ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
_________________________
NGUYỄN THỊ HƯƠNG
PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
_________________________
NGUYỄN THỊ HƯƠNG
PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số : 60 31 01
LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: GS, TS. ĐỖ THẾ TÙNG
HÀ NỘI - 2010
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1. THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƢỜNG 11
1.1. Khái niệm và đặc điểm thương mại điện tử 11
1.1.1. Khái niệm 11
1.1.2. Đặc điểm và phân loại Thương mại điện tử 13
1.1.3. Những điều kiện để phát triển thương mại điện tử 15
1.2. Vai trò của thương mại điện tử đối với sự phát triển kinh tế - xã hội 20
1.2.1. Góp phần mở rộng thị trường, rút ngắn khoảng cách giữa các doanh
nghiệp, các quốc gia 20
1.2.2. Thương mại điện tử góp phần làm giảm chi phí, tăng hiệu quả lao
động xã hội 21
1.2.3. Tạo ra phương thức giao dịch mới, góp phần tăng cường quan hệ
thương mại 22
1.2.4. Góp phần nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý nhà nước về kinh tế -
xã hội 23
1.3. Kinh nghiệm phát triển thương mại điện tử ở một số nước 24
1.3.1. Chính phủ đóng vai trò đầu tầu trong việc tuyên truyền và tạo điều
kiện phát triển thương mại điện tử, nhất là đào tạo nguồn nhân lực 24
1.3.2. Xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật và cơ chế điều chỉnh thương
mại điện tử 26
1.3.3. Xây dựng kết cấu hạ tầng cho thương mại điện tử 26
1.3.4. Bảo đảm an toàn cho các giao dịch thương mại điện tử 28
1.3.5. Hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển thương mại điện tử 30
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT
NAM 32
2.1. Tình hình xây dựng và thực thi chính sách, pháp luật về thương mại
điện tử 32
2.1.1. Hệ thống chính sách, pháp luật về thương mại điện tử 32
2.1.2. Tình hình thực thi thương mại điện tử ở Việt Nam 38
2.2. Một số nhược điểm trong thực thi pháp luật về thương mại điện tử 45
2.2.1. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thương mại điện tử chưa
được chú trọng đúng mức 45
2.2.2. Cơ chế giám sát, chế tài chưa đủ mạnh 46
2.2.3. Thiếu cơ chế giải quyết tranh chấp 46
2.3. Tình hình ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp 46
2.3.1. Mức độ sẵn sàng cho thương mại điện tử 46
2.3.2. Tình hình ứng dụng thương mại điện tử 54
2.3.3. Đánh giá của doanh nghiệp về ứng dụng thương mại điện tử 65
2.3.4. Một số lĩnh vực ứng dụng thương mại điện tử nổi bật 69
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN
THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM 76
3.1. Phương hướng thúc đây sự phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam 76
3.1.1. Coi thương mại điện tử là một biện pháp quan trọng để triển khai
thương mại ở Việt Nam trong giai đoạn mới 76
3.1.2. Xã hội hóa việc ứng dụng thương mại điện tử 77
3.1.3. Tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho phát triển thương mại điện tử 79
3.1.4. Coi trọng xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ và hiện đại cho thương
mại điện tử 81
3.2. Những giải pháp để thúc đẩy sự phát triển thương mại điện tử ở Việt
Nam 81
3.2.1. Phổ cập kiến thức và mở rộng việc đào tạo nhân lực cho thương mại
điện tử 81
3.2.2. Hoàn thiện các dịch vụ công và hành lang pháp lý để điều chỉnh các
hoạt động thương mại điện tử 85
3.2.3. Đẩy mạnh hoạt động thanh toán điện tử và nâng cấp kết cấu hạ tầng
công nghệ cho thương mại điện tử 88
3.2.4. Đẩy mạnh hợp tác khu vực và quốc tế để phát triển thương mại điện tử . 91
KẾT LUẬN 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95
PHỤ LỤC 99
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUÂ
̣
N VĂN
CNTT:
Công nghệ thông tin
DN:
Doanh nghiệp
DNVN:
Doanh nghiệp Việt Nam
DNVVN:
Doanh nghiệp vừa và nhỏ
CNH:
Công nghiệp hóa
HĐH:
Hiện đại hóa
WTO (World Trade Organization):
Tổ chức Thương mại thế giới
OECD (Organization for Economic Co
- operation and Development):
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
TMĐT:
Thương mại điện tử
UNCITRAL (United Nations
Commission on International Trade
Law):
Ủy ban Liên hợp quốc về luật thương
mại quốc tế
APEC (Asia - pacific Economic
Cooperation):
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái
Bình Dương
ASEAN (Association of Southeast Asia
Nations):
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
B2B (Business - to - Business):
TMĐT giữa DN và DN
B2C (Business - to - Consumer):
TMĐT giữa DN và người tiêu dùng
B2G (Business - to - Government):
TMĐT giữa DN và Chính phủ
C2C (Consumer - to - Consumer):
TMĐT giữa các cá nhân
G2C (Government - to - Consumer):
TMĐT giữa chính phủ và người tiêu
dùng
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ khi nền kinh tế hàng hóa xuất hiện, thương mại tự do và lưu thông
hàng hóa luôn là động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển của sức sản xuất.
Sự phát triển của Cách mạng khoa học và công nghệ nhất là sự ra đời
của mạng Internet - mạng thông tin toàn cầu, đã làm thay đổi toàn bộ cách
thức hoạt động của con người cũng như tác động đến mọi lĩnh vực của đời
sống kinh tế xã hội, đã tạo ra một môi trường lý tưởng cho hoạt động thương
mại quốc tế phát triển. Tầm quan trọng của Internet đối với thương mại ngày
càng nâng cao cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin (CNTT), kỹ
thuật số hóa, dẫn đến sự xuất hiện một phương thức kinh doanh hoàn toàn
mới, đó là Thương mại điện tử (E.commerce).
