ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO VÀ BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN THỊ MINH NGUYỆT
VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành : Kinh tế Chính trị
Mã số : 60.31.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: GS.TS Mai Ngọc Cường
Hà Nội - 2007
2
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 1
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 2
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN 3
3.1. MỤC ĐÍCH : 3
3.2. NHIỆM VỤ : 3
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU: 3
5. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 4
5.1 CƠ SỞ LÝ LUẬN: 4
5.2 PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: 4
6. ĐÓNG GÓP MỚI VỀ KHOA HỌC CỦA LUẬN VĂN: 4
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN : 4
CHƢƠNG1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƢỚC TRONG
NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG 6
1.1. VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƢỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG:
KHÁI QUÁT LÝ THUYẾT VÀ TẦM QUAN TRỌNG. 6
1.1.1. KHÁI QUÁT CÁC TƢ TƢỞNG VỀ VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƢỚC
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG 6
1.1.2. TẦM QUAN TRỌNG CỦA VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƢỚC TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƢỜNG 22
1.2. KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ VAI TRÒ
KINH TẾ NHÀ NƢỚC. 29
1.2.1. ĐẶC ĐIỂM CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA. 29
1.2.2. NỘI DUNG VAI TRÒ NHÀ NƢỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG
ĐỊNH HƢỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 35
1.3. KINH NGHIỆM VỀ VAI TRÒ NHÀ NƢỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƢỜNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở TRUNG QUỐC. 42
CHƢƠNG 2 VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƢỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG
3
ĐỊNH HƢỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP 48
2.1 THỰC TRẠNG VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY 48
2.1.1. VAI TRÒ NHÀ NƢỚC TRONG VIỆC XÂY DỰNG HỆ THỐNG LUẬT PHÁP
CHO NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƢỚC
TA . 48
2.1.2. VAI TRÒ NHÀ NƢỚC TRONG VIỆC ĐỔI MỚI CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ,
CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU KINH TẾ. 52
2.1.3. VAI TRÒ NHÀ NƢỚC TRONG VIỆC ĐỔI MỚI CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH
KINH TẾ VĨ MÔ ĐỂ ĐIỀU TIẾT VÀ THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH
TẾ THỊ TRƢỜNG 55
2.1.4 VAI TRÒ NHÀ NƢỚC TRONG XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH ĐIỀU TIẾT THU
NHẬP, ĐẢM BẢO BÌNH ĐẲNG XÃ HỘI. 57
2.2. NHỮNG THÀNH TỰU, HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN HẠN CHẾ CỦA VAI
TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƢỚC TRONG NỀN KINH TẾ Ở NƢỚC TA HIỆN NAY . 60
2.2.1 NHỮNG THÀNH TỰU CHỦ YẾU 60
2.2.2. NHỮNG HẠN CHẾ CHỦ YẾU 65
2.2.3. NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ 72
2.3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG VAI TRÒ KINH TẾ CỦA
NHÀ NƢỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG Ở VIỆT NAM NHỮNG NĂM
TỚI 79
2.3.1. PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN VAI TRÒ KINH TẾ CỦA NHÀ NƢỚC
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở
NƢỚC TA NHỮNG NĂM TỚI. 80
2.3.1.1. HOÀN THIỆN HỆ THỐNG LUẬT PHÁP 80
2.3.1.2. SẮP XẾP LẠI DOANH NGHIỆP NHÀ NƢỚC THEO HƢỚNG TĂNG
CƢỜNG SẢN XUẤT HÀNG HOÁ CÔNG CỘNG. XỬ LÝ TÌNH TRẠNG ĐỘC
QUYỀN DOANH NGHIỆP 82
2.3.1.3. HOÀN THIỆN CÔNG CỤ TÀI CHÍNH, THUẾ, LÃI SUẤT ĐỂ ĐIỀU TIẾT
KINH TẾ THEO NGUYÊN TẮC CỦA KINH TẾ THỊ TRƢỜNG 84
2.3.2 NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM HOÀN THIỆN VAI TRÒ KINH TẾ
CỦA NHÀ NƢỚC Ở NƢỚC TA NHỮNG NĂM TỚI 85
4
2.3.2.1. TIẾP TỤC ĐỔI MỚI TƢ DUY, NHẬN THỨC VỀ VAI TRÒ KINH TẾ CỦA
NHÀ NƢỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA. 85
2.3.2.2 ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH QUỐC GIA PHÙ HỢP VỚI NỀN
KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG XA HỘI CHỦ NGHĨA. 88
2.3.2.3 ĐẨY MẠNH CẢI CÁCH NỀN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA PHÙ HỢP VỚI
NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG ĐỊNH HƢỚNG XA HỘI CHỦ NGHĨA. 92
KẾT LUẬN 95
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đƣờng lối đổi mới đƣợc đề ra tại Đại hội lần thứ VI (12 - 1986) của
Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo ra những bƣớc ngoặt quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nƣớc. Trong đƣờng lối đổi mới ấy, Đảng ta
đã thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động
theo cơ chế thị trƣờng. Tới Đại hội giữa nhiệm kỳ khoá VIII, Đảng ta lại
khẳng định chủ trƣơng "Tiếp tục xây dựng đồng bộ thể chế kinh tế mới, kiên
trì quá trình chuyển sang cơ chế thị trƣờng đi đôi với tăng cƣờng hiệu lực
quản lý của Nhà nƣớc".
