Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Thực hiện và phát huy chức năng giáo dục trẻ em của gia đình nông dân ở huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (927.27 KB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ




HOÀNG THU THẢO




THỰC HIỆN VÀ PHÁT HUY CHỨC NĂNG
GIÁO DỤC TRẺ EM CỦA GIA ĐÌNH NÔNG DÂN
Ở HUYỆN HOA LƯ - TỈNH NINH BÌNH HIỆN NAY


Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 85



LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. NGÔ NGỌC THẮNG









HÀ NỘI - 2010
MỤC LỤC


̉
ĐÂ
̀
U 1
Chƣơng 1. GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG GIÁO DỤC TRẺ EM CỦA GIA ĐÌNH 8
1.1. Khái niệm gia đình và các chức năng cơ bản của gia đình 8
1.1.1. Khái niệm gia đình 8
1.1.2. Chức năng cơ bản của gia đình 10
1.2. Chức năng giáo dục của gia đình đối với trẻ em 19
1.2.1. Quan niệm về trẻ em và chức năng giáo dục của gia đình đối với trẻ
em 19
1.2.2. Nguyên tắc thực hiện giáo dục gia đình đối với trẻ em 23
1.2.3. Nội dung giáo dục chủ yếu 27
1.2.4. Phương pháp giáo dục cơ bản 30
Chƣơng 2. VIỆC THỰC HIỆN CHỨC NĂNG GIÁO DỤC TRẺ EM CỦA GIA
ĐÌNH NÔNG DÂN Ở HUYỆN HOA LƢ - TỈNH NINH BÌNH 34
2.1. Những yếu tố tác động đến việc thực hiện chức năng giáo dục trẻ em của
gia đình nông dân ở huyện Hoa Lư 34
2.1.1. Đặc điểm kinh tế - xã hội của huyện Hoa Lư 34
2.1.2. Tập quán, tâm lý xã hội 35
2.1.3. Những yếu tố từ bản thân gia đình dưới tác động của sự phát triển kinh

tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới 37
2.2. Việc thực hiện chức năng giáo dục trẻ em của gia đình nông dân ở huyện
Hoa Lư và nguyên nhân 39
2.2.1. Thực trạng 39
2.2.2. Nguyên nhân 53
2.3. Những vấn đề đặt ra việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình
nông dân ở huyện Hoa Lư 59
2.3.1. Xu hướng tích cực 60
2.3.2. Xu hướng tiêu cực 65
Chƣơng 3. PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY
CHỨC NĂNG GIÁO DỤC TRẺ EM CỦA GIA ĐÌNH NÔNG DÂN
Ở HUYỆN HOA LƢ, TỈNH NINH BÌNH 68
3.1. Phương hướng 68
3.1.1. Nhà nước cần có chiến lược toàn diện về gia đình, đặt giáo dục gia
đình nông dân trong chiến lược giáo dục - đào tạo quốc gia 68
3.1.2. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nông thôn để tăng cường cơ
sở vật chất kĩ thuật và các ngành dịch vụ, góp phần tích cực để giáo dục
trẻ em trong các gia đình nông dân ở huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình 72
3.1.3. Giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội phải có sự hợp tác chặt chẽ
hơn 74
3.2. Các nhóm giải pháp cơ bản 76
3.2.1. Nhóm giải pháp về phát triển kinh tế - xã hội 76
3.2.2. Nhóm giải pháp về đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức giáo
dục gia đình nông dân ở huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình 86
3.2.3. Xây dựng văn hóa lành mạnh ở nông thôn, xây dựng gia đình văn hóa
mới 91
3.3.4. Nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy, Đảng, chính quyền và các tổ
chức chính trị ở huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình để kết hợp giáo dục gia
đình nông dân với giáo dục nhà trường và xã hội 95
3.3.5. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học về gia đình nông dân 96

3.3. Một số kiến nghị 97
3.3.1. Kiến nghị với địa phương 97
3.3.2. Kiến nghị với các cơ quan chức năng, các đoàn thể của huyện Hoa Lư,
tỉnh Ninh Bình 98
KẾT LUẬN 100
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 123

