Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.67 MB, 112 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
***



NGUYỄN MAI HƢƠNG





PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ



Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Mã số: 60 31 01



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS. LÊ DANH TỐN









HÀ NỘI - 2008





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
***





NGUYỄN MAI HƢƠNG




PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM







LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ







HÀ NỘI - 2008


1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VÀ KINH NGHIỆM
QUỐC TẾ VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ


6
1.1. Lý luận chung về phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế

6
1.1.1. Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của nó đối với phát triển kinh tế - xã hội

của đất nước

6
1.1.2. Hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu của nó đối với phát triển nguồn nhân lực
ở Việt Nam

16
1.2. Kinh nghiệm của một số quốc gia về phát triển nguồn nhân lực trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế

25
1.2.1. Kinh nghiệm ở một số quốc gia điển hình
25
1.2.2. Bài học rút ra cho Việt Nam về phát triển nguồn nhân lực
32
Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ
TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM

35
2.1. Tổng quan về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
35
2.1.1. Mục tiêu và quan điểm hội nhập kinh tế quốc tế
35
2.1.2. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
37
2.2. Tình hình phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế

38
2.2.1. Lực lượng lao động và cơ cấu nguồn nhân lực

38
2.2.2. Tình hình giáo dục và đào tạo
44
2.2.3. Thu nhập và mức sống
57
2.2.4. Sức khỏe và dinh dưỡng
62
2.2.5. Vấn đề việc làm
66
2.3. Đánh giá chung về phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam trong quá trình



2
hội nhập kinh tế quốc tế
68
2.3.1. Những thành tựu trong phát triển nguồn nhân lực và tác động của nó đến
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam

68
2.3.2. Những hạn chế trong phát triển nguồn nhân lực
70
Chương 3. QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC
TẾ CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN TỚI


74
3.1. Bối cảnh mới và tác động của nó đến phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam
74

3.1.1. Bối cảnh quốc tế
74
3.1.2. Bối cảnh trong nước
75
3.2. Mục tiêu và quan điểm định hướng phát triển nguồn nhân lực trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế

76
3.2.1. Mục tiêu phát triển nguồn nhân lực
76
3.2.2. Quan điểm định hướng
77
3.3. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
của Việt Nam

79
3.3.1. Phát triển giáo dục và đào tạo
79
3.3.2. Nâng cao thu nhập, mức sống và thể chất dân cư
82
3.3.3. Giải quyết việc làm, hạn chế thất nghiệp
84
3.3.4. Phát triển thị trường lao động
86
3.3.5. Kiểm soát dân số
90
3.3.6. Mở rộng hợp tác quan hệ quốc tế toàn diện và đa phương để phát triển nguồn
nhân lực

92

3.3.7. Hoàn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách về phát triển nguồn nhân
lực và hệ thống tổ chức quản lý phát triển nguồn nhân lực

93
KẾT LUẬN
97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
98



3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nguồn nhân lực là một nhân tố cơ bản quyết định sự phát triển lực lượng
sản xuất xã hội ở mọi thời đại. Ở nước ta, nguồn nhân lực là một tiềm năng dồi
dào để tăng trưởng kinh tế, song mặt khác, chính nguồn nhân lực đó chưa đáp
ứng yêu cầu của phát triển kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế. Điều đó bắt nguồn từ những hạn chế về chất lượng, cơ cấu lao
động, về thể chế, chính sách huy động và sử dụng nguồn nhân lực. Hơn nữa,
trong xu thế hội nhập hiện nay, cùng với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học công
nghệ, tri thức ngày càng trở thành động lực phát triển mang tính chất quyết định
của nền kinh tế mới - kinh tế tri thức, các nhân tố sản xuất truyền thống như đất
đai, tiền vốn, nhà xưởng, máy móc là rất quan trọng nhưng đã tụt dần xuống
hàng thứ hai. Con người với khả năng nắm giữ kiến thức đang trở thành nhân tố
so sánh lớn nhất và yêu cầu họ không chỉ có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao
mà phải có sức khoẻ, ý thức tổ chức kỷ luật tốt và tác phong công nghiệp. Nhân
tố con người trở thành mũi nhọn quyết định sức mạnh cạnh tranh của mối quốc
gia trong nền kinh tế toàn cầu. Chính vì vậy, việc làm rõ vấn đề con người có thể
đóng góp như thế nào cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và làm sao để con

người trở thành động lực, tức là xem xét con người từ góc độ phát triển nguồn
nhân lực là vấn đề cấp thiết đang đòi hỏi nghiên cứu từ khía cạnh lý luận và thực
tiễn.
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải có đội ngũ lao
động có chất lượng ngày càng cao, cơ cấu lao động hợp lý. Thực tiễn đòi hỏi cần
phải nghiên cứu thực trạng, đề ra định hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân
lực một cách thiết thực. Do vậy, việc chọn nghiên cứu đề tài “Phát triển nguồn
nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam” là nhằm góp
phần giải quyết vấn đề bức thiết nói trên.