Thực hiện chủ trƣơng mà Đảng đã vạch ra, Nhà nƣớc Việt Nam đã ban
hành hàng loạt các chính sách, các văn bản pháp luật để dần dần hoàn thiện cơ
chế quản lý nền kinh tế, mà mô hình tổng quát của nền kinh tế ấy trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta là nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng
xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1992, Nhà nƣớc đã có những
chính sách và thể chế hoá bằng hàng loạt bộ luật, luật, pháp lệnh và các văn
bản dƣới luật khác nhằm hƣớng vào việc đảm bảo quyền tài sản; đảm bảo
quyền tự chủ của các chủ thể kinh doanh; đảm bảo cho giá cả chủ yếu do thị
trƣờng định đoạt; đảm bảo lấy các tín hiệu thị trƣờng làm căn cứ quan trọng
để phân bố các nguồn lực cho sản xuất kinh doanh; đảm bảo sự bình đẳng
giữa các thành phần kinh tế; đảm bảo khuyến khích các nhà kinh doanh tìm
kiếm lợi nhuận hợp pháp
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công trong nền kinh tế do đổi mới và
hoàn thiện quản lý nhà nƣớc về kinh tế đƣa lại nhƣ tốc độ tăng trƣởng kinh tế
của đất nƣớc trong những năm đổi mới luôn có xu hƣớng gia tăng; cơ cấu
2
kinh tế chuyển dịch theo hƣớng hiệu quả hơn, việc làm và đời sống của dân
cƣ ngày càng đƣợc cải thiện , thì chính từ quản lý nhà nƣớc trong nền kinh tế
nƣớc ta đang nổi lên không ít những vấn đề bức xúc cần phải đƣợc nghiên
cứu một cách hệ thống, toàn diện và đầy đủ nhƣ cần xác định một cách có căn
cứ khoa học về nội dung, chức năng, nhiệm vụ, các phƣơng pháp, công cụ
quản lý nhà nƣớc về kinh tế trong mối quan hệ tồn tại khách quan giữa Nhà
nƣớc, thị trƣờng, doanh nghiệp trong tiến trình phát triển kinh tế đất nƣớc;
làm thế nào để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nƣớc; nhằm
tháo gỡ kịp thời, đồng bộ tạo điều kiện cho nền kinh tế thị trƣờng phát triển
đúng theo những quy luật vốn có của nó và đáp ứng các mục tiêu đã đề ra. Từ
nhận thức đó, tác giả lựa chọn chủ đề “Vai trò kinh tế của Nhà nƣớc trong nền
kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” cho luận văn thạc sỹ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề vai trò kinh tế của Nhà nƣớc trong nền kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, bằng các
cách tiếp cận khác nhau, các tác giả đã giả quyết đƣợc nhiều vấn đề, nhƣ:
- GS.TS. Mai Ngọc Cƣờng: Kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam (NXB Chính trị Quốc gia - 2001)
- Tập thể tác giả: GS. PTS. Vũ Đình Bách, GS.TS. Ngô Đình Giao: Đổi
mới và thực hiện đồng bộ các chính sách, cơ chế quản lý kinh tế (NXB
Chính trị Quốc gia - HN 1997)
- Nguyễn Danh Nghĩa: Vai trò của pháp luật trong việc ổn định thị
trƣờng bất động sản- nhu cầu, khả năng và một số kiến nghị ban đầu - Kỷ yếu
hội thảo khoa học, thị trƣờng nhà đất ở Hà Nội, thực trạng và giải pháp tăng
cƣờng quản lý Nhà nƣớc. Tháng 4 - 2002
- GS.TSKH. Lƣơng Xuân Quỳ (chủ nhiệm đề tài): Quản lý Nhà nƣớc
3
trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng XCHN ở Việt Nam - chƣơng trình
khoa học cấp Nhà nƣớc KX.01
Các công trình nghiên cứu trên với những góc độ khác nhau đã làm
sáng tỏ nhiều vấn đề vai trò kinh tế của Nhà nƣớc trong nền kinh tế thị trƣờng
định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc tiếp cận vai trò
kinh tế của Nhà nƣớc với tƣ cách là một yêu cầu để khắc phục những khiếm
khuyết của kinh tế thị trƣờng nảy sinh trong quá trình đổi mới kinh tế ở nƣớc
ta còn nhiều vấn đề chƣa đƣợc giải quyết thoả đáng.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở khái quát hệ thống lý luận về vai trò kinh tế của Nhà nƣớc
và thực trạng vai trò kinh tế của Nhà nƣớc ở Việt nam hiện nay, đề tài đề xuất
phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm tăng cƣờng vai trò kinh tế của Nhà nƣớc
trong việc khắc phục những khiếm khuyết của kinh tế thị trƣờng định hƣớng
xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta trong những năm tới.
3.2. Nhiệm vụ
- Làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò kinh tế của Nhà nƣớc trong
nền kinh tế thị trƣờng trên cơ sở khái quát lịch sử các tƣ tƣởng kinh tế và kinh
nghiệm một số nƣớc.
- Phân tích thực trạng vai trò kinh tế của Nhà nƣớc trong nền kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta hiện nay.
- Đề xuất phƣơng hƣớng và một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cƣờng
vai trò kinh tế Nhà nƣớc trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa ở nƣớc ta những năm tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn: Vai trò kinh tế của Nhà nƣớc
trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
4
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Vai trò của Nhà nƣớc trong các lĩnh
vực: luật pháp, quản lý và phát triển các loại hình doanh nghiệp, sử dụng các
công cụ tài chính, tín dụng, thuế, phân phối thu nhập, an sinh xã hội để điều
tiết thu nhập và ổn định kinh tế.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng ta, các quan
điểm hiện đại về vai trò kinh tế của Nhà nƣớc, đồng thời kế thừa một cách có
chọn lọc ý tƣởng của các tác giả đi trƣớc về vấn đề này.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp giữa
logic với lịch sử, phân tích, so sánh và tổng hợp.
- Sử dụng có chọn lọc các kết quả nghiên cứu đã công bố.
- Sử dụng các tài liệu, số liệu thống kê.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Góp phần làm sáng tỏ lý luận về vai trò kinh tế của Nhà nƣớc trong
nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta.
- Đánh giá thực trạng vai trò kinh tế của Nhà nƣớc ở nƣớc ta hiện nay,
chỉ ra những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của những hạn chế về vai trò
kinh tế của Nhà nƣớc.
- Khuyến nghị một số giải pháp nhằm tăng cƣờng vai trò kinh tế của
Nhà nƣớc trong nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở nƣớc ta
những năm tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tham khảo, luận văn gồm
2 chƣơng
5
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò kinh tế của Nhà nƣ-
ớc trong nền kinh tế thị trƣờng
Chương II: Vai trò kinh tế của nhà nƣớc trong nền kinh tế thị trƣờng
định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp.
6
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VAI TRÒ KINH TẾ
CỦA NHÀ NƢỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƢỜNG
1.1. Vai trò kinh tế của nhà nƣớc trong nền kinh tế thị trƣờng:
Khái quát lý thuyết và tầm quan trọng
1.1.1. Khái quát các tư tưởng về vai trò kinh tế của nhà nước trong
nền kinh tế thị trường
Có thể nói tƣ tƣởng về vai trò Nhà nƣớc trong nền kinh tế thị trƣờng là
một trong hai tƣ tƣởng quan trọng bậc nhất trong lý thuyết kinh tế: tƣ tƣởng
giá trị và tƣ tƣởng vai trò Nhà nƣớc. Nếu nhƣ các nhà kinh tế học đã có sự
tranh luận quyết liệt về tƣ tƣởng giá trị, thì cuộc tranh luận trong lĩnh vực vai
trò Nhà nƣớc không kém phần gay gắt. Nhìn chung, trong lịch sử có hai quan
điểm. Nhà nƣớc có can thiệp vào kinh tế hay không? và can thiệp thì ở mức
độ nhƣ thế nào? những ngƣời không ủng hộ can thiệp của Nhà nƣớc vào kinh
tế đƣợc gọi là những ngƣời theo phái tự do kinh tế mà tiêu biểu là A.Smith
(1723-1790). Trong tác phẩm "Nghiên cứu về nguyên nhân và bản chất sự
giàu có của dân tộc" Ông cho rằng, hoạt động kinh tế của con ngƣời là hoạt
động tự do, do "Bàn tay vô hình" hay qui luật kinh tế khách quan chi phối.