1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng từ khi xã hội còn lạc hậu đến
thời đại văn minh, mỗi con người từ khi sinh ra, lớn lên cho đến khi từ biệt
cõi đời đều gắn bó với gia đình. Gia đình không chỉ là tổ ấm của mỗi người
mà còn là tế bào của xã hội.
Thế giới hiện nay đang diễn ra nhiều biến đổi sâu sắc, đem lại nhiều
niềm hi vọng lớn lao nhưng đồng thời cũng đem lại không ít những lo lắng
cho tương lai phát triển của con người. Trong thời gian qua, có một sự thật là
nhân loại đang chứng kiến những biến đổi mạnh mẽ của gia đình. Gần đây,
gia đình không chỉ nổi lên như một vấn đề quan trọng và cấp thiết của riêng
Việt Nam mà nó còn đang được đặt ra với các dân tộc trên toàn thế giới. Vấn
đề gia đình ngày càng trở nên phong phú, đa dạng và phức tạp. Ở mọi nơi,
mọi lúc, gia đình đều chứng tỏ sức mạnh của nó. Nó có thể đem lại hạnh phúc
cho con người nhưng cũng có thể gieo rắc nỗi bất hạnh. Nó không chỉ mang
tính cấp thiết của hiện tại mà còn gắn liền với quá khứ và góp phần quyết định
đối với tương lai.
Với gia đình, con người ngay từ khi mới sinh ra đã nhận được một điều
vô cùng thiêng liêng, cao cả. Đó là tình thương và trách nhiệm của cha mẹ đối
với con cái cũng như giữa các thành viên với nhau, giúp thế hệ con cháu ngày
càng hoàn thiện về thể chất, trí tuệ, tinh thần, chuẩn bị hành trang cho cá nhân

hòa nhập vào cộng đồng xã hội.
Gia đình đảm nhiệm nhiều chức năng khác nhau, trong đó có chức năng
giáo dục. Gia đình chính là môi trường giáo dục đầu tiên và có tầm quan trọng
quyết định đối với việc hình thành, phát triển nhân cách cho trẻ em. Việc thực
hiện chức năng này của gia đình có ảnh hưởng lâu dài, toàn diện với mỗi cá

2
nhân trong suốt cuộc đời. Giáo dục nhà trường, giáo dục xã hội chỉ phát huy
được vai trò khi lấy giáo dục gia đình làm cơ sở.
Nhiều nước trên thế giới sau một thời gian theo đuổi các mục tiêu kinh tế,
hiện nay muốn quay lại tìm kiếm những giá trị nhân văn vốn có của gia đình.
Đối với Việt Nam, cụ Phan Bội Châu từng cho rằng:
“Nước là một cái nhà lớn và nhà là một cái nước nhỏ”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thì khẳng định:
“Rất quan tâm đến gia đình là đúng, vì nhiều gia đình cộng lại mới
thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt.
Hạt nhân của xã hội là gia đình. Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội tốt đẹp thì
phải chú ý hạt nhân gia đình cho tốt”.
Thực hiện lời dạy của Người, chúng ta luôn đề cao vai trò của gia đình
trong mối quan hệ với xã hội. Dù cho xã hội luôn luôn có sự biến động phức
tạp nhưng những giá trị đạo đức truyền thống của gia đình vẫn được giữ gìn,
kế thừa và phát huy; đặc biệt là trong bối cảnh xu hướng toàn cầu hóa đang
diễn ra mạnh mẽ tạo nhiều cơ hội cho các gia đình phát triển kinh tế, nâng cao
đời sống, tiếp thu yếu tố của gia đình hiện đại.
Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế thị trường, các luồng văn hóa phẩm độc
hại, sự bùng nổ thông tin… trong thời đại cách mạng khoa học công nghệ diễn
ra với tốc độ nhanh như vũ bão, làm thay đổi không chỉ diện mạo của thế giới
mà ngay bản thân mỗi thành viên trong gia đình cũng bị ảnh hưởng ít nhiều. Vì
vậy, việc giáo dục trẻ em một cách toàn diện cả về đức - trí - thể - mỹ là yêu
cầu bức thiết hiện nay. Muốn làm được điều này thì một trong những vấn đề

đặt ra hàng đầu là phải quan tâm hơn nữa đến chức năng giáo dục của gia đình
để chăm lo cho trẻ em ngay từ trường học đầu tiên của các em.
Đã đến lúc chúng ta cần có sự nhìn nhận nghiêm túc hơn, đúng đắn hơn,
đầy đủ hơn, về vai trò giáo dục của gia đình, trong đó có gia đình nông dân.

3
Ở huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình, nhiều gia đình làm nông nghiệp là
nghề chính. Ngoài công việc đồng áng, không ít gia đình còn làm thêm các
nghề thủ công, mỹ nghệ, dịch vụ du lịch… Vì vậy, nhiều bậc cha mẹ suốt
ngày bận bịu với công việc, lo nuôi con hơn lo dậy con. Mặt khác, kiến thức
của các bậc phụ huynh ít nhiều còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của
giáo dục gia đình. Do đó, họ chưa nhận thức rõ vị trí, vai trò, nội dung,
phương pháp giáo dục gia đình nên việc thực hiện chức năng giáo dục trong
các gia đình nông dân ở huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình những năm qua tuy đã
đạt được nhiều thành tựu đáng mừng song vẫn gặp phải một số hạn chế, bộc
lộ nhiều bất cập cần phải vượt qua. Nghiên cứu vấn đề này để tìm ra nguyên
nhân và đưa ra giải pháp để đổi mới việc thực hiện chức năng giáo dục của
gia đình nông dân ở đây được tốt hơn là việc làm cần thiết.
Với tất cả những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Thực hiện và
phát huy chức năng giáo dục trẻ em của gia đình nông dân ở huyện Hoa
Lư tỉnh Ninh Bình hiện nay”, với mong muốn đóng góp thêm vào sự nghiệp
trồng người bắt đầu từ việc giáo dục trẻ em trong các gia đình nông dân tại
huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Gia đình từ lâu đã là đối tượng nghiên cứu hấp dẫn, có sức thu hút
mạnh mẽ không chỉ trong giới nghiên cứu khoa học xã hội mà cả các cơ quan,
tổ chức có liên quan. Từ trước tới nay, rất nhiều cá nhân, tập thể đã có các
công trình khác nhau nghiên cứu về gia đình nói chung và chức năng giáo dục
của gia đình nói riêng.
Tác phẩm “Giáo dục trong gia đình Mác” của tác giả I.A. Pê-trec-nhi-

