Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Bắc Giang theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (978.27 KB, 128 trang )

đại học quốc gia hà nội
trung tâm đào tạo, bồi d-ỡng giảng viên lý luận chính trị
&



Vũ Đức Huy



Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
ở tỉnh Bắc Giang theo h-ớng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá



luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị








Hà Nội - 2005
đại học quốc gia hà nội
trung tâm đào tạo, bồi d-ỡng giảng viên lý luận chính trị
&



Vũ Đức Huy


Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
ở tỉnh Bắc Giang theo h-ớng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá



luận văn thạc sĩ kinh tế chính trị


Chuyên ngành: Kinh tế Chính trị
Mã số: 5.02.01


Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: GS.TS. Chu Văn Cấp



Hà Nội - 2005
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


CNH, HĐH: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CĐ: Cao đẳng
CCKT: Cơ cấu kinh tế
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
ĐH: Đại học
GTVT: Giao thông vận tải

GTSX: Giá trị sản xuất
GD - ĐT: Giáo dục - Đào tào
GDP: Thu nhập quốc dân
HTX: Hợp tác xã
TBCN: Tư bản chủ nghĩa
TTLL: Thông tin liên lạc
THCN: Trung học chuyên nghiệp
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
UBND: Uỷ ban nhân dân








1
MỤC LỤC


Trang
Mở đầu
2
Chƣơng 1. Những vấn đề lí luận chung về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa

7
1.1. Một số khái niệm cơ bản
7

1.2. Sự cần thiết của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở
tỉnh Bắc
Giang

28
Chƣơng 2. Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở tỉnh
Bắc Giang từ năm 1997 đến nay

33
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế-xã hội tác động đến quá
trình chuyển dịch CCKT nông nghiệp ở tỉnh Bắc Giang

33
2.2. Thực trạng chuyển dịch CCKT nông nghiệp ở tỉnh Bắc Giang
42
2.3. Những thành tựu và hạn chế, tồn tại trong quá trình chuyển
dịch CCKT nông nghiệp ở tỉnh Bắc Giang

62
Chƣơng 3. Những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Bắc Giang trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa


75
3.1. Phương hướng chuyển dịch CCKT nông nghiệp từ nay đến
2010

75
3.2. Những giải pháp chủ yếu để thúc đẩy chuyển dịch CCKT

nông nghiệp ở tỉnh Bắc Giang từ nay đến
2010

90
Kết luận
113

2
Danh mục tài liệu tham khảo
115


























3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V (3/1982) xác định: "Tập trung phát
triển nông nghiệp một bước lên sản xuất xã hội chủ nghĩa".
Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định:
"Đặc biệt coi trong công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn" và
Nghị quyết Bộ chính trị (11/1998) xác định: "Thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá".
Giai đoạn hiện nay, khi bước vào giai đoạn mới của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX chỉ rõ: "Phải tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để
đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn; tiếp tục phát
triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một trình độ mới bằng
việc ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học; đổi mới
cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu được trên một diện tích; quy hoạch và
sử dụng đất hợp lý; đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, điện khí hoá, gải quyết
tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hoá. Phát triển kết cấu hạ tầng, công nghiệp
dịch vụ, chuyển dịch cơ cấu lao động, tạo nhiều việc làm mới và cải thiện đời
sống nhân dân và dân cư trong nông thôn” [19, tr.134].
Thật vậy, nông nghiệp nông thôn là vấn đề cơ bản, lâu dài cho sự ổn định
và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn. Nhằm góp phần thực hiện mục tiêu:
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ ,văn minh". Do đó, kinh tế
nông nghiệp phải có sự chuyển biến mạnh mẽ hiệu quả và phát triển bền vững.


4
Tuy nhiên, kinh tế nông thôn nước ta vẫn nặng về nông nghiệp (> 60%) và
cơ cấu kinh tế nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng lớn về trồng trọt. Trong đó, chăn
nuôi và thủ công nghiệp còn chiếm tỷ trọng nhỏ. Nhìn một cách tổng thể thì tốc
độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp còn chậm.
Nhận thức về vấn đề này, Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lần thứ XV
(2000) đã đưa ra công tác chỉ đạo thực hiện một trong bảy lĩnh vực trọng điểm
là: "Tiếp tục đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá. Trọng tâm là đầu tư áp dụng các tiến bộ kỹ thuật về giống, kỹ
thuật canh tác, công nghệ sinh học, thâm canh, chuyển dịch cơ cấu mùa vụ để
tăng nhanh năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất. Ngoài việc đầu tư, phát
triển cây lương thực, cần tăng cường đầu tư phát triển mạnh các loại cây ăn
quả, cây công nghiệp ngắn ngày, rau quả và phát triển chăn nuôi một cách hợp
lý, kết hợp với công tác trồng và chăm sóc, bảo vệ rừng để tạo nguồn nguyên
liệu cho công nghiệp chế biến và xuất khẩu” [21, tr.68].
Đồng thời, một trong những giải pháp chủ yếu của phát triển kinh tế xã
hội tỉnh Bắc Giang, Đại hội cũng xác định: "Tập trung sức phát triển kinh tế và
chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong đó đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp , nông thôn”.
Xuất phát từ yêu cầu chung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
Ở mỗi khía cạnh, lĩnh vực khác nhau về “chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp ở tỉnh Bắc Giang theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá" vẫn còn
có nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần được nghiên cứu làm sáng rõ.

