Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 79 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TT ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




NGUYỄN THỊ HUỆ




PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA
VÀ NHỎ Ở TỈNH QUẢNG NINH



LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ



HÀ NỘI 2008
MỤC LỤC
T
r
a
n
g
Trang phụ bìa
Mở đầu 1
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển doanh nghiệp vừa
và nhỏ 6


1.1 Một số vấn đề lý luận về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. 6
1.1.1 Khái niệm và các tiêu chí xác định loại hình doanh nghiệp
vừa và nhỏ 6
1.1.2 Đặc điểm doanh nghiệp vừa và nhỏ 8
1.1.3 Vai trò doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với phát triển kinh tế
- xã hội 14
1.1.4 Các nhân tố tác động đến phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ … 18
1.2 Kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số tỉnh
thành trong nƣớc và một số nƣớc trên thế giới. 21
1.2.1 Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Hồ Chí
Minh 21
1.2.2 Tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Hà Nội
24
1.2.3 Bài học kinh nghiệm cho sự phát triển doanh nghiệp vừa
và nhỏ ở Quảng Ninh 26
1.3 Kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của một số nƣớc
trên thế
giới……………………………………………………………………
…… 27
1.3.1 Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đài Loan 27
1.3.2 Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Nhật Bản 30
Chƣơng 2: Thực trạng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở quảng ninh
trong những năm gần đây. 34
2.1 Điều kiện phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh 34
2.1.1 Cơ chế chính sách của nhà nƣớc đối với phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ 34
2.1.2 Các biện pháp hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
ở Quảng Ninh 45
2.2 Tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh trong

những năm gần đây 49
2.2.1 Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh 49
2.2.2 Đặc điểm hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
Quảng Ninh 52
2.3 Đánh giá thực trạng phát triển và những vấn đề đặt ra đối với sự
phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh 61
2.3.1 Một số thành tựu và hạn chế của doanh nghiệp vừa và nhỏ
ở tỉnh Quảng Ninh 61
2.3.2 Một số vấn đề đặt ra đối với việc phát triển doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh 66
Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
tỉnh Quảng Ninh. 70
3.1 Quan điểm và phƣơng hƣớng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
ở quảng ninh 70
3.1.1 Quan điểm và mục tiêu phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ 70
3.1.2 Phƣơng hƣớng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh
Quảng Ninh 72
3.2 Một số giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng
Ninh .79
3.2.1 Tạo điều kiện và môi trƣờng đầu tƣ kinh doanh thuận lợi
cho doanh nghiệp vừa và nhỏ 79
3.2.2 Xây dựng kết cấu hạ tầng sản xuất và tạo điều kiện về mặt
bằng sản xuất kinh doanh đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ 82
3.2.3 Tạo nguồn vốn ƣu đãi cho sự phát triển doanh nghiệp vừa
và nhỏ 85
3.2.4 Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp
doanh nghiệp vừa và nhỏ 87
3.2.5 Sớm hình thành "vƣờn ƣơm" doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
tỉnh Quảng

Ninh……………………………………………………………
………….89
Kết luận 93
Danh mục các tài liệu tham khảo 96









MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Trong quá trình biến đổi, tự do hoá và cổ phần hoá ở Việt Nam các doanh
nghiệp vừa và nhỏ đóng một vai trò quan trọng đƣợc chính quyền và xã hội
thừa nhận cả về lý luận và thực tiễn. Trên thực tế, doanh nghiệp vừa và nhỏ
đã trở thành một nhân tố năng động ở Việt Nam góp phần đáng kể tạo việc
làm, nâng cao thu nhập, tăng trƣởng kinh tế mạnh mẽ và giảm đói nghèo.
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định đƣờng lối, định hƣớng,
chiến lƣợc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ: " Chú trọng phát triển các
doanh nghiệp vừa và nhỏ; xây dựng một số tập đoàn doanh nghiệp lớn cần
thiết có hiệu quả đi đầu trong cạnh tranh và hiện đại hoá". Với định hƣớng
này ta thấy chủ trƣơng của Đảng và nhà nƣớc đối với sự phát triển các doanh
nghiệp là phát triển các loại hình doanh nghiệp một cách tổng thể, hài hoà,
thống nhất trên cơ sở phân định chức năng, nhiệm vụ của mỗi loại hình
doanh nghiệp, khẳng định vai trò quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ
đối với sự ổn định xã hội, tạo thế vững chắc cho sự phát triển của nền kinh tế
nƣớc nhà. Chính phủ đã đƣa ra nhiều nghị định, thông tƣ về trợ giúp phát

triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đƣờng lối và chính sách là của Đảng và Nhà
nƣớc đối với phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ thƣờng ở tầm vĩ mô, còn
thực hiện ở tầm vi mô lại là ở địa phƣơng nơi trực tiếp quản lý các doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Vì vậy, việc thúc đẩy hay hạn chế sự phát triển doanh
nghiệp phụ thuộc không nhỏ vào sự nhận thức và năng lực của các cấp chính
quyền địa phƣơng.
Quảng Ninh là một tỉnh giàu tiềm năng để phát triển kinh tế, có ƣu thế về vị
trí địa lý, du lịch và tài nguyên thiên nhiên( rừng, than, biển…). Tuy nhiên
sự phát triển kinh tế của Quảng Ninh còn chƣa tƣơng xứng với tiềm năng,
chƣa khai thác có hiệu quả các nguồn lực sẵn có…Phải chăng chƣa có
những mô hình phát triển kinh tế phù hợp. Để khai thác đƣợc hết tiềm năng
và giải quyết tốt các vấn đề kinh tế - xã hội đang đặt ra ở Quảng Ninh thì
một trong những hƣớng cơ bản là phải đẩy mạnh phát triển doanh nghiệp
vừa và nhỏ.
Hiện nay, ở tỉnh Quảng Ninh doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng quan
trọng và đƣợc sự khuyến khích phát triển, nhƣng thực tế các doanh nghiệp
vừa và nhỏ vẫn còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế trong quá trình hoạt
động. Chính vì lý do trên cho nên tôi chọn đề tài : " Phát triển doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh " làm luận văn thạc sỹ kinh tế để góp phần
nghiên cứu, luận giải xu hƣớng vận động và giải pháp phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ nhằm đẩy mạnh tăng trƣởng kinh tế ở tỉnh Quảng Ninh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Lịch sử phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên thế giới đã có từ rất
lâu đời. Doanh nghiệp vừa và nhỏ đã đƣợc nhiều nƣớc nghiên cứu và áp
dụng mô hình này thành công trong chiến lƣợc phát triển kinh tế.
Ở Việt Nam, từ năm 1986 trở lại đây tiến hành nhiều cải cách kinh tế, nhằm
đƣa nền kinh tế kế hoạch, tập trung tiến tới một hệ thống kinh tế thị trƣờng.
Đặc biệt văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã đề cập đến sự phát
triển các doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà chủ yếu là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Trƣớc yêu cầu thực tế đặt ra đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu

khoa học, sách, báo, tạp chí nghiên cứu doanh nghiệp vừa và nhỏ với các
mức độ khác nhau để tìm ra những phƣơng hƣớng và giải pháp hợp lý nhằm
phát triển loại hình kinh tế này ở Việt Nam:
Xung quanh đề tài này có thể nêu một số công trình nghiên cứu tiêu biểu:
Nguyễn Đình Hƣơng "giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt
Nam" NXB Chính trị Quốc gia, năm 2002; PGS.TS Nguyễn Cúc "chính
sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam", NXB Chính trị Quốc
gia, năm 1997; Phạm Thị Thu Hằng: "tạo việc làm tốt bằng chính sách phát
triển doanh nghiệp nhỏ", NXB Chính trị Quốc gia, năm 2002; Khoa quốc tế
học trƣờng Đại học quốc gia Hà Nội: "vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong nền kinh tế", NXB Thế giới, năm 2005.
Bên cạnh những công trình đã xuất bản thành sách, còn có một số công trình
đáng chú ý là: Hồ Tiến Dũng, "Giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở thành phố Hồ Chí Minh", Luận án tiến sĩ kinh tế, năm 1998; Phạm
Văn Hồng “ Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trong quá trình
hội nhập quốc tế", Luận án tiến sĩ kinh tế, năm 2007; Lê Việt Đông “Doanh
nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam
hiện nay”, Luận án thạc sỹ kinh tế, năm 2006.
Nhìn chung, các tác giả đều tập trung nghiên cứu đặc điểm, vai trò, thực
trạng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, từ đó đƣa ra các giải pháp, chính
sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Ngoài ra, trên một số báo, tạp chí còn có nhiều tác giả viết về các vấn đề về
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, mỗi bài viết chỉ đề cập đến một khía
cạnh nào đó của sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ chẳng hạn nhƣ: tạo
vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ; trợ giúp đào tạo cho doanh nghiệp vừa và
nhỏ; hỗ trợ công nghệ thông tin cho doanh nghiệp vừa và nhỏ; vấn đề quản
lý doanh nghiệp vừa và nhỏ…
Tuy nhiên, cho đến nay chƣa có công trình nào nghiên cứu về phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh. Vì vậy, luận văn là công trình
nghiên cứu đầu tiên đi sâu tìm hiểu thực trạng phát triển doanh nghiệp vừa

và nhỏ ở Quảng Ninh, từ đó tìm ra những giải pháp góp phần thúc đẩy sự
phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của tỉnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích:
Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển doanh nghiệp vừa
và nhỏ, đánh giá thực trạng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng
Ninh trong những năm gần đây về thành tựu, hạn chế và những vấn đề đang
đặt ra cần giải quyết. Trên cơ sở đó đề xuất những phƣơng hƣớng và giải
pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả phát triển doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở Quảng Ninh hiện nay.
Nhiệm vụ:
+ Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về doanh nghiệp vừa và nhỏ;
+ Đánh giá tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh
trong những năm gần đây;
+ Xác định phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm phát triển doanh nghiệp vừa và
nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Nghiên cứu doanh nghiệp vừa và nhỏ ở tỉnh Quảng Ninh dƣới góc độ kinh
tế chính trị.
+ Nghiên cứu doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp
và dịch vụ.
+ Nghiên cứu doanh nghiệp vừa và nhỏ trong quá trình đổi mới đặc biệt là
trong những năm gần đây ở tỉnh Quảng Ninh.
5. Phương pháp nghiên cứu
+ Quán triệt những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, phƣơng
pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; Vận dụng quan điểm, đƣờng lối
của Đảng và Nhà nƣớc vào việc xem xét đánh giá sự vận động và phát triển
của doanh nghiệp vừa và nhỏ, để phân tích xu hƣớng vận động của doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh; Trên cơ sở thực tiễn đƣa ra các phƣơng
hƣớng và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả phát triển của doanh

nghiệp vừa và nhỏ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội theo định
hƣớng xã hội chủ nghĩa.
+ Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ: trừu
tƣợng hoá khoa học, phân tích tổng hợp, logic và lịch sử, thống kê so sánh…
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo để các nhà hoạch định chính
sách kinh tế của tỉnh Quảng Ninh nói riêng và các tỉnh khác nói chung đƣa
ra dự thảo các văn bản, các quy chế, chính sách giúp các doanh nghiệp vừa
và nhỏ của tỉnh phát triển.
Đồng thời các doanh nghiệp vừa và nhỏ của tỉnh Quảng Ninh có thể sử dụng
luận văn để xác định cụ thể những mặt thuận lợi, cũng nhƣ những khó khăn
bất cập của đơn vị mình, từ đó tìm ra giải pháp cụ thể cho sự phát triển của
doanh nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn đƣợc kết cấu thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển doanh nghiệp vừa
và nhỏ trong nền kinh tế;
Chƣơng 2: Thực trạng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Quảng Ninh
trong những năm gần đây;
Chƣơng 3: Định hƣớng và giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
Quảng Ninh.


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
1.1 Một số vấn đề lý luận về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1 Khái niệm và các tiêu chí xác định loại hình doanh nghiệp vừa và
nhỏ

Nói đến doanh nghiệp vừa và nhỏ là nói đến cách phân loại doanh nghiệp
dựa trên độ lớn hay quy mô của các doanh nghiệp. Việc phân loại doanh
nghiệp vừa và nhỏ phụ thuộc vào tiêu thức sử dụng quy trình giới hạn các
tiêu chí phân loại quy mô doanh nghiệp. Điểm khác biệt cơ bản trong khái
niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ giữa các nƣớc chính là việc lựa chọn các tiêu
chí đánh giá quy mô doanh nghiệp và lƣợng hoá các tiêu chí ấy thông qua
những tiêu chuẩn cụ thể. Nhìn chung, tiêu chí phân loại quy mô doanh
nghiệp thƣờng dựa trên:
+ Số vốn sản xuất
+ Số lao động thƣờng xuyên.
Tiêu chí về số lao động và vốn phản ánh yếu tố đầu vào, lƣợng hoá các tiêu
chí này thành các tiêu chuẩn giới hạn cụ thể ở mỗi thời kỳ là khác nhau. Độ
lớn của các tiêu chuẩn giới hạn phụ thuộc vào trình độ, hoàn cảnh, điều kiện
phát triển kinh tế, định hƣớng chính sách và khả năng trợ giúp cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ ở mỗi thời điểm khác nhau.
Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ mang tính tƣơng đối, nó thay đổi theo
từng giai đoạn phát triển kinh tế-xã hội, xác định và phụ thuộc vào trình độ
phát triển kinh tế - xã hội của từng giai đoạn, việc xác định giới hạn các tiêu
chí về quy mô doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng. Đó là cơ sở để xác
định cơ chế quản lý với những chính sách ƣu tiên thích hợp và xây dựng cơ
cấu tổ chức, quản lý có hiệu quả đối với hệ thống các doanh nghiệp. Dựa
trên lý luận và thực tiễn, những đặc điểm riêng biệt ở trong nƣớc ta có thể
định nghĩa doanh nghiệp vừa và nhỏ nhƣ sau:
Theo nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 về trợ giúp
phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ quy định. "Doanh nghiệp vừa và nhỏ là
các cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật
hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung
bình hàng năm không quá 300 ngƣời". Doanh nghiệp vừa và nhỏ bao gồm
doanh nghiệp nhà nƣớc, doanh nghiệp khu vực tƣ nhân trong nƣớc, hợp tác
xã và các hộ kinh doanh cá thể.