cô-va giới thiệu với bạn đọc một gia đình tuyệt vời. Vẻ đẹp của mối quan hệ
giữa những con người trong gia đình đó là một tấm gương không bao giờ phai
mờ cho các gia đình mai sau. Tình cảm sâu sắc của một tình yêu chung thủy,
tình cảm gắn bó giữa vợ với chồng, sự âu yếm và tôn trọng lẫn nhau giữa bố
mẹ và các con. Đó là vẻ đẹp mà các mối quan hệ trong gia đình Mác đã thể

4
hiện. Không khí gia đình thật là đẹp đã ảnh hưởng tới sự hình thành tâm hồn
trẻ thơ. Kinh nghiệm giáo dục trẻ em của gia đình Mác là một kho tàng kiến
thức về sư phạm mà các bậc cha mẹ và các nhà sư phạm ngày nay vẫn cần
phải khai thác và khai thác mãi mãi.
Ma-ca-ren-cô là nhà giáo dục nổi tiếng của Xô viết trước đây đã dành
nhiều tâm huyết, năng lực và tình yêu dành cho con trẻ. Trong cuốn sách “Nói
chuyện về giáo dục gia đình”, ông cho rằng giáo dục con trẻ là việc làm lý
thú, mang lại niềm vui, hạnh phúc cho gia đình, nó không khó khăn ghê gớm
như nhiều người lầm tưởng. Theo ông, các bậc cha mẹ phải có tình yêu, trách
nhiệm và kiến thức ; giáo dục gia đình phải tiến hành ngay từ đầu. Những
nguyên lý giáo dục cũng như kinh nghiệm thực tiễn của Ma-ca-ren-cô cho đến
ngày nay vẫn còn nguyên giá trị.
Cuốn sách “Dạy con yêu lao động” của A-pê-sec-ni-cô-va có tư tưởng
cơ bản là giáo dục gia đình thông qua lao động bởi chỉ có như vậy thì nhân
cách của con người mới được hình thành và phát triển toàn diện. Giáo dục nói
chung, giáo dục con cái yêu lao động nói riêng phải được bắt đầu từ nhỏ và
tiến hành suốt cuộc đời.
Ở nước ta cũng như nhiều thiết chế xã hội khác, gia đình Việt Nam
hiện nay đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới cần được tiếp tục
nghiên cứu và lý giải sâu sắc hơn.
Đề tài cấp Nhà nước KX - 07 - 09: “Vai trò của gia đình trong sự hình
thành phát triển nhân cách con người Việt Nam” của Trung tâm nghiên cứu
về gia đình và phụ nữ do GS Lê Thi chủ nhiệm. Tập thể tác giả của công trình

này cảnh báo rằng cùng với những tiến bộ vượt bậc của cách mạng khoa học
công nghệ, xã hội hiện đại vừa được mở ra một tương lai tươi sáng cho cuộc
sống vật chất, tinh thần đầy đủ hơn vừa đặt ra nhiều thách thức buộc con
người phải giải quyết. Xã hội hiện đại muốn phát triển bền vững thì phải gắn
tăng trưởng, phát triển kinh tế với việc chăm lo ngày càng tốt hơn cuộc sống