Thương mại điện tử (còn gọi là thị trường điện tử, kinh doanh điện tử:
E-Commerce hay E-Business) là quy trình mua bán thông qua việc truyền dữ
liệu giữa các máy tính. Tại đây mọi dịch vụ thương mại trực tiếp giữa người
cung cấp và khách hàng được tiến hành thông qua internet. Hiểu theo nghĩa
rộng, thương mại điện tử bao gồm tất cả các loại giao dịch được sử dụng công
nghệ thông tin từ chào hàng, thỏa thuận đến ký hợp đồng
Ở nước ta, Đảng và Chính phủ đã sớm thấy được vai trò quan trọng của
CNTT và TMĐT đối với quá trình công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa
(HĐH) đất nước, Chỉ thị số 58 - CT/TW ngày 17/10/2000 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng là văn kiện quan trọng nhất về đẩy mạnh ứng dụng và phát
triển CNTT phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta.
Năm 2005 là năm Thương mại điện tử hình thành và được pháp luật
chính thức thừa nhận tại Việt Nam. Trong năm 2005, các cơ quan Nhà nước
đã chủ động xây dựng môi trường pháp lý và tổ chức các hoạt động hỗ trợ
doanh nghiệp ứng dụng Thương mại điện tử.
2
Năm 2006 Luật Giao dịch điện tử, Luật Thương mại (sửa đổi), Bộ Luật
dân sự (sửa đổi) và Nghị định Thương mại điện tử có hiệu lực. Năm 2006
cũng là năm đầu tiên triển khai kế hoạch tổng thể phát triển Thương mại điện
tử trong giai đoạn 2006 - 2010 theo Quyết định số 222/2005/QĐ-TTg ngày
15/09/2005 của Thủ tướng Chính phủ.
Môi trường pháp lý cho TMĐT cũng dần được hoàn thiện nhờ một loạt
các văn bản hướng dẫn luật giao dịch điện tử và luật công nghệ thông tin
được ban hành trong năm 2007, như Nghị định số 26/2007/NĐ-CP; Nghị định
số 27/2007/NĐ-CP; Nghị định số 35/2007/NĐ-CP; Nghị định số
63/2007/NĐ-CP; Nghị định số 64/2007/NĐ-CP. Năm 2008 ra đời Thông tư
09/2008 TT-BCT của Bộ Công thương; Quyết định số 43/2008/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ. Mới đây hàng loạt các quyết định phục vụ cho các kế
hoạch phát triển CNTT và TMĐT cũng được ban hành như Quyết định số
48/2009/QĐ-TTg; Quyết định số 50/2009/QĐ-TTg; Quyết định 698/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ.
Các doanh nghiệp nước ta cũng bước đầu nhận thức được vai trò quan
trọng của TMĐT trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, đặc biệt
trong quá trình Hội nhập với nền kinh tế thế giới. Nhiều doanh nghiệp đã
mạnh dạn đầu tư công nghệ tiên tiến và tiến hành giao dịch thương mại điện
tử với các đối tác trong và ngoài nước, tuy nhiên thành quả thu được còn
manh mún và rất hạn chế, điều đó được thể hiện trong Báo cáo Thương mại
điện tử Việt Nam qua các năm, mà mới đây nhất là Báo cáo Thương mại điện
tử Việt Nam 2009 của Bộ Công thương tháng 02/2010 vừa qua.
Trong bối cánh đó, việc nghiên cứu ứng dụng những thành quả của
CNTT vào phát triển TMĐT nhằm bắt kịp với xu thế chung của nhân loại là
một yêu c bức thiết trong giai đoạn hiện nay.
Vì vậy, “Phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam trong nền kinh tế
thị trường” được chọn làm đề tài luận văn này.
3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam là một vấn đề đang thu hút
được nhiều sự quan tâm không chỉ của các nhà hoạch định chính sách, các
nhà quản lý doanh nghiệp, Chính phủ mà của cả nhiều nhà nghiên cứu và hoạt
động thực tiễn. Đã có không ít những sách chuyên khảo, luận án, luận văn và
đề tài khoa học, các bài báo viết về vấn đề này, chẳng hạn như:
Mai Anh, “Thương mại điện tử, việc triển khai ở Việt Nam và sự tham
gia của Hội tin học Việt Nam”, Hồ Đức Thắng, “Hạ tầng internet trong việc
phát triển Thương mại điện tử”, được đăng trong kỷ yếu tuần lễ tin học X
diễn ra tại Hà Nội tháng 09/2001. Cũng trong năm 2001, Ban Thương mại
điện tử - Bộ Thương mại có báo cáo dự án quốc gia “Kỹ thuật Thương mại
điện tử”; Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam cũng tổ chức hội thảo
“Ứng dụng và phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam”. Nhà xuất bản
Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội cho xuất bản cuốn “Thương mại điện tử cho
doanh nghiệp” của Trịnh Lê Nam và Nguyễn Phúc Trƣờng Sinh. Tạp chí
internet và Thương mại điện tử số 03 tháng 11/2001 đã đăng tải bài: “Thương
mại điện tử B2C: Các vấn đề tổng quan” của Phan Mỹ Linh. Lê Đức Minh
cũng trong năm này đã có bài “Các khái niệm cơ bản trong Thương mại điện
tử”, Nhà xuất bản Thống kê (2001) có “Hỏi đáp về Thương mại điện tử”
Nhìn chung những công trình trên đã có những cách tiếp cận rất mới trên
phương diện kỹ thuật về vấn đề này.
Năm 2002 cũng xuất hiện hàng loạt những tài liệu chuyên khảo, bài
viết được đăng trên các kỷ yếu, giáo trình, tạp chí đề cập tới khía cạnh kỹ
thuật của TMĐT. Nhà xuất bản Bƣu điện Hà Nội cho xuất bản cuốn sách
“Thương mại điện tử” của Trung tâm thông tin Bưu điện - Tổng công ty Bưu
chính viễn thông Việt Nam; Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội xuất bản
cuốn “Giao dịch thương mại điện tử - một số vấn đề cơ bản” của nhóm tác giả
Nguyễn Văn Minh - Trần Hoài Nam; Xuân Hiền với “Hệ thống thanh toán
điện tử” đăng trên Internet và Thương mại điện tử các số 20, 21, 22 và 23
4
năm 2002; Tác giả Nguyễn Việt Hồng: “Mức độ sẵn sàng ứng dụng Thương
mại điện tử ở các nước” trên tạp chí Internet và Thương mại điện tử số 09
tháng 12/2002; Luận văn thạc sỹ Trường Đại học Ngoại thương “Cơ sở pháp
lý của Thương mại điện tử - Thực trạng và khả năng thực hiện ở Việt Nam”
của Hoàng Mai Hạnh (2002); Nhà xuất bản Thế giới cũng cho ra đời cuốn
“Bí quyết Thương mại điện tử hướng dẫn xuất khẩu cho các doanh nghiệp
vừa và nhỏ”.