4
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
ở Việt Nam nói chung và trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng được
sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả trong và ngoài nước cũng như của
một số cơ quan hoạch định chính sách của Việt Nam. Điển hình là các công trình
nghiên cứu sau:
- Một số vấn đề phát triển nguồn nhân lực trong chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội đến năm 2010 - 2020. Viện Chiến lược phát triển - Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, 1999.
- Phạm Minh Hạc (chủ biên), Vấn đề con người trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
- Nguyễn Văn Lê, Phát triển khoa học về con người trong hoạt động kinh
tế - xã hội, Tạp chí Cộng sản, số 3, 01/2003.
- Trần Tiến Cường, Phát triển kinh tế và đổi mới doanh nghiệp với vấn đề
giải quyết lao động, việc làm và phát triển nguồn nhân lực, NXB Thế giới, 2001.
- Phạm Thành Nghị, Vũ Hoàng Ngân (chủ biên), Quản lý nguồn nhân
lực ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB Khoa học xã hội,
2004.

- Vũ Bá Thể, Phát huy nguồn lực con người để công nghiệp hoá, hiện đại
hoá. Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn ở Việt Nam, NXB Lao động - xã hội,
2005.
- Vũ Minh Mão, Hoàng Xuân Hoà, Dân số và chất lượng nguồn nhân lực
ở Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế, Tạp chí Cộng sản, số 10, tháng
5/2004.


5
- Geoffey Hainsworth, Phát triển nguồn nhân lực: đáp ứng thách thức của
quá trình toàn cầu hoá mạnh mẽ và một “nền kinh tế dựa trên những hiểu biết
mới”, NXB Thế giới, 2001.
- Asian Development Bank (1991), Human Resourse Policy & Ecconomic
Development (Selected country Studies), Printed in the Philipin.
- Toàn cầu hoá chuyển đổi và phát triển tiếp cận đa chiều, NXB Thế giới,
2005.
- Phạm Thái Hưng, Sức ép hội nhập và sự sẵn sàng hội nhập của Việt
Nam. NXB Thế giới, 2004.
- Ngô Doãn Vịnh (chủ biên), Chiến lược phát triển bàn về tư duy và hành
động có tính chiến lược, NXB Chính trị quốc gia, 2007.
- Lê Văn Toan, Lao động, việc làm trong xu thế toàn cầu hoá, NXB Lao
động - xã hội, 2007.
Phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam là một vấn đề có nội dung và phạm vi rộng. Các công trình trên chỉ đề
cập các giác độ liên quan, chưa nghiên cứu vấn đề một cách tổng thể, hoặc các
tác giả đưa ra các giải pháp cho từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển kinh tế -
xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài này một cách hệ thống từ góc độ khoa học
kinh tế chính trị, đưa ra những định hướng và giải pháp thích hợp với tình hình
mới là hết sức cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chủ yếu về phát triển nguồn
nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và đánh giá thực trạng phát
triển nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay, luận văn đưa ra quan điểm định


6
hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế
của Việt Nam trong thời gian tới.
. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, đề tài giải quyết các nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
- Hệ thống hoá, phân tích và góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận
chủ yếu về phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Phân tích đánh giá đúng thực trạng phát triển nguồn nhân lực hiện nay
và tác động của nó đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
- Đưa ra quan điểm định hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nguồn
nhân lực phục vụ một cách hiệu quả quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nguồn nhân lực của Việt Nam trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế.
Luận văn tập trung nghiên cứu về nguồn nhân lực của Việt Nam từ giác độ
của khoa học kinh tế chính trị trong thời kỳ đổi mới, đặc biệt là trong những năm
gần đây.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận
của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp chủ yếu sau:
trừu tượng hoá khoa học, logic và lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh…
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hoá và góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận chủ yếu về

phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.


7
- Phân tích và đưa ra đánh giá khách quan về thực trạng phát triển nguồn
nhân lực ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian qua.
- Đưa ra các giải pháp thiết thực góp phần phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu nguồn nhân lực cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
trong thời gian tới.


8
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung và kinh nghiệm quốc tế về phát
triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Chương 2: Thực trạng phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Chương 3: Quan điểm định hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam thời gian tới.
















9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1.1. Lý luận chung về phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế
1.1.1. Phát triển nguồn nhân lực và vai trò của nó đối với phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước
1.1.1.1. Những khái niệm cơ bản
• Nguồn nhân lực
Nguồn lực được hiểu một cách chung nhất là khả năng cung cấp các yếu
tố cần thiết được huy động cho sự phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước.
Đó là những nguồn lực vật chất như nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực tài
chính và nguồn lực con người.
Nguồn nhân lực được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau phụ thuộc vào các
giác độ nghiên cứu. Theo khái niệm rộng nguồn nhân lực chỉ con người với tư
cách là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội, bao gồm toàn bộ dân cư có cơ
thể phát triển bình thường, không bị khiếm khuyết và dị tật bẩm sinh.
Theo khái niệm hẹp thì nguồn nhân lực là tổng hợp cá nhân con người cụ
thể tham gia vào quá trình lao động, là tổng hợp các yếu tố về thể chất và tinh
thần được huy động vào quá trình lao động. Với cách hiểu như vậy nguồn nhân
lực bao gồm những người trong độ tuổi lao động và những người ngoài độ tuổi
lao động, thực tế có tham gia lao động .