Nhƣ vậy, doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam là những cơ sở sản xuất,
kinh doanh có tƣ cách pháp nhân, không phân biệt thành phần kinh tế, có
quy mô về vốn hoặc lao động thoả mãn các quy định của chính phủ đối với
từng ngành nghề tƣơng ứng với từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế.
Chính vì vậy mà mỗi thời kỳ phát triển khác nhau thì tiêu chí quy định
doanh nghiệp vừa và nhỏ là khác nhau. Chẳng hạn nhƣ theo quy định của
Thủ tƣớng Chính phủ tại Công văn số 681/CP-KTN ngày 20 tháng 06 năm
1998 xác định tiêu chí doanh nghiệp vừa và nhỏ tạm thời quy định trong giai
đoạn này là những doanh nghiệp có vốn điều lệ dƣới 5 tỷ đồng và có số lao
động trung bình hàng năm dƣới 200 ngƣời. Doanh nghiệp vừa và nhỏ là
doanh nghiệp có số lao động dƣới 30 ngƣời và vốn dƣới 1 tỷ đồng. Doanh
nghiệp vừa có từ 31 đến 200 lao động và vốn từ 1 đến 5 tỷ đồng. Đối với các
doanh nghiệp công nghiệp, doanh nghiệp nhỏ có vốn từ 1 tỷ đồng trở xuống
và số lao động từ 50 ngƣời trở xuống còn các doanh nghiệp thƣơng mại và
dịch vụ số lao động dƣới 30 ngƣời. [29, tr.14]
Nhƣ vậy, so với giai đoạn hiện nay tiêu chí doanh nghiệp vừa và nhỏ đã có
sự thay đổi tăng về quy mô. Theo quy định mới nhất thì doanh nghiệp vừa
và nhỏ hiện nay số vốn đăng ký dƣới 10 tỷ, số lao động dƣới 300 ngƣời và
tiêu chí này chỉ áp dụng trong giai đoạn hiện nay và cùng với tình hình phát
triển kinh tế xã hội thì quy mô về vốn và lao động chắc chắn sẽ có sự thay
đổi. Theo nghị định 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 thì doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay chiếm 96% số doanh nghiệp đăng
ký và hoạt động theo luật doanh nghiệp. [ 30, tr. 11]
1.1.2 Đặc điểm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã tạo ra những thay đổi trong công
nghệ mới làm biến đổi kỹ thuật sản xuất và quản lý chung của các đơn vị sản
xuất trong nền kinh tế . Thời kỳ phát triển công nghiệp, tƣ bản phải tích luỹ
đƣợc một lƣợng tiền lớn để có thể mở đựơc công xƣởng, mới có điều kiện,
ứng dụng những thành tựu do cách mạng công nghiệp tạo ra. Đến giai đoạn
chủ nghĩa tƣ bản độc quyền thì tƣ bản độc quyền công nghiệp phải dung hợp

với tƣ bản độc quyền ngân hàng gọi là tƣ bản tài chính chiếm vị trí độc
quyền và đứng vững trong cạnh tranh. Trái lại, dƣới tác động của cách mạng
khoa học - công nghệ thì không hoàn toàn phải nhƣ vậy. Việc tìm ra những
công nghệ hiện đại với chi phí thấp, cho phép không chỉ các doanh nghiệp
có số vốn lớn mà ngay cả các doanh nghiệp trung bình, thậm chí loại nhỏ
cũng có thể triển khai đƣợc việc ứng dụng. Hiệu quả ứng dụng nhiều khi còn
cao hơn ở các doanh nghiệp lớn.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều đặc điểm nổi bật nhƣ: hầu hết các
doanh nghiệp vừa và nhỏ đều năng động, nhạy cảm với những thay đổi của
thị trƣờng. Khi nhu cầu của thị trƣờng thay đổi, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ dễ thay đổi máy móc thiết bị, mặt hàng để đáp ứng những nhu cầu tức
thì của thị trƣờng, đạt hiệu quả kinh tế cao trong một thời gian ngắn. Việc
thành lập các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ hơn do các doanh nghiệp này chỉ
cần một lƣợng vốn đầu tƣ không lớn, chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng ít, nên
các doanh nghiệp dễ dàng thâm nhập thị trƣờng, dám dầu tƣ trong sản xuất
những mặt hàng lãi suất cao. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi thành lập
xong nhanh chóng đi vào hoạt động do việc xây dựng các cơ sở hạ tầng
nhanh chóng, không mất nhiều thời gian thành lập bộ máy quản lý nhƣ các
doanh nghiệp lớn, vì vậy hiệu suất hoạt động của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ thƣờng cao hơn, thời gian thu hồi vốn nhanh hơn. Dù có quy mô nhỏ,
các doanh nghiệp này vẫn có điều kiện sử dụng máy móc thiết bị hiện đại,
hoạt động với năng suất và chất lƣợng cao nhƣ những doanh nghiệp lớn, nó
có thể sản xuất những mặt hàng chất lƣợng cao ngay trong điều kiện kỹ thuật
chƣa hiện đại. Dù có quy mô nhỏ các doanh nghiệp này tốn ít hơn những chi
phí cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng. Nó có thể đặt trụ sở doanh nghiệp ở
nhiều nơi, nhiều địa phƣơng thuận lợi cho việc tiêu thụ và sản xuất sản
phẩm. Doanh nghiệp vừa và nhỏ còn có thể tham gia vào việc giải quyết
nhiều vấn đề xã hội nhƣ giải quyết nạn thất nghiệp, góp phần tạo thêm thu
nhập cho ngƣời lao động và xoá dần khoảng cách về thu nhập, mức sống lao
động ở những vùng khác nhau.

Nếu trƣớc đây việc tạo ra sản phẩm loại lớn và sản xuất hàng loạt là thu
đƣợc lợi nhuận cao, thì ngày nay do nhu cầu của ngƣời tiêu dùng phát triển
cao và nhiều ngƣời lao động lại có điều kiện tăng tiêu dùng, do đó việc sản
xuất hàng loạt, lâu bền sẽ không đáp ứng đƣợc nhu cầu của thị trƣờng. Xu
hƣớng chung của các doanh nghiệp là sản xuất đa dạng, nhanh nhậy, sản
phẩm, mẫu mã và chất lƣợng theo sự thay đổi của thị trƣờng. Xu hƣớng
giảm số lƣợng lao động trong các doanh nghiệp là xu hƣớng do áp dụng
công nghệ tự động tạo ra, điều này cũng góp phần làm cho quy mô doanh
nghiệp nhỏ chuyển theo hƣớng tinh, gọn. Các hãng lớn có thể đặt mua các
linh kiện ở các xí nghiệp gia công, vì vậy công dân có điều kiện mở các
doanh nghiệp nhỏ ngay tại nhà để thực hiện các dịch vụ sản xuất. Trong các
doanh nghiệp này chi phí tƣ bản bất biến không lớn, quy mô cỡ nhỏ là có thể
thực hiện đƣợc các dịch vụ và thu đƣợc lợi nhuận mong muốn. Đó là lý do
tồn tại và phát triển nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ trong các ngành kinh
doanh và dịch vụ du lịch. Lãi suất cao ở những ngành này phần nhiều do sử
dụng lao động sống mang lại, cho nên xu hƣớng di chuyển tƣ bản sang
những ngành nghề và quy mô nhƣ trên là tất yếu. Nhƣ vậy, việc xuất hiện và
phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng nhiều là phản ứng tích cực
của cơ chế thị trƣờng trƣớc sự phát triển ngày một cao của sức sản xuất của
xã hội dƣới tác động của cách mạng khoa học công nghệ.
Theo nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 11 năm 2001 của Chính
Phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ quyết định "doanh
nghiệp vừa và nhỏ là đơn vị kinh doanh độc lập theo luật hiện hành, có số
vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc sử dụng lao động bình quân hàng
năm không quá 300 ngƣời". Tính đến năm 2004 ở Việt Nam có hơn 150.000
doanh nghiệp đăng ký kinh doanh chính thức, 16.899 công ty, 300.000 hợp
tác xã và 2.400.000 hộ gia đình đăng ký kinh doanh trong lĩnh vực công
nghiệp và dịch vụ, hơn 10.000.000 hộ gia đình đăng ký kinh doanh trong
lĩnh vực nông nghiệp, 13.000 trang trại (chƣa tính đến các doanh nghiệp có
vốn đầu tƣ nƣớc ngoài). [9, tr. 1]

Số lƣợng doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam phát triển khá nhanh kể từ
khi luật doanh nghiệp ra đời (tháng 1/2000) tình hình phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ nhƣ sau: Các số liệu thống kê về khu vực doanh nghiệp
vừa và nhỏ Việt Nam, trên cơ sở kết quả Tổng Điều tra Cơ sở Kinh tế, Hành
chính, Sự nghiệp năm 2002 do Tổng cục Thống kê thực hiện. Theo đó, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ đƣợc chia thành 3 nhóm nhƣ sau:
1. Doanh nghiệp Siêu nhỏ: Gồm không quá 9 nhân công;
2. Doanh nghiệp Nhỏ: Gồm không quá 49 nhân công;
3. Doanh nghiệp Vừa: Gồm không quá 299 nhân công.
Bảng 1.1.2. Số lượng đăng ký kinh doanh mới từ năm 2000:
Năm
Tổng số
DNNN
Cty TNHH
1 Thành viên
DNDD
2000
14.457
16
0
14.441
2001
19.800
27
0
19.773
2002
21.535
12
59

