế tri thức – Cơ hội và thách
thức đặt ra cho Việt Nam”, công bố năm 2006. Đề tài đã làm sáng tỏ một số vấn đề cơ
bản liên quan đến kinh tế tri thức, đặc biệt là logic hình thành nó như một thời đại kinh
tế mới; giới thiệu và cập nhật một số kinh nghiệm quốc tế về tiếp cận kinh tế tri thức;
làm rõ những vấn đề mà xu hướng phát triển kinh tế tri thức đặt ra cho Việt Nam; từ đó
đề xuất một số giải pháp chiến lược nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế
của Việt Nam.
Năm 2009, Nxb Khoa học xã hội xuất bản cuốn “Phát triển kinh tế tri thức
gắn với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam” do GS Đặng Hữu chủ
biên cùng với sự tham gia của nhiều nhà nghiên cứu trong nước. Các tác giả đã làm
rõ các vấn đề vai trò của tri thức đối với sự phát triển; sự ra đời của nền kinh tế tri
thức; các chỉ số đánh giá mức độ phát triển của nền kinh tế tri thức; thực trạng nền
kinh tế tri thức Việt Nam nhìn từ góc độ phát triển dựa trên tri thức. Trong góc nhìn
này, các tác giả nêu lên vấn đề Việt Nam tất yếu phải phát triển kinh tế tri thức để

rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa và đưa ra một số giải pháp nhất định cho vấn đề trên.
Ngoài ra còn có rất nhiều bài viết của các nhà khoa học đăng trên các tạp chí.





7
Chẳng hạn: bài viết của TS Trần Đình Thiên “Kinh tế tri thức và vấn đề lựa chọn mô
hình phát triển ở Việt Nam” đăng trên tạp chí Cộng sản, số 22 tháng 11/2000. Tác giả
đã khẳng định rằng sự xuất hiện của kinh tế tri thức không vượt khỏi sơ đồ của C.Mác
về sự tiến hoá lịch sử thông qua “lược đồ ba hình thái của C. Mác”. Từ đó tác giả đưa
ra một số gợi ý về lựa chọn mô hình phát triển của Việt Nam dưới tác động của xu
hướng chuyển sang nền kinh tế tri thức…
Như vậy, các công trình nghiên cứu trên đề cập ở những mức độ khác nhau về
nền kinh tế tri thức. Tất cả các công trình này được tác giả kế thừa và sử dụng như là
những ý kiến gợi mở cho sự nghiên cứu của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích:
Nhận rõ những điều kiện về kinh tế - xã hội để hình thành và phát triển kinh tế
tri thức ở Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp đẩy nhanh sự chín muồi
các điều kiện trên ở Việt Nam.
* Nhiệm vụ:
- Phân tích và đánh giá những điều kiện kinh tế - xã hội cần thiết để hình
thành và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản tạo điều kiện cho sự hình thành và phát
triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Về đối tượng:

Đề tài lấy các điều kiện kinh tế - xã hội để hình thành và phát triển nền kinh tế
tri thức ở Việt Nam làm đối tượng nghiên cứu.
* Về phạm vi nghiên cứu:
+ Về học thuật: Tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về các điều
kiện hình thành và phát triển kinh tế tri thức. Trong các yếu tố đó, tác giả tập trung
nghiên cứu một số vấn đề về nguồn nhân lực, giáo dục đào tạo, môi trường thể chế,





8
năng lực khoa học và hệ thống đổi mới quốc gia, cơ sở hạ tầng thông tin và truyền
thông.
+ Phạm vi lãnh thổ: Địa bàn quốc gia Việt Nam
+ Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu từ năm 2001 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong suốt quá trình triển khai đề tài, tác giả chú trọng sử dụng các phương
pháp trừu tượng hoá khoa học, phương pháp phân tích, tổng hợp trên tinh thần biện
chứng, gắn lí luận với thực tiễn, logic kết hợp với lịch sử khi nghiên cứu. Trong đó đặc
biệt chú trọng phương pháp thu thập các dữ liệu, số liệu.
Thu thập các dữ liệu, số liệu là phương pháp quan trọng, định hướng cho
toàn bộ luận văn. Những số liệu thu thập được giúp tác giả có những cơ sở thực tiễn
cơ bản nhất liên quan tới đề tài nghiên cứu gồm: các điều kiện hình thành kinh tế tri
thức, kinh nghiệm của các nước trong phát triển kinh tế tri thức, những mặt được và
chưa được trong việc xác lập các điều kiện hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt
Nam. Công trình sử dụng số liệu của Tổng cục Thống kê, các công trình, dự án, bài
viết trên các sách báo, tạp chí và từ mạng Internet để phân tích và đánh giá các điều
kiện hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam.
6. Đóng góp của luận văn

- Góp phần làm rõ những điều kiện tiên quyết chi phối sự hình thành và phát
triển kinh tế tri thức nói chung và vận dụng kết quả trên để phân tích, đánh giá mức
độ chín muồi của các điều kiện này ở Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy sự ra đời và phát triển kinh tế tri thức
ở Việt Nam thông qua việc tác động vào các điều kiện nói trên.
- Các kết quả nghiên cứu là những luận cứ có tính khoa học, do vậy có thể
làm tài liệu tham khảo tốt phục vụ cho giảng dạy và học tập. Ngoài ra, các kết quả
này còn là tư liệu tham khảo tốt cho các địa phương, ban ngành trong xem xét đánh
giá vai trò của các yếu tố hình thành nền kinh tế tri thức.