Trong các năm 2003, 2004 Vụ Thƣơng mại - Bộ Thƣơng mại cũng
đưa ra báo cáo (2003) “Hiện trạng ứng dụng Thương mại điện tử ở Việt Nam”
và “Kiến nghị về thực trạng ứng dụng thương mại điện tử ở một số tổ chức,
đơn vị”. Đặc biệt trong hai năm nay đã có khá nhiều luận văn nghiên cứu
TMĐT dưới khía cạnh kỹ thuật như: Trường Đại học Kinh tế Quốc dân có hai
luận văn thạc sỹ: Vũ Thị Minh Hiền với “Giải pháp ứng dụng Thương mại
điện tử cho các doanh nghiệp thủ công mỹ nghệ ở Hà Nội” và “Những giải
pháp Marketting nhằm phát triển quảng cáo trên mạng trong hoạt động
thương mại điện tử ở Việt Nam” của Nguyễn Đình Toàn. Tiếp đó là “Phát
triển Thương mại điện tử ở Việt Nam trong thời gian tới” của Nguyễn Văn
Thụ - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội 2004. Luận văn
nghiên cứu các vấn đề về hiện trạng và xu hướng phát triển của các hình thức
giao dịch TMĐT trên thế giới (B2B &B2C), hiện trạng TMĐT tại Việt Nam
và đưa ra một số giải pháp phát triển TMĐT giúp Việt Nam nhanh chóng hội
nhập với TMĐT trên thế giới. Rồi đến luận văn thạc sỹ “Tìm hiểu về kỹ thuật
đàm phán quốc tế trong Thương mại điện tử và khả năng áp dụng cho doanh
nghiệp Việt Nam” của Đỗ Thị Hạnh Dung, Trường Đại học Ngoại thương
(2006).
Về tình hình phát triển Thương mại điện tử
Trong năm 2001, xuất hiện một loạt các bài báo, tài liệu chuyên khảo
nghiên cứu về tình hình phát triển TMĐT, có thể kể tới: TS. Lê Danh Vĩnh
“Tình hình triển khai chương trình quốc gia về thương mại điện tử” được
5
đăng trong kỷ yếu tuần lễ tin học X, Hà Nội tháng 09/2001; Lê Hoài An
“Bức tranh toàn cảnh về Thương mại điện tử thế giới 2001” trên tạp chí
Internet và TMĐT số 11 tháng 12/2001; Lan Anh “Phát triển Thương mại
điện tử tại Việt Nam - Rào cản từ chính doanh nghiệp” - Thời báo Kinh tế Sài
Gòn số 28 tháng 7/2001; Phan Minh Hoa “Thương mại điện tử Việt Nam -
Bây giờ hoặc không bao giờ” - Thị trường Tài chính tiền tệ số 17 tháng
09/2001; Trƣơng Minh Hoàng: “Báo cáo của Liên hiệp quốc về Thương
mại điện tử” - Internet và Thương mại điện tử số 8 tháng 12/2001. Cũng trong
năm này, Bộ Thương mại đã công bố “Dự thảo đề án phát triển Thương mại
điện tử ở Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005”.
Trường Đại học Ngoại thương có hai luận văn thạc sỹ là “Giao dịch
Thương mại điện tử trong hoạt động ngoại thương Việt Nam - Thực trạng và
giải pháp” của Lê Hữu Cƣờng (2003) và “Thương mại điện tử ở các nước
đang phát triển và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam” của Nguyễn Ngọc
Lân (2004); Th.S Nguyễn Văn Thảo (Phó tổng thư ký Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam, Trưởng ban quản lý sàn giao dịch TMĐT) có bài
viết “Thực trạng và định hướng phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam”
được đăng trên Tạp chí Thương mại số 06/2004, đã xác định những cơ hội,
thuận lợi và thách thức cho quá trình phát triển TMĐT ở Việt Nam, bằng việc
tổng kết kinh nghiệm phát triển TMĐT của các nước trên thế giới, ông đã đưa
ra những kiến giải nhằm tạo điều kiện cho TMĐT phát triển ở nước ta như:
Cần hình thành một hệ thống các nguyên tắc chỉ đạo và quan điểm về thiết lập
kết cấu hạ tầng công nghệ, kết hợp với xây dựng một chương trình tổng thể về
TMĐT để từng bước triển khai một cách đồng bộ và có hệ thống.
Cùng năm 2004, Tạp chí Thương mại số 14 có bài “Tạo lập đồng bộ
các yếu tố thị trường mua bán theo phương thức thương mại điện tử ở Việt
Nam” của Đinh Thị Nga, cũng đưa ra một số giải pháp tạo điều kiện phát
triển TMĐT trong những năm tiếp đó như: Nâng cao nhận thức, đào tạo
nguồn nhân lực, hỗ trợ cho doanh nghiệp triển khai TMĐT, phát triển hạ tầng
6
công nghệ, phát triển hạ tầng cơ sở thanh toán điện tử Trên tạp chí Internet
và TMĐT tháng 06/2004 cũng có bài “Các nguyên tắc chỉ đạo về Thương mại
điện tử ở các nước ASEAN”.
Năm 2005 cũng xuất hiện hàng loạt các bài viết: Lan Anh trong mục
Vấn đề quan tâm đã tổng kết tình hình ứng dụng TMĐT ở các doanh nghiệp
qua các năm 2003 và 2004, đưa ra những yêu cầu về mặt pháp lý nhằm cung
cấp thông tin cho các doanh nghiệp phát triển loại hình thương mại mới này
qua bài “Cởi trói cho Thương mại điện tử” được đăng trên Tạp chí Thương
mại số 18/2005. Bài “Những gã khổng lồ trong Thương mại điện tử nhắm đến
Trung Quốc” của Cao Anh Đức trên Tạp chí Thương mại số 11/2005, với
những dẫn chứng xác thực về thị trường TMĐT, đã nhấn mạnh TMĐT Trung
Quốc ngày càng có sức hút lớn đối với những ông trùm về TMĐT trên thế giới.