5
Vì thế "Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Bắc Giang theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá" được tác giả chọn làm đề tài luận văn thạc
sĩ kinh tế, chuyên ngành Kinh tế chính trị.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá của đất nước nói chung và trên địa bản tỉnh Bắc Giang nói riêng là
một vấn đề hết sức quan trọng mang tính bức xúc cả về lý luận và thực tiễn. Hiện
nay vấn đề này đã được sự quan tâm, chú ý của nhiều nhà kinh tế, nhà nghiên
cứu, nhà hoạch định chính sách và chỉ đạo thực tiễn. Ở dưới nhiều góc độ, khía
cạnh khác nhau. Đồng thời có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả đề
cập như:
- GS. Nguyễn Điền: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông
thôn các nước Châu Á và Việt Nam.
- GS.TS. Ngô Đình Giao: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- PTS. Nguyễn Sinh Cúc: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp.
- Chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và công nghệ-NXB
Chính trị quốc gia, Hà Nội (1996).
- Vũ Oanh: Nông nghiệp và nông thôn - Con đường công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và hợp tác hoá, dân chủ hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Chủ trương, giải pháp lớn phát triển nông nghiệp, nông thôn trong thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Tạp chí Thông tin công tác tư tưởng,
số 4/1998.
Tuy nhiên, góc độ nghiên cứu và phương pháp tiếp cận khác nhau, các tác
giả đã phân tích, luận giải vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung và

6
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng. Song vấn đề này ở tỉnh Bắc
Giang đến nay còn mới mẻ, chưa có những công trình đi sâu nghiên cứu một
cách toàn diện; có hệ thống dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị. Nên "Chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Bắc Giang theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá" cần được tiếp tục nghiên cứu.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài

* Mục đích của đề tài: Trên cơ sở lý luận chung, những quan điểm,
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp. Luận văn đi sâu phân tích và đánh giá thực trạng quá trình này ở
tỉnh Bắc Giang; từ đó rút ra những định hướng, giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Bắc Giang theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ của đề tài: Đề tài thực hiện trên cơ sở hệ thống hoá những lý
luận về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp để:
- Làm rõ nội dung của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Đánh giá thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Bắc
Giang từ khi tái lập tỉnh (1999) đến nay.
- Đưa ra những khuyến nghị và đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm thúc
đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp tỉnh Bắc Giang
theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu: “Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Bắc Giang theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá”.

7
* Phạm vi nghiên cứu: Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và Chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp từ năm 1997 đến nay.

8
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận kinh tế chính
trị Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối chính sách
của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp của

khoa học kinh tế. Đặc biệt chú trọng phương pháp: Phân tích tổng hợp, tổng kết
đánh giá thực tiễn, thống kê, so sánh, đối chiếu và phương pháp quy nạp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho các cơ quan, ban ngành trong tỉnh, phục vụ cho việc hoạch định những
chính sách thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong
những năm tiếp theo trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu làm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về cơ cấu kinh tế và chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chương 2: Thực trạng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Bắc
Giang theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Bắc Giang theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.