Có một cách hiểu hẹp hơn nữa về nguồn nhân lực là yếu tố của sự phát
triển kinh tế - xã hội, là khả năng lao động cuả xã hội bao gồm nhóm dân cư


10
trong độ tuổi lao động có khả năng lao động. Cách nhìn này cho thấy nguồn
nhân lực chính là nguồn lao động và nguồn lao động sẽ bao gồm dân số trong độ
tuổi lao động.
Theo tổ chức lao động quốc tế: Lực lượng lao động là bộ phận dân số
trong độ tuổi quy định thực tế đang có việc làm và những người thất nghiệp.
Các cách hiểu trên về nguồn nhân lực, nguồn lao động, lực lượng lao động
chỉ khác nhau về xác định quy mô nguồn lực con người, nhưng có một điểm
chung là đều nói lên khả năng lao động của xã hội. Vì vậy, chúng ta có thể hiểu
một cách khái quát nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một
nước hay một địa phương sẵn sàng tham gia một công việc nào đó.
Số lượng nguồn nhân lực phụ thuộc vào quy mô dân số, tốc độ tăng, tỷ lệ
giảm dân số của một quốc gia, tỷ lệ những người trong độ tuổi lao động, . Quy
mô nguồn nhân lực ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc
gia. Chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực thể
hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất bên trong của nguồn
nhân lực: thể lực, trí lực và tâm lực. Chất lượng nguồn nhân lực phản ánh trình
độ phát triển kinh tế, phản ánh sự phát triển về mặt đời sống xã hội, chất lượng
nguồn nhân lực cao sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ hơn với tư cách không chỉ là
nguồn lực của sự phát triển mà còn thể hiện mức độ văn minh của một xã hội
nhất định.
• Phát triển nguồn nhân lực
Cho đến nay chưa có quan điểm thống nhất về khái niệm phát triển nguồn
nhân lực. Tuỳ theo mục tiêu cụ thể mà có thể có những nhận thức khác nhau để
đưa ra khái niệm về phát triển nguồn nhân lực. Cụ thể như:
Tổ chức UNESCO cho rằng: Phát triển nguồn nhân lực được đặc trưng bởi

toàn bộ sự lành nghề của dân cư trong mối quan hệ với sự phát triển của đất


11
nước. Nhưng tổ chức lao động quốc tế (ILO) lại đưa ra khái niệm phát triển
nguồn nhân lực bao hàm phạm vi rộng hơn chứ không chỉ có sự chiếm lĩnh
ngành nghề hoặc ngay cả việc đào tạo nói chung. Quan niệm này dựa trên cơ sở
nhận thức cho rằng con người có nhu cầu sử dụng năng lực của mình để tiến tới
có được việc làm hiệu quả cũng như sự thoả mãn về nghề nghiệp và cuộc sống
cá nhân. Sự lành nghề được hoàn thiện nhờ bổ sung nâng cao kiến thức trong
quá trình sống và làm việc nhằm đáp ứng những kỳ vọng của con người.
Định nghĩa trong Báo cáo phát triển con người toàn cầu của chương trình
phát triển Liên hiệp Quốc (UNDP) cho rằng: phát triển con người là “quá trình
mở rộng sự lựa chọn cho con người. Điều quan trọng nhất của phạm vi lựa chọn
rộng lớn đó là để con người sống một cuộc sống lâu dài và khoẻ mạnh, được giáo dục
và được tiếp cận đến các nguồn lực cần thiết cho một mức sống cao” [17, tr.1].
Với các quan niệm như vậy, phát triển nguồn nhân lực của một quốc gia
hay một vùng lãnh thổ chính là sự biến đổi về số lượng và chất lượng trên các
mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra
những biến đổi tiến bộ về cơ cấu nguồn nhân lực. Như vậy, dù có diễn đạt khác
nhau, song các khái niệm trên đều đưa ra được phát triển nguồn nhân lực là quá
trình nâng cao năng lực của con người về mọi mặt để tham gia hiệu quả vào quá
trình phát triển một quốc gia. Hay nói một cách khác phát triển nguồn nhân lực
chính là quá trình tạo lập và sử dụng năng lực toàn diện của con người vì sự tiến
bộ kinh tế, xã hội và sự hoàn thiện của bản thân con người. Điều đó có nghĩa là
phát triển nguồn nhân lực xã hội là khái niệm được hiểu ở góc độ hoàn thiện và
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và điều chỉnh hợp lý số lượng nguồn nhân
lực. Để có thể phát triển nguồn nhân lực, xét từ góc độ vĩ mô của nền kinh tế,
phải có các cơ chế, chính sách tác động vào nguồn nhân lực. Có thể hiểu phát
triển nguồn nhân lực xã hội là tổng thể các cơ chế chính sách và biện pháp hoàn