Theo nguyên tắc này hoạt động kinh tế phải đƣợc tiến hành một cách tự do,
do bộ máy cung - cầu và biến động của giá cả trên thị trƣờng quyết định. Sản
xuất cái gì? cho ai? nhƣ thế nào? Tất cả đƣợc giải quyết thông qua thị trƣờng.
Nhà nƣớc không can thiệp vào thị trƣờng và hoạt động kinh tế của các doanh
nghiệp. Theo các nhà kinh tế học tƣ sản cổ điển, Nhà nƣớc là cần thiết để bảo
vệ các quyền của chủ sở hữu tƣ nhân, chống thù trong giặc ngoài, bảo vệ đất
nƣớc. Tuy nhiên, Ông cũng cho rằng đôi khi Nhà nƣớc cũng có những nhiệm
7
vụ kinh tế nhất định, khi những nhiệm vụ này vƣợt ra khỏi phạm vi xí nghiệp
nhƣ các công việc đắp đƣờng, đào sông
Không chỉ trƣờng phái cổ điển, mà các nhà kinh tế học trƣờng phái cổ
điển mới (cuối thế kỷ XIX) cũng ủng hộ nguyên tắc tự do kinh tế. Họ cho
rằng hoạt động tự do của doanh nhân theo sự biến động tự phát của cung - cầu
và giá cả hàng hoá trên thị trƣờng chi phối là điều kiện cơ bản cho sự phát
triển và cân đối tình hình thị trƣờng. Trên cơ sở này Leon Walras (1834-1910)
đã đƣa ra lý thuyết "thăng bằng tổng quát giữa các thị trƣờng".
Các nhà kinh tế học trƣờng phái cổ điển và cổ điển mới đều thấy một
thực tế là theo đà phát triển của sản xuất, chức năng của Nhà nƣớc ngày càng
mở rộng, do vậy vai trò của Nhà nƣớc sẽ tăng lên. Đặc biệt trƣớc những đòi
hỏi thực tế trong lĩnh vực ngoại thƣơng, sự xuất hiện của các tổ chức độc
quyền và những vấn đề tái sản xuất sức lao động thì Nhà nƣớc tƣ sản càng
phải tăng cƣờng can thiệp vào kinh tế. Tuy nhiên, họ vẫn cho rằng, tự do kinh
tế là sức mạnh hoạt động của nền kinh tế TBCN. Qui luật kinh tế là vô địch,
mặc dù chính sách kinh tế có thể kìm hãm hay thúc đẩy sự hoạt động của các
qui luật kinh tế. Họ có niềm tin vững chắc vào cơ chế thị trƣờng và tự điều
tiết hoạt động theo cung - cầu và giá cả. Theo sự điều tiết tự động của "Bàn
tay vô hình" mà quá trình tái sản xuất bảo đảm đƣợc những tỉ lệ cân đối và
duy trì đƣợc sự phát triển bình thƣờng.
Song cuộc khủng hoảng kinh tế của CNTB bắt đầu từ 1825 và trở nên
thƣờng xuyên hơn vào những năm 30 của thế kỷ XX đã chứng tỏ "bàn tay vô
hình" không thể bảo đảm cho nền kinh tế TBCN phát triển bình thƣờng. Hơn
nữa xu hƣớng xã hội hoá sản xuất ngày càng cao đã chỉ cho các nhà kinh tế
học tƣ sản thấy rằng phải có một lực lƣợng nhân danh xã hội can thiệp vào
quá trình kinh tế, điều tiết kinh tế. Từ đó lý thuyết "Chủ nghĩa tƣ bản đƣợc điều
tiết" xuất hiện. Ngƣời sáng lập ra thuyết này là John Meynard Keynes (1884 -
8
1946), nhà kinh tế học, nhà hoạt động xã hội và thực tiễn trong ngành ngân
hàng nƣớc Anh.
Nếu nhƣ trƣờng phái cổ điển và cổ điển mới coi Nhà nƣớc tƣ bản chỉ
là ngƣời canh gác bảo vệ tài sản cho CNTB, thì Keynes đánh giá vai trò của
Nhà nƣớc ở vị trí hoàn toàn khác. Trong tác phẩm "Lý thuyết chung về việc
làm, lãi suất và tiền tệ" (1936) ông đƣa ra kết luận quan trọng là, cơ chế thị
trƣờng không thể bảo đảm cho việc sử dụng đầy đủ các nhân tố sản xuất, mọi
tệ nạn của CNTB nhƣ khủng hoảng, thất nghiệp bắt nguồn từ sự không can
thiệp của Nhà nƣớc vào kinh tế. Vì vậy để bảo đảm cho CNTB hoạt động
bình thƣờng, tránh đƣợc khủng hoảng và thất nghiệp thì Nhà nƣớc tƣ sản phải
đƣa ra những chính sách điều chỉnh kinh tế, phải can thiệp vào quá trình sản
xuất.
Trong lịch sử kinh tế học tƣ sản, Keynes không phải là ngƣời đầu tiên
đƣa ra tƣ tƣởng Nhà nƣớc phải can thiệp vào kinh tế.
Thời kỳ thế kỷ XV - XVII, các kinh tế gia trƣờng phái trọng thƣơng
cũng đã chủ trƣơng là Nhà nƣớc phải can thiệp vào kinh tế. Tuy nhiên do các
trình độ phát triển kinh tế khác nhau nên phạm vi, phƣơng pháp thực hiện có
khác nhau. Trong thời kỳ trọng thƣơng, CNTB đang ở giai đoạn tích luỹ
nguyên thuỷ, còn non yếu, cần thiết phải có sự hỗ trợ, có "bà đỡ" để cho nó ra
đời. Do vậy trƣờng phái trọng thƣơng chủ trƣơng Nhà nƣớc phải can thiệp
vào hoạt động ngoại thƣơng thực hiện chính sách thuế quan bảo hộ, nhằm
giúp cho nền kinh tế dân tộc phát triển. Ở những năm 30 của thế kỷ XX vấn
đề can thiệp của Nhà nƣớc tƣ sản vào kinh tế đƣợc đặt ra trong điều kiện hoàn
toàn khác. Lúc này CNTB đã phát triển mạnh đến mức sản xuất thừa, "khủng
hoảng". Do vậy đòi hỏi Nhà nƣớc tƣ sản phải có phƣơng pháp mới can thiệp
vào toàn bộ quá trình tái sản xuất TBCN. Ngƣời ta coi J.M.Keynes là công
9
trình sƣ của CNTB độc quyền Nhà nƣớc, không phải chỉ vì ông chứng minh
cho sự cần thiết can thiệp của Nhà nƣớc tƣ sản vào kinh tế, mà còn là chỗ ông
chỉ rõ công cụ chủ yếu cho sự can thiệp này. Đó là công cụ kinh tế vĩ mô. Ông
đƣa ra mô hình kinh tế vĩ mô với ba loại đại lƣợng.