9
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, cấu
trúc luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Các điều kiện kinh tế - xã hội cần thiết cho sự ra đời và phát
triển của kinh tế tri thức.
Chương 2: Thực trạng về các điều kiện để hình thành và phát triển kinh
tế tri thức ở Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm đẩy nhanh sự hình thành và phát
triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.


























10
Chương 1. CÁC ĐIỀU KIỆN KINH TẾ XÃ HỘI CẦN THIẾT
CHO SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ TRI THỨC

1.1 Bản chất và đặc trưng của kinh tế tri thức
1.1.1 Sự xuất hiện nền kinh tế tri thức trên thế giới
Quá trình phát triển lực lượng sản xuất của loài người có thể chia ra làm ba
thời kỳ: thứ nhất là nền kinh tế nông nghiệp hay là nền kinh tế sức lao động với đặc
trưng chủ yếu là sản xuất bằng lao động thủ công, năng suất lao động rất thấp, đất
đai là tài nguyên chủ yếu; thứ hai là nền kinh tế công nghiệp, dựa chủ yếu vào máy
móc và tài nguyên thiên nhiên; thứ ba là nền kinh tế tri thức, bắt đầu hình thành từ

đầu thập kỷ 80, là nền kinh tế dựa chủ yếu vào tri thức, tri thức và công nghệ thông
tin trở thành yếu tố sản xuất quan trọng hơn cả vốn và sức lao động.
Năm 1983, trước tình hình kinh tế Nhật Bản đuổi kịp và vượt Mỹ, Tổng
thống Mỹ Reagen đã lập ra Uỷ ban nghiên cứu sức cạnh tranh công nghiệp để tìm
cách nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Mỹ. Qua khảo sát, Uỷ ban này phát
hiện trong nền kinh tế Mỹ đã xuất hiện một số nhân tố mới có ảnh hưởng vượt xa
ảnh hưởng của cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ XVIII đối với kinh tế nước
Anh. Đó là các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm về tin học, mới ra đời 5 – 10 năm, tuy
dùng rất ít nguyên vật liệu, lao động và tiền vốn nhưng có hiệu quả kinh tế rất cao,
phát triển nhanh, có tác động lôi kéo toàn bộ nền kinh tế. Loại doanh nghiệp tri thức
này chưa có ở Nhật Bản. Qua nghiên cứu, Uỷ ban đề ra chiến lược nâng sức cạnh
tranh kinh tế bằng cách điều chỉnh cơ cấu kinh tế, chú trọng phát triển công nghệ
cao, nhất là công nghệ tin học, phát triển các doanh nghiệp tri thức và các ngành
dịch vụ, tăng cường đầu tư vào khoa học- kỹ thuật và giáo dục để nâng cao nguồn
nhân lực. Uỷ ban không chấp nhận các biện pháp nâng sức cạnh tranh kinh tế
thường được sử dụng như phá giá đồng tiền, tăng thuế nhập khẩu
Trong nhiều năm qua, Mỹ đã áp dụng chiến lược này và thực tế cho thấy, sức
cạnh tranh kinh tế của Mỹ luôn đứng đầu thế giới, ngày càng bỏ xa Nhật Bản và các
nước công nghiệp phát triển khác. Đây là một cuộc cách mạng cơ cấu kinh tế, đánh





11
dấu việc Mỹ bắt đầu tiến sang thời kỳ kinh tế tri thức. Và trong thời gian qua, nền
kinh tế tri thức cũng đã được phổ biến dần ra toàn thế giới. Điều này thể hiện ở chỗ
đa số các nước đầu đã tăng vốn đầu tư cho công nghệ kỹ thuật cao và các yếu tố cơ
bản của nền kinh tế tri thức đang xuất hiện ngày càng nhiều và có những đóng góp
lớn vào nền kinh tế. Tuy nhiên, tình hình chuyển sang nền kinh tế tri thức của các

nước này còn chậm hơn so với Mỹ.
So với sự chuyển biến từ kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp, sự
chuyển biến từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức có ý nghĩa hơn: trước hết
đó là sự chuyển đổi từ một nền sản xuất dựa vào vốn tài nguyên, lao động là chính
sang nền sản xuất dựa vào tri thức là chính, thứ hai là sự thay đổi trên mọi lĩnh vực
mà trước hết là công nghệ. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đã thúc
đẩy nhanh hơn sự ra đời nền kinh tế tri thức. Các công nghệ cao, trước hết là công
nghệ thông tin là nguồn gốc của sự biến đổi lớn lao hiện nay. Trước kia, sự xuất
hiện máy hơi nước, động cơ điện đã mở đầu cuộc cách mạng công nghiệp, thúc đẩy
sự ra đời nền kinh tế công nghiệp, với nội dung chủ yếu là thay thế lao động chân
tay bằng máy móc. Đó là cuộc cách mạng sâu sắc nhưng diễn ra chậm chạp trong
thời gian rất dài. Còn trong nền kinh tế tri thức, các ngành công nghệ cao như công
nghệ sinh học, nổi bật là công nghệ gen, công nghệ tế bào, công nghệ vi sinh đã cho
phép con người tạo được các loại thuốc chữa trị các bệnh hiểm nghèo, kéo dài tuổi
thọ, tạo các giống cây trồng, vật nuôi có năng suất, chất lượng cao theo ý muốn;
công nghệ vật liệu, nổi bật là vật liệu composit có thể tạo ra những vật liệu theo ý
muốn của con người, có sức chịu lực, chịu nhiệt, chịu ăn mòn, lão hoá, phù hợp với
mọi điều kiện khác nhau; công nghệ năng lượng với những năng lượng mới đảm
bảo an toàn cao và sạch nhất; và đặc biệt là công nghệ thông tin. Công nghệ thông
tin là động lực chủ yếu nhất thúc đẩy sự ra đời và phát triển của kinh tế tri thức.
Ngày nay, thông tin trở thành nhu cầu thiết yếu của con người, là tài nguyên quan
trọng nhất của nền kinh tế. Ở những nước phát triển như Mỹ, Tây Âu, kinh tế thông
tin (những ngành kinh tế dựa trên việc xử lý thông tin) chiếm khoảng 45% - 55%
GDP. Công nghệ thông tin ngày càng trở thành nhân tố hàng đầu trong việc làm