5
cho con người, trong đó, giáo dục gia đình có vai trò to lớn để hình thành,
phát triển nhân cách con người.
“Dạy con nên người” của Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam - Thành phố
Hà Nội cũng là một cuốn sách hay mà ở đó, các tác giả cung cấp những kiến
thức hết sức cần thiết về nội dung, phương pháp, trách nhiệm của những
người làm cha, làm mẹ khi giáo dục con cái.
Ngoài ra, chúng ta còn phải kể đến những công trình nghiên cứu khác như:
- “Nghiên cứu xã hội học về gia đình Việt Nam” - GS Tương Lai.
- “Khoa học về giáo dục con em trong gia đình” - Đức Minh chủ biên.
- “Gia đình Việt Nam với chức năng xã hội hóa” - Lê Ngọc Văn.
- “Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện
nay” - Nghiêm Sỹ Liêm.
- “Đổi mới việc thực hiện chức năng giáo dục gia đình đối với thế hệ
trẻ trong gia đình nông dân Việt Nam” - Dương Văn Bóng.
- “Gia đình trong việc bảo vệ, chăm sóc trẻ em ở nước ta hiện nay” -
Phạm Thị Xuân.
- “Xây dựng gia đình nông dân ở tỉnh Bến Tre hiện nay” - Nguyễn Thị Yến.
Những công trình trên đã đưa ra nhiều tiếng nói khác nhau liên quan
đến gia đình, gia đình Việt Nam nói chung, gia đình nông dân nói riêng. Tuy
nhiên, nghiên cứu sâu về một loại gia đình nào đó như gia đình công nhân, gia
đình nông dân, gia đình trí thức… thì đây còn là mảng trống của lý luận và
thực tiễn. Tìm hiểu việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình nông dân
tại một địa phương là huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình thì cho đến nay đó vẫn là

vấn đề cần được quan tâm.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
* Mục đích: Trên cơ sở làm rõ chức năng giáo dục của gia đình nói
chung, gia đình nông dân nói riêng, luận văn làm rõ việc thực hiện chức năng

6
này ở huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình để đưa ra những phương hướng, giải pháp
cơ bản nhằm thực hiện tốt vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ.
* Nhiệm vụ:
+ Làm rõ các khái niệm: Gia đình, trẻ em, chức năng giáo dục của gia
đình, gia đình nông dân, chức năng giáo dục của gia đình nông dân đối với
trẻ em.
+ Phân tích nguyên nhân cơ bản của thực trạng và những vấn đề đặt ra
cần được giải quyết.
+ Đề xuất một số phương hướng, giải pháp để các gia đình nông dân ở
huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình thực hiện chức năng giáo dục đối với trẻ em
được tốt hơn.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đề tài chủ yếu tập trung vào việc thực hiện chức năng giáo dục của
gia đình nông dân đối với trẻ em ở huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình.
- Đề tài chỉ nghiên cứu trong thời gian từ năm 1986 đến nay.
- Trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối,
chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước về vấn đề gia đình và giáo dục gia đình.
Chủ trương, chính sách của địa phương về việc thực hiện chức năng
giáo dục của gia đình nông dân.
6. Đóng góp của luận văn
* Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Cung cấp cứ liệu khoa học để trên cơ sở đó, huyện Hoa Lư tỉnh Ninh

Bình có thể đề ra những chính sách cụ thể hơn, phù hợp hơn liên quan đến
vấn đề giáo dục trẻ em trong các gia đình nông dân.

7
* Đóng góp mới của luận văn
- Làm rõ hơn, sâu sắc hơn việc thực hiện chức năng giáo dục của gia
đình nông dân tại một địa phương là huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình
- Trên cơ sở thực trạng của địa phương, tác giả luận văn đưa ra phương
hướng, giải pháp giúp huyện Hoa Lư thực hiện giáo dục trẻ em có hiệu quả
hơn xuất phát từ môi trường gia đình nông dân.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương 8 tiết.
Chƣơng 1: Gia đình và chức năng giáo dục trẻ em của gia đình.
Chƣơng 2: Việc thực hiện chức năng giáo dục trẻ em của gia đình
nông dân huyện Hoa Lư - tỉnh Ninh Bình.
Chƣơng 3: Phương hướng, giải pháp cơ bản nhằm phát huy chức năng
giáo dục trẻ em của gia đình nông dân ở huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.















8
Chƣơng 1
GIA ĐÌNH VÀ CHỨC NĂNG GIÁO DỤC TRẺ EM CỦA GIA ĐÌNH

1.1. Khái niệm gia đình và các chức năng cơ bản của gia đình
1.1.1. Khái niệm gia đình
Gia đình là tổ ấm của con người, là tế bào của xã hội. Con người từ xa
xưa cho đến nay đều mơ ước có một tổ ấm để sống đời sống cá nhân của
mình và rồi, từ cái tổ ấm này, từ cái tế bào lành mạnh này mà đóng góp tích
cực vào xã hội. Bởi vậy, không phải ngẫu nhiên mà có nhiều nhà tư tưởng,
nhà khoa học cũng như các triết gia, các nhà xã hội học… quan tâm nghiên
cứu về gia đình. Vậy gia đình là gì ? Để trả lời cho câu hỏi này cho đến hiện
nay vẫn có nhiều quan niệm khác nhau bởi đây là một phạm trù rộng, không
ngừng biến đổi dưới tác động của các yếu tố kinh tế, xã hội.
Trong thời đại của mình, C.Mác cho rằng gia đình là tổ chức đặc biệt
quan trọng để duy trì nòi giống, các thành viên của gia đình có mối quan hệ
tình cảm ruột thịt với nhau. Điều này được thể hiện rõ nét khi ông quan niệm:
“Hàng ngày tái tạo ra đời sống của bản thân mình, con người còn tạo ra
những người khác, sinh sôi, nảy nở. Đó là quan hệ giữa chồng và vợ, cha mẹ
và con cái, đó là gia đình”.
Liên hiệp quốc gắn gia đình trong mối quan hệ mật thiết với xã hội. Tổ
chức này xác định: “Gia đình là yếu tố tự nhiên và cơ bản của xã hội, có
quyền hưởng sự bảo vệ của xã hội và của Nhà nước”. Trên cơ sở đó, Liên
hiệp quốc cũng lưu ý đến khía cạnh cộng đồng về kinh tế của gia đình khi đưa
ra định nghĩa: “Gia đình là một nhóm người có quan hệ họ hàng, cùng sống
chung và có ngân sách chung”.
Tác giả Nguyễn Quốc Tuấn dưới góc độ Luật học xem xét gia đình là
một tập hợp dựa trên các quan hệ về hôn nhân, về huyết thống và về nuôi