9
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ
NÔNG NGHIỆPTHEO HƢỚNG CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ

1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm về cơ cấu kinh tế và cơ cấu kinh tế nông nghiệp
1.1.1.1. Cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế là cấu trúc bên trong của quá trình tái sản xuất mở rộng của
nền kinh tế quốc dân, là tổng thể các mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành

nền kinh tế: các lĩnh vực (sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng); các ngành
king tế quốc dân (nông nghiệp, công nghiệp, giao thông vận tải.); các vùng kinh
tế và các thành phần kinh tế.
Trong tổng thể cơ cấu kinh tế thì cơ cấu ngành kinh tế là bộ phận cơ cấu
có ý nghĩa quyết định tới phương hướng sản xuất (sản xuất ra cái gì ?); đối tượng
sản xuất là ai ?; quá trình và hiệu quả sản xuất như thế nào ? (lựa chọn, sử dụng
công nghệ, thiết bị có lợi nhất trong sản xuất và kinh doanh).
Sự hình thành một cơ cấu kinh tế hợp lý sẽ tạo tiền đề vật chất to lớn, cho
phép khai thác mọi tiềm năng và lợi thế của đất nước nói chung và của từng
vùng, miền nói riêng như: tài nguyên thiên nhiên, lao động, đất đai, ngành nghề,
thị trường. Cơ cấu kinh tế được xem là điều kiện cần thiết, là nhân tố ảnh hưởng
mạnh mẽ, trực tiếp nhất đến nhịp độ, quy mô tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã
hội một cách bền vững. Đặc biệt hiện nay, trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở nước ta, một CCKT được coi là hợp lý khi nó đáp ứng được
những yêu cầu sau:

10
- Phù hợp với đặc điểm và điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của từng
vùng.
- Đáp ứng được yêu cầu của thị trường về số lượng và chất lượng sản
phẩm
- Đem lại hiệu quả kinh tế-xã hội ngày càng cao và chuyển dịch theo
hướng hiện đại hoá, khai thác và cải thiện tốt điều kiện tự nhiên.
* Tính chất của cơ cấu kinh tế:
- Một là, tính khách quan của cơ cấu kinh tế.
Cơ cấu kinh tế được quy định bởi các yếu tố vất chất (tư liệu sản xuất, tài
nguyên, công nghệ, sức lao động) và cơ cấu kinh tế tồn tại, vận động, phát triển
theo những quy luật khách quan, độc lập với con người. Tuy con người không
thể tuỳ tiện xây dựng cơ cấu kinh tế nhưng có thể tác động làm thay đổi cơ cấu
ấy thông qua sự tác động vào các yếu tố vật chất của nền sản xuất.

Khi con người tác động phù hợp với các quy luật khách quan có thể làm
cho cơ cấu kinh tế thay đổi theo chiều hướng tiến bộ, đẩy nhanh quá trình tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Ngược lại, nếu sự tác động đó không phù hợp, trái
quy luật sẽ cản trở quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Theo C.Mác cơ cấu kinh tế có quan hệ mật thiết với phân công xã hội.
Người khẳng định: "Trong sự phân công xã hội, thì con số tỷ lệ là một tất yếu
không sao tránh khỏi, một sự tất yếu thầm kín yên lặng" [29, tr.15].
Nói một cách khác, mọi sự vật hiện tượng nói chung và nền kinh tế nói
riêng chỉ có thể tồn tại và phát triển theo những cấu trúc nhất định, vận động,
phát triển theo những quy luật khách quan, nhất là quy luật quan hệ sản xuất phải
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong từng thời kỳ; phù hợp

11
với các quy luật của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, lưu thông tiền tệ, cạnh
tranh và cung cầu.
Như vậy, một cơ cấu kinh tế hợp lý của nền kinh tế quốc dân phải phản
ánh sự vận động của các quy luật kinh tế và các quy luật khác, không phụ thuộc
vào ý chí của con người. Khi ấy con người có vai trò nhận thức ngày càng sâu
sắc những quy luật để phân tích, đánh giá những xu thế phát triển khách quan mà
tìm ra những phương án thay đổi cơ cấu sao cho hiệu quả cao nhất trong điều
kiện cụ thể của quốc gia hay địa phương.
Hai là, cơ cấu kinh tế mang tính lịch sử cụ thể.
Nền kinh tế chỉ có thể phát triển khi giữa các bộ phận của quá trình tái sản
xuất xác lập những quan hệ cân đối nhất định của phân công lao động xã hội.
Giữa các nền sản xuất, những yêu cầu về số lượng có thể tương tự nhau, nhưng
những yêu cầu về chất lượng cách thức thực hiện, những tỷ lệ cân đối thì khác
nhau, sự khác nhau ấy là do quy luật kinh tế đặc thù của mỗi phương thức sản
xuất, mà trước hết là do quy luật kinh tế tuyệt đối của phương thức sản xuất ấy
quyết định. Ngay trong một hình thái kinh tế - xã hội, nhưng ở những nước khác
nhau, ở những địa phương khác nhau và mỗi thời kỳ khác nhau vẫn có cơ cấu

kinh tế khác nhau, do điều kiện địa lý, kinh tế, xã hội khác nhau quy định.
C.Mác viết: “Sự tất yếu phải phân công lao động xã hội theo những tỷ lệ
nhất định quyết không thể bị tiêu diệt bởi một hình thái nhất định của sản xuất
xã hội, chỉ có hình thái biểu hiện của nó có thể bị thay đổi mà thôi, điều này tự
nó đã rõ rồi" [29, tr.759].
Cơ cấu kinh tế luôn luôn biến động, nó không phải là một cái gì “chết
cứng”, “nằm im”, nên việc xác định cơ cấu kinh tế không thể không căn cứ vào
điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể của từng thời kỳ. Cơ cấu kinh tế gắn liền với sự