12

biến đổi xã hội. Một bước nhảy vọt trong công nghệ thông tin là sự ra đời của mạng
máy tính. Mạng máy tính phát triển nhanh hình thành siêu xa lộ thông tin và
Internet. Trong lịch sử nhân loại, chưa có một lĩnh vực khoa học – công nghệ nào
phát triển nhanh và tác động sâu rộng, mạnh mẽ đến toàn xã hội như công nghệ
thông tin. Nhờ có sự phát triển nhanh của xa lé thông tin mà có thương mại điện tử,
chính phủ điện tử, thư viện điện tử, học tập, làm việc từ xa, chữa bệnh từ xa
Những công nghệ ấy đang làm thay đổi mạnh mẽ, sâu sắc xã hội loài người. Máy
tính và mạng máy tính ngày nay có thể thay thế một phần lao động trí óc của con
người, nâng cao tri thức, phát triển khả năng tư duy, sáng tạo, từ đó đẩy nhanh,
mạnh sự đổi mới công nghệ, đổi mới tổ chức quản lý. Nếu như cơ khí giúp con
người trong các lao động chân tay thì máy tính lại giúp con người trong lao động trí
óc. Chính vì vậy, công nghệ thông tin là nhân tố quyết định đối với việc chuyển nền
kinh tế thế giới từ nền kinh tế hậu công nghiệp sang nền kinh tế tri thức.
1.1.2 Bản chất nền kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng
tri thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải và nâng
cao chất lượng cuộc sống.[5, tr. 17]
Trong nền kinh tế tri thức, chiếm hữu nhân tài và tri thức quan trọng hơn
nhiều so với chiếm hữu nguồn tài nguyên thiên nhiên như dầu mỏ hay đất đai đang
bị cạn kiệt do kinh tế công nghiệp gây ra. Kinh tế tri thức thông qua nguồn tài
nguyên trí lực để khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách khoa học, hợp lý chứ
không ỷ lại vào nguồn tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, nền kinh tế của các nước dựa
vào chủ quyền đối với nguồn tài nguyên thiên nhiên để phát triển như các nước
Trung Đông nếu không đồng thời tăng cường đầu tư vào nguồn tài nguyên trí lực sẽ
rất dễ bị tấn công trong thời đại kinh tế tri thức.
Trong sản xuất, kinh tế tri thức lấy các ngành sản xuất kỹ thuật cao làm nền
tảng, các ngành sản xuất kỹ thuật cao lại lấy khoa học kỹ thuật cao làm chỗ dựa.
Trong nền kinh tế tri thức vẫn còn nông nghiệp và công nghiệp nhưng hai ngành
này chiếm tỷ lệ thấp trong cơ cấu kinh tế, cũng giống như trong nền kinh tế công






13
nghiệp vẫn còn nông nghiệp nhưng chiếm tỷ lệ nhỏ trong cơ cấu kinh tế. Trong nền
kinh tế tri thức đa số là các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào thành tựu mới
nhất của khoa học và công nghệ. Đó có thể là những ngành mới như công nghệ
thông tin (công nghệ phần cứng và công nghệ phần mềm), công nghệ năng lượng
mới và năng lượng tái sinh, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học và cũng
có thể là những ngành truyền thống (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ) được cải
tạo bằng khoa học, công nghệ cao. Ví dụ, sản xuất ôtô là một ngành công nghiệp
truyền thống nhưng nếu áp dụng khoa học công nghệ cao sản xuất ra loại ôtô thông
minh không cần người lái có độ an toàn cao thì ngành sản xuất ôtô có thể coi là
ngành kinh tế tri thức. Tương tự, những trang trại sản xuất nông nghiệp dựa vào
công nghệ sinh học cho năng suất cao, tự động điều khiển và hầu như không cần
người lao động, cũng có thể coi là thành phần của kinh tế tri thức
Bảng 1.1: So sánh khái quát các thời đại kinh tế