dưỡng, đã gắn bó những con người có quan hệ với nhau bởi các quyền và

9
nghĩa vụ về tài sản và về thân nhân, bởi sự cộng đồng về đạo đức và vật chất,
để tương trợ nhau, cùng làm kinh tế chung và nuôi dạy con cái [61, tr.17].
Trên bình diện tâm lý học, Giáo sư Lê Thi là một trong những người đã
dày công nghiên cứu về đề tài gia đình. Theo Giáo sư: “Khái niệm gia đình được
dùng để chỉ một nhóm xã hội hình thành trên cơ sở quan hệ hôn nhân và quan hệ
huyết thống, nảy sinh từ quan hệ hôn nhân đó và cùng chung sống (cha mẹ, con
cái, ông bà, họ hàng nội ngoại). Đồng thời, gia đình cũng có thể bao gồm một số
người được gia đình nuôi dưỡng, tuy không có quan hệ huyết thống. Các thành
viên gia đình gắn bó với nhau về trách nhiệm và quyền lợi (kinh tế, văn hóa, tình
cảm), giữa họ có những điều ràng buộc có tính pháp lý, được nhà nước thừa
nhận và bảo vệ (được ghi rõ trong luật Hôn nhân và gia đình của nước ta). Đồng
thời, trong gia đình có những quy định rõ ràng về quyền được phép và những
cấm đoán trong quan hệ tình dục giữa các thành viên” [60, tr.20].
Như vậy, có thể thống kê rất nhiều định nghĩa về gia đình bởi lẽ các tác
giả đứng trên các bình diện nghiên cứu khác nhau. Hơn nữa, gia đình là thể
chế có tính toàn cầu nhưng lại có những hình thức, vai trò khác nhau thay đổi
từ nền văn minh này sang nền văn minh khác, dân tộc này so với dân tộc kia.
Do vậy, không thể đưa ra một định nghĩa chung có thế áp dụng cho toàn cầu.
Từ những định nghĩa trên, chúng ta thấy rằng có 3 mối quan hệ thường
được nhắc tới khi đề cập đến gia đình. Đó là quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết
thống và quan hệ nuôi dưỡng giữa các thành viên.
Quan hệ hôn nhân là quan hệ tính giao giữa nam và nữ được pháp luật
hoặc nhà thờ thừa nhận, liên kết với nhau để chung sống và xây dựng gia đình
hạnh phúc. Đây là quan hệ cơ bản đầu tiên cần phải có của mỗi gia đình, nó là
tiền đề cho các mối quan hệ khác.
Quan hệ huyết thống là mối quan hệ ràng buộc giữa cha mẹ với con cái,
là hệ quả tất yếu của hôn nhân. Ngoài ra, nó còn được thể hiện trong mối quan

hệ gắn bó giữa các anh chị em ruột với nhau.