12
thiện, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực xã hội (trí tuệ, thể chất, phẩm chất
tâm lý - xã hội) và điều chỉnh hợp lý về số lượng nguồn nhân lực nhằm đáp ứng
yêu cầu, đòi hỏi về nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế xã hội trong từng
giai đoạn phát triển. Chính vì vậy, phát triển nguồn nhân lực luôn luôn là động
lực thúc đẩy sự phát triển và tác động đến toàn bộ đời sống xã hội. Kinh nghiệm
của nhiều nước công nghiệp hoá trước đây đã chỉ ra phần lớn thành quả phát
triển không phải nhờ nguồn tài chính kếch xù mà nhờ những hoàn thiện trong
năng lực của con người, sự tinh thông, bí quyết nghề nghiệp và quản lý. Đầu tư
cho phát triển con người là vấn đề liên ngành, đa lĩnh vực và tác động đến đời
sống của các cá nhân, gia đình, cộng đồng của họ và đến toàn bộ xã hội nói
chung.
1.1.1.2. Thước đo đánh giá chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực là trạng thái nhất định của nguồn nhân lực thể
hiện mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất của nguồn nhân lực.
Chất lượng nguồn nhân lực không những là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển
kinh tế, mà còn phản ánh trình độ phát triển về mặt đời sống xã hội, nguồn nhân
lực của một quốc gia có chất lượng cao chứng tỏ quốc gia đó phát triển và thể
hiện mức độ văn minh của một xã hội nhất định.
Để có cơ sở phân tích sự phát triển nguồn nhân lực cần hiểu rõ một số chỉ
tiêu đánh giá nguồn nhân lực sau đây:
- Chỉ tiêu phản ánh tình hình sức khoẻ của dân cư:
Sức khoẻ là tổng hoà nhiều yếu tố tạo nên giữa bên trong và bên ngoài cơ
thể con người, giữa thể chất và tinh thần. Có rất nhiều chỉ tiêu biểu hiện trạng
thái về sức khoẻ, Bộ y tế nước ta quy định có 3 loại như sau:
Loại A: thể lực tốt, không có bệnh tật gì



13
Loại B: thể lực trung bình
Loại C: thể lực yếu không có khả năng lao động
(Các loại A, B, C sẽ được đánh giá dựa trên các tiêu chuẩn về thể lực như:
chiều cao, cân nặng, vòng ngực; mắt, tai, mũi, họng; răng hàm mặt; ngoại khoa;
thần kinh; da liễu.)
Bên cạnh việc đánh giá trạng thái sức khoẻ của người lao động, người ta
còn nêu ra các chỉ tiêu đánh giá sức khoẻ của quốc gia thông qua: Tỷ lệ sinh thô,
chết thô, tỷ lệ tăng trưởng tự nhiên, tuổi thọ trung bình, tỷ lệ sinh thấp cân của
trẻ em
- Chỉ tiêu biểu hiện trình độ văn hoá của người lao động: số người biết
chữ, không biết chữ; số người có trình độ học tiểu học, phổ thông cơ sở và phổ
thông trung học.
- Chỉ tiêu người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật:
Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết, khả năng thực hành về chuyên môn
nào đó, nó biểu hiện trình độ được đào tạo ở các trường trung học chuyên
nghiệp, cao đẳng, đại học. Do đó trình độ chuyên môn nguồn nhân lực đo bằng:
+ Tỷ lệ cán bộ trung cấp;
+ Tỷ lệ cán bộ cao đẳng, đại học;
+ Tỷ lệ cán bộ trên đại học.
Trong mỗi chuyên môn có thể phân chia thành những chuyên môn nhỏ
hơn như: kỹ thuật, kinh tế, ngoại ngữ thậm chí trong từng chuyên môn lại chia
thành những chuyên môn nhỏ hơn.
Trình độ kỹ thuật của người lao động thường dùng để chỉ trình độ của
người đã được đào tạo ở các trường kỹ thuật, được trang bị kiến thức nhất định,
kỹ năng thực hành về công việc nhất định. Trình độ kỹ thuật được thể hiện thông
qua các chỉ tiêu:


14

+ Số lao động được đào tạo và lao động phổ thông;
+ Số người có bằng kỹ thuật và không có bằng;
+ Trình độ tay nghề theo bậc thợ.
Trình độ chuyên môn và kỹ thuật thường được kết hợp chặt chẽ với nhau,
thông qua chỉ tiêu số lao động được đào tạo và không đào tạo trong từng tập thể
nguồn nhân lực.
- Chỉ số tổng hợp phát triển con người - HDI (Human Development
Index):
Chỉ số này xác định bởi các chỉ tiêu:
+ Tuổi thọ bình quân
+ Thu nhập bình quân trên đầu người (GDP/người)
+ Trình độ học vấn (tỷ lệ biết chữ và số năm đi học trung bình của dân cư)
Chỉ số HDI không chỉ đánh giá sự phát triển con người về mặt kinh tế mà
còn nhấn mạnh đến chất lượng cuộc sống và sự công bằng, tiến bộ xã hội.
- Chỉ tiêu thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với giáo dục và đào tạo:
tỷ lệ % ngân sách giành cho giáo dục và đào tạo so với tổng ngân sách, tỷ lệ %
ngân sách giành cho giáo dục và đào tạo so với GDP.
1.1.1.3. Những nhân tố tác động đến phát triển nguồn nhân lực
Xuất phát từ khái niệm phát triển nguồn nhân lực mang tính chất tổng hợp
nên các yếu tố tác động đến phát triển nguồn nhân lực như: biến đổi số lượng,
chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực khá đa dạng và phân theo những nhóm cơ
bản như sau:
- Chăm sóc sức khoẻ: Trong lao động sản xuất, con người vận dụng kết
hợp cả thể lực và trí lực. Thể lực là sức mạnh cơ thể, cơ bắp đảm bảo về mặt sinh
học cho sự tiêu hao sức lao động của con người trong lao động sản xuất. Trí lực
là sức mạnh tư duy, trí tuệ là cái có ý nghĩa quyết định nhất chất lượng của yếu