Hai bài “Thương mại điện tử - Cơ hội và rủi ro” và “Để thương mại
điện tử thành hiện thực” trên Tạp chí Thương mại số 18/2005 đã chỉ ra một
thách thức lớn đối với sự phát triển TMĐT ở Việt Nam. Đó là tình trạng thiếu
nhân lực và hiện tượng các doanh nghiệp, các cá nhân tạo lập website tràn
lan, sử dụng không có hiệu quả đã gây nên một sự lãng phí lớn. Cũng trong
năm này, luận văn thạc sỹ tại Đại học Ngoại thương Hà Nội “Mô hình phát
triển Thương mại điện tử ở một số nước Châu Á và một số giải pháp cho mô
hình phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam” của Phạm Trung Đà đã đưa
ra một số giải pháp nhằm phát triển TMĐT nước ta sau khi tổng kết kinh
nghiệm mô hình của một số nước trong khu vực Châu Á. Tới năm 2006, luận
văn thạc sỹ của Phạm Văn Vũ “Giải pháp đẩy mạnh thương mại điện tử
trong doanh nghiệp xuất khẩu tại Việt Nam” tại Trường Đại học Ngoại
thương một lần nữa cũng lại đề cập tới những vấn đề nêu trên.
Đặc biệt, “Báo cáo Thương mại điện tử” của Bộ Công Thương từ năm
2003 đến 2009 đã phản ánh những bước tiến của TMĐT Việt Nam so với các
năm trước đó. Dựa trên kết quả nghiên cứu, đánh giá chính sách và điều tra
7
rộng rãi các doanh nghiệp trên toàn quốc, báo cáo của từng năm đã đưa ra một
cái nhìn toàn cảnh về môi trường vĩ mô cho TMĐT cũng như tình hình ứng
dụng TMĐT trong doanh nghiệp. Báo cáo đưa ra những cơ hội và thách thức
trong bối cảnh Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới
WTO, những kết quả sau khi triển khai luật giao dịch điện tử, sự phát triển
vượt bậc của hạ tầng thanh toán và các mô hình ứng dụng TMĐT điển hình
trong cộng đồng doanh nghiêp.
Về mặt pháp lý
- Chỉ thị số 58 - CT/TW ngày 17/10/2000 của Ban chấp hành Trung
ƣơng Đảng về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT được xem là văn kiện
quan trọng nhất phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta.
- Quyết định số 222/2005/QĐ-TTg ngày 15/09/2005 của Thủ tƣớng
Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT giai đoạn
2006 - 2010.
- Nghị định số 26/2007/NĐ-CP ngày 23/02/2007 của Chính phủ về
giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính. Nghị định gồm 11 chương và 73
điều; Nghị định số 27/2007/NĐ-CP ngày 23/02/2007 về giao dịch điện tử
trong hoạt động tài chính gồm 5 chương 22 điều; Nghị định số 35/2007/NĐ-
CP ngày 08/03/2007 về giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng gồm 5
chương 30 điều; Nghị định số 63/2007/NĐ-CP ngày 10/04/2007 của Chính
phủ về quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực CNTT gồm 5 chương 36
điều; Nghị định số 64/2007/NĐ-CP ngày 10/04/2007 của Chính phủ về ứng
dụng CNTT trong hoạt động của Cơ quan Nhà nước gồm 5 chương 56 điều.
- Thông tư 09/2008 TT-BCT ngày 21/07/2008 của Bộ Công thƣơng
hướng dẫn Nghị định TMĐT về cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng trên
website TMĐT gồm 5 phần.
- Quyết định số 48/2009 QĐ-TTg ngày 31/03/2009 của Thủ tƣớng
Chính phủ phê duyệt Kế hoạch ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan
8
Nhà nước giai đoạn 2009 - 2010; Quyết định số 50/2009/QĐ-TTg ngày
03/04/2009 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc ban hành “Quy chế quản lý
Chương trình phát triển công nghiệp phần mềm và Chương trình phát triển
công nghiệp nội dung số Việt Nam”; Quyết định số 698/QĐ-TTg ngày
01/06/2009 của Thủ tƣớng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch tổng thể
phát triển nguồn nhân lực CNTT đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020.
Nhìn chung, Đảng và Chính phủ ta đã sớm thấy được vai trò quan trọng
của CNTT và TMĐT đối với quá trình phát triển đất nước. Tuy nhiên hệ
thống các văn bản pháp lý còn chưa đồng bộ và thiếu tính chặt chẽ.
Như vậy TMĐT là vấn đề thu hút được rất nhiều sự quan tâm, tuy nhiên
các công trình nêu trên chủ yếu nghiên cứu khía cạnh kỹ thuật và phát triển
TMĐT trong từng lĩnh vực chứ chưa có công trình nào đề cập một cách toàn
diện vấn đề phát triển TMĐT trong giai đoạn hiện nay. Mặt khác, TMĐT là
lĩnh vực biến đổi rất nhanh chóng nên việc theo dõi sự phát triển của TMĐT để
có những biện pháp kịp thời nhằm khắc phục những vấn đề phát sinh, giúp
TMĐT phát triển nhanh, mạnh, đúng hướng là việc làm rất cần thiết.
Luận văn này kế thừa những kết quả nghiên cứu đã được công bố,
nhưng không đi sâu vào khía cạnh kỹ thuật và khía cạnh pháp lý của TMĐT,
mà chủ yếu nhấn mạnh vai trò của TMĐT và giải pháp để phát triển TMĐT
trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Luận văn nghiên cứu cở sở lý luận về TMĐT, vai trò của nó trong nền
kinh tế thị trường hiện đại; Phân tích hiện trạng và xu hướng phát triển
TMĐT ở Việt Nam, từ đó đề xuất những giải pháp thúc đẩy TMĐT phát triển
đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế nước ta hiện nay.
* Nhiệm vụ
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về TMĐT và vai trò của nó
trong nền kinh tế thị trường hiện đại.
9
- Khảo sát hiện trạng phát triển TMĐT ở Việt Nam.