10
Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ giữa chủ thể nuôi dưỡng và đối tượng
được nuôi dưỡng. Họ gắn bó với nhau không chỉ vì trách nhiệm, nghĩa vụ,
quyền lợi được pháp luật thừa nhận, bảo vệ, mà cao hơn cả là tình thương
yêu, sự chăm sóc, đùm bọc, sẻ chia những vui buồn trong cuộc sống.
Có lẽ, nghiên cứu về gia đình nói chung, định nghĩa gia đình nói riêng
còn nhiều vấn đề cần tìm hiểu thêm. Nhìn nhận gia đình từ phương diện của
chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, theo chúng tôi, gia đình là một
cộng đồng người đặc biệt được hình thành, phát triển và củng cố bởi các mối
quan hệ cơ bản là hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng. Các thành viên của gia
đình có những giá trị vật chất, tinh thần chung, gắn bó với nhau bởi trách
nhiệm, quyền lợi, nghĩa vụ nhằm mục tiêu cao nhất là nuôi dưỡng các thành
viên, xây dựng gia đình bền chặt, phát triển kinh tế gia đình.
Trên cơ sở quan niệm chung về gia đình, khái niệm gia đình nông dân
cũng chưa có được một định nghĩa thống nhất. Theo chúng tôi, gia đình nông
dân trước hết là gia đình có đời sống phải dựa vào kinh tế nông nghiệp là chủ
yếu, theo đó, các thành viên của gia đình chủ yếu là giai cấp nông dân. Đây là
một thiết chế xã hội đặc thù ở nông thôn.
1.1.2. Chức năng cơ bản của gia đình
Gia đình được sinh ra, tồn tại và phát triển vì nó có sứ mệnh đảm
đương những chức năng đặc biệt mà tự nhiên và xã hội giao cho, không một
thiết chế xã hội nào có thể thay thế được. Các chức năng của gia đình tồn tại
trong mối liên hệ thống nhất, tác động lẫn nhau để tạo nên con người, xã hội
hóa con người. Gia đình là một tổ chức có nhiều chức năng khác nhau, có thể
khái quát bốn chức năng cơ bản nhất như sau :
Thứ nhất: Chức năng tái sản xuất ra con người
Đây là chức năng cơ bản và riêng có của gia đình. Nó đáp ứng nhu cầu
tâm sinh lý, tình cảm của con người nói chung và các thành viên trong gia đình

nói riêng để duy trì nòi giống. Mỗi một công dân tí hon được ra đời trong môi

11
trường gia đình không chỉ có ý nghĩa với gia đình mà còn đóng góp vào sự phát
triển liên tục và trường tồn của xã hội. Đúng như Ph. Ăng ghen nhận định:
“Theo quan điểm duy vật, nhân tố quyết định trong lịch sử suy đến
cùng là sản xuất và tái sản xuất ra đời sống trực tiếp. Nhưng bản thân sự sản
xuất đó có hai loại. Một mặt là sản xuất ra tư liệu sinh hoạt: Thực phẩm, quần
áo, nhà ở và những công cụ cần thiết để sản xuất ra những thứ đó, mặt khác là
sự sản xuất ra bản thân con người, là sự truyền nòi giống. Những thiết chế xã
hội, trong đó có những con người của một thời đại lịch sử nhất định và của
một nước nhất định đang sống, là do hai loại sản xuất đó quyết định: Một mặt
là do trình độ phát triển của lao động, mặt khác là do trình độ phát triển của
gia đình”.
Như vậy, theo quan điểm duy vật, có hai nhân tố quyết định đến sự tồn
tại, phát triển xã hội là sản xuất ra của cải vật chất và sản xuất ra chính bản
thân con người, tức là tiếp tục duy trì nòi giống của loài người. Chức năng
sinh sản được coi là chức năng đặc thù nhất của mọi loại gia đình, chỉ gia
đình mới có. Nó gắn liền với gia đình, là một phần không thể thiếu của một
gia đình hạnh phúc theo quan niệm của số đông người Việt. Bởi lẽ, việc tái
sản xuất ra thế hệ tương lai vừa đáp ứng được yêu cầu của xã hội vừa thỏa
mãn nhu cầu của chính các thành viên trong gia đình.
Tuy việc sinh đẻ là nhu cầu tự nhiên, sinh học nhưng nó phải chịu sự
quy định của xã hội tùy theo không gian và thời gian khác nhau vì nó liên
quan mật thiết đến quá trình phát triển mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Chức
năng này bao gồm các nội dung cơ bản là tái sản xuất, duy trì nòi giống; nuôi
dưỡng, nâng cao thể lực, trí lực; bảo đảm tái sản xuất nguồn lao động và sức
lao động cho xã hội.
Ở Việt Nam hiện nay, việc thực hiện chức năng tái sản xuất ra con
người đang đặt ra nhiều vấn đề cần quan tâm giải quyết. Bên cạnh các gia