Kinh tế nông
nghiệp
Kinh tế công nghiệp
Kinh tế tri thức
1. Đầu vào quan trọng
của sản xuất
Lao động, đất đai,
vốn
Công nghệ, máy
móc, thiết bị
Tri thức, công

nghệ cao, thông tin
2. Các quá trình chủ
yếu
Trồng trọt, chăn
nuôi
Chế tạo, gia công
Điều khiển, kiểm
soát, xử lý thông
tin
3. Đầu ra của sản xuất
Lương thực
Của cải, hàng hoá
Sản phẩm đáp ứng
nhu cầu ngày càng
cao của cuộc sống
4. Cơ cấu kinh tế
Nông nghiệp là
chủ yếu
Công nghiệp và dịch
vụ là chủ yếu
Các ngành kinh tế
tri thức thống trị
5. Công nghệ thúc
đẩy phát triển
Sử dụng súc vật,
cơ giới hoá đơn
giản
Cơ giới hoá, điện
khí hoá, chuyên môn
hoá

Khoa học công
nghệ cao
6. Cơ cấu xã hội
Nông dân
Công nhân
Công nhân tri thức





14
7. Tỷ lệ đóng góp
của KHCN cho tăng
trưởng kinh tế
< 10%
> 30%
> 80%
8. Đầu tư cho giáo
dục
< 1% GDP
2% – 4% GDP
> 6%GDP
9. Tầm quan trọng
của giáo dục
Nhỏ
Lớn
Rất lớn
10. Vai trò của
truyền thông

Nhỏ
Lớn
Rất lớn
11. Kết cấu sức lao
động:



- Nông nghiệp
Trên 50%
10 – 20%
Dưới 10%
- Công nghiệp
Khoảng 15 -20%
Trên 30%
Dưới 20%
- Công nghệ cao

10 -15%
Trên 40%
12. Trình độ tổ chức
xã hội
Đơn giản
Phức tạp
Rất phức tạp
13. Mức độ toàn cầu
hóa kinh tế thế giới
Thấp
Khá cao
Rất cao

Nguồn: “ Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt nam”. Kỷ yếu
hội thảo khoa học, 21 – 22/6/2000, trang 2
1.1.3 Những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri thức
1.1.3.1 Tri thức trở thành yếu tố chủ yếu nhất của nền kinh tế.
Đặc trưng này bắt nguồn từ chính bản chất của kinh tế tri thức, nói lên nó là
một giai đoạn mới, phân biệt với các giai đoạn lịch sử trước đó trong các cách thức
sản xuất và sáng tạo của cải của xã hội loài người. Giờ đây khi tri thức đóng vai trò
số một dẫn dắt sự phát triển, thì lợi thế hay năng lực cạnh tranh của các nền kinh tế,
của các doanh nghiệp không còn nằm ở khả năng sở hữu các nguồn lao động rẻ, dồi
dào xong lại thiếu kĩ năng hoặc tri thức sáng tạo cao. sự giàu có về nguồn tài





15
nguyên thiên nhiên như đất đai, rừng, khoáng sản, biển…cũng trở lên ít quan trọng
hơn. Những quốc gia sở hữu nguồn giàu mỏ khổng lồ như các nước ở Trung Đông
vẫn không phải là quốc gia phát triển. Nhưng những mảnh đất nghèo tài nguyên như
Nhật Bản, Singapore…lại là nơi tạo ra những chuyện thần kì về phát triển kinh tế.
Sự khác biệt này cho thấy, lợi thế phát triển lâu dài nằm ở nguồn nhân lực có kĩ
năng cao hơn là nguồn lao động giản đơn, giá rẻ hay khối lượng vốn, trữ lượng tài
nguyên thiên nhiên dồi dào. Đương nhiên là nguồn nhân lực được đào tạo tốt, thích
ứng với mục tiêu đuổi bắt và hấp thụ công nghệ là chủ yếu sẽ khác với nguồn nhân
lực có kĩ năng cao, có khả năng sáng tạo tri thức mới là chủ yếu. Cũng như sự phát
triển nhanh của những nước đi sau khác với sự phát triển của các quốc gia dẫn đầu
trong nền kinh tế thế giới. Càng tiến dần sang nền kinh tế tri thức, khả năng sáng tạo
tri thức của đội ngũ nhân lực càng trở thành nhân tố quyết định trong phát triển.
Yếu tố trí tuệ quan trọng hơn yếu tố vật liệu tự nhiên trong tư liệu sản xuất.
Trong nền kinh tế tri thức, mối tương quan giữa các yếu tố cơ bản cấu thành

tư liệu sản xuất có sự thay đổi rất lớn.
Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Trong các
nền kinh tế trước, đối tượng lao động chủ yếu là những bộ phận của tự nhiên, trong
nền kinh tế tri thức, đối tượng lao động ngày càng là sản phẩm của lao động, của
khoa học, công nghệ mà hàm lượng vật liệu tự nhiên trong đó ngày càng giảm. Do
vậy, đó sẽ là một nền kinh tế tiết kiệm tài nguyên, không phụ thuộc một cách tiên
quyết vào nguồn tài nguyên thiên nhiên, mà phụ thuộc chủ yếu vào tài nguyên con
người với năng lực trí tuệ cao.
Lao động quá khứ được kết tinh trong máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu
Liên quan tới những nhân tố này, trong nền kinh tế tri thức, có hai điểm đáng chú ý.
Một là, hàm lượng trí tuệ trong những nhân tố đó ngày một gia tăng, Hai là, nhiều
máy móc do lao động quá khứ đó được vật hoá thực hiện. Khi tính đến hai sự kiện
đó, chúng ta thấy dường như vai trò của lao động sống có sự suy giảm tương đối.
Nhưng, nếu xét tới sự phát triển thẳng tiến của sản xuất, lao động sống vẫn có giá trị
quyết định - "quyết định" không phải theo nghĩa chiếm tỷ trọng lớn so với lao động