Một là, những đại lƣợng xuất phát. Nó đƣợc coi là không thay đổi, hay
thay đổi rất chậm nhƣ các nguồn vật chất cho sản xuất, lực lƣợng lao động, trình
độ kỹ thuật, trình độ chuyên môn của ngƣời lao động
Hai là, những đại lƣợng khả biến độc lập, nhƣ "khuynh hƣớng tiêu
dùng", "khuynh hƣớng tiết kiệm" "khuynh hƣớng đầu tƣ".
Ba là, những đại lƣợng khả biến phụ thuộc, phản ánh tình trạng nền
kinh tế TBCN nhƣ sản xuất quốc gia, thu nhập quốc gia. Chúng biến đổi dƣới
sự tác động của đại lƣợng khả biến độc lập.
Giữa các đại lƣợng khả biến độc lập và đại lƣợng khả biến phụ thuộc có
mối quan hệ với nhau. Nếu ký hiệu Q là giá trị sản lƣợng hiện tại, R là thu
nhập, C là tiêu dùng, I là đầu tƣ, S là tiết kiệm thì:
Q = C + I
R = C + S
Vì sản xuất bằng thu nhập (điều này có nguồn gốc từ "tín điều" của A.
Smith: giá trị bằng tổng thu nhập) nên I = S tức là đầu tƣ bằng tiết kiệm.
Trong lý thuyết kinh tế hiện đại, đầu tƣ và tiết kiệm là hai đại lƣợng đƣợc
quan tâm đặc biệt. Nếu toàn bộ phần tiết kiệm đƣợc đem ra đầu tƣ hết thì
cũng có nghĩa toàn bộ thu nhập quốc gia đƣợc sử dụng cho tiêu dùng. Không
còn tiết kiệm sẽ không còn phẩn sản phẩm dƣ thừa, không có khủng hoảng
kinh tế. Ngƣợc lại, nếu tiết kiệm càng lớn, một bộ phận thu nhập không đƣợc
sử dụng cho tiêu dùng mà đi vào để dành. Trong trƣờng hợp đó sẽ có một bộ
10
phận sản phẩm sản xuất ra, không thực hiện đƣợc giá trị, xuất hiện khủng
hoảng sản xuất thừa. Nhƣ vậy khủng hoảng sản xuất thừa là do "tiêu dùng
không đầy đủ".
Thật ra trong lịch sử, không phải J.M.Keynes là ngƣời đầu tiên giải
thích nguyên nhân khủng hoảng sản xuất thừa là do tiêu dùng không đầy đủ.
Lý thuyết này đã đƣợc K.Mark phân tích trong bộ "Tƣ bản". Trƣớc đó là R.T
Malthus (1766 - 1834), một nhà kinh tế tƣ sản và S. Sismondi (1773 - 1842),
nhà kinh tế học tiểu tƣ sản đã phát hiện ra. Cái mới của J.M. Keynes là ở chỗ,
ông kết hợp lý thuyết "giới hạn" của trƣờng phái cổ điển mới với lý thuyết
tiêu dùng không đầy đủ để phân tích nguyên nhân khủng hoảng. Ông cho
rằng, trong nền kinh tế cùng với việc tăng lên của sản xuất thì thu nhập tăng
lên và do đó tiêu dùng cũng tăng lên. Nhƣng tiêu dùng tăng chậm hơn so với
tăng thu nhập vì có khuynh hƣớng "tiêu dùng giới hạn". Theo khuynh hƣớng
này từ trong phần thu nhập tăng thêm bộ phận dành cho tiêu dùng ít hơn, còn
dành cho tiết kiệm nhiều hơn. Theo ông đây là qui luật tâm lý cơ bản của con
ngƣời. Trong các xã hội phát triển, khi ngƣời ta có mức thu nhập và tiêu dùng
cao trong các xã hội kém phát triển. Do qui luật này mà cầu tiêu dùng và "cầu
có hiệu quả" giảm xuống. Hậu quả của nó nhƣ đã biết, là khủng hoảng sản
xuất thừa.
Bảng 1: Phân chia thu nhập cho tiêu dùng và tiết kiệm
Lần
Thu nhập R
Tiêu dùng C
Tiết kiệm S
Tổng số R
Tăng thêm
dR
Tổng số
C
Tăng thêm
dC
Tổng số S
Tăng thêm
dS
1.
40
0
40
0
0
0
11
2.
60
20
60
20
0
0
3.
100
40
80
20
20
20
4.
110
10
87
23
20
3
5.
120
10
93
4
27
4
6.
130
10
98
5
32
5
7.
140
10
102
4
38
6
S
102
93
80
60
60
140
Hình 1: Thu nhập, tiêu dùng và tiết kiệm
Để khắc phục tình trạng trên đây Keynes chỉ ra là Nhà nƣớc phải can
thiệp vào kinh tế, mà các biện pháp chủ yếu là: Nhà nƣớc phải kích thích cầu,
duy trì cầu đầu tƣ, mở ra các công trình đầu tƣ lớn. Từ đó theo "nguyên lý số
nhân" mà kích thích tiêu dùng của xã hội, nâng cao cầu có hiệu quả. Nhà
12
nƣớc sử dụng tài chính, tín dụng, lƣu thông tiền tệ làm công cụ chủ yếu để
điều chỉnh kinh tế và chống chu kỳ. Thông qua đó mà củng cố lòng tin và lạc
quan cho doanh nhân trong các cuộc đầu tƣ, nâng cao hiệu quả "giới hạn" của
tƣ bản. Đồng thời đảm bảo bù đắp những thiếu hụt của ngân sách Nhà nƣớc
do tăng chi phí để kích thích đầu tƣ bằng cách in thêm tiền giấy, thực hiện
"lạm phát có mức độ"; xây dựng hệ thống thuế khoá, công trái của Nhà nƣớc
để điều tiết một phần thu nhập dành cho tiết kiệm, kích thích doanh nhân tích
cực hoạt động. Keynes chủ trƣơng khuyến khích mở rộng mọi hình thức đầu
tƣ để tăng cầu và việc làm, kể cả đầu tƣ sản xuất vũ khí chiến tranh; khuyến
khích tăng mọi tiêu dùng cá nhân của ngƣời lao động và nhà tƣ bản.
Tóm lại, tƣ tƣởng trung tâm của lý thuyết điều chỉnh kinh tế mà J.M
Keynes đƣa ra là Nhà nƣớc phải có các biện pháp để tăng "cầu có hiệu quả"
kích thích tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân, kích thích đầu tƣ tƣ bản, từ
đó đảm bảo việc làm, tăng thu nhập, chống khủng hoảng và thất nghiệp.