đình đã nhận thức được sự cần thiết của chính sách dân số - kế hoạch hóa gia

12
đình để có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có điều kiện nuôi dạy con cái tốt
hơn; vẫn còn không ít gia đình quan niệm nhà đông con mới có phúc (Trời
sinh voi, trời sinh cỏ), trọng nam khinh nữ (Nhất nam viết hữu, thập nữ viết
vô)… Đây là một trong những nguyên nhân gây ra nghèo đói, suy dinh dưỡng
ở trẻ em, đặc biệt là trẻ em sống ở nông thôn, kéo theo tình trạng thất học, mù
chữ, trình độ dân trí thấp. Vì vậy, yêu cầu cấp bách là giảm tỉ lệ sinh đẻ, thực
hiện kế hoạch hóa gia đình nhằm ổn định dân số phù hợp với mức tăng trưởng
kinh tế cũng như những điều kiện khác của đất nước trong hoàn cảnh hiện tại,
trong tương lai gần.
Trong thời đại ngày nay, với sự phát triển vượt bậc của cách mạng khoa
học công nghệ, một mặt, thế hệ trẻ được quan tâm chăm sóc tốt hơn với sự hỗ
trợ của các thiết bị hiện đại nhưng mặt khác, nó đang mở ra một xu hướng
mới cho việc sinh sản bằng phương thức nhân bản con người. Mặc dù vậy, xu
thế tái sản xuất ra con người trong môi trường gia đình vẫn luôn luôn được xã
hội ghi nhận, được dư luận đồng tình.
Đảng và Nhà nước ta xác định nghèo đói, lạc hậu và gia tăng dân số có
mối quan hệ khăng khít với nhau theo tỷ lệ thuận.Một chiến lược dân số hợp
lý sẽ là động lực để tạo ra nguồn nhân lực mới phù hợp với yêu cầu phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội. Xuất phát từ điều này, Đảng, Nhà nước trong khi đưa
ra và thực hiện đường lối đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, luôn chú
trọng đến hoạch định, thực hiện chiến lược tuyên truyền vận động về dân số.
Cuộc vận động xã hội này đã được thể chế hóa thành luật, thể hiện trong Điều
2 - luật Hôn nhân và gia đình. Theo đó, người dân được tuyên truyền những
kiến thức cần thiết để sinh con sao cho phù hợp với sức khỏe, điều kiện gia
đình cũng như yêu cầu của xã hội. Chức năng sinh đẻ từ một quá trình tự
nhiên chuyển sang quá trình tự giác. Trước đây, chức năng sinh đẻ và nhu cầu
tình dục là không thể tách rời còn ngày nay, với những thành tựu của y học

hiện đại, với sự ra đời của các biện pháp tránh thai, người ta tách được chức

13
năng sinh đẻ ra khỏi nhu cầu đáp ứng về tình dục. Kế hoạch hóa gia đình là
một giải pháp hữu hiệu để phòng tránh tình trạng bùng nổ dân số.
Bên cạnh đó, khi đề cập đến chức năng tái sản xuất ra con người của
gia đình, xã hội cũng cần lưu ý tới những gia đình vô sinh vì nhiều lý do khác
nhau, quan tâm giúp đỡ họ, tạo điều kiện cho họ thực hiện tốt chức năng này.
Thứ hai: Chức năng kinh tế và tổ chức đời sống gia đình
Trước hết, cần khẳng định lại rằng chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ, xã
hội loài người tồn tại và phát triển là do hai loại sản xuất quyết định: Một mặt
là sản xuất ra con người, mặt khác là sản xuất ra của cải vật chất. Như vậy,
hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống vật chất là một chức năng cơ bản của
gia đình. Hoạt động kinh tế hiểu theo nghĩa đầy đủ gồm hoạt động sản xuất
kinh doanh, hoạt động tiêu dùng nhằm thỏa mãn nhu cầu ăn, mặc, ở, đi lại cho
con người.
Tùy theo trình độ phát triển của xã hội, gia đình có thể là đơn vị kinh tế
hoạt động tự chủ hoặc gia đình vẫn làm kinh tế nhưng không hoạt động như
một đơn vị độc lập, tự chủ. Tuy vậy, dù trong điều kiện nào, gia đình cũng
phả đảm bảo nhu cầu sinh hoạt vật chất cũng như tinh thần cho các thành
viên. Đồng thời, thông qua hoạt động kinh tế của mình, gia đình góp phần vào
việc tái sản xuất ra của cải vật chất và những giá trị tinh thần cho cộng đồng
xã hội. Để có thể phát huy mọi tiềm năng sáng tạo trong kinh tế, Đảng và Nhà
nước ta đề ra, thực hiện các chính sách sao cho mọi gia đình, mọi cá nhân có
thể làm giàu chính đáng thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh trong
khuôn khổ pháp luật. Theo đó, những gia đình và hộ gia đình công nhân viên
chức, cán bộ hành chính sự nghiệp… cũng được khuyến khích lao động sáng
tạo, tăng thu nhập chính đáng từ lao động sáng tạo của mình. Các loại gia
đình này không trực tiếp thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh nhưng
cũng thực hiện một nội dung quan trọng của hoạt động kinh tế.