- Đề xuất những giải pháp nhằm thúc đẩy TMĐT ở Việt Nam phát triển
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu vai trò và giải
pháp phát triển của TMĐT ở nước ta hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn không đi sâu vào mặt kỹ thuật và
pháp lý của TMĐT mà tập trung nghiên cứu TMĐT ở tầm vĩ mô.
Thời gian nghiên cứu từ lúc bắt đầu xuất hiện TMĐT ở nước ta nhưng
chủ yếu là những năm gần đây (giai đoạn 2006 - 2010).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học Kinh tế
chính trị, đặc biệt coi trọng phương pháp phân tích và tổng hợp, kết hợp logic
với lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, tổng hợp, khái quát
hóa và hệ thống hóa tài liệu.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Trên cơ sở phân tích khái niệm, đặc điểm và kinh nghiệm phát triển
TMĐT ở một số nước trên thế giới, luận văn đã khẳng định được vai trò tích
cực của loại hình thương mại này đối với sự phát triển của kinh tế xã hội.
Bằng việc nghiên cứu, phân tích thực trạng TMĐT ở Việt Nam thời
gian qua, luận văn đã chỉ ra được những ưu thế và nhược điểm của các
DNVN trong quá trình xây dựng và phát triển TMĐT, khẳng định đây là một
xu hướng phát triển tất yếu để các DNVN tạo ra những bứt phá tại thị trường
nội địa và nhanh chóng hội nhập, chiếm lĩnh thị trường thế giới. Để đạt được
điều đó, trước hết cần khắc phục những khó khăn bằng cách thực thi một số
giải pháp như: Phổ cập kiến thức và mở rộng việc đào tạo nhân lực cho
TMĐT; Hoàn thiện hành lang pháp lý để điều chỉnh các hoạt động TMĐT;
Xây dựng và nâng cấp hạ tầng công nghệ; Kiến nghị Nhà nước ban hành và
thực thi các chính sách hỗ trợ TMĐT đồng thời trực tiếp tham gia vào các
hoạt động TMĐT; Đẩy mạnh hợp tác khu vực và quốc tế để phát triển TMĐT.
10
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu
tham khảo bao gồm 3 chương:
Chƣơng 1: TMĐT và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường.
Chƣơng 2: Thực trạng phát triển TMĐT tại Việt Nam.
Chƣơng 3: Phương hướng và giải pháp phát triển TMĐT ở Việt Nam.
11
Chƣơng 1
THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG
1.1. Khái niệm và đặc điểm thƣơng mại điện tử
1.1.1. Khái niệm
Có nhiều định nghĩa khác nhau về TMĐT, do nhiều tổ chức quốc tế như
Ủy ban châu Âu, WTO, OECD đưa ra, nhưng định nghĩa sau đây đã được chấp
nhận phổ biến hơn cả: TMĐT là việc sử dụng các phương tiện điện tử để làm
thương mại; nói chính xác hơn, TMĐT là việc trao đổi thông tin thương mại
qua các phương tiện công nghệ điện tử, mà nói chung là không cần phải in ra
giấy trong bất cứ công đoạn nào của toàn bộ quá trình giao dịch [38, tr.12].
Trong định nghĩa trên, chữ “thông tin” không theo nghĩa hẹp là “tin
tức”, mà là bất cứ gì có thể chuyển tải bằng kỹ thuật điện tử, bao gồm cả thư
từ, các tệp văn bản, các cơ sở dữ liệu, các bản tính, các bản vẽ thiết kế bằng
máy tính điện tử, các hình đồ họa, quảng cáo, hỏi hàng, đơn hàng, hóa đơn,
biểu giá, hợp đồng, hình ảnh động, âm thanh, Từ “thương mại” trong
“thương mại điện tử” cần được hiểu như cách diễn đạt sau đây của Ủy ban
Liên hiệp quốc về luật thương mại quốc tế, đã được ghi trong Đạo luật mẫu
về TMĐT do Ủy ban này thảo ra và đã được Liên hiệp quốc thông qua:
„Thuật ngữ “thương mại” cần được diễn giải theo nghĩa rộng để bao
quát các vấn đề nảy sinh từ mọi mối quan hệ mang tính chất thương mại, dù
có hay không có hợp đồng. Các mối quan hệ mang tính thương mại bao gồm,
nhưng không chỉ bao gồm, các giao dịch sau đây: Bất cứ giao dịch nào về
cung cấp hoặc trao đổi hàng hóa hoặc dịch vụ; thoả thuận phân phối; đại
diện hoặc đại lý thương mại; ủy thác hoa hồng, cho thuê dài hạn; xây dựng
các công trình; tư vấn kỹ thuật công trình; đầu tư; cấp vốn; ngân hàng; bảo
hiểm; thỏa thuận khai thác hoặc tô nhượng; liên doanh và các hình thức khác
12
về hợp tác công nghiệp hoặc kinh doanh; chuyên chở hàng hóa hay hành
khách bằng đường biển, đường không, đường sắt hoặc đường bộ” [38, tr.16].
Tóm lại, theo nghĩa rộng thì TMĐT được hiểu là các giao dịch tài
chính và thương mại bằng phương tiện điện tử. Và TMĐT theo nghĩa hẹp
bao gồm các hoạt động thương mại được thực hiện qua mạng internet.
Các phương tiện kỹ thuật của TMĐT bao gồm: điện thoại, máy điện
báo (telex) và máy fax, truyền hình, thiết bị kỹ thuật thanh toán điện tử, mạng
nội bộ và liên mạng nội bộ, internet. Các hình thái hoạt động của TMĐT gồm
thư điện tử (Electronic mail, gọi tắt là e-mail), thanh toán điện tử, trao đổi dữ
liệu điện tử (Electronic Data Interchange - EDI); giao gửi số hóa các dung
liệu (content), dung liệu là các hàng hóa và cái con người ta cần đến là các nội
dung của nó (hay nói cách khác chính nội dung là hàng hóa) chứ không phải
bản thân vật mang nội dung, ví dụ như tin tức, sách báo, nhạc, phim, các ý
kiến tư vấn, vé máy bay, vé xem phim, xem hát, các chương trình bán lẻ hàng
hóa hữu hình, tức là người bán xây dựng các “cửa hàng ảo” trên mạng, người
mua sử dụng mạng internet/web tìm trang web của cửa hàng, xem hàng hóa
hiển thị trên màn hình, xác nhận mua, trả tiền bằng hình thức thanh toán điện
tử sau đó cửa hàng giao hàng tới tận nhà.