15
tố con người trong quá trình tạo ra sản phẩm vật chất. Tuy thể lực không phải là

yếu tố chủ chốt quyết định chất lượng lao động của con người nhưng rõ ràng
không có thể lực tốt thì con người cũng khó phát triển năng lực sáng tạo trong
sản xuất, vì thế vấn đề chăm sóc sức khoẻ nói chung, đảm bảo dinh dưỡng và
phát triển y tế nói riêng có tác động hết sức quan trọng đối với phát triển nguồn
nhân lực.
- Giáo dục và đào tạo: Giáo dục và đào tạo là nền tảng của sự phát triển
nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội hiện đại và đóng vai trò chủ yếu
trong việc nâng cao ý thức dân tộc, tinh thần trách nhiệm và năng lực của cả một
thế hệ hiện tại và mai sau. Đào tạo và bồi dưỡng nhân tài đạt chất lượng cao là
thể hiện sự thành công của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình
đổi mới.
- Văn hoá truyền thống dân tộc, mối quan hệ xã hội và gia đình: Mỗi quốc
gia nói chung hay mỗi một địa phương nói riêng đều có nét văn hoá đặc trưng và
có các mối quan hệ xã hội rất khác nhau, điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến
quá trình phát triển nguồn nhân lực của địa phương hay quốc gia đó. Để phát
triển nguồn nhân lực một cách đồng bộ và có hệ thống Chính phủ phải định
hướng phát triển một xã hội hài hoà, tạo được khối đoàn kết đa văn hoá, đa sắc
tộc, đưa quyền lợi của người lao động lên hàng đầu, giảm sự phân biệt giàu
nghèo, màu sắc dân tộc. Đồng thời phát huy bản sắc dân tộc của quốc gia hay thế
mạnh văn hoá của từng địa phương để người lao động nhận thức được quyền lợi,
nghĩa vụ của chính mình góp sức vào quá trình phát triển của xã hội.
- Việc làm, trả công lao động, thu nhập và mức sống: Hiện nay, tình trạng
thất nghiệp và thiếu việc làm còn cao nên chúng ta đang tập trung giải quyết việc
làm đầy đủ cho toàn dân, nhưng về lâu dài vẫn phải tính đến giải quyết “việc làm
hợp lý” để đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội ngày càng cao hơn. Do sự tác động
của cung - cầu về lao động, đặc biệt là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hiện


16
tượng thất nghiệp và thiếu việc làm là không tránh khỏi, nó phản ánh một thực tế

của quá trình sắp xếp lại của một cấu trúc kinh tế xã hội mới. Thực tế đòi hỏi
phải có chính sách, giải pháp đồng bộ để hạn chế thất nghiệp. Cùng với sự phát
triển của nền kinh tế thị trường, chênh lệch thu nhập và mức sống giữa các tầng
lớp dân cư trong xã hội đang có xu hướng tăng lên trên bình diện cả nước. Điều
này cũng cho thấy khi nền kinh tế thị trường phát triển thì kéo theo là sự phân
tầng về thu nhập mức sống của người dân. Sự phân hoá giàu nghèo ở mức độ cao
sẽ có những tác động tiêu cực đến phát triển nguồn nhân lực. Bởi lẽ một bộ phạn
dân cư rơi vào tình trạng nghèo tuyệt đối sẽ không có điều kiện để duy trì thể lực
cần thiết, không có khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế và giáo dục, theo đó là sự
nảy sinh của tệ nạn xã hội. Điều đó tác động xấu đến phát triển nguồn nhân lực
trong cả ngắn hạn và dài hạn. Sự nghèo đói tuyệt đối và tương đối ở mức cao sẽ
dẫn tới những bất ổn về xã hội, vì vậy tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế -
xã hội nói chung, phát triển nguồn nhân lực nói riêng. Sự gia tăng của mức thu
nhập cũng kéo theo sự thay đổi trong cơ cấu chi tiêu của hộ gia đình, tỷ lệ chi
tiêu cho nhu cầu như: ăn uống, may mặc giảm đi để thay vào đó là tỷ lệ chi cho
việc mua sắm xây dựng nhà cửa và văn hoá giáo dục tăng nhanh. Mức thu nhập
được cải thiện cũng tác động làm giảm đi tình trạng nghèo đói của các hộ gia
đình. Cứ tính được thu nhập bình quân đầu người của một quốc gia thì xét trên
góc độ nào đó đã đo lường được kết quả và đánh giá các thành tựu phát triển
kinh tế gắn với mục tiêu nâng cao chất lượng dân số. Mức sống được đo bằng
giá trị GDP đầu người, GDP đầu người được tính dựa trên hai yếu tố: tổng sản
phẩm trong nước và dân số trung bình.
- Tăng trưởng kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao là điều kiện tiền đề
để nâng cao thu nhập và mức sống dân cư, và vì vậy là tiền đề để phát triển
nguồn nhân lực. Tăng trưởng kinh tế cao là cơ sở để tăng tích luỹ, đầu tư, thúc
đẩy tái sản xuất theo chiều rộng và theo chiều sâu. Đẩy mạnh tái sản xuất sẽ thúc