21.464
2003
27.771
20
98
27.653
2004
37.230
6
125
37.099
2005
39.959
8
292
39.659
2006
46.663
7
902
45.754
2007
58.908
1
8404
50.504
Tổng số
266.323
97
9.880

256.347
(Nguồn: Trung tâm Thông tin Doanh nghiệp, Cục Phát triển doanh nghiệp
vừa và nhỏ -Bộ Kế hoạch và Đầu tư, 2008)
Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nƣớc ta có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam thƣờng gắn với công nghệ
lạc hậu, thủ công. Tốc độ đổi mới công nghệ rất chậm, về trình độ sử dụng
công nghệ, chỉ có khoảng 8% số doanh nghiệp đạt trình độ công nghệ tiên
tiến mà phần lớn là các doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài (FDI).
Doanh nghiệp trong nƣớc đang sử dụng công nghệ cũ, lạc hậu và khả năng
cạnh tranh về công nghệ của các doanh nghiệp là rất thấp.
Bên cạnh đó, chỉ tiêu về sử dụng công nghệ thông tin cũng cho thấy, tuy số
doanh nghiệp có sử dụng máy vi tính lên đến hơn 80% nhƣng chỉ có 30,55%
doanh nghiệp có sử dụng mạng nội bộ (LAN), số doanh nghiệp có Website
là rất thấp chỉ 12,16%.[14]
Đây là một kết quả rất đáng lo ngại vì khả năng tham gia thƣơng mại điện tử
và khai thác thông tin qua mạng của các doanh nghiệp nhỏ còn rất thấp,
chƣa tƣơng xứng với mong muốn phát triển thƣơng mại điện tử của Chính
phủ
Cuộc điều tra cũng chỉ ra một nghịch lý; trong khi trình độ về kỹ thuật công
nghệ chƣa cao nhƣng nhu cầu đào tạo về kỹ thuật và công nghệ của doanh
nghiệp có tỷ lệ rất thấp, chỉ 10.65% doanh nghiệp đƣợc điều tra có nhu cầu
về đào tạo công nghệ. [14]
Điều này cho thấy, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh
nghiệp chƣa coi trọng đúng mức đến các vấn đề về kỹ thuật và công nghệ.
Mặc dù đây là yếu tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp trên thƣơng
trƣờng. Do đó, khả năng sản xuất, năng suất và chất lƣợng sản phẩm thấp
các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam phân tán hơn, khả năng liên kết
với nhau và với doanh nghiệp lớn yếu hơn.
Thứ hai, nói đến doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam trƣớc tiên và chủ yếu
là nói đến các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Do tính lịch

sử của quá trình hình thành và phát triển các thành phần kinh tế ở nƣớc ta ,
đại bộ phận các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều thuộc khu vực ngoài quốc
doanh.
Thứ ba, hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các
thành phần kinh tế còn nhiều bất cập. Thành phần kinh tế tƣ nhân đóng góp
42% GDP (18% là từ doanh nghiệp tƣ nhân, 82% là từ các hộ gia đình), sử
dụng 89% lao động trong tổng số lao động có việc, chỉ chiếm 28% tổng giá
trị vốn đầu tƣ.
Trong khi 52,3% tổng giá trị vốn đầu tƣ đƣợc đầu tƣ cho các doanh nghiệp
nhà nƣớc chỉ đóng góp 39% GDP và tạo ra 10% công việc. Nếu đứng trên
góc độ xã hội, có thể nói các doanh nghiệp tƣ nhân đóng vai trò quan trọng
trong việc tạo công ăn việc làm cho xã hội. Nhƣng điều này cũng có nghĩa
lao động làm việc trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ có hiệu quả không cao
(phần lớn là lao động giản đơn) và một phần sự đóng góp của doanh nghiệp
tƣ nhân vào GDP cao hơn doanh nghiệp nhà nƣớc là nhờ sử dụng nhiều lao
động. [25, tr.45]
Số doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ chiếm tỷ lệ khá cao, tới 41,8% đây là một
con số không bất bình thƣờng, nhƣng tại Việt Nam thì sự chênh lệch giữa
các doanh nghiệp vừa và nhỏ với các doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhà
nƣớc là rất đáng kể. Nếu chia tỷ lệ bình quân thì một doanh nghiệp chỉ có 31
lao động, 4 tỷ đồng vốn, trong khi đó với các doanh nghiệp nhà nƣớc con số
này là 421 lao động và 167 tỷ đồng và với doanh nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc
ngoài là 299 lao động, 134 tỷ đồng vốn…[29, tr.15]
Thứ tƣ, quy mô của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam tƣơng đối nhỏ
bé cộng với sự thiếu hụt về vốn, lao động có trình độ tay nghề cao, công
nghệ lạc hậu, thiếu kinh nghiệm, trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp
thấp, trình độ kinh doanh thấp, do đó tiềm lực và năng lực cạnh tranh yếu
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Đặc biệt trong những tháng đầu năm 2008, tình trạng thiếu vốn đang diễn ra
tại hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ, 70% doanh nghiệp không có vốn

để đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh doanh do hạn chế về vốn, công nghệ
nên doanh nghiệp vừa và nhỏ rất khó tham gia những dự án lớn. Đó là chƣa
kể các doanh nghiệp còn lại bị hạn chế bởi môi trƣờng kinh doanh chƣa
thông thoáng, vẫn còn bị phân biệt đối xử so với các loại hình doanh nghiệp
khác, thiếu mặt bằng, các rào cản về thuế, khả năng tiếp cận thị trƣờng
kém… đang trở lên bức bách tại nhiều doanh nghiệp. Chất lƣợng và khả
năng cạnh tranh về mặt quản lý chiến lƣợc, tái cơ cấu tổ chức quản lý là vấn
đề sống còn với các doanh nghiệp.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ đối với 63.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ trên
cả nƣớc cho thấy kết quả đáng lo ngại là 43% chủ doanh nghiệp có trình độ
trung học trở xuống. Với trình độ học này, việc tiếp cận và tìm hiểu các công
cụ quản lý đối với họ rất khó khăn. Cũng có tới 63% doanh nghiệp đang
vƣớng phải chuyện không tuyển dụng đƣợc ngƣời tài, 55% trong việc giữ
chân ngƣời giỏi… Nền kinh tế hội nhập hiện nay các doanh nghiệp vừa và
nhỏ đang đứng trƣớc nhiều khó khăn. [14]
1.1.3 Vai trò doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với phát triển kinh tế - xã hội
Thực tế ở nhiều nƣớc trên thế giới và Việt Nam, doanh nghiệp vừa và nhỏ đã
có những đóng góp quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của
quốc gia.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là một phương tiện có hiệu quả để giải quyết việc
làm và giảm tỷ lệ thất nghiệp, góp phần ổn định xã hội.
Với một lƣợng vốn không lớn thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ dễ dàng
đƣợc tạo lập nên loại hình này có số lƣợng nhiều. Vì thế, trong một doanh
nghiệp vừa và nhỏ tuy số lƣợng lao động không nhiều nhƣng vẫn là nguồn
chủ yếu tạo ra phần lớn việc làm cho xã hội. Nhìn chung ở các nƣớc phát
triển số lƣợng doanh nghiệp vừa và nhỏ thƣờng chiếm từ 90-95% tổng số
doanh nghiệp trong nền kinh tế và giải quyết việc làm cho khoảng 2/3 lực
lƣợng lao động xã hội (tại Thụy Điển các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tạo
việc làm cho hơn 60% số lao động của nƣớc này; Tại HungGaRy tỷ lệ này là
hơn 66%; Nhật Bản là 66,9%; Đài Loan là 78%; Chi Lê là 70,3%). Xét trên