16
quá khứ khi tạo ra sản phẩm ở chu kỳ mới, mà theo nghĩa không có lao động sống
và mọi lao động vật hoá không thể phát huy vai trò của mình trong quá trình sản
xuất. Máy móc hiện đại như thế nào chăng nữa cũng do con người làm ra và vận
hành, cải tiến nó. Mặt khác, trình độ của máy móc, thiết bị, trình độ trí tuệ được kết
tinh trong chúng lại đóng vai trò quyết định hiệu quả của lao động sống, quy định
xu hướng vận động của chính lao động sống. Chỉ trong chừng mực đáp ứng nhu cầu
đó, chu kỳ sản xuất tiếp theo mới có sự phát triển tương ứng với xu thế khách quan
của lực lượng sản xuất.
1.1.3.2 Cơ cấu các ngành kinh tế chuyển đổi ngày càng nhanh

theo hướng tăng nhanh giá trị gia tăng.
Sự thay đổi về đối tượng sở hữu, về tổ chức việc quản lý quá trình sản xuất có
tác động rất lớn tới sự chạy đổi cơ cấu của nền kinh tế tri thức. Theo lý luận về kết
cấu các ngành (khu vực) sản xuất của kinh tế truyền thống, cơ cấu nền kinh tế bao
gồm: ngành sản xuất thứ nhất là nông nghiệp, ngành sản xuất thứ hai là công nghiệp
và ngành sản xuất thứ ba là dịch vụ. Dịch vụ đang nói ở đây là một khái niệm rộng,
bao gồm dịch vụ đối với các ngành sản xuất vật chất và bao gồm các loại dịch vụ
đối với đời sống và tiêu dùng của nhân dân (như thương nghiệp, tiền tệ, vận tải,
thông tin, thậm chí cả những hoạt động của khoa học, giáo dục, những hoạt động
của Chính phủ, toà án đều được gọi là ngành sản xuất thứ ba). Sự phân loại ngành
sản xuất thứ nhất, thứ hai, thứ ba và sự ra đời, sự tiến triển của các ngành đó cũng
phản ánh một xu thế lịch sử, tức cái sau hơn cái trước - cả về chất lượng và tốc độ.
Riêng về tốc độ, chúng ta thấy rằng ngành sản xuất thứ hai có nhịp độ phát triển
nhanh hơn so với ngành sản xuất thứ nhất, ngành sản xuất thứ ba có nhịp độ tăng
trưởng nhanh hơn ngành thứ hai. Tình hình thực tế hiện nay của các nước phát triển
là tỷ trọng ngành sản xuất thứ ba có thể chiếm tới 66,7% GDP. Dư luận chung hiện
nay cho thấy, nhịp độ tăng trưởng của giáo dục và khoa học trong ngành sản xuất
thứ ba là hết sức nhanh, vị trí ngày càng quan trọng. Cho nên có thể tách giáo đục,
khoa học từ ngành sản xuất thứ ba ra thành ngành sản xuất thứ tư.





17
Theo thống kê của Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế ( OECD), tỷ lệ đóng
góp của ngành dịch vụ Hoa Kỳ vào GNP từ 50% tăng lên 80%, trong đó 63% dịch
vụ là thuộc dịch vụ kỹ thuật cao. Cũng theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, 64%
của cải thế giới hiện nay là do “vốn nhân lực" cấu thành. Trên 80% công việc trong
các ngành của Hoa Kỳ về bản chất là công việc "lao động trí óc". Trong nền kinh tế

tri thức, hàm lượng tri thức trong các yếu tố sản xuất ngày càng tăng, các ngành
kinh tế tri thức (những ngành dựa vào các thành tựu mới nhất của khoa học và công
nghệ) và cả những ngành truyền thống (như nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ,
được cải tạo bằng ứng đụng thành tựu khoa học và công nghệ) ngày càng chiếm tỷ
trọng cao trong nền kinh tế quốc dân. Sản xuất công nghệ trở thành loại hình sản
xuất quan trọng nhất, tiên tiến nhất, tiêu biểu cho nền kinh tế tri thức. Ở những nước
công nghiệp phát triển cao (ở Bắc Mỹ và Tây Âu), những ngành chủ yếu dựa vào
công nghệ thông tin đó chiếm khoảng 45% đến 50% GDP.
1.1.3.3 Tốc độ biến đổi cao.
Đặc điểm quan trọng bật nhất của kinh tế tri thức là tốc độ biến đổi cực kỳ cao. Nó
thể hiện ở tốc độ sản sinh tri thức, tốc độ thay đổi giá cả, tốc độ ứng dụng các phát
minh khoa học vào thực tiễn và hệ quả đi liền là tốc độ biến đổi của đời sống trên
mọi lĩnh vực kinh tế, văn hoá, chính trị, xã hội ngày càng cao.
Tốc độ sản sinh tri thức ngày càng nhanh, thời gian cần thiết để tăng gấp đôi
lượng tri thức của nhân loại càng thu hẹp. Ngày nay, tốc độ sản sinh tri thức của
loài người đang tăng theo cấp số nhân. Theo một số tính toán, sau mỗi 15 năm,
lượng tri thức của loài người được nhân đôi và với cấp độ chất lượng khác hẳn. Và
quãng thời gian đó hiện nay đang rút ngắn hơn nhiều. Tri thức của loài người ở thế
kỷ 19 cứ 50 năm thì tăng gấp đôi; vào giữa thế kỷ 20, cứ 10 năm tăng gấp đôi và
đến những năm 1970 cứ 5 năm tăng gấp đôi và tới những năm 1980 cứ 3 năm tăng
gấp đôi.
Tốc độ biến đổi giá cả của các sản phẩm càng mới càng nhanh. Sự phát triển
như vũ bão của công nghệ tin học và truyền thông rút ngắn ngày càng nhanh thời
gian chọn lọc, đánh giá, sử dụng và sáng tạo thông tin, khiến cho giá trị sử dụng tri