17
đẩy phát triển nguồn nhân lực. Tốc độ tăng trưởng kinh tế quyết định tốc độ

chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động. Bởi lẽ, khi tốc độ tăng trưởng cao về
kinh tế, yêu cầu tốc độ chuyển dịch lao động cũng phải tăng cao để đảm bảo
cung cấp lao động cho các ngành nhằm đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế. Đồng thời, khi tăng trưởng kinh tế cao, sẽ tạo điều kiện
thuận lợi để chuyển dịch cơ cấu lao động theo trình độ, theo ngành, vùng kinh tế
nhanh hơn do chuyển dịch cơ cấu kinh tế và do tốc độ phát triển kinh tế đòi hỏi
và quyết định.
Phát triển nguồn nhân lực chủ yếu là những tiến bộ về chất lượng nguồn
nhân lực của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ hoặc mỗi tổ chức. Ngoài yếu tố
chất lượng sức lao động của mỗi cá nhân đang sống và làm việc, chất lượng
nguồn nhân lực còn phụ thuộc vào cơ cấu của đội ngũ lao động về ngành nghề,
trình độ kỹ thuật, năng lực tổ chức, quản lý và khả năng phối hợp hành động để
đạt mục tiêu đề ra. Một cơ cấu nhân lực hợp lý và tổ chức hoạt động tốt sẽ có tác
động cộng hưởng làm tăng sức mạnh của tổ chức và cá nhân để thực hiện mục
tiêu đề ra. Ngược lại, nếu cơ cấu không hợp lý, không đồng bộ và tổ chức quản
lý hoạt động không tốt sẽ không phát huy được tác dụng cộng hưởng mà đôi khi
còn làm giảm sức mạnh của tổ chức đó và triệt tiêu hoạt động của từng cá nhân.
Do đó, phát triển nguồn nhân lực của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ và mỗi tổ
chức phải chú ý lựa chọn một cơ cấu hợp lý và phù hợp với yêu cầu và trình độ
phát triển của mỗi giai đoạn.
- Điều tiết sự gia tăng dân số: Tỷ lệ sinh đẻ gây ảnh hưởng lớn đến nguồn
nhân lực, trên thế giới có rất nhiều quốc gia thuộc nhóm nước có dân số già do
xu thế phụ nữ không muốn sinh con, nếu sinh thì số lượng chỉ là 01. Trong khi
đó đa số các nước đang phát triển thì thuộc nhóm nước có dân số trẻ do tỷ lệ sinh
quá cao, ví dụ như Trung Quốc, Việt Nam… Các quốc gia này buộc phải đưa ra
biện pháp bắt buộc mỗi gia đình sinh đẻ trong tiêu chuẩn. Vì vậy, vấn đề điều


18
tiết sinh đẻ và chăm sóc sức khoẻ sinh sản là một trong những chiến dịch của các

quốc gia nhằm cân đối cơ cấu dân cư, cơ cấu lao động để phát triển kinh tế xã
hội.
1.1.1.4. Vai trò của phát triển nguồn nhân lực đối với phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước
Vai trò của phát triển nguồn nhân lực được thể ở một số nội dung chủ yếu
sau:
- Thứ nhất, đảm bảo cơ cấu lao động hợp lý để nâng cao năng suất lao động
Để đảm bảo cho nền kinh tế ổn định và tăng trưởng nhanh thì cơ cấu lao
động phải hợp lý. Mục tiêu của phát triển nguồn nhân lực là tạo ra cơ cấu lao
động hợp lý, đảm bảo tăng lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ lên
tuyệt đối và tương đối, giảm lao động trong ngành nông nghiệp xuống tuyệt đối
và tương đối. Sự biến đổi về cơ cấu lao động theo cơ chế thị trường là tăng lao
động khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, tăng lao động xuất khẩu giảm tỷ lệ thất
nghiệp, khuyến khích sự phát triển trong khu vực kinh tế tư nhân. Như vậy, việc
phát triển nguồn nhân lực là một cuộc cải cách mạnh mẽ về cơ cấu lao động của
một quốc gia đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Năng suất lao động là sức mạnh của cạnh tranh trong xu thế hội nhập,
quyết định sự tiến bộ xã hội của mọi thời đại. Phát triển nguồn nhân lực sẽ hình
thành cơ cấu lao động hợp lý có trình độ chuyên môn cao để nâng cao năng suất lao
động trong các lĩnh vực của nền kinh ế quốc dân.
- Thứ hai, đảm bảo số lượng và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục
vụ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Phát triển nguồn nhân lực sẽ tạo ra đội ngũ những người lao động có
chuyên môn kỹ thuật đủ về số lượng và cao về chất lượng phục vụ quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.