Giao dịch TMĐT (electronic commerce transaction) bao gồm 4 kiểu:
Giữa Người với Người: qua điện thoại, máy fax và e-mail; Người với Máy
tính điện tử: một cách trực tiếp hoặc qua các mẫu biểu điện tử (Electronic
Form) và qua mạng Internet; Máy tính điện tử với Máy tính điện tử: qua trao
đổi EDI, thẻ thông minh (smart card), các dữ liệu mà gọi là dữ liệu mã vạch;
Máy tính điện tử với Người: qua thư tín do máy tự động sinh ra, máy fax và
thư điện tử.
Ở Việt Nam, “TMĐT” là thuật ngữ mới xuất hiện trong những năm gần
đây và cũng chưa có văn bản pháp lý chính thức đưa ra định nghĩa chính xác
về TMĐT. Phần đông đều cho TMĐT là việc mua bán hàng hóa và dịch vụ
13
thông qua các phương tiện điện tử và các mạng viễn thông, chủ yếu là máy
tính và internet. Tuy nhiên, căn cứ vào các định nghĩa đã có trên thế giới và
Việt Nam, xét thực tế và tương lai phát triển của TMĐT thì có thể hiểu
TMĐT theo hướng “thương mại” theo nghĩa rộng (tức là thương mại hiện đại)
còn “điện tử” theo nghĩa hẹp. Có nghĩa là “Thương mại điện tử là mọi hoạt
động thương mại được thực hiện thông qua mạng internet và các mạng viễn
thông khác”. Luận văn cũng dùng khái niệm này để nghiên cứu.
1.1.2. Đặc điểm và phân loại Thương mại điện tử
1.1.2.1. Đặc điểm
So với các hoạt động thương mại truyền thống, TMĐT có một số điểm
khác biệt cơ bản sau:
Không cần tiếp xúc trực tiếp trong giao dịch thương mại: Các bên tiến
hành giao dịch trong TMĐT không tiếp xúc trực tiếp với nhau và không đòi
hỏi phải biết nhau từ trước.
Số lượng chủ thể giao dịch tối thiểu là 3 bên: Trong hoạt động giao
dịch TMĐT đều có sự tham gia của ít nhất 3 chủ thể, ngoài người bán và
người mua còn có bên thứ ba không thể thiếu được là người cung cấp dịch vụ
mạng và các cơ quan chứng thực.
Mạng thông tin đóng vai trò quyết định trong hoạt động TMĐT: Đối
với thương mại truyền thống thì mạng lưới thông tin chỉ là phương tiện để
trao đổi dữ liệu, còn đối với TMĐT thì mạng lưới thông tin đóng vai trò quyết
định tới thành bại của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
1.1.2.2. Phân loại
Có rất nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại các mô hình TMĐT, như
phân loại theo công nghệ kết nối mạng (có dây và không dây), theo hình thức
dịch vụ (chính phủ điện tử, giáo dục điện tử, tài chính điện tử ), theo mức độ
phối hợp, chia sẻ và sử dụng thông tin qua mạng (thương mại thông tin,
thương mại giao dịch, thương mại cộng tác ). Tuy nhiên, người ta thường
14
hay phân chia theo đối tượng tham gia, hay cụ thể hơn là cách thức giao dịch
giữa các chủ thể của TMĐT là: Doanh nghiệp (B), người tiêu dùng (C) và
Chính phủ (G). Căn cứ vào đó có thể có các loại sau:
TMĐT giữa doanh nghiệp và doanh nghiệp (B2B): Là loại hình giao
dịch qua các phương tiện điện tử giữa DN và DN được thực hiện trên các sàn
giao dịch mạng.
TMĐT giữa doanh nghiệp và người tiêu dùng (B2C): Là loại hình mua
bán qua mạng giữa DN và người tiêu dùng, chủ yếu là mô hình bán lẻ. Ở đó,
các DN sử dụng các phương tiện điện tử để trưng bày, tiếp thị, bán hàng hóa
và dịch vụ cho người tiêu dùng và ngược lại, người tiêu dùng thông qua các
phương tiện điện tử để lựa chọn, đặt hàng, thanh toán và nhận hàng. Đây
chính là hình thái sớm nhất của TMĐT [26].
TMĐT giữa doanh nghiệp và Chính phủ (B2G): Là loại hình giao dịch
điện tử giữa DN và các cơ quan nhà nước. Trong đó, cơ quan nhà nước đóng
vai trò là khách hàng, mua bán hàng hóa phục vụ cho các hoạt động công
bằng cách mua trực tiếp hoặc tiến hành đấu thầu trên mạng. Mặt khác, các cơ
quan nhà nước cũng lập các website để cung cấp các dịch vụ công cho các
DN như: hải quan điện tử, thuế điện tử, chứng nhận xuất xứ điện tử
TMĐT giữa các cá nhân (C2C): Là loại hình TMĐT giữa các cá nhân
với nhau. Người tiêu dùng có thể tự mình tạo website hoặc thông qua các sàn
giao dịch sẵn có (như Napster, Ebay ) để thực hiện mua bán, đấu giá các
hàng hóa có nhu cầu.
TMĐT giữa chính phủ và người tiêu dùng (G2C): Loại hình này không
phổ biến vì chủ yếu là các giao dịch mang tính hành chính giữa các cơ quan
nhà nước và người dân. Tuy nhiên nó cũng có thể mang những yếu tố của
TMĐT như: hoạt động đóng thuế qua mạng, trả phí đăng kí hồ sơ
Trong các loại hình nói trên thì B2B và B2C là hai loại hình có ý nghĩa
nhất vì B2B là loại hình có tỷ trọng giao dịch lớn nhất trong các giao dịchcủa
15
TMĐT (chiếm khoảng 80%) còn B2C thì lại diễn ra trên diện rộng, thu hút
nhiều người tham gia.