12
biến đổi không ngừng của bản thân các yếu tố, các bộ phận trong nền kinh tế và
những mối quan hệ giữa chúng.
Tính lịch sử cụ thể của cơ cấu kinh tế còn biểu hiện ở chỗ không có cơ cấu
kinh tế chung cho mọi nền kinh tế và cũng không có cơ cấu kinh tế duy nhất cho
một nền kinh tế, một địa phương ở các giai đoạn phát triển khác nhau.
Tóm lại, tính khách quan, tính lịch sử cụ thể là những tính chất cấu thành
nên đặc trưng cơ bản của cơ cấu kinh tế. Chúng ta phải nhận thức đầy đủ những
đặc trưng đó trong hoạt động xây dựng cơ cấu kinh tế hiện nay ở nước ta nói
chung và ở mỗi địa phương nói riêng.
1.1.1.2. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp (CCKT nông nghiệp)
CCKT nông nghiệp bao gồm: CCKT các ngành nông-lâm-ngư nghiệp.
Trong cơ cấu ngành lại có các lĩnh vực ngành như: ngành trồng trọt, chăn nuôi;
trong ngành trồng trọt lại có lịnh vực trồng cây lương thực, cây công nghiệp, cây
ăn quả. Trong CCKT nông nghiệp còn bao gồm các bộ phận công nghiệp, dịch
vụ phục vụ trực tiếp cho quá trình sản xuất nông nghiệp trên địa bàn nông thôn
để từ đó hình thành lên bộ mặt kinh tế nông thôn. Do đó, kinh tế nông thôn được
hiểu là “một phức hợp những nhân tố cấu thành của lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất trong nông- lâm-ngư nghiệp, cùng với các ngành thủ công nghiệp,
các ngành thủ công nghiệp truyền thống; các ngành tiểu thủ công nghiệp, công
nghiệp chế biến và phục vụ nông nghiệp như thương nghiệp và dịch vụ.tất cả có

quan hệ hữa cơ với nhau trong kinh tế vùng, lãnh thổ và trong toàn bộ nền kinh tế
quốc dân” [23, tr.484].
Như vậy, giống cơ cấu kinh tế nói chung, CCKT nông nghiệp bao gồm: cơ
cấu ngành theo nghĩa rộng (nông-lâm-ngư nghiệp), cơ cấu vùng lãnh thổ, cơ cấu
thành phần kinh tế. Cho nên, một trong những nội dung cốt lõi của CNH,HĐH

13
nông nghiệp, nông thôn hiện nay là hoàn thiện CCKT nông nghiệp; đây là vấn đề
có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong việc sử dụng các nguồn lực nông nghiệp,
nông thôn và những nguồn lực ấy chỉ có thể được khai thác và sử dụng có hiệu
quả khi có một CCKT hợp lý.
1.1.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp
1.1.2.1. Quan niệm về chuyển dịch cơ cấu cơ cấu kinh tế nông nghiệp
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã nêu rõ: “Chuyển dịch
CCKT nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá được xem như
một quá trình biến đổi CCKT gắn liền với đổi mới căn bản về công nghệ, tạo nền
tảng cho sự tăng trưởng nhanh, hiệu quả và lâu bền của toàn bộ nền kinh tế
quốc dân. Đây là vấn đề lớn và cấp thiết ở nước ta trong quá trình đổi mới kinh
tế trên các giác độ như: cơ cấu theo ngành, theo vùng mà trong đó đặc biệt là
CCKT nông nghiệp” [19, tr.135].
Chuyển dịch CCKT nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất
nông nghiệp theo hướng phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá, nâng cao hiệu
quả sản xuất và năng suất lao động ngày càng tương xứng với tiềm năng về sinh
thái cũng như khả năng áp dụng công nghệ mới. Trong quá trình đó, dẫn đến sự
tích tụ về ruộng đất, tạo ra nhiều doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp lớn, hình
thành trang trại và các vùng chuyên canh sản xuất nông nghiệp; Đồng thời, giải
phóng một bộ phận nông dân ra khỏi các hoạt động sản xuất nông nghiệp truyền
thống phân tán, quy mô nhỏ, tự túc, tự cấp để tìm kiếm thu nhập cao hơn ở các
lĩnh vực phi nông nghiệp, làm công ăn lương, tăng năng suất lao động, góp phần
tạo ra nhiều việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân.