Lý thuyết điều chỉnh kinh tế vĩ mô của Keynes đƣợc các nhà kinh tế tƣ
sản đại diện cho mọi xu hƣớng ở các nƣớc tƣ bản phát triển rất hoan nghênh
và sử dụng làm cơ sở cho chiến lƣợc điều chỉnh kinh tế của Nhà nƣớc. Ở cộng
hoà liên bang Đức nó đƣợc sử dụng làm cơ sở tƣ tƣởng cho kiểu điều chỉnh
kinh tế phát xít. Ở Pháp nó đƣợc sử dụng làm cơ sở cho lý thuyết "đơn vị chỉ
huy" và kế hoạch hoá". Đặc biệt ở Mỹ, nó đƣợc sử dụng rộng rãi nhất. Các
nhà kinh tế học Mỹ đã bổ sung cho lý thuyết Keynes nhiều điều mới.
Trƣớc hết, họ đƣa ra lý thuyết "ngừng trệ". Theo thuyết này, nguyên
nhân của khủng hoảng kinh tế không phải chỉ là do tiêu dùng không đầy đủ
mà còn do những động lực bên ngoài, làm cho nền kinh tế bị yếu đi. Cụ thể là
do dân số tăng chậm, không còn đất đai tự do, tiến bộ kỹ thuật tăng chậm.
Thứ hai, những ngƣời thuộc trƣờng phái Keynes ở Mỹ ủng hộ việc Nhà
nƣớc sử dụng các phƣơng tiện nhƣ đơn đặt hàng lớn của Nhà nƣớc, hệ thống
13
mua để "tiếp sức thêm cho kinh tế tƣ nhân". Để có tiền thực hiện những
khoản này phải tăng chi phí Nhà nƣớc. Đến lƣợt nó, để tăng nguồn chi phí
này Nhà nƣớc cần phải tăng thêm thuế đối với dân cƣ, tăng nợ Nhà nƣớc,
thực hiện lạm phát có mức độ.
Thứ ba, các nhà kinh tế học Mỹ coi ngân sách Nhà nƣớc là công cụ chủ
yếu để điều chỉnh nền kinh tế Mỹ. Họ gọi đó là "công cụ ổn định bên trong"
của nền kinh tế. Nó bao gồm: thuế thu nhập, bảo hiểm xã hội, trợ cấp thất
nghiệp. Họ thấy rằng cần phải sử dụng "công cụ" này tuỳ theo tình hình phát
triển kinh tế. Khối lƣợng thuế tăng lên trong thời kỳ hƣng thịnh và giảm đi
trong thời kỳ khủng hoảng. Còn bảo hiểm xã hội và trợ cấp thất nghiệp thì ngƣợc
lại, tăng lên trong thời kỳ khủng hoảng và giảm đi trong thời kỳ hƣng thịnh.
Thứ tƣ, bên cạnh các công cụ ổn định bên trong là "các biện pháp điều
hoà". Biện pháp này nhằm điều chỉnh đầu tƣ tƣ bản của tƣ nhân và sử dụng
linh hoạt chi phí Nhà nƣớc. Trong thời kỳ hƣng thịnh thì hạn chế chi phí Nhà
nƣớc. Trong thời kỳ khủng hoảng cần tăng chi phí Nhà nƣớc để bù đắp lại cho
sự giảm sút của chi phí đầu tƣ tƣ nhân. Sự tăng chi phí Nhà nƣớc trong thời
kỳ này không dừng lại dù cho ngân sách có bị thâm hụt lớn.
Thứ năm, những ngƣời theo phái Keynes ở Mỹ còn bổ sung thêm cho
nguyên lý số nhân của Keynes một nguyên lý khác là "gia tốc". Theo họ sự
kết hợp chặt chẽ hai nguyên lý này khả dĩ chủ động tạo ra "suy thoái" hay
"mở rộng" đáy hay là đỉnh của chu kỳ kinh doanh từ đó chủ động điều chỉnh
kinh tế, chống chu kỳ.
- A.Haxen bổ xung cho việc giải thích nguyên nhân khủng hoảng kinh
tế bằng "sự ngừng trệ". Theo thuyết này, khủng hoảng kinh tế do các động lực
phát triển kinh tế bị yếu đi, mà những động lực này là do các yếu tố bên ngoài
tác động đến. Ví dụ, dân số tăng lên chậm chạp, không còn các vùng đất "tự
14
do", tiến bộ kỹ thuật chậm. Sau này, các nhà kinh tế học Mỹ còn bổ sung cho
lý thuyết về nhân tố bên ngoài dẫn đến khủng hoảng kinh tế, nhƣ những cuộc
chiến tranh, cách mạng, tìm ra vàng, những cuộc bầu cử. Từ đó họ đƣa ra lý
thuyết về chu kỳ kinh doanh chính trị. Theo thuyết này, sau các cuộc bầu cử,
các nhà chính trị để một đến hai năm áp đặt chính sách khắc khổ đối với nền
kinh tế, nâng mức thất nghiệp, tăng số nhà máy không hoạt động để làm giảm
sức ép của lạm phát. Sau đó, khoảng một năm trƣớc ngày ngày bầu cử, họ tìm
biện pháp kích thích kinh tế phát triển lên, nhƣ giảm thuế, tăng lƣơng, thuyết
phục Cục dự trữ liên bang giữ lãi suất ở mức thấp. Do vậy khi ngƣời dân đến
hòm phiếu thì chỉ còn thấy sự phồn thịnh, chứ không thấy suy thoái kinh tế.
Thứ sáu, các nhà kinh tế học Mỹ coi chi phí chiến tranh là phƣơng tiện
tốt nhất để ổn định tình hình thị trƣờng, kinh tế chiến tranh là kiểu kinh tế đặc
biệt để thoát khỏi khủng hoảng và thất nghiệp. Nhờ có sản xuất vũ khí chiến
tranh mà tƣ bản độc quyền thu đƣợc lợi nhuận cao, kích thích mở rộng sản
xuất, ổn định thị trƣờng, kéo dài thời gian xuất hiện khủng hoảng.
J.M.Keynes và những ngƣời theo ông ở các nƣớc tƣ bản phát triển hy
vọng vào việc Nhà nƣớc, thông qua việc sử dụng các công cụ điều tiết vĩ mô
sẽ chống đƣợc khủng hoảng, thất nghiệp, tạo đƣợc sự ổn định cho quá trình
phát triển kinh tế. Song những chấn động lớn trong nền kinh tế TBCN vẫn
diễn ra. Hơn nữa, thêm vào tình trạng khủng hoảng và thất nghiệp là lạm phát
ngày càng trầm trọng. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi phải có những lý thuyết mới.