khía cạnh tạo việc làm, doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn đóng vai trò hơn các
doanh nghiệp lớn, nhất là trong thời kỳ kinh tế suy thoái. Với hơn 70% dân
số sống tại vùng nông thôn và chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, quỹ
đất dành cho sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam ngày càng trở lên hạn hẹp,
sức ép của lao động lên đất đai, việc làm và thu nhập ở nông thôn ngày càng
tăng mạnh gây ra nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Còn khu vực miền núi trên
nửa số lao động ở nông thôn hiện nay đa phần là ở trình độ thấp, chủ yếu là
lao động giản đơn. Do vậy, cần phát triển ngành nghề sản xuất và dịch vụ
thông qua phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ phân bố rộng rãi ở các
vùng đặc biệt là nông thôn và miền núi, góp phần hình thành các đô thị vệ
tinh xung quanh các thành phố lớn, thị xã. Hiện nay, trong cả nƣớc doanh
nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng 96% tổng số doanh nghiệp, tạo ra khoảng
49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn và khoảng 25-26% cho lực
lƣợng lao động cả nƣớc. Rõ ràng đây là một nhân tố quan trọng đối với
những ngƣời chƣa có việc làm ở đô thị hoặc những ngƣời sống ở các vùng
nông thôn đang tìm kiếm việc làm, những lao động dôi ra do việc sắp xếp lại
các doanh nghiệp nhà nƣớc và ngƣời làm nông nghiệp trong những lúc nông
nhàn. Các cơ hội tăng thêm việc làm sẽ đem lại lợi ích cho tất cả mọi ngƣời,
kể cả những ngƣời đang thất nghiệp, phụ nữ và ngƣời tàn tật. [30, tr.62]
Doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần quan trọng trong việc tạo lập sự phát
triển cân bằng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo vùng lãnh thổ.
Thông thƣờng, các doanh nghiệp lớn thƣờng tập trung ở các vùng đô thị, nơi
có cơ sở hạ tầng phát triển. Theo chiều hƣớng đó, sẽ gây ra tình trạng mất
cân đối nghiêm trọng về trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội giữa
thành thị và nông thôn, giữa các miền trong một quốc gia. Các doanh nghiệp
vừa và nhỏ có thể đóng góp vào phân bổ các ngành công nghiệp đến nhiều
vùng dân cƣ khác nhau, nhờ đó giảm bớt khoảng cách phát triển giữa các
khu vực khác nhau và tạo thành sự phát triển cân đối giữa các vùng miền.
Chính sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã góp phần quan
trọng trong việc tạo lập sự cân đối trong phát triển giữa các vùng, giúp cho

các vùng có thể khai thác đƣợc tiềm năng, lợi thế của vùng, của các địa
phƣơng để phát triển các ngành sản xuất, dịch vụ, tạo ra sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ngành nghề kinh
doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam thƣờng tập trung chủ
yếu vào lĩnh vực thƣơng mại và dịch vụ, với tỷ lệ 55,62% do kinh doanh
lĩnh vực này đòi hỏi vốn ít, trình độ chuyên môn không cao, mức độ rủi do
ít, vốn quay vòng nhanh…; lĩnh vực công nghiệp chiếm 16,14%, xây dựng
chiếm 15,11% và nông nghiệp chỉ còn là 13,13%. Nhƣ vậy, cơ cấu kinh tế
đã chuyển dịch theo hƣớng tăng dần tỷ trọng sản phẩm công nghiệp, giá trị
thƣơng mại - dịch vụ; giảm tỷ trọng sản phẩm nông nghiệp trong GDP. Đây
cũng là vấn đề có ý nghĩa để thực hiện Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp, nông thôn. [30, tr.63]
Doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần làm cho hàng hoá trên thị trường phong
phú đa dạng, thoả mãn nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là khu vực có khả năng thu hút tích cực nhất các
nguồn vốn, nguồn lực đầu tư trong dân cư và sử dụng tối ưu các nguồn lực
của xã hội cho tăng trưởn, phát triển kinh tế.
Trong tổng các nguồn vốn đầu tƣ phát triển của Việt Nam những năm qua
nguồn vốn đầu tƣ từ ngân sách Nhà nƣớc khoảng 20-22%, từ khu vực doanh
nghiệp nhà nƣớc khoảng 18-19%; nguồn vốn tín dụng đầu tƣ phát triển
khoảng 12-13%; nguồn vốn FDI khoảng 16-17%; trong khi đó, nguồn vốn
đầu tƣ trực tiếp từ khu vực dân cƣ, doanh nghiệp tƣ nhân chiếm tỷ trọng lớn
khoảng 27-28% và có xu hƣớng ngày càng tăng nhanh. Việc tạo lập doanh
nghiệp vừa và nhỏ không cần quá nhiều vốn, đã tạo cơ hội cho đồng đảo dân
cƣ có thể tham gia đầu tƣ và trong quá trình hoạt động cũng có thể dễ dàng
huy động vốn từ những ngƣời thân do vậy, doanh nghiệp vừa và nhỏ đƣợc
xem là phƣơng tiện có hiệu quả trong việc huy động, sử dụng các khoản tiền
nhàn rỗi trong dân cƣ và biến nó trở thành các khoản vốn đầu tƣ. Trong bốn
năm (2001-2004) không kể số 2,6 triệu hộ kinh doanh cá thể và khoảng
18000 hợp tác xã thì các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong 147.311 doanh

nghiệp đƣợc thành lập theo luật doanh nhiệp có tổng số vốn đăng ký tƣơng
đƣơng với tổng vốn FDI đăng ký ở Việt Nam. Với số lƣợng doanh nghiệp
vừa và nhỏ (6/2005 có 125.000 doanh nghiệp), cùng với các hình thức huy
động vốn linh hoạt, đa dạng khác nhau đã sử dụng có hiệu quả các nguồn
vốn này cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc. [27]
Với quy mô vừa và nhỏ, phát triển trải rộng ở hầu khắp các địa phƣơng, các
vùng từ những khu vực có điều kiện thuận lợi đến các địa bàn vùng sâu,
vùng xa nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng tận dụng mọi tiềm
năng, nguồn lực về lao động, nguồn vật liệu với trữ lƣợng hạn chế. Trong đó
có nhiều nguồn lực tuy không đáp ứng nhu cầu sản xuất quy mô lớn nhƣng
lại sẵn có và có nhiều sản phẩm phụ hoặc phế liệu, phế phẩm của các doanh
nghiệp lớn, các sản phẩm trung gian… mà doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng
đƣợc sẽ góp phần thúc đẩy khai thác tiềm năng của ngành nghề truyền thống
ở các địa phƣơng nhƣ các ngành nghề thủ công, mỹ nghệ, chế biến thuỷ hải
sản…làm tăng khả năng cung ứng lao động dịch vụ cho xã hội, tăng sản
phẩm, tăng giá trị xuất khẩu và tăng nguồn thu cho ngân sách. Nhờ những
ƣu thế này mỗi năm các doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp 31% giá trị tổng
sản lƣợng công nghiệp 78% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lƣợng vận chuyển
hàng hoá; gần 60% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nƣớc và 100% giá trị
sản lƣợng hàng hoá của một số ngành nghề thủ công Mỹ nghệ nhƣ thêu ren,
trạm khảm…[27]
Ngoài ra, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng đóng vai trò quan trọng trong
quá trình liên kết sản xuất của các doanh nghiệp, tập đoàn lớn; đào tạo bồi
dƣỡng nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực của đất nƣớc.
1.1.4 Các nhân tố tác động đến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
* Cơ chế chính sách và cơ chế quản lý phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chính sách phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ phù hợp sẽ góp phần
thúc đẩy phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam.
Chính sách và cơ chế quản lý là yếu tố rất quang trọng ảnh hƣởng trực tiếp
tới hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Một chính sách và cơ chế