18

thức cũng bị rút ngắn lại nhanh chóng. Một tri thức hôm nay có giá trị hàng tỷ USD
ngày mai có thể là vô giá trị. Trong nền kinh tế nông nghiệp, với khối lượng tri thức
nghèo nàn và chỉ có vị trí thứ yếu trong việc tạo ra của cải, với phương thức sản
xuất tự cung, tự cấp, khép kín trong các gia đình và trong các cộng đồng nhỏ, việc
tạo ra tri thức sản xuất mới vừa khó khăn, vừa không phải là áp lực của chính quá
trình sản xuất. Dân số ít và gia tăng một cách chậm chạp (vừa do nghèo đói, vừa do
bệnh tật mà con người khó có khả năng đối phó vì tri thức ít ỏi), nguồn đất đai
(nguồn lực quan trọng nhất sẵn có dồi dào cho phép người ta có thể mở rộng không
gian sinh tồn, mỗi khi dân số tăng bằng cách mở rộng diện tích đất đai trồng trọt
hay chăn thả gia súc (qua khai hoang hay xâm chiếm) mà không cần phải thay đổi
cách thức sản xuất. Kinh tế nông nghiệp là nền kinh tế ngưng trệ, biến đổi cực kì
chậm chạp. Loài người đã có hàng nghìn năm “chung sống” với loại hình hay thời
đại kinh tế này. Tốc độ của những biến đổi kinh tế chỉ có thể được đẩy nhanh lên
một cách rõ rệt khi kinh tế công nghiệp ra đời và phát triển. Hệ thống sản xuất dựa
trên máy móc, được tập trung trong các công xưởng có nhịp độ hoạt động, biến đổi
cao hơn, nhanh hơn so với hệ thống sản xuất nông nghiệp vốn trực tiếp dựa hẳn vào
các tài nguyên thiên nhiên như đất đai hay những cây trồng, vật nuôi được chăm sóc
theo những quy trình sinh trưởng tự nhiên. Trong nền kinh tế công nghiệp, sự
chuyên môn hoá sản xuất nói chung đã bắt đầu cho phép một bộ phận xã hội chuyên
hoạt động trong lĩnh vực tạo ra tri thức. Tri thức mới tạo ra nhanh hơn. Mặt khác
nền kinh tế công nghiệp là nền kinh tế dựa trên sự sản xuất hàng loạt, sản xuất cho
nhu cầu của người khác chứ không phải cho nhu cầu trực tiếp của người sản xuất.
Sự tách rời giữa người sản xuất với người tiêu dung khiến cho thị trường trở thành
cần thiết để kết nối họ với nhau. Bản chất xã hội của kinh tế công nghiệp là kinh tế
thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, nguyên lí cạnh tranh như là phương thức
để xác định kẻ chiến thắng, tạo ra áp lực buộc những người sản xuất phải tìm mọi
cách để cải tiến quy trình sản xuất và quản lí nhằm đưa ra thị trường những sản
phẩm ngày một hoàn thiện hơn, có chất lượng cao hơn, với giá thành rẻ hơn… Cạnh
tranh khiến cho việc đổi mới, áp dụng các tri thức mới trở thành nhu cầu bên trong