Rõ ràng yêu cầu phát triển của sản xuất xã hội hoá cao đòi hỏi Nhà
nƣớc tƣ sản phải can thiệp vào kinh tế. J.M Keynes đã đƣa ra lý thuyết đáp
ứng yêu cầu này. Song sự khiếm khuyết lớn nhất trong lý thuyết của ông là ở
chỗ ông chƣa đánh giá đầy đủ vai trò của cơ chế thị trƣờng, tự do hoạt động
của doanh nhân theo cung cầu giá cả hàng hoá. Nhƣ các nhà kinh tế học cổ
15
điển mới nhận xét là, trƣờng phái Keynes đã "chĩa khẩu pháo hạng nặng của
nó vào các vấn đề thị trƣờng" (Samuelson T2, tr.424). Từ đó, một yêu cầu bức
xúc đặt ra cho các nhà kinh tế học tƣ sản là phải đƣa ra đƣợc lý thuyết phối
hợp cả sức mạnh của Nhà nƣớc với sức mạnh của cơ chế thị trƣờng để điều
tiết kinh tế. Một trong các lý thuyết tƣ sản hiện đại phát triển theo hƣớng này
là chủ nghĩa tự do mới.
Về cơ bản, chủ nghĩa tự do mới nhằm khôi phục lại các tƣ tƣởng của
chủ nghĩa tự do, trong thời đại mới. Tƣ tƣởng cốt lõi của nó là sử dụng cơ chế
thị trƣờng có sự can thiệp của Nhà nƣớc ở mức độ nhất định. Theo họ các vấn
đề kinh tế cần phải đƣợc giải quyết thông qua hệ thống kinh tế thị trƣờng là
chính, sự can thiệp của Nhà nƣớc nên giữ lại trong chừng mực nào đó thôi.
Họ đƣa ra khẩu hiệu: "cạnh tranh thị trƣờng nhiều hơn, Nhà nƣớc can thiệp ít
hơn". Chủ nghĩa tự do mới phát triển ở nhiều nƣớc với các tên gọi khác nhau:
chủ nghĩa bảo thủ mới ở Mỹ gồm có chủ nghĩa trọng tiền hiện đại, trƣờng
phái trọng cung, trƣờng phái dự kiến hợp lý, kinh tế thị trƣờng xã hội ở Cộng
hoà Liên bang Đức, chủ nghĩa giới hạn mới ở Thuỵ Điển, Chủ nghĩa chỉ huy
tự do mới ở Pháp
Chủ nghĩa trọng tiền đƣợc hình thành từ những năm 50 của thế kỷ XX.
Ngƣời đứng đầu trƣờng phái này là một nhà kinh tế học nổi tiếng Mỹ: Milton
Friedman. Nền tảng xuất phát của lý thuyết trọng tiền là quan điểm về số
lƣợng tiền tệ và vai trò của nó ngày càng tăng lên trong hoạt động kinh tế. Họ
đã thay nguyên lý "Tiền là quan trọng" bằng nguyên lý "Chỉ có tiền là quan
trọng". Với lập luận nhƣ vậy, ngƣời ta thấy rằng chủ nghĩa trọng tiền hiện đại
tái hiện lại những quan điểm tiền tệ của chủ nghĩa trọng thƣơng thế kỷ XV -
XVII. Trong giai đoạn CNTB tích luỹ nguyên thuỷ cho nền sản xuất lớn ra
đời, tiền tệ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Các nhà kinh tế học cho rằng, tiền tệ
là của cải duy nhất phản ánh sự giàu có của quốc gia. Đất nƣớc càng có nhiều
16
tiền thì càng giàu. Sự giàu có tích luỹ dƣới hình thức tiền tệ là sự giàu có
muôn đời, vĩnh viễn. Tuy nhiên, chủ nghĩa trọng tiền hiện đại khác với chủ
nghĩa trọng tiền sơ khai của chủ nghĩa trọng thƣơng. Nếu nhƣ chủ nghĩa trọng
tiền sơ khai chƣa hiểu đƣợc bản chất về tiền và các quy luật vận động của nó
thì chủ nghĩa trọng tiền hiện đại đã biết kết hợp các hiểu biết của chủ nghĩa
trọng thƣơng, của trƣờng phái cổ điển, cổ điển mới, trƣờng phái Marx và
trƣờng phái Keynes để đƣa ra lý thuyết của mình. Quan điểm trung tâm của
chủ nghĩa trọng tiền hiện đại là giả thuyết về tính ổn định bên trong của nền
kinh tế TBCN, dƣới sự tác động tự do của thị trƣờng, mà vai trò kinh tế của
Nhà nƣớc trong lĩnh vực tín dụng, tiền tệ chỉ dừng lại ở mức độ tối thiểu.
Quan điểm của chủ nghĩa trọng tiền hiện đại phủ định nguyên tắc của
Keynes về sự can thiệp của Nhà nƣớc bằng chính sách thuế khoá và tiền tệ.
Theo Keynes chính sách tài chính (thuế khoá và chi tiêu của chính phủ) ảnh
hƣởng tới biến số của kinh tế vĩ mô. Ngƣợc lại, phái trọng tiền cho rằng,
chính sách tài chính chỉ liên quan đến việc phân phối thu nhập quốc dân cho
quốc phòng hay cho tiêu dùng công cộng. Còn các biến số của kinh tế vĩ mô
nhƣ thu nhập quốc dân, việc làm, giá cả chịu ảnh hƣởng quyết định của mức
cung tiền tệ. Nếu ký hiệu: M là mức cung tiền tệ. V là tốc độ chu chuyển của
tiền tệ trong năm, thƣờng thì nó ổn định, Q là khối lƣợng hàng hoá, P là giá cả
trung bình của hàng hoá dịch vụ thì:
MV = PQ
Ở đây vì V cố định, Q không phụ thuộc hoặc phụ thuộc rất ít vào M,
chỉ có P là phụ thuộc vào mức cung tiền tệ do đó khi thay đổi M thì P và PQ thay
đổi.
Theo M. Friedman, mức cầu tiền tệ có tính ổn định cao. Vì nó phụ
thuộc vào các chỉ tiêu của nền kinh tế, trƣớc hết là thu nhập quốc dân. Ngƣợc
17
lại, mức cung tiền tệ lại không ổn định và nó phụ thuộc vào các quyết định
chủ quan của hệ thống ngân hàng. Nếu ngân hàng phát hành ra một khối
lƣợng tiền tệ cao hơn hay thấp hơn mức cầu tiền tệ sẽ dẫn đến lạm phát hoặc
khủng hoảng. Từ đó ông đƣa ra những đề nghị thực tiễn về chu kỳ tiền tệ và
thu nhập quốc dân. Theo ông, trong giai đoạn khủng hoảng mức cung tiền tệ
nên tăng lên. Trong giai đoạn hƣng thịnh, mức cung tiền tệ nên giảm xuống.