đúng đắn hợp lý sẽ tạo ra môi trƣờng thuận lợi cho sự phát triển các doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Nếu không có sự hỗ trợ giúp đỡ của Nhà nƣớc các doanh
nghiệp vừa và nhỏ sẽ khó có khả năng tồn tại và phát triển do khả năng
nghiên cứu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ thấp, chƣa có sự liên
kết với doanh nghiệp lớn.
Chính sách ƣu tiên phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã trở thành một
chính sách phổ biến và đƣợc thực tế khẳng định tính đúng đắn của nó qua
thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của các nƣớc trên Thế giới kể cả các
nƣớc công nghiệp phát triển. Chính sách và cơ chế sẽ tạo ra môi trƣờng pháp
lý và những điều kiện cụ thể cần thiết để các doanh nghiệp vừa và nhỏ có
khả năng phát triển một cách tự do. Ngoài ra , chính sách và cơ chế còn tạo
ra sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp lớn vừa và nhỏ trong phát triển
nền kinh tế của mỗi nƣớc phát huy sức mạnh tổng thể của toàn bộ nền kinh
tế và của từng khu vực. Những chính sách ƣu tiên, những cơ chế hợp lý, kể
cả những quy định về giới hạn dƣới và trên của từng loại hình doanh nghiệp
sẽ là cơ sở để đánh giá, Chính phủ ở mỗi nƣớc đƣa ra những quy định về ƣu
tiên. Những quy định này ảnh hƣởng trực tiếp tới sự tồn tại và khả năng phát
triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những ƣu tiên về vốn tín dụng, chế
độ thuế, sử dụng công nghệ, quy chế mối quan hệ giữa các ngoại hình doanh
nghiệp thuộc các loại quy mô khác nhau kể cả chính sách chống độc
quyền… đều tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chính sách đất đai, lãi suất đào tạo…tạo ra những điều kiện cần thiết quan
trọng hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển và thực hiện đƣợc
những nhiệm vụ kinh tế - xã hội to lớn đặt ra đối với khu vực này.
* Vốn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
Vốn đƣợc hiểu theo nghia hẹp là một trong những yếu tố đầu vào phục vụ
trong quá trình sản xuất. Hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nƣớc ta
đều trong tình trạng thiếu vốn, đây chính là một trong những rào cản đối với
phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vốn hiện vật ở các doanh nghiệp vừa và

nhỏ nhƣ nhà xƣởng, máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu…đều trong tình
trạng cũ nát, lạc hậu, xuống cấp cần đƣợc nâng cấp, thay đổi nếu không có
vốn để thay đổi công nghệ thì sớm muộn các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng
sẽ rơi vào tình trạng phá sản. Trong khi nguồn vốn tài chính trong các doanh
nghiệp vừa và nhỏ rất hạn hẹp, khả năng tích luỹ vốn còn rất hạn chế do quy
mô nhỏ, công nghệ lạc hậu, năng lực cạnh tranh yếu Chính vì lý do này nên
khi thị trƣờng có chút "sóng, gió" là các doanh nghiệp rất khó trụ vững. Các
doanh nghiệp vừa và nhỏ phải tận dụng khai thác vốn từ bên ngoài, tuy
nhiên để huy động đƣợc nguồn vốn bên ngoài đối với các doanh nghiệp vừa
và nhỏ rất khó khăn vì vậy cần có sự trợ giúp của nhà nƣớc để có thể tiếp
cận đƣợc với các nguồn vốn bên ngoài.

* Trình độ phát triển kinh tế - xã hội.
Trình độ phát triển kinh tế càng cao thì giới hạn tiêu thức phân loại càng
đƣợc nâng lên. Các nƣớc có trình độ phát triển thấp thì tiêu chuẩn, giới hạn
về vốn sẽ thấp hơn. Trình độ phát triển kinh tế càng cao thì sự phát triển của
doanh nghiệp lớn càng nhiều, tính cạnh tranh càng gay gắt nhƣng có thuận
lợi là mối quan hệ giữa các loại hình doanh nghiệp càng chặt chẽ, sự hỗ trợ
của các doanh nghiệp lớn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ càng nhiều.
Mối quan hệ qua lại sẽ giúp cho cả doanh nghiệp lớn và nhỏ phát triển trong
mối quan hệ thống nhất, ràng buộc với nhau, khắc phục những hạn chế, phát
huy tính tích cực của từng loại hình quy mô. nhận thức của các bộ phận kinh
doanh càng rõ ràng, cụ thể hơn. Các doanh nghiệp tự nhận thấy sự cần thiết
phải liên kết, hỗ trợ nhau.
Trình độ phát triển kinh tế xã hội càng cao sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển
doanh nghiệp vừa và nhỏ ổn định hơn, có phƣơng hƣớng rõ ràng hơn, vững
bền hơn.
* Đội ngũ các nhà sáng lập và quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ
Sự xuất hiện và khả năng phát triển của mỗi doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn
vào những ngƣời sáng lập ra chúng. Do đặc thù là số lƣợng doanh nghiệp

vừa và nhỏ rất nhiều và thƣờng xuyên phải thay đổi để thích nghi với môi
trƣờng kinh doanh, phản ứng với những tác động bất lợi do sự phát triển, xu
hƣớng tích tụ và tập trung hoá sản xuất. Sự sát nhập, giải thể và xuất hiện
doanh nghiệp vừa và nhỏ thƣờng xuyên diễn ra trong mọi giai đoạn. đó là
một sức ép lớn buộc những ngƣời sáng và quản lý các doanh nghiệp vừa và
nhỏ phải có tính linh hoạt cao trong quản lý điều hành, dám nghĩ, giám làm,
chấp thuận mạo hiểm. Chính vì vậy, số lƣợng và chất lƣợng đội ngũ các nhà
khởi sự doanh nghiệp, dám nghĩ dám làm, chấp nhận rủi ro, đầu tƣ phát triển
sản xuất kinh doanh từ những nguồn vốn hạn hẹp, nhỏ bé có ảnh hƣởng đến
phƣơng hƣớng tốc độ phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong mỗi
quốc gia.
Sự có mặt của đội ngũ doanh nhân này cùng với khả năng và trình độ nhận
thức của họ về tình hình thị trƣờng và khả năng nắm bắt cơ hội kinh doanh
sẽ tác động to lớn đến hoạt động của từng doanh nghiệp vừa và nhỏ. Họ luôn
là những ngƣời đi đầu trong đổi mới.
1.2 Kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở một số tỉnh
thành trong nước.
1.2.1 Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố Hồ Chí Minh
Trong một thời gian dài trƣớc đây, chính sách của Nhà nƣớc đã không
khuyến khích kinh tế tƣ nhân phát triển vì vậy các doanh nghiệp tồn tại trong
quy mô nhỏ, trang thiết bị lạc hậu, sản phẩm chủ yếu cung cấp cho nhu cầu
tiêu dùng trong địa phƣơng, trong nƣớc dƣới dạng nhƣ yếu phẩm, có gì sài
lấy. Những năm qua nhờ chính sách đổi mới khuyến khích thành phần kinh
tế tƣ nhân phát triển, thành phố Hồ Chí Minh có nhiều biện pháp trợ giúp
các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã tạo nên sinh khí mới cho kinh tế thành phố
và cả nƣớc.
Thành phố Hồ Chí Minh là thành phố lớn. Năm 2006, số lƣợng doanh
nghiệp vừa và nhỏ chỉ riêng thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội chiếm
42,46% tổng số doanh nghiệp vừa và nhỏ của cả nƣớc. Tại thành phố Hồ Chí
Minh, năm 2007 đã có hơn 18.500 doanh nghiệp mới thành lập với tổng số