1.1.3. Những điều kiện để phát triển thương mại điện tử
TMĐT bao trùm một phạm vi rộng lớn các hoạt động kinh tế và xã hội,
hạ tầng của nó là cả một tổng hòa phức hợp: hạ tầng công nghệ; nguồn nhân
lực; bảo mật và an toàn; hạ tầng thanh toán tài chính tự động; bảo vệ sở hữu
trí tuệ; tác động văn hóa xã hội của internet; lệ thuộc công nghệ. Chúng ta
không nên nhìn nhận TMĐT đơn thuần chỉ là dùng phương tiện điện tử để
thực hiện các hành động buôn bán truyền thống, mà nên hiểu rằng một khi
chấp nhận và ứng dụng TMĐT thì toàn bộ hình thái hoạt động của một nước
sẽ thay đổi, cả hệ thống giáo dục, cả tập quán làm việc, cả quan hệ quốc tế,
TMĐT là tổng thể của hàng chục vấn đề phức tạp đan xen nhau trong
một mối quan hệ hữu cơ. Để ứng dụng TMĐT thì việc đầu tiên là cần các
chính sách và các quy định của Nhà nước về pháp lý (bảo mật an ninh, công
nghệ thông tin, truyền thông, sở hữu trí tuệ, sở hữu của người tiêu dùng, cơ
quan xác nhận và công chứng). Tham gia vào phần dịch vụ là các tổ chức như
ngân hàng, tổ chức tài chính - tín dụng, tổ chức thẻ (các loại thẻ), các công ty
bảo hiểm. Ngoài ra, còn có thể tạo mối liên hệ trực tuyến với quốc tế, thúc
đẩy việc trao đổi và lưu thông hàng hóa với bên ngoài tiến tới toàn cầu hóa.
Dưới đây sẽ xem xét các điều kiện cần thiết làm tiền đề và môi trường cho
hoạt động TMĐT.
1.1.3.1. Nguồn nhân lực
TMĐT có mối quan hệ từ người tiêu thụ tới người sản xuất, phân phối,
tới các cơ quan Chính phủ, tới cả các nhà công nghệ. Việc áp dụng TMĐT tất
yếu làm nảy sinh hai đòi hỏi: một là mọi người đều quen thuộc và có khả
năng thành thạo hoạt động trên mạng, hai là có một đội ngũ chuyên gia tin
học mạnh, thường xuyên bắt kịp các công nghệ thông tin mới phát triển để
phục vụ cho kinh tế số hóa nói chung và TMĐT nói riêng (nay đã ở mức đổi
16
mới hàng tuần), cũng như có khả năng thiết kế các công cụ phần mềm đáp
ứng được nhu cầu hoạt động của một nền kinh tế số hóa, tránh bị động, lệ
thuộc hoàn toàn vào nước khác.
Áp dụng TMĐT đòi hỏi mỗi người tham gia phải có khả năng trao đổi
thông tin một cách thành thạo trên mạng, phải có những hiểu biết cần thiết về
kinh tế, thương mại, luật pháp quốc tế, công nghệ thông tin, và ngoại ngữ do
vậy nhất thiết phải xây dựng được một đội ngũ chuyên gia giỏi, thường xuyên
tiếp cận nhanh chóng và có hiệu quả những công nghệ mới để đáp ứng kịp
thời nhu cầu phát triển.
1.1.3.2. Kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin, công nghệ điện tử
Để áp dụng và phát triển TMĐT thì hạ tầng công nghệ phải được bảo
đảm gồm: công nghệ thông tin; công nghệ viễn thông; công nghệ internet;
công nghệ điện tử; công nghệ điện lực; cùng với tổ chức hệ thống đào tạo;
tiêu chuẩn công nghệ.
TMĐT là hệ quả tất yếu của sự phát triển kỹ thuật số hóa, của công
nghệ thông tin. Hạ tầng công nghệ thông tin là điều kiện tiên quyết bảo đảm
thông tin, nó bao gồm công cụ (phần cứng và phần mềm), và các dịch vụ
thích hợp để áp dụng và phát triển TMĐT nhằm mang lại hiệu quả kinh tế.
Cùng với hạ tầng công nghệ thông tin, hạ tầng công nghệ viễn thông là
điều kiện thiết yếu để áp dụng và phát triển TMĐT.
Song song với hạ tầng công nghệ thông tin, hạ tầng công nghệ internet
là một trong ba yếu tố cần thiết để áp dụng và phát triển TMĐT. Hạ tầng công
nghệ internet cung cấp thông tin phong phú, đa dạng, nhanh chóng sẽ là điều
kiện thúc đẩy lao động sáng tạo, tạo cơ hội thành công trong cạnh tranh và
đưa lại hiệu quả tốt cho các hoạt động hợp tác trao đổi.
TMĐT muốn áp dụng và phát triển được cần tuân thủ nhiều chuẩn công
nghệ của quốc gia và quốc tế cho: thương mại, thanh toán, vận chuyển, hải
quan, tài chính, Những hệ thống công nghệ đơn lẻ sẽ không thể trao đổi
17
được với nhau trên phạm vi quốc gia hoặc toàn cầu nếu không tuân thủ những
tiêu chuẩn chung về mặt công nghệ. Do vậy, mỗi nước ngoài việc xây dựng
và áp dụng các tiêu chuẩn quốc gia về công nghệ cho mình còn phải nghiên
cứu và thừa nhận các tiêu chuẩn quốc tế để đảm bảo sự tương thích cho hội
nhập khu vực và toàn cầu.
Hạ tầng công nghệ công nghiệp điện tử là những điều kiện quan trọng
và cần thiết để chủ động chế tạo ra các thiết bị điện tử - tin học - viễn thông
đáp ứng nhu cầu sử dụng cho nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội trong nước và
xuất khẩu. Trên cở sở đó sẽ có thể xây dựng được các công nghệ tiên tiến, sử
dụng nhiều loại thiết bị hiện đại và thích hợp do trong nước chế tạo được
dùng trong TMĐT, tránh lệ thuộc vào công nghệ nước ngoài.
Công nghệ thông tin và TMĐT chỉ có thể hoạt động đáng tin cậy trên
nền của một hạ tầng điện lực vững chắc, đảm bảo cung cấp điện năng đầy đủ,
ổn định, giá cả hợp lý và rộng khắp trên phạm vi cả nước (đây là điều kiện
khó khăn đối với các nước đang phát triển).