Song nhìn chung, mức cung tiền tệ nên đƣợc tăng lên theo một tỉ lệ ổn định từ
3% - 4%. Ông cho rằng, vì tiền tăng lên ổn định nền thu nhập quốc dân tăng lên
ổn định. Điều đó ngăn chặn những hiện tƣợng không ổn định trong nền kinh tế,
làm cho giá cả ổn định và đảm bảo đƣợc tốc độ tăng trƣởng theo ý muốn.
Điểm khác giữa phái trọng tiền với phái Keynes còn là ở chỗ, phái
trọng tiền cho rằng căn bệnh nan giải của CNTB là lạm phát chứ không phải
là thất nghiệp. Họ cho rằng thất nghiệp chỉ là một hiện tƣợng diễn ra bình
thƣờng, không có gì phải lo lắng. Hơn nữa họ phê phán việc sử dụng trợ cấp
thất nghiệp vì cho rằng làm nhƣ vậy sẽ làm mất tính tích cực của tự do cạnh
tranh. Họ đƣa ra tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên mà xã hội có thể chấp nhận đƣợc.
Còn lạm phát, theo họ, là căn bệnh nguy hiểm nhất. Tính chất không ổn định
của lạm phát nhƣ là nhân tố mất ổn định chung ảnh hƣởng đến giá cả và sinh
ra thất nghiệp. Do vậy, phải có biện pháp chống lạm phát là chính. ở đây họ
cho rằng, Nhà nƣớc nên dùng đạo luật để kiểm soát vấn đề lạm phát.
Nhìn chung, các nhà kinh tế học trƣờng phái trọng tiền hiện đại ủng hộ
quan điểm truyền thống của chủ nghĩa tự do. Họ ủng hộ chế độ tƣ hữu, ủng hộ
tự do kinh doanh, tự do thị trƣờng, đảm bảo quyền chủ động và trách nhiệm
cho chủ xí nghiệp. Họ cho rằng nền kinh tế TBCN thƣờng xuyên ở trạng thái
cân bằng động. Đó là một hệ thống tự điều chỉnh hoạt động theo các quy luật
kinh tế vốn có của nó. Từ đó họ cho rằng, phải dựa tối đa và thị trƣờng, Nhà
nƣớc chỉ can thiệp vào kinh tế ở một mức độ nhất định.
18
Hƣớng khác của chủ nghĩa bảo thủ mới ở Mỹ là chủ nghĩa trọng cung.
Tên gọi của phái này chỉ chứng tỏ họ muốn đối lập với lý thuyết trọng cầu của
Keynes. Nếu nhƣ lý thuyết trọng tiền xuất hiện do yêu cầu cấp bách của việc
chống lạm phát trầm trọng, thì lý thuyết trọng cung lại bắt nguồn từ một yếu
tố khách quan khác. Nguyên nhân xuất hiện đó trƣớc hết là phản ánh quá trình
tìm kiếm con đƣờng giải quyết vấn đề nhịp điệu tăng trƣởng và sự trì trệ của
năng suất lao động. Các đại biểu của trƣờng phái trọng cung là những nhà
chính trị, luật sƣ, nhà báo, nhà kinh tế, bên ngoài các viện nghiên cứu. Họ phê
phán những thiếu sót của hệ thống thuế khoá và chính sách điều chỉnh cầu của
trƣờng phái Keynes. Luận điểm quan trọng của họ là: Khối lƣợng sản xuất là
kết quả của chi phí mà những chi phí này mang lại những kích thích kinh tế.
Vì vậy, nhiệm vụ chủ yếu của Nhà nƣớc là xây dựng các điều kiện kinh tế để
cho những yếu tố kích thích này xuất hiện. Khi có những kích thích kinh tế sẽ
làm tăng chi phí và nhƣ vậy sẽ làm tăng sản xuất và tăng cung. Đến lƣợt nó,
cung mới sẽ tạo ra cầu mới. Nhờ vậy nền kinh tế sẽ đạt đƣợc trạng thái lý
tƣởng, ở đó cung sẽ tự tạo ra cầu, khủng hoảng sản xuất thừa đƣợc loại trừ.
Những ngƣời ủng hộ lý thuyết trọng cung cho rằng, những kích thích
chủ quan dƣờng nhƣ quyết định hành vi của các chủ doanh nghiệp và các
công ty tƣ nhân. Phƣơng tiện duy nhất để giải quyết những vấn đề của nền
kinh tế TBCN hiện đại là xoá bỏ những hạn chế kìm hãm tính chủ động của
các chủ doanh nghiệp. Thay thế cho sự điều chỉnh cầu của Keynes dẫn đến
tăng thâm hụt ngân sách, tăng lạm phát, những ngƣời trọng cung chủ trƣơng
hạn chế chi phí Nhà nƣớc, trƣớc hết là giảm thuế.
Những ngƣời trọng cung phủ nhận quan điểm của Keynes về việc tiết
kiệm nhƣ là nguồn gốc sinh ra sản xuất thừa, là nhân tố làm giảm việc làm và
quy mô hoạt động kinh tế cũng nhƣ giả thuyết của Keynes về kích thích cầu.
Theo những ngƣời trọng cung vấn đề không phải là ở chỗ kích thích cầu mà là
19
ở chỗ tăng năng suất. Con đƣờng để tăng sản xuất là kích thích lao động, đầu
tƣ và tiết kiệm. Muốn có bất kỳ một tốc độ tăng trƣởng nhanh hơn nào cũng đòi
hỏi phải có tiết kiệm. Chỉ có bộ phân thu nhập quốc dân dành cho tiết kiệm mới
có thể đảm bảo cho đầu tƣ và bù đắp đƣợc những thâm hụt của ngân sách.
Những ngƣời trọng cung phê phán chính sách thuế của Keynes. Họ
cho rằng, thuế suất cao sẽ làm giảm mức độ và qui mô tiết kiệm, còn tăng
thuế thu nhập sẽ làm tăng thiên hƣớng tiêu dùng bộ phận tiền lƣơng của ngƣời
lao động, do đó cũng làm giảm bộ phận tiết kiệm trong tầng lớp những ngƣời
lao động. Theo họ đối với mỗi cá nhân tiết kiệm là thu nhập tƣơng lai. Tiết
kiệm thu nhập hiện tại càng nhiều thì thu nhập tƣơng lai càng lớn. Biện pháp
thuế cao của Keynes sẽ làm giảm tiết kiệm, do đó đầu tƣ và cuối cùng sẽ làm
giảm thu nhập tƣơng lai.
Từ đó những nhà kinh tế học cũng chủ trƣơng giảm thuế. Theo họ giảm
thuế sẽ kích thích tích cực hoạt động của con ngƣời, tăng sản phẩm, tăng lợi
nhuận, từ đó không những không làm giảm, mà còn làm chi thu ngân sách
tăng lên.