vốn đăng ký là 160.000 tỷ đồng ( tƣơng đƣơng 10 tỷ USD) 4 tháng đầu năm
2008, số doanh nghiệp vừa và nhỏ thành lập tại thành phố Hồ Chí Minh vẫn
tiếp tục tăng mạnh với 6.400 doanh nghiệp và tổng sô vốn là 90.000 tỷ đồng,
gần bằng 50% tổng vốn năm 2007. Trong năm 2008, ƣớc tính đóng góp của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ vào GDP là 53%.[4]
Cũng nhƣ các tỉnh trong cả nƣớc quy mô doanh nghiệp của thành phố Hồ
Chí Minh còn rất nhỏ, trong thời gian qua chƣa đƣợc đổi mới công nghệ và
mở rộng năng lực một cách thoả đáng, khả năng cạnh tranh chƣa cao. Khi
nền kinh tế nƣớc ta gia nhập WTO thì rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ
(đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ) đang có nguy cơ đứng bên bờ phá sản. Trƣớc
thực trạng đó thành phố Hồ Chí Minh đã triển khai nhiều biện pháp hỗ trợ
đồng bộ đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ . Đó là các hoạt động trợ giúp từ
trung tâm xúc tiến thƣơng mại đầu tƣ (ITPC) trong thông tin, tổ chức các
khoá đào tạo và huấn luyện quản trị doanh nghiệp. Lãnh đạo uỷ ban nhân
dân thành phố Hồ Chí Minh và các cơ sở ngành thƣờng xuyên tổ chức các
buổi gặp gỡ doanh nghiệp để tìm hiểu những khó khăn vƣơng mắc và tìm
biện pháp tháo gỡ kịp thời; đầu tƣ các cụm công nghiệp và làng nghề trợ
giúp công tác di rời và phát triển công nghiệp phụ trợ; xây dựng cổng giao
dịch điện tử dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ giới thiệu sản phẩm thực
hành kinh doanh trên mạng để giảm các chi phí và tiếp cận thị trƣờng tốt
nhất. để các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận đƣợc các thông tin về những
chính sách trợ giúp trên thì Hiệp hội doanh nghiệp thành phố đã đóng vai trò
quan trọng. Các cơ quan chức năng đã vào cuộc giúp đỡ doanh nghiệp vừa
và nhỏ.
Sở kế hoạch và Đầu tƣ, cục thuế thành phố chịu trách nhiệm tăng cƣờng
phối hợp thực hiện một cửa liên thông trong việc đăng ký kinh doanh, đăng
ký thuế, mã số thuế, khắc dấu và giảm thời gian giải quyết hồ sơ đăng ký
kinh doanh. Thành phố Hồ Chí Minh đã đi đầu trong việc áp dụng công
nghệ thông tin vào việc hƣớng dẫn đăng ký kinh doanh qua mạng Internet.
Các cá nhân muốn đăng ký kinh doanh chỉ cần điền vào trang Web các nội

dung đăng ký sẽ đƣợc chuyển về phòng đăng ký kinh doanh - Sở kế hoạch
và Đầu tƣ thành phố Hồ Chí Minh thông qua mạng và thông tin phản hồi sẽ
đƣợc gửi lại cho doanh nghiệp tối đa là sau 2 ngày làm việc. Nếu hồ sơ đƣợc
chấp nhận, Sở kế hoạch và Đầu tƣ thành phố Hồ Chí Minh sẽ hẹn ngày và
doanh nghiệp đến phòng đăng ký kinh doanh để hoàn tất thủ tục đăng ký
kinh doanh tại chỗ và nhận giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh trong vòng
1 giờ. Trong trƣờng hợp hồ sơ của doanh nghiệp chƣa phù hợp sẽ có hƣớng
dẫn trên trang Web để doanh nghiệp bổ sung thêm.
Trung tâm xúc tiến thƣơng mại và đầu tƣ thành phố chủ trì phối hợp với hiệp
hội doanh nghiệp thành phố, các hội ngành nghề đơn vị có liên quan có định
kỳ tổng hợp những khó khăn, vƣớng mắc chung của doanh nghiệp vừa và
nhỏ để lên kế hoạch tổ chức buổi đối thoại trực tiếp giữa các doanh nghiệp
vừa và nhỏ với sở ngành dƣới sự chủ trì của Uỷ ban nhân dân thành phố để
hƣớng dẫn và giải đáp những yêu cầu bức thiết. Uỷ ban nhân dân thành phố
yêu cầu sở Khoa học và Công nghệ đẩy nhanh tiến độ triển khai Dự án trung
tâm NEPTECH để sớm đƣa vào hoạt động nghiên cứu, chế tạo các thiết bị
mới với chi phí thấp nhằm góp phần hỗ trợ doanh nghiệp đầu tƣ đổi mới
công nghệ. Đồng thời tạo điều kiện liên kết giữa Nhà nƣớc - Nhà khoa học
(của các viện, trƣờng) và doanh nghiệp trong việc nghiên cứu, phát triển các
thiết bị mới có công nghệ tiên tiến với chi phí thấp, phát triển hiệu quả các
chƣơng trình nghiên cứu có khả năng ứng dụng vào thực tiễn.
Sở công nghiệp phối hợp với Sở Quy hoạch - Kiến trúc xây dựng quy hoạch
phát triển các cụm công nghiệp, cụm làng nghề có quy mô hợp lý phục vụ
cho nhu cầu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đồng thời nghiên cứu chính
sách hỗ trợ đầu tƣ cơ sở hạ tầng các cụm công nghiệp, cụm làng nghề để
đảm bảo giá thuê đất phù hợp với khả năng của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trung tâm xúc tiến thƣơng mại và đầu tƣ phối hợp với hiệp hội doanh
nghiệp thành phố, viện kinh tế … mở các lớp phổ biến thông tin pháp luật,
đào tạo khởi sự doanh nghiệp, quản trị doanh nghiệp, kiến thức hội nhập,
đào tạo các ứng dụng công nghệ thông tin trong điều kiện điều hành và quản

lý doanh nghiệp phục vụ sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu, xúc tiến
thƣơng mại và thƣơng mại điện tử.
Ngân hàng nhà nƣớc chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh xây dựng chƣơng
trình cải cách đơn giản thủ tục vay vốn và hƣớng dẫn để các doanh nghiệp
tham gia.
1.2.2 Tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Hà Nội
Là một trung tâm kinh tế xã hội của cả nƣớc, Hà Nội cũng phải đối mặt với
tất cả các khó khăn và thử thách mà đất nƣớc phải trải qua. Song nhờ những
quyết sách hợp lý của đảng và nhà nƣớc, nhờ sự năng động sáng tạo của lãnh
đạo thành phố, nhờ sức sống của toàn dân, Hà Nội đã vƣơn mình trỗi dậy để
tiếp tục xứng đáng với vị trí đầu não của mình.
Trong vòng 15 năm, từ năm 1995 đến năm 2005, tốc độ tăng trƣởng GDP
bình quân hàng năm ở Hà Nội đạt 13,6% GDP bình quân đầu ngƣời từ 446
USD tăng lên 1290 Kết cấu hạ tầng kỹ thuật ở một số lĩnh vực đã phát triển ,
vốn đầu tƣ xây dựng cơ bản đã tăng 11 lần. Kết cấu hạ tầng đô thị ngày càng
đƣợc nâng cấp, phát triển. Đời sống vật chất tinh thần của đại bộ phận dân
cƣ đƣợc cải thiện. [15]
Góp mình vào sự phát triển toàn diện của thủ đô không thể không kể đến vai
trò tích cực của các thành phần kinh tế khác nhau, trong đó có một số bộ
phận không nhỏ là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Số lƣợng các doanh nghiệp
không ngừng tăng lên về số lƣợng và chất lƣợng.
Năm 1992 -1999, Hà Nội có 4.449 doanh nghiệp vốn 3.162 tỷ, đến năm
2000-2004. Hà Nội có tổng 15.760 doanh nghiệp mới với tổng số vốn đăng
ký 26.511 tỷ tính đến 31 tháng 12 năm 2003 tổng doanh nghiệp trên địa bàn
Hà Nội 20.209 đơn vị, tổng số vốn đăng ký trên 30.000 tỷ đồng kể cả vốn bổ
sung tăng 60.400 tỷ.[34, tr.107]. Đến nay (năm 2007), Hà Nội chiếm gần
20% tổng số doanh nghiệp vừa và nhỏ trong cả nƣớc. [28]
Từ 1998 đến nay, lãnh đạo thành phố đã vƣợt qua sức ép từ nhiều phía để
triển khai nhiều chƣơng trình, giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp tƣ nhân. từ cơ
chế , chính sách đến các vấn đề cụ thể, liên quan đến lợi ích kinh doanh của