Như vậy, quá trình chuyển dịch CCKT nông nghiệp gắn liền với phân
công lại lao động ở nông thôn nhằm rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và

14
thành thị, xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại là một trong những nội
dung chính và cơ bản của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện
nay.
1.1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp
Trong qúa trình thực hiện chuyển dịch CCKT nông nghiệp thì việc chuyển
dịch giữa các yấu tố nông-lâm-ngư nghiệp được biểu hiện bằng sự tương quan về
số lượng và chất lượng của mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố của lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực nông nghiệp trong khoảng thời gian
và điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Cơ cấu này phụ thuộc và chịu ảnh hưởng
của nhiều nhân tố cả về mặt chủ quan và khách quan.
- Thứ nhất: Về vị trí địa lý, khí hậu và tài nguyên thiên nhiên.
CCKT của một nước, một vùng bao giờ cũng dựa trên ưu thế về địa lý và
khí hậu. Vì vậy, ở những vị trí địa lý khác nhau, vùng khí hậu khác nhau việc
xác định CCKT cũng khác nhau. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi sẽ trở thành
những yếu tố đầu vào miễn phí để tạo ra những sản phẩm với chi phí thấp nhất
và chất lượng cao nhất. Đối với nước ta có thể tận dụng ưu htế về địa lý, khí hậu
để xác định cơ cấu cây trồng và vật nuôi trong phát triển nông nghiệp một cách
phù hợp.
Chẳng hạn, ở các khu vực có địa hình cao, độ ẩm lớn, khí hậu ôn đới… là
điều kiện thích hợp cho sự phát triển cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc như:
trâu, bò, dê… hoặc các loại rau quả. Còn các vùng đồng bằng có địa hình thấp,
bằng phẳng, đất đai màu mỡ, khí hậu nhiệt đới gió mùa là điều kiện thuận lợi cho
cây lương thực và phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm và các cây công nghiệp
ngắn ngày.


15
Tài nguyên thiên nhiên nước ta rất phong phú, song chưa được khai thác
một cách phù hợp và hiệu quả như: tài nguyên đất, nước, rừng… Kết hợp tốt các
yếu tố địa lý, chúng ta có thể phân chia các loại đất trồng có đặc điểm sinh thái
phù hợp với từng loại cây trồng theo quy trình công nghệ và sinh thái khác nhau.
Bên cạnh đó nguồn nước, có giá trị to lớn trong việc phát triển nông nghiệp và
tác động mạnh mẽ đến việc phân bố cơ cấu nông nghiệp trên từng địa bàn một
cách thích hợp. Còn tài nguyên rừng của nước ta có nguy cơ cạn kiệt dần, đây là
điều đáng quan tâm trong quá trình chuyể dịch cơ cấu nông - lâm - ngư nghiệp
hiện nay. Đặc biệt, vị trí địa lý nước ta nằm trong vòng cung Châu Á - Thái Bình
Dương, có sự phát triển năng động về kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
hình thành cơ cấu “mở”.
Như vậy, vị trí địa lý, khí hậu và tài nguyên là nhân tố mang tính khách
quan quan trọng trong việc thiết lập CCKT nông nghiệp hợp lý, phát huy thế
mạnh của từng địa phương; phù hợp với xu hướng CNH, HĐH.
- Thứ hai: Về trình độ khoa học và công nghệ.
Sự phát triển của khoa học và công nghệ có tác động mạnh mẽ tới quá
trình dịch chuyển CCKT nông nghiệp theo hướng hiện đại hoá. Bởi, nó đã mở ra
một triển vọng to lớn trong việc áp dụng vào sản xuất canh tác, tạo ra bước đột
phá về giống cây trồng và vật nuôi có năng suất, chất lượng, đồng thời tạo ra sự
phát triển mạnh mẽ của các ngành chế biến, bảo quản các sản phẩm nông sản với
giá trị cao trên thị trường trong và ngoài nước; làm thay đổi vị trí của các ngành
trong nền kinh tế quốc dân, làm thay đổi cơ cấu, yếu tố đầu vào của quá trình lao
động sản xuất.
Vì vậy, dưới tác động mạnh mẽ của khoa học và công nghệ đã thúc đẩy
quá trình chuyển dịch CCKT càng nhanh chóng và thuận lợi.