19
của hệ thống sản xuất. Chính nhu cầu này tạo ra động lực mạnh mẽ của sự phát triển
khoa học và công nghệ, làm cho tri thức tạo ra ngày một nhanh hơn, nhiều hơn. Vì
thế tốc độ biến đổi trong nền kinh tế công nghiệp ngày một gia tăng và cao hơn hẳn
so với kinh tế nông nghiệp.[7, tr. 24]
Cùng với sự ra đời của các sản phẩm mới thì giá cả sản phẩm, đặc biệt là các
sản phẩm công nghệ cao, đang trong xu hướng giảm đi. Các sản phẩm càng hiện đại
thì tốc độ biến đổi giá cả càng lớn. Nếu phải cần đến 60 năm để cước vận tải biển và
phí cảng biển giảm đi một nửa thì cũng trong thời gian ấy, cước hàng không giản đi
6 lần và giá dịch vụ điện thoại giảm đi 82 lần. Đặc biệt hơn, chỉ trong vòng 30 năm
từ năm 1960 đến năm 1990, giá máy tính đã giảm đi 125 lần. Chi phí cho phát triển
tri thức rất lớn, nhưng sản phẩm càng về sau càng giảm, ví dụ: chi phí cho việc
nghiên cứu đĩa chương trình Window đầu tiên tốn 50 triệu USD, nhưng đĩa thứ hai
và các đĩa tiếp theo chỉ tốn 3 USD.
Cùng với quá trình định hình từng bước của nền kinh tế tri thức, một xu thế khá rõ
ràng là tốc độ áp dụng và phổ biến các thành tựu khoa học kỹ thuật và công nghệ
ngày càng cao. Nếu như dịch vụ điện thoại cần đến 74 năm để đạt được con số 50
triệu thuê bao thì mày tính cá nhân chỉ cần đến 16 năm và mạng thông tin toàn cầu
Internet chỉ cần có 4 năm. Vì vậy, việc tiếp cận và trao đổi tri thức ở phạm vi toàn
cầu trong nền kinh tế tri thức càng có ý nghĩa hơn, cạnh tranh trong kinh tế tri thức
trước hết là cạnh tranh với thời gian.
Trong một thế giới biến đổi cực kì nhanh, thời gian trở thành một nguồn lực
vô cùng quý giá. Việc mất thời gian để nâng cao hiệu quả sử dụng cái cũ hoá ra lại
là một hành động phi kinh tế [7, tr. 25].
1.1.3.4 Cấu trúc mạng của các quan hệ kinh tế
Nền kinh tế nông nghiệp về bản chất là nền kinh tế tự nhiên, khép kín theo

các cộng đồng kinh tế nhỏ bé. Các quan hệ kinh tế được mô phỏng một cách tự
nhiên theo kiểu các quan hệ gia đình, quan hệ đẳng cấp, quan hệ gia trưởng. Đó là
kiểu quan hệ theo chiều dọc trên - dưới, chi phối - lệ thuộc, ban tặng - cống nộp,
cho – xin.





20
Trong nền kinh tế công nghiệp, cấu trúc quan hệ xã hội quan trọng nhất là
cấu trúc theo kiểu thị trường. Giao dịch thị trường là giao dịch mua bán hàng hoá tự
nguyện giữa những người bình đẳng và độc lập với nhau (độc lập về tư cách cá
nhân như là những công dân). Đó là mối quan hệ theo chiều ngang, dựa trên sự
thuận mua vừa bán, cùng có lợi. Các quan hệ theo chiều dọc vẫn có thể tồn tại
nhưng đã bị đẩy xuống hành thứ yếu, chịu phụ thuộc, do đó cũng biến đổi một cách
thích hợp so với các quan hệ theo chiều ngang. (Trong gia đình của các xã hội công
nghiệp, quan hệ trên - dưới giữa bố, mẹ với con cái cũng khác hẳn mối quan hệ trên
dưới của một gia đình gia trưởng) [7, tr. 26]
Dường như cấu trúc mạng cho thấy một hình dung, một dự đoán về kiểu cấu
trúc của các quan hệ kinh tế chính yếu trong nền kinh tế này. Cơ sở của dự đoán này
là trong nền kinh tế tri thức, hoạt động sáng tạo, ứng dụng, chia sẻ, trao đổi, lan
truyền tri thức đóng vai trò quan trọng nhất trong việc tạo ra của cải, song các hoạt
động nàylại dựa trên nền tảng vật chất của công nghệ thông tin - viễn thông và
mạng Internet. Cấu trúc mạng cho thấy mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp chỉ có được
chỗ đứng của mình trong hệ thống sản xuất chung khi chúng tham gia vào mạng
lưới phức tạp, đa cấp, kết nối nhiều quá trình trong nền kinh tế quốc gia và toàn cầu.
Trong mạng lưới đó, mỗi người đều có khả năng trở thành một đầu nút để ảnh
hưởng đồng thời đến những người khác trong mạng, đồng thời cũng lệ thuộc vào tất
cả những người khác đó. Sự phụ thuộc lẫn nhau của mỗi cá nhân, mối doanh

nghiệp, mỗi quốc gia trong hệ thống chung trở nên cực kì sâu sắc.
1.1.3.5 Kinh tế tri thức về bản chất là nền kinh tế toàn cầu.
Công nghệ thông tin, nhất là mạng internet làm cho không gian trở nên nhỏ bé. Các
nhân tố cơ bản của sản xuất kinh doanh như tri thức, công nghệ, thông tin, vốn,
quản lý sản phẩm, sức lao động không bị bó buộc trong biên giới một quốc gia mà
xuyên quốc gia, giúp cho hoạt động kinh tế trong nền kinh tế tri thức mang tính toàn
cầu. Thị trường và sản phẩm trong nền kinh tế tri thức cũng mang tính toàn cầu, một
sản phẩm sản xuất ở bất cứ nơi nào sẽ có mặt nhanh chóng trên toàn thế giới; rất ít
sản phẩm do một nước làm ra, mà phần lớn là kết quả của sự tập hợp các phần việc