doanh nghiệp nhƣ hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp đƣợc vay ƣu đãi (quỹ hỗ
trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ); hỗ trợ tài chính, miễn giảm tiền
thuê đất và miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho nhiều dự án.
Hỗ trợ mặt bằng sản xuất, Hà Nội đã và đang triển khai xây dựng 12 khu
công nghiệp nhỏ và vừa, 5 làng nghề truyền thống.
Hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp xây dựng hệ thống quản lý chất lƣợng
ISO. Mở các khoá đào tạo cho những ngƣời mới khởi sự doanh nghiệp.
Khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu, giảm thuế, thƣởng cho các doanh
nghiệp xuất khẩu, xây dựng nhiều công trình bổ trợ khác nhau nhƣ: trạm
khai báo hải quan, mạng lƣới chợ.
Hàng năm, Hà Nội tổ chức ngày hội tôn vinh những doanh nhân giỏi, đây là
việc làm thể hiện sự quan tâm của lãnh đạo thành phố Hà Nội đối với các
doanh nghiệp và đồng thời khích lệ ý chí tinh thần kinh doanh của doanh
nhân, tạo tâm lý xã hội tốt để tầng lớp này từ đây khơi dậy khát vọng làm
giàu hợp pháp cho mọi ngƣời dân.

1.2.3 Bài học kinh nghiệm cho sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
Quảng Ninh
Việc đăng ký kinh doanh phải đƣợc đơn giản hoá để khuyến khích ý chí kinh
doanh của mỗi cá nhân các doanh nghiệp rất quan tâm đến phát kiến này vì
sẽ nhận nhiều lợi ích nhƣ: tiết kiệm đƣợc các chi phí khác khi thành lập
doanh nghiệp; tránh đƣợc việc gây khó khăn chủ quan của cán bộ làm thủ
tục đăng ký kinh doanh;
Lãnh đạo tỉnh thƣờng xuyên gặp gỡ doanh nghiệp để tìm hiểu những khó
khăn, vƣớng mắc và tìm biện pháp tháo gỡ kịp thời.
Các cơ quan ban ngành có liên quan phải cùng phối hợp và tạo mọi điều
kiện tốt nhất, sẵn sàng giúp đỡ các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Thái độ của cán bộ công chức địa phƣơng trong quan hệ với doanh nghiệp là
một trong những yếu tố ảnh hƣởng rất lớn đến các doanh nghiệp. Mặc dù các
địa phƣơng đều cho rằng doanh nghiệp là đội quân chủ lực về kinh tế ở địa

phƣơng, xong thực tế nhiều địa phƣơng cán bộ chủ chốt không biết tỉnh
mình có bao nhiêu doanh nghiệp. Thực tế cho thấy, sự phát triển kinh tế nói
chung, sự lớn mạnh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng gắn rất chặt
với vai trò quản lý của chính quyền địa phƣơng. Những địa phƣơng có cán
bộ chính quyền năng động, sáng tạo và quan tâm đến việc tạo lập môi trƣờng
kinh doanh lành mạnh luôn đạt đƣợc tốc độ tăng trƣởng kinh tế nhanh và
bền vững. Rõ ràng, không phải cứ có ƣu đãi đầu tƣ, hay có vị trí địa lý, cơ sở
hạ tầng là có thể tạo nên sự khác biệt trong phát triển kinh tế giữa các địa
phƣơng, chính tính năng động sáng tạo trong quản lý kinh tế của chính
quyền địa phƣơng mới là yếu tố quyết định thành công trong phát triển kinh
tế của nhiều địa phƣơng. Ngƣợc lại những địa phƣơng có cán bộ công chức
tham nhũng, không tận tâm, môi trƣờng pháp lý không minh bạch sẽ có thể
làm thui chột các doanh nhân giỏi, các doanh nghiệp có tiềm năng đóng góp
lớn cho nền kinh tế.
Vai trò của chính quyền địa phƣơng không chỉ đơn thuần là việc thực thi
linh hoạt chính sách của trung ƣơng, hay cố gắng tạo thuận lợi, giảm chi phí
giao dịch cho doanh nghiệp. Hơn tất cả chính là thái độ của chính quyền địa
phƣơng đối với vai trò của khu vực kinh tế tƣ nhân, đối với các doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Sự ủng hộ của chính quyền địa phƣơng là điều mà các
doanh nghiệp rất mong đợi. Điều này thể hiện việc chính quyền địa phƣơng
chủ động hỗ trợ doanh nghiệp. Những cam kết ủng hộ phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ rất cần thể hiện bằng hành động tích cực. Bên cạnh việc
tổ chức hội nghị hàng năm để biểu dƣơng các doanh nghiệp kinh doanh tốt,
lãnh đạo tỉnh cần tổ chức các cuộc đối thoại trực tiếp với doanh nghiệp theo
từng vấn đề, nhằm kịp thời cùng doanh nghiệp tháo gỡ khó khăn trong kinh
doanh.
1.3 Kinh nghiệm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của một số nước
trên thế giới
Chính sách của Đảng và nhà nƣớc chỉ áp dụng cho cả nƣớc nhƣng sự thành
công và phát triển của địa phƣơng phụ thuộc vào sự năng động của đội ngũ

cán bộ địa phƣơng. Để thúc đẩy sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ của
địa phƣơng ta cũng cần nghiên cứu tham khảo một số nƣớc trên thế giới để
có thể từ đó đƣa ra những ý tƣởng hay, khai thác và phát huy đƣợc tiềm thế
của địa phƣơng.
1.3.1 Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Đài Loan
Đài loan, một trong "bốn con rồng nhỏ Châu Á" doanh nghiệp vừa và nhỏ có
vai trò rất quan trọng trong kỳ tích đó. Phát huy tiềm năng to lớn của các xí
nghiệp vừa và nhỏ trong tăng trƣởng kinh tế và phát triển kinh tế xã hội là
một đặc điểm nổi bật của mô hình phát triển của Đài Loan trong quá trình
công nghiệp hoá. Từ một nền kinh tế lạc hậu và bị tàn phá trong chiến tranh
thế giới thƣ hai, trong một bối cảnh rất khó khăn về điều kiện thiên nhiên và
sức ép xã hội, đã từng bƣớc phát huy nội lực, hoàn thành công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá và tiếp tục phát triển nhƣ ngày nay. Những kinh
nghiệm của Đài Loan trong vấn đề phát huy vai trò của các xí nghiệp vừa và
nhỏ rất có nghĩa tham khảo đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Đài Loan phát huy vai trò của các xí nghiệp vừa và nhỏ không chỉ có tác
dụng thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế, mà còn có ý nghĩa xã hội to lớn nâng cao
mức sống của cƣ dân, thu hẹp chênh lệch giàu nghèo, hạn chế tỷ lệ thất
nghiệp… Đài Loan đất hẹp, tài nguyên trên đảo nhanh chóng cạn kiệt, thị
trƣờng trong đảo nhanh chóng bão hoà và trở thành chƣớng ngại của phát
triển kinh tế, lối thoát duy nhất của sự phát triển kinh tế Đài Loan là vƣơn ra
thị trƣờng thế giới, nhập khẩu nguyên liệu và xuất khẩu hàng hoá chính các

×