16
- Thứ ba: Về lao động.
Con người là nhân tố có ý nghĩa quyết định trong việc hình thành CCKT.

Mặc dù cơ cấu kinh tế mang tính khách quan, song quá trình chuyển dịch CCKT
nhanh hay chậm, phù hợp hay không phù hợp lại do sự tác động mang tính chủ
quan của con người. Điều này bắt nguồn từ trình độ học vấn, sự tiếp thu, ứng
dụng các thành tựu khoa học và công nghệ; qúa trình phân công lao động thế nào
sẽ có ảnh hưởng đến chuyển dịch CCKT nhanh hay chậm.
Mặt khác lực lượng lao động cũng chịu ảnh hưởng bởi yếu tố xã hội, điều
kiện tự nhiên, phong tục tập quán và truyền thống của cộng đồng. Tất cả các yếu
tố đó đều có sự đan xen, tác động trên cả 2 mặt là vừa thúc đẩy, vừa kìm hãm
đến sự chuyển đổi CCKT.
Trong quy luật chung của quá trình chuyển dịch CCKT nông nghiệp, đối
với chúng ta nhân tố con người vừa có những thuận lợi, vừa có những khó khăn,
trở ngại. Vì, khu vực nông nghiệp, nông thôn là nơi tập trung phần lớn lực lượng
lao động (> 60% dân số lao động trong nông nghiệp và >70% dân số sống trên
địa bàn nông nghiệp, nông thôn). Nhưng trình độ học vấn còn thấp, trình độ kỹ
thuật, chuyên môn nghiệp vụ còn nhiều hạn chế. Tuy nhiên, về cơ cấu lao động
theo độ tuổi là trẻ, có khả năng tiếp thu nhanh, nhạy bén trước cái mới, luôn cần
cù, sáng tạo và năng động trước yếu tố mới.
Vì vậy, để thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch CCKT nông nghiệp trong
thời gian tới, đòi hỏi cần khắc phục những mặt hạn chế và phát huy tốt thế mạnh
của lực lượng lao động nông thôn nước ta nói chung và trên địa bàn tỉnh Bắc
Giang nói riêng.
- Thứ tư: Về đường lối, chính sách kinh tế.

17
Xác định quá trình chuyển dịch CCKT nông nghiệp là nội dung trọng tâm
của quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn hiện nay. Dưới sự chỉ đạo của
Đảng và quan tâm của Nhà nước đã và đang có những hệ thống chính sách tích
cực khuyến khích phát triển sản xuất, tháo gỡ khó khăn cả về cơ chế, chính sách
khuyến khích làm giàu , đi đôi với xoá đói giảm nghèo.
Quá trình chuyển đổi cơ cấu ngày càng thể hiện rõ sự phối hợp chặt chẽ

giữa các xí nghiệp tư nhân, thúc đẩy sự phát triển của các thành phần kinh tế ,
tạo môi trường cạnh tranh phát triển. Nhà nước khuyến khích nhập công nghệ
tiên tiến, tự chế tạo công nghệ trong nước và thực hiện trợ cấp thông qua chương
trình kinh tế, dự án đầu tư cho nông nghiệp nông thôn.
Cụ thể: Nhà nước đầu tư cho nông nghiệp từ 15,6% đến 24,4% trong tổng
số dầu tư cơ bản của nhà nước. Trong đó, công tác thuỷ lợi hoá chiếm đến 60%,
đầu tư cho cho chương trình chế biến nông sản khoảng 8.000 tỷ đồng và khoảng
700 triệu USD. Thực hiện vốn tín dụng không có lãi hoặc lãi suất thấp cho các
hộ nông dân vay nhằm phát triển sản xuất nguyên liệu. Ngoài ra, nhà nước thực
hiện mua sắm máy móc, thiết bị phục vụ chế biến nông sản khoảng 6.000 tỷ
đồng và đầu tư cho nghiên cứu khoa học, xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo vốn cho
đào tạo cán bộ kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp [24, tr.295-296].
1.1.2.3. Nội dung chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Khi nghiên cứu khái niệm cơ cấu kinh tế, được xem xét ở trạng thái tĩnh
hay trạng thái tương đối ổn định, nhưng khi tiếp cận khái niệm chuyển dịch cơ
cấu kinh tế là nghiên cứu nó ở trạng thái động, có tác dụng làm thay đổi cơ cấu
kinh tế theo hướng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất để thúc đẩy nền kinh tế phát triển [30, tr.47].