Tƣ tƣởng tăng cƣờng cơ chế thị trƣờng, giảm sự can thiệp của Nhà
nƣớc đƣợc phát triển ở Cộng hoà Liên bang Đức trong lý thuyết "kinh tế thị
trƣờng xã hội" của phái Phranfuốc do Euckes (1891 - 1950) đứng đầu. Trƣờng
phái này coi mục đích của kinh tế thị trƣờng xã hội là ba tự do: tự do thị
trƣờng hình thành giá cả và ổn định lƣu thông tiền tệ, tự do cạnh tranh, tự do
thoát khỏi độc quyền. Tƣ tƣởng cốt lõi của quan điểm này là bảo vệ quyền bất
khả xâm phạm của sở hữu tƣ nhân.
Các nhà kinh tế trƣờng phái "kinh tế thị trƣờng xã hội" cho rằng nền
kinh tế TBCN phải đƣợc phát triển theo nguyên tắc tự do cạnh tranh, không
có sự can thiệp của độc quyền. Họ coi tự do cạnh tranh là nhân tố cơ bản của
kinh tế thị trƣờng xã hội. Cạnh tranh tự do là hình thức hoàn thiện nhất của
20
quan hệ thị trƣờng đảm bảo cho sự phát triển kinh tế tự điều tiết. Họ nói nhiều
về "tự do cá nhân" "tự do thƣơng nghiệp", "kinh tế thị trƣờng tự do", "Tự do
kinh tế", "tự do kinh doanh", "xã hội tự do có tổ chức". Họ coi độc quyền là
nhân tố phá hoại cạnh tranh, đối lập với bản chất sở hữu tƣ nhân. ở đây, họ
hiểu độc quyền không phải là các liên hiệp độc quyền, mà là sở hữu Nhà nƣớc
và quản lý nền kinh tế theo kế hoạch tập trung.
Những ngƣời tự do mới ở Cộng hoà Liên bang Đức coi con bài chủ
yếu của "kinh tế thị trƣờng xã hội" là những chủ doanh nghiệp. Họ coi chủ
doanh nghiệp cũng là một nhân tố sản xuất. Chức năng của chủ doanh nghiệp
là quản lý, điều phối các nhân tố sản xuất khác. Do vậy chủ xí nghiệp cũng
mang lại lợi nhuận. Từ đó, họ bổ sung vào lý thuyết ba nhân tố sản xuất của
Say (1767 - 1832), nhân tố thứ tƣ là chủ xí nghiệp. Trên cơ sở đó, họ đề cao
nguyên tắc tự do kinh tế và trách nhiệm của chủ xí nghiệp nhằm bảo vệ lợi ích
cho chủ doanh nghiệp.
Các nhà kinh tế học Cộng hoà liên bang Đức ủng hộ cơ chế thị trƣờng,
đồng thời cho rằng, kinh tế thị trƣờng không thể hoạt động tự phát. Nó không
phải là sản xuất vô chính phủ, mà Nhà nƣớc có một vai trò nhất định để đảm
bảo cho sự phát triển hài hoà, tổng hợp giữa chế độ tự do với quy định của xã
hội. Họ cho rằng, chức năng cơ bản của chính phủ là tạo ra và đảm bảo tuân
thủ sự duy trì tự do và các điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế.
Nổi bật là lý thuyết của Repke và Erhard về tổ chức nền kinh tế kiểu
"sân bóng đá". Theo lý thuyết này, xã hội là một cái sân bóng đá, các giai cấp,
tầng lớp xã hội là những cầu thủ, mỗi ngƣời đảm nhận một vị trí nhất định
trên sân. Nhà nƣớc giữ vai trò trọng tài, điều khiển trận đấu. Cũng nhƣ ngƣời
trọng tài trên sân bóng đá, Nhà nƣớc không trực tiếp tham gia vào đá bóng,
song đóng vai trò đảm bảo cho trận đấu diễn ra theo luật lệ quy định và tránh
khỏi những hiểm hoạ nhƣ khủng hoảng, thất nghiệp.
21
Ngày nay, các nhà kinh tế học CHLB Đức coi Nhà nƣớc nhƣ là ngƣời
canh gác cho CNTB, đảm bảo kết cấu hạ tầng cho sản xuất, đời sống, xây
dựng nên các chính sách kinh tế và là một thành viên tham gia vào kinh tế thị
trƣờng ở mức độ nhất định.
Mặc dù thừa nhận một cách hạn chế sự can thiệp của Nhà nƣớc vào cơ
chế thị trƣờng nhƣng lý thuyết của chủ nghĩa tự do mới đặt ra một thực tế cho
các nhà kinh tế học tƣ sản thấy rằng, điều chỉnh kinh tế trong điều kiện CNTB
hiện đại không thể bỏ qua cơ chế thị trƣờng và cũng không thể thiếu sự can
thiệp của Nhà nƣớc. Vì vậy trong những năm gần đây diễn ra sự xích lại giữa
các xu hƣớng cơ bản của kinh tế học tƣ sản nhằm tìm ra những giải pháp điều
chỉnh chung. Nổi bật là sự xích lại giữa phái cổ điển mới và phái Keynes mới,
hình thành quan điểm "kinh tế hỗn hợp" của trƣờng phái chính hiện đại nhằm
phối hợp giữa kinh doanh tƣ nhân và Nhà nƣớc.
Mầm mống của quan điểm "kinh tế hỗn hợp" có từ cuối những năm 30
của thế kỷ XIX. Sau thời kỳ chiến tranh nó đƣợc hai nhà kinh tế Mỹ là Avin
Haxen và John Maurice Clark phát triển tiếp tục. Gần đây nó đƣợc trình bày
trong lý thuyết "kinh tế hỗn hợp" của P. Samuelson. Nếu các nhà kinh tế học
cổ điển và cổ điển mới say sƣa với "Bàn tay vô hình", Keynes và những ngƣời
theo ông say sƣa với "Bàn tay Nhà nƣớc" thì P. Samuelson nhận thấy rằng
điều chỉnh nền kinh tế hiện đại không thể thiếu đƣợc "Bàn tay vô hình" của thị
trƣờng và "Bàn tay hữu hình" của chính phủ. Theo ông, hệ thống thị trƣờng
không phải là hệ thống hỗn độn vô chính phủ mà là một trật tự kinh tế. Nền
kinh tế thị trƣờng là một cơ chế tinh vi để phối hợp một cách không tự giác
giữa nhân dân và các doanh nghiệp thông qua hệ thống giá cả và thị trƣờng.
Nó là phƣơng tiện giao tiếp để tập hợp tri thức và hành động của hàng triệu cá
nhân khác nhau. Không có bộ não trung tâm, nó vẫn giải đƣợc bài toán mà
máy tính lớn nhất ngày nay không thể giải đƣợc. Không ai thiết kế ra nó. Nó