19
Sự phát triển nguồn nhân lực trong quá trình hội nhập tạo ra một phong
cách lao động mới, người lao động có trình độ học thức và chuyên môn kỹ thuật

cao làm thay đổi nhận thức trong lao động khoa học, nhanh, chính xác, theo kịp
yêu cầu của thời đại. Nhận thức của người lao động dần dần được nâng cao, phù
hợp với trình độ phát triển của kinh tế - xã hội và yêu cầu của hội nhập kinh tế
quốc tế.
- Thứ ba, đáp ứng nhu cầu lao động cho xã hội, phát triển kinh tế, giải
quyết việc làm, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người lao động.
Phát triển nguồn nhân lực là quá trình biến đổi, phát triển cơ cấu lao động
nhằm đảm bảo cung, cầu lao động trên thị trường theo yêu cầu phát triền nền
kinh tế - xã hội. Đảm bảo cung lao động ở các nước đang phát triển nói chung, ở
Việt Nam mói riêng được tập trung vào cải cách hệ thống giáo dục và đào tạo để
tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cao, có ngành nghề hợp lý theo đúng yêu
cầu của thị trường lao động. Cầu lao động được mở rộng trên cơ sở phát triển,
mở rộng ngành nghề theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,
nhằm sử dụng tối đa nguồn nhân lực. Giải quyết việc làm và tăng trưởng kinh tế
là mục tiêu quan trọng của nền kinh tế vĩ mô, phát triển nguồn nhân lực một mặt
là đảm bảo cung cấp lao động cho thị trường theo đúng yêu cầu về số lượng và
chất lượng, mặt khác làm tăng cầu lao động tạo ra nhiều việc làm, giảm tỷ lệ thất
nghiệp, nâng cao chất lượng cuộc sống cho cộng đồng dân cư.
1.1.2. Hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu của nó đối với phát triển
nguồn nhân lực ở Việt Nam
1.1.2.1. Hội nhập kinh tế quốc tế
• Các khái niệm
- Toàn cầu hoá kinh tế


20
Toàn cầu hoá kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế trong những năm gần đây
đã trở thành đề tài được rất nhiều các học giả, các tầng lớp dân chúng đặc biệt
quan tâm. Có người cho rằng quá trình toàn cầu hoá như một giải pháp cứu tinh
cho nền kinh tế, có người lại xem nó như là một mối đe dọa các quốc gia. Ở các

nước kém phát triển hay phát triển cũng có hai cách nhìn nhận như vậy. Mỗi
quốc gia có cách hiểu về nội dung toàn cầu hoá như thế nào mà xác định thời
điểm toàn cầu hoá bắt đầu và cái đích nó đi tới cùng với những hình thức đa
dạng, hướng tới một nền kinh tế toàn cầu thống nhất không có biên giới quốc gia
về kinh tế.
Thuật ngữ toàn cầu hoá đã xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1961 nhưng đến
những năm 80 của thế kỷ XX nó mới được phổ biến. Thực ra trước đó người ta
đã sử dụng khái niệm hội nhập toàn cầu với ý nghĩa tương tự như toàn cầu hoá. Do
vậy có thể xem hội nhập và toàn cầu hoá là những khái niệm tương đồng.
Toàn cầu hoá và hội nhập có thể chia thành nhiều mặt như: chính trị, an
ninh, kinh tế, văn hoá Nhưng cho tới nay, thì toàn cầu hoá và hội nhập tiến
triển mạnh nhất và rõ nét nhất là toàn cầu hoá và hội nhập về kinh tế.
Toàn cầu hoá kinh tế chính là quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế đã đạt
đến trình độ đưa vào lưu thông kinh tế toàn cầu các khâu của quá trình tái sản
xuất xã hội dựa trên sự phân công toàn cầu, thông qua các loại hình kinh tế khác
nhau giữa các nước và do đó khiến cho các nền kinh tế quốc gia xâm nhập và
gắn bó với nhau, chuyển hoá thành nền kinh tế toàn cầu. Như vậy, toàn cầu hoá
kinh tế là kết quả của sự phát triển cao độ quốc tế hoá sản xuất và phân công
quốc tế. Đây là một tất yếu khách quan không phụ thuộc vào ý chí của bất kể
nước nào, kể cả Mỹ. Tiến trình toàn cầu hoá kinh tế xuất hiện và phát triển cùng
với sự phát triển của thị trường thế giới. Từ đó có thể nói, toàn cầu hoá kinh tế là
sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua mọi biên giới quốc gia,
khu vực, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế trong sự vận động và


21
phát triển. Sự gia tăng của xu hướng này được thể hiện ở sự mở rộng mức độ và
quy mô mậu dịch thế giới, ở sự luân chuyển của các dòng vốn và lao động trên
quy mô toàn cầu.
Cơ sở khách quan và những nhân tố thúc đẩy toàn cầu hoá kinh tế là:

1) Sự phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất dưới tác động của cách mạng
khoa học công nghệ.
2) Sự phát triển manh mẽ của kinh tế thị trường
3) Sự phát triển của các công ty xuyên quốc gia.
4) Vai trò của các định chế kinh tế - tài chính toàn cầu và khu vực.
Toàn cầu hoá kinh tế có những đặc trưng cơ bản sau:
1) Toàn cầu hoá kinh tế là giai đoạn phát triển cao hơn của quốc tế hoá
kinh tế.
2) Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình vận động khách quan của lịch sử.
3) Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình vừa hợp tác chặt chẽ vừa cạnh tranh
giữa các quốc gia
4) Toàn cầu hoá kinh tế là xu thế khách quan nhưng chịu sự tác động của
chủ nghĩa tư bản, đứng đầu là Mỹ.
5) Toàn cầu hoá kinh tế là quá trình mang tính hai mặt: tích cực và tiêu
cực. Toàn cầu hoá có mặt tích cực như mở ra nhiều cơ hội và điều kiện thuận lợi
cho công cuộc phát triển và chấn hưng đất nước, song nó cũng đặt ra nguy cơ về
độ an toàn của đời sống con người trên nhiều phương diện kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội, môi trường và làm trầm trọng hơn sự phân hoá và bất bình đẳng.
- Hội nhập kinh tế quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế có liên quan trực tiếp với toàn cầu hoá kinh tế, là
quá trình đồng hành với quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Dưới tác động của xu thế
toàn cầu hoá, nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế cũng xuất hiện, không thể có toàn


22
cầu hoá kinh tế nếu không có sự tham gia ngày càng đông của các quốc gia.
Toàn cầu hoá kinh tế là tất yếu, và hội nhập kinh tế quốc tế cũng là một tất yếu
khách quan.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một thuật ngữ xuất hiện trong vài thập kỷ gần
đây và cho đến nay, vẫn có nhiều cách hiểu khác nhau về hội nhập kinh tế quốc

tế. Cách hiểu này xoay quanh hai loại ý kiến:
Một là, quan niệm hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia tiến
hành xây dựng, thương lượng, ký kết và tuân thủ các cam kết quốc tế song
phương, đa phương và toàn cầu về các lĩnh vực thương mại, đầu tư và các lĩnh
vực khác có liên quan nhằm đảm bảo tính tương thích giữa hệ thống kinh tế quốc
gia với hệ thống kinh tế khu vực và toàn cầu trên cơ sở những nguyên tắc và quy
định thống nhất. Điều thấy rõ nhất về quá trình hội nhập kinh tế quốc tế từ quan
niệm này là việc thống nhất các chính sách, quy định pháp lý trong từng quốc gia
với những nguyên tắc, thông lệ và tập quán quốc tế.
Hai là, quan niệm hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia loại
bỏ dần các rào cản để hoạt động thương mại, di chuyển các yếu tố sản xuất và
thanh toán quốc tế diễn ra một cách thuận lợi. Loại quan điểm này hiểu quá trình
hội nhập gắn với quá trình tự do hoá.
Mặc dù có những quan niệm khác nhau nhưng quan niệm tương đối phổ
biến hiện nay là: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự gắn kết nền kinh tế của mỗi quốc
gia vào các tổ chức hợp tác kinh tế khu vực và toàn cầu trong đó các nước thành
viên chịu sự ràng buộc theo những quy định chung của cả khối. Nói một cách
khái quát, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình các quốc gia thực hiện mô hình
kinh tế mở, tự nguyện tham gia vào các định chế kinh tế và tài chính quốc tế,
thực hiện thuận lợi hoá và tự do hoá thương mại, đầu tư và các hoạt động kinh tế
đối ngoại khác.


23
Nội dung chủ yếu của hội nhập kinh tế đối với các nước đang phát triển,
trong đó có Việt Nam là: 1) Hội nhập vào thị trường toàn cầu; 2) Hội nhập với
các luồng vốn đang lưu chuyển tự do trên toàn cầu và hệ thống tài chính, tiền tệ
toàn cầu; 3) Hội nhập với các tiêu chuẩn toàn cầu, với hệ thống pháp luật toàn
cầu liên quan đến hoạt động kinh tế; 4) Hội nhập vào nền kinh tế tri thức, phát
triển dựa trên khoa học và công nghệ cao; 5) Hội nhập với lực lượng lao động

toàn cầu.
• Cơ hội và thách thức của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế
Hội nhập kinh tế quốc tế là một xu thế tất yếu và đang diễn ra sâu rộng
trên thế giới, phù hợp với xu thế phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Tuy
vậy, hội nhập kinh tế quốc tế đem lại cả những thời cơ, thuận lợi và thách thức,
khó khăn.
- Cơ hội, thuận lợi:
Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy công cuộc đổi mới kinh tế - xã
hội và cải cách thể chế; trước hết, thúc đẩy việc hoàn thiện hệ thống luật pháp và
chính sách của nước ta, tạo dựng môi trường kinh doanh ổn định, minh bạch và
thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam
thuộc mọi thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh và
phát triển bền vững.
Thứ hai, hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy các hoạt động thương mại, đầu
tư và chuyển giao công nghệ, thúc đẩy các quan hệ hợp tác kinh tế song phương
và đa phương của nước ta với các nước trên thế giới. Thông qua việc mở cửa các
thị trường hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, giảm những hàng rào thuế quan, phi thuế
quan, những biện pháp hạn chế về định lượng và hàng rào kỹ thuật, các doanh
nghiệp Việt Nam sẽ có khả năng mở rộng thị trường, được tiếp cận với nhiều thị

×