18
Như vậy, cùng với việc tổ chức lao động một cách khoa học và kỹ thuật -
công nghệ ngày càng phát triển tất yếu làm cho cơ cấu kinh tế của một xã hội
cũng thay đổi, phát triển đi từ thấp lên cao, đi từ chưa hợp lý đến hợp lý, hiện đại
và hiệu quả theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Với cách đặt vấn đề như
vậy, chúng ta có thể hiểu: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình thay đổi cấu
trúc, tỷ trọng, tốc độ và chất lượng các mối quan hệ kinh tế giữa các ngành, các
vùng kinh tế và các thành phần kinh tế nhằm đạt tới một cơ cấu kinh tế hợp lý,
hiện đại và hiệu quả hơn, tạo thế và lực mới cho tăng trưởng và phát triển kinh tế
- xã hội, trong từng giai đoạn của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Quán triệt những quan điểm của chủ nghĩa mác-Lênin về cách mạng xã
hội chủ nghĩa và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH. Bác Hồ đã khẳng
định: “Đặc điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp
lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không kinh qua giai đoạn phát triển TBCN".
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (3/1982) xác định: “Tập trung phát
triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một
bước tiến lên sản xuất lớn XHCN, ra sức thúc đẩy hàng tiêu dùng và tiếp tục xây
dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng, kết hợp nông nghiệp - công
nghiệp, hàng tiêu dùng-công nghiệp nặng trong cơ cấu công- nông hợp lý".
Trong giai đoạn hiện nay tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong quá trình thực
hiện chuyển dịch CCKT nông nghiệp nông thôn theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá: “Phát triển toàn diện nông - lâm - ngư nghiệp; thực hiện thuỷ lợi
hoá, cơ giới hoá, điện khí hoá, sinh học hoá, phát triển công nghiệp chế biến
nông - lâm - thuỷ sản; phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống, xây
dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn".

19
Trong giai đoạn này Đảng ta chủ trương chuyển dịch một cách căn bản và
toàn diện về cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá bao gồm
cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế.
Một là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế (CCKT) ngành.
Thực tiễn lịch sử, chuyển dịch CCKT ngành không chỉ đơn thuần phát
triển công nghiệp mà còn làm thay đổi cơ cấu của các ngành và trong từng
ngành, lĩnh vực, từng vùng và toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo hướng CNH,
HĐH; không chỉ đi tuần tự qua các bước cơ giới hoá, tự động hoá, tin học hoá
mà còn kết hợp đồng thời các thành tựu trên nhiều lĩnh vực, mà còn phải chọn
những mũi nhọn, đi tắt, đón đầu; không chỉ áp dụng những công nghệ tiên tiến
mà còn phải biết kết hợp tận dụng và hiện đại hoá công nghệ truyền thống.
Cơ cấu ngành kinh tế lần đầu tiên được xác định là ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng một cách hợp lý. Đồng thời, ra sức phát triển nông nghiệp và công

nghiệp nhẹ, nhằm nhanh chóng xây dựng những cơ sở vật chất - kỹ thuật ban đầu
của chủ nghĩa xã hội. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV đã đề ra đường lối xây
dựng nền kinh tế: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
cho chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn
xã hội chủ nghĩa. Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, trên cơ
sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và
nông nghiệp thành một cơ cấu công - nông nghiệp, vừa xây dựng kinh tế trung
ương vừa phát triển kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống
nhất, kết hợp phát triển lực lượng sản xuất với việc xác lập và hoàn thiện quan
hệ sản xuất mới; kết hợp kinh tế với quốc phòng".
Đến Đại hội Đảng lần thứ V (1982), Đảng ta đã xác định được điểm xuất
phát của đất nước là “đang ở chặng đường đầu tiên” của thời kỳ quá độ lên chủ

20
nghĩa xã hội. Do vậy, đường lối công nghiệp hoá có sự điều chỉnh nhất định.
Điểm nổi bật ở đây là coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, tập trung phát triển
nông nghiệp, công nghiệp nhẹ, nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách và thiết yếu về
lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng để dần dần ổn định đời sống. Với sự
điều chỉnh đó về cơ cấu ngành kinh tế nên đã tạo ra một bước phát triển nhất
định trong nông nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng.
Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) thực hiện đổi mới toàn diện và sâu sắc
ở nước ta, trong đó có sự đổi mới về các quan điểm kinh tế. Đảng ta chủ trương
điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư theo hướng: phải tập trung sức người, sức của vào
việc thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm;
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Ba chương trình kinh tế là sự cụ thể hoá nội
dung công nghiệp hoá trong chặng đường đầu tiên, định hướng cho sự phát triển
tất cả các ngành, các hoạt động kinh tế, nhằm xây dựng cơ cấu ngành kinh tế hợp
lý.
Tiếp đó, Đại hội VII và Đại hội VIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định và hoàn
thiện thêm đường lối đổi mới do Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra.