1.1.3.3. Môi trường pháp lý
Vấn đề pháp lý mang tính xuyên suốt và liên quan đến mọi mặt hoạt
động khác nhau của TMĐT. Cho nên để tạo điều kiện cho các kết cấu hạ tầng
phát triển đồng bộ thì các vấn đề pháp lý cần phải quan tâm là:
Khung pháp luật thương mại có tính thống nhất để có thể điều chỉnh cả
các hoạt động thương mại (các hợp đồng thương mại được hoạt động thông
qua mạng internet) nói chung và các giao dịch nói riêng thông qua các
phương tiện công nghệ được sử dụng cho giao dịch. Mặt khác, tính thống nhất
của khung pháp luật về TMĐT còn phải được thể hiện cả ở trong nước lẫn
phạm vi toàn cầu, nghĩa là có luật thừa nhận tính pháp lý của giao dịch
TMĐT.
Bảo vệ quyền tác giả, bảo hộ các cơ sở dữ liệu, bằng sáng chế, thương
hiệu, tên miền, và các vấn đề liên quan đến mọi hình thức giao dịch điện tử;
bảo vệ bí mật cá nhân; bảo vệ an ninh; an toàn; thừa nhận tính pháp lý của chữ
18
ký điện tử, chữ ký số hóa, đồng thời có một thể chế pháp lý, các cơ quan pháp
lý thích hợp cho việc xác thực/chứng thực chữ ký điện tử và chữ ký số hóa.
Xây dựng một hệ thống pháp lý để bảo vệ mạng thông tin là cần thiết
nhằm chống tội phạm xâm nhập với các mục đích bất hợp pháp, như thu thập
tin tức mật, thay đổi thông tin trên trang web, thâm nhập vào các dữ liệu, sao
chép trộm các phần mềm, truyền virus phá hoại Tới nay từng nước có thể có
các luật đơn hành này nhưng điều cần thiết là phải đưa vào khuôn khổ của bộ
luật hình sự, một khi kinh tế số hóa được thừa nhận trên tầm quốc gia.
Trong các quan hệ giao dịch TMĐT, khả năng xảy ra tranh chấp là điều
khó tránh khỏi. Nhưng các thủ tục và cơ chế giải quyết tranh chấp trong
thương mại truyền thống không thể áp dụng hữu hiệu cho các tranh chấp
trong giao dịch TMĐT. Bởi vì với những thuận lợi do phương tiện điện tử
mang lại trong giao dịch thương mại thì các tranh chấp sẽ có nguy cơ xảy ra
nhiều hơn và chịu quyền tài phán của nhiều hệ thống luật khác nhau, các tranh
chấp xảy ra mang tính không biên giới, đa dạng về chủ thể tham gia cũng như
hình thức giao dịch. Đồng thời vấn đề thi hành các phán quyết và quyết định
của cơ quan giải quyết tranh chấp được thực hiện như thế nào cũng là một
trong những khó khăn, thách thức lớn đối với giao dịch TMĐT.
1.1.3.4. Sự quản lý của Nhà nước về thương mại điện tử
Đối tượng và phạm vi quản lý Nhà nước về TMĐT là vấn đề rất rộng,
nó bao quát hầu hết các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Trước hết cần
xác định, quản lý Nhà nước về TMĐT thuộc loại hình quản lý xã hội và là
một bộ phận của quản lý Nhà nước, nhưng không đơn thuần là quản lý kinh tế
hay đơn thuần là quản lý văn hóa, xã hội hoặc an ninh quốc gia mà nó là một
kiểu quản lý Nhà nước có tính phức hợp, đan xen của cả ba hình thức quản lý
nêu trên.
Đối tượng của quản lý Nhà nước về TMĐT là toàn bộ các hoạt động
TMĐT của tất cả các chủ thể (Chính phủ, doanh nghiệp, người tiêu dùng,
công dân) ở mọi hình thức, mọi cấp độ và trên tất cả các lĩnh vực của đời
19
sống kinh tế - xã hội trong quá trình hình thành, ứng dụng và phát triển
TMĐT.
Mặt khác, khi nói đến quản lý Nhà nước về TMĐT là nói đến cả hai nội
dung: một là, quản lý bằng chiến lược, luật pháp, chính sách và cơ chế; hai là,
vai trò mở đường thúc đẩy, tổ chức tham gia của Nhà nước bằng những hình
thức, phương tiện và công cụ cụ thể. Vì thế, về mặt phương pháp luận không
thể tách rời vấn đề quản lý nhà nước với vấn đề vai trò của chính phủ trong
TMĐT.
1.1.3.5. Các vấn đề khác phải quan tâm
Thứ nhất là môi trường quốc gia: Chính phủ từng nước phải quyết định
thiết lập môi trường kinh tế, pháp lý và xã hội (cả văn hóa giáo dục) cho nền
kinh tế số hóa nói chung và cho TMĐT nói riêng (ví dụ quyết định đưa vào
mạng các dịch vụ hành chính, các dịch vụ thu trả thuế, các dịch vụ khác như
thư tín, dự báo thời tiết, thông báo giờ tàu xe ) và đưa các nội dung của kinh
tế số hóa vào văn hóa và giáo dục các cấp.
Hai là môi trường quốc tế: TMĐT mang tính không có biên giới nên
môi trường kinh tế, pháp lý và xã hội quốc gia cũng phải thích ứng với môi
trường kinh tế, pháp lý và xã hội quốc tế. Đây chính là khía cạnh làm mất đi
tính ranh giới địa lý vốn là đặc tính cố hữu của ngoại thương truyền thống và
dẫn tới những khó khăn về: luật áp dụng để điều chỉnh hợp đồng; thanh toán;
thu thuế; khó khăn hơn nữa là đánh thuế các dung liệu, tức là các hàng hóa
“phi vật thể’’ (như âm nhạc, chương trình truyền hình, chương trình phần
mềm được giao gửi trực tiếp giữa các đối tác qua mạng); thu thuế trong
trường hợp thanh toán vô hình bằng thẻ thông minh; cách kiểm toán các công
ty buôn bán bằng phương thức TMĐT; bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ chính trị
và bảo vệ bí mật riêng tư trong thông tin xuyên quốc gia trên mạng internet
giữa các nước có hệ thống luật pháp và hệ thống chính trị khác nhau; pháp
luật quốc tế về sử dụng không gian liên quan đến việc phóng và khai thác các
vệ tinh viễn thông.