21
được thực hiện từ nhiều nơi trên thế giới. Các mối quan hệ và hợp tác kinh tế, công
nghệ giữa các doanh nghiệp ngày càng được tăng cường, đồng thời cạnh tranh cũng
ngày càng gay gắt trên cả bình diện trong nước và quốc tế.
Vốn đầu tư cho nghiên cứu và phát triển sản phẩm cũng như xây dựng nhà máy sản
xuất trong nền kinh tế tri thức là hết sức lớn. Để có thể hoàn vốn đầu tư, sản phẩm
phải được sản xuất với số lượng tối đa. Không những thế, doanh nghiệp trong kinh
tế tri thức phải bằng mọi cách hoàn vốn trong thời gian ngắn nhất trước khi sản
phẩm thế hệ mới của công ty khác tung ra thị trường, đây là điều xảy ra rất nhanh
trong nền kinh tế tri thức. Vì vậy, thị trường của các doanh nghiệp trong nền kinh tế
tri thức phải là thị trường toàn cầu.
Trong nền kinh tế tri thức, các công ty phải luôn luôn đổi mới và phải kịp
thời chuyển hướng sản xuất kinh doanh theo sự đổi mới của công nghệ. Để có đủ tài
lực để phát triển công nghệ mới, tăng sức cạnh tranh trên phạm vi toàn cầu, đã diễn ra
sự sáp nhập hoặc mua bán lẫn nhau giữa các công ty lớn. Ở Mỹ cũng như ở Tây Âu và
Nhật Bản đang diễn ra việc mua, sát nhập của rất nhiều công ty xuyên quốc gia trở

thành những tập đoàn tư bản lớn chi phối thị trường khu vực và thế giới. Mặt khác, các
công ty lớn trong kỷ nguyên thông tin hoạt động theo hình thức mạng lưới thường chia
ra nhiều công ty con được quyền tự chủ kinh doanh có khả năng, linh hoạt thích nghi
với sự đổi mới công nghệ và môi trường cạnh tranh trong và ngoài nước.
Rõ ràng, nền kinh tế tri thức, về bản chất là một nền kinh tế toàn cầu. Các
nền kinh tế quốc gia có thể vẫn tồn tại, song không gian phát triển thực sự của
chúng nằm trong nền kinh tế toàn cầu. Chỉ có tìm được chỗ đứng của mình trong
nền kinh tế toàn cầu, nền kinh tế của mỗi quốc gia mới không bị bỏ rơi hay bị văng
ra khỏi tiến trình phát triển ngày càng nhanh của nhân loại.
1.2 Các điều kiện kinh tế - xã hội có tính chất tiền đề cho việc hình thành, phát
triển kinh tế tri thức.
Trước hết phải khẳng định ngay rằng, kinh tế tri thức không phải là một bước nhảy
đột biến hay một sáng tạo của một lý thuyết nào đó, mà là hình thái phát triển cao
hơn – có tính tiến hoá - của nền kinh tế thị trường phát triển cao. Chính sự phát triển





22
kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá đến mức cao độ ở các nước công nghiệp phát triển
đã tạo tiền đề cho sự ra đời của nền kinh tế tri thức ở các nước đó và các nước đang
phát triển muốn tiến đến nền kinh tế tri thức thì cũng không có cách nào khác là
phải chuẩn bị và cố gắng tạo cho mình có được những tiền đề đó.
Kinh nghiệm thực tế từ các nước phát triển và đang phát triển tổng kết cho thấy có
những tiền đề cơ bản mà bất cứ một quốc gia nào, dù nước đó đã và đang tiến thẳng
vào nền kinh tế tri thức hay đang tìm cách tiếp cận nền kinh tế tri thức cũng cần
phải có.
1.2.1 Các điều kiện chung.
1.2.1.1 Môi trường pháp lý khuyến khích sự sáng tạo, truyền bá tri thức

Kinh nghiệm thành công cũng như thất bại của hầu hết các nước, đặc biệt là Mỹ,
cho thấy, nền kinh tế tri thức đòi hỏi không chỉ có đầu tư mạnh cho phát triển công
nghệ hiện đại, mà còn phải tạo dựng được một nhà nước pháp quyền, một môi
trường chính trị và xã hội dân chủ cho phép mọi người dân có thể bày tỏ quan điển
và chính kiến cũng như các ý tưởng sáng tạo của mình, và những điều kiện thuận lợi
đối với kinh doanh, nơi mà doanh nghiệp có thể lường trước được mọi rủi ro trên cơ
sở một môi trường hiệu quả, an toàn và ổn định cho việc hình thành, sản xuất và
tiêu thụ tri thức. Đó trước hết phải là một môi trường chính trị dân chủ, kích thích
kinh tế hướng đầu tư vào tri thức và khai thác một cách có hiệu quả tri thức cho
phát triển kinh tế. Sáng tạo là bản chất của kinh tế tri thức, mà dân chủ lại là tiền đề
cho sự sáng tạo những tri thức mới. Do đó, không có dân chủ thì sẽ không có tri
thức mới, và tất yếu không thể có kinh tế tri thức. Vì vậy, mệnh đề dân chủ – sáng
tạo và kinh tế tri thức là thống nhất và có mối quan hệ biện chứng. Điều này chỉ ra
rằng, kinh tế tri thức đông thời vừa sản sinh ra thể chế chính trị dân chủ, vừa yêu
cầu thể chế chính trị cần phải đổi mới theo hướng dân chủ thì kinh tế tri thức mới
phát triển được.
Để đảm bảo cho nền kinh tế tri thức hình thành và phát triển tốt cần phải quan
tâm đến một môi trường pháp lý rõ ràng, ổn định, không bị thay đổi một cách tuỳ
tiện, bảo đảm tự do hoàn toàn cho việc tiếp cận, trao đổi và xử lý thông tin, trong đó

×