Do vậy, qua 15 năm đổi mới (1986 - 2000), việc chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã đem lại những thành tựu to lớn
trong đó, nền kinh tế đã hình thành cơ cấu 3 ngành rõ rệt theo tỷ trọng trong
GDP như sau:
+ Nông nghiệp: 25%
+ Công nghiệp: 34,5%
+ Dịch vụ : 40,5%
Từ thực tiễn của 15 năm đổi mới, từ tình hình kinh tế - xã hội của đất nước
và bối cảnh quốc tế, Đại hội IX của Đảng đã có sự bổ sung, phát triển một cách

21
sâu sắc và toàn diện hơn về chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta đến năm
2010 và đến năm 2020 đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp tiên tiến và
xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu đến năm 2010, tỷ trọng các ngành trong GDP như
sau:
+ Nông nghiệp: từ 16 - 17%
+ Công nghiệp: từ 40 - 41%
+ Dịch vụ: từ 42 - 43%
- Chuyển dịch đi từ cơ cấu kinh tế nông nghiệp lên cơ cấu kinh tế công
nghiệp -nông nghiệp; từ cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp lên cơ cấu công
nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ; và từ cơ cấu công - nông nghiệp - dịch vụ lên cơ
cấu dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp hiện đại.
- Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế, theo hướng tỷ trọng ngành nông
nghiệp giảm, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ tăng lên trong GDP, trong
đó ngành dịch vụ tăng nhanh hơn ngành công nghiệp.
* Thực hiện đổi mới cơ cấu lao động ở nông thôn, thay đổi từ lao động
thuần tuý trong nông nghiệp giảm tuyệt đối lẫn tương đối, lao động thủ công
nghiệp và dịch vụ tăng tương xứng.
Điều này xuất phát từ kinh nghiệm ở một số nước trong khu vực Đông Á
và Đông Nam Á trong những năm gần đây. Cụ thể, sự chuyển dịch CCKT theo

hướng giảm dần lao động trong khu vực nông nghiệp như sau:
Bảng 3. Cơ cấu lao động trong nông - công - dịch vụ ở một số nƣớc
(từ năm 1997 đến 2003)
Đơn vị tính: %
Nƣớc và
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ

22
khu vực
năm đầu
năm cuối
năm đầu
năm cuối
năm đầu
năm cuối
Thái
Lan
83,8
14,4
20,8
48,3
23,3
33,3
Hồng
Kông
7,2
2,0
58,2

57,9
33,8
40,1
Singapo
8,6
1,6
31,7
48,8
59,8
49,6
Nam Á
73,9
70,9
10,6
12,9
15,6
16,2
Nguồn: Tạp chí Thế giới, năm 2004.
Bảng số liệu cho thấy khu vực nông nghiệp có xu hướng giảm mạnh và
liên tục về cơ cấu lao động. Nhìn chung việc chuyển dịch cơ cấu lao động giữa
các nước đúng quy luật phát triển của cơ cấu lao động trong quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Kinh nghiệm của các nước cho thấy quá trình chuyển dịch CCKT nông
nghiệp là quá trình phân công lại lao động trong các lĩnh vực nông-lâm-ngư
nghiệp. Đối với nước ta nói chung và trên địa bàn tỉnh Bắc Giang nói riêng quá
trình phân công lại lao động được tiến hành từ việc chuyển một bộ phận lao động
chuyên canh trồng lúa sang trồng màu và chăn nuôi, trồng rừng, phủ xanh đất
trống đồi trọc. Bên cạnh đó, thực hiện chuyển dịch một bộ phận lao động sang
làm các nghề thủ công và dịch vụ nhằm phục vụ nhu cầu phát triển nông nghiệp
và nhu cầu phát triển công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ ở địa phương.

Như vậy, sự phân công lại lao động trong nông nghiệp theo hướng giảm
dần lao động trồng lúa, tăng lao động trong các lĩnh vực chăn nuôi và trồng cây
công nghiệp, cây ăn quả có hiệu quả kinh tế cao. Nhất là hiện nay quá trình
CNH, HĐH với tốc độ của đô thị hoá thì việc chuyển dịch cơ cấu lao động ở đô
thị chỉ giải quyết được một lực lượng nhất định. Điều này đòi hỏi phải thực hiện

×