14
Với điều kiện hiện nay của nước ta, gia đình còn là đơn vị dịch vụ tiêu
thụ. Việc tiêu dùng này thường phụ thuộc phần lớn vào thu nhập và đóng góp
chung từ kết quả lao động của các thành viên khi tham gia vào sản xuất. Xã
hội càng phát triển thì hoạt động chi tiêu, mua sắm các trang thiết bị phục vụ
cuộc sống càng đa dạng để thỏa mãn nhu cầu ngày càng gia tăng.
Thực hiện tốt chức năng kinh tế sẽ là một trong những tiền đề vật chất
vững chắc để tổ chức đời sống của gia đình, làm cho gia đình có những đóng
góp nhất định vào việc tái sản xuất ra của cải vật chất, tinh thần cho xã hội.
Tổ chức đời sống gia đình cũng là việc làm quan trọng vì nó hướng vào
chăm lo đời sống mọi mặt của các thành viên, là điều kiện quan trọng cho các
thành viên yên tâm, phấn khởi, tích cực tham gia lao động, học tập ; người già
được nghỉ ngơi, phụng dưỡng; trẻ nhỏ được nuôi dưỡng, giáo dục, có điều kiện
phát triển toàn diện, góp phần làm cho gia đình mình trở thành tổ ấm, thành cái
nôi hình thành nhân cách cũng như nhận thức, tình cảm của con người.
Dân gian có câu: “Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm”. Ngoài ra, ông cha ta
còn đúc rút nhiều kinh nghiệm khác nhau từ cuộc sống sinh hoạt của gia đình,
khuyên mỗi thành viên cần biết quán xuyến, tổ chức tốt mức tiêu dùng sao
cho hợp lý, khoa học, có hiệu quả cao để từng gia đình sớm ổn định và nâng
cao đời sống, góp phần thúc đẩy xã hội ngày càng vững bước đi lên.
Mặt khác, mục tiêu của Chủ nghĩa xã hội là phát triển kinh tế gắn với
thực hiện bình đẳng xã hội, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện,
các thành viên trong gia đình được hưởng thụ hợp lý và chính đáng những
thành quả lao động mà mình làm ra. Động viên các gia đình phát triển kinh tế,
nâng cao thu nhập nhằm thỏa mãn các yêu cầu tiêu dùng lành mạnh để nâng
cao chất lượng cuộc sống là mục tiêu phấn đấu của sự nghiệp xây dựng Chủ
nghĩa xã hội. Để làm được điều này, Đảng và Nhà nước cần quan tâm hơn
nữa đến gia đình - tế bào của xã hội, trước hết, mỗi thành viên của gia đình


15
cần quan tâm lẫn nhau trong lao động sản xuất, trong tiêu dùng, trong cuộc
sống nói chung.
Thứ ba: Chức năng giáo dục.
Giáo dục là lĩnh vực liên quan mật thiết tới sự phát triển bền vững của
mọi quốc gia nói chung và sự phát triển toàn diện con người nói riêng. Ở
Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình đã phát biểu rằng phải tìm mọi cách để giải
quyết tốt vấn đề giáo dục, cho dù ở các mặt khác phải nhẫn nại một chút,
thậm chí hi sinh một chút về tốc độ. Ông còn cho rằng kế hoạch lớn trăm năm
phải lấy giáo dục là gốc.
Giáo dục là chức năng quan trọng đặc biệt của gia đình bởi lẽ sinh con -
nuôi con - dạy con là những hoạt động không thể tách rời nhau trong môi trường
gia đình. Thực hiện chức năng giáo dục gia đình là góp phần lớn vào việc hình
thành nhân cách con người cũng như để duy trì, phát triển văn hóa gia đình.
Các Mác đã khẳng định rằng con người là một sinh vật - xã hội. Sau
khi lọt lòng mẹ, nếu đứa trẻ không được sống trong môi trường xã hội loài
người, không được hưởng chế độ giáo dục của gia đình, của xã hội thì đứa trẻ
sẽ không trở thành một con người theo đúng nghĩa. Điều này được khoa học
chứng minh vì quá trình đứa trẻ lớn lên chủ yếu trong môi trường gia đình
nên nó cần được quan tâm chăm sóc, giáo dục.
Ông cha ta thường khuyên: “Dạy con từ thuở còn thơ”. Vì vậy mà từ thuở
thơ ấu cho đến lúc trưởng thành, con người được ông bà, cha mẹ và những người
lớn tuổi nuôi dưỡng, truyền thụ cho những kinh nghiệm sống, những phẩm chất
đạo đức để trở thành công dân có ích của xã hội, người con, người cháu hiếu
thảo của gia đình. Giáo dục gia đình được thực hiện ở mọi chu trình sống của
con người với những nội dung và hình thức cụ thể, phong phú.
Nội dung giáo dục gia đình tương đối toàn diện, bao gồm giáo dục tri
thức, kinh nghiệm, đạo đức, lối sống, nhân cách thẩm mỹ, ý thức cộng đồng.
Giáo dục gia đình đối với con cháu được tiến hành thường xuyên, tỉ mỉ với


16
nhiều nội dung phong phú. Trong đó, cha mẹ dạy con các chuẩn mực đạo đức,
tình yêu thương con người, lòng biết ơn, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, yêu
lao động, cách đối nhân xử thế, ý thức chấp hành pháp luật…
Phương pháp giáo dục của gia đình cũng rất đa dạng, chủ yếu là
phương pháp nêu gương, thuyết phục, chịu ảnh hưởng không ít của tư tưởng,
lối sống, tâm lý, gia phong của gia đình truyền thống. Nuôi dưỡng, giáo dục
gia đình mang tính cá biệt đậm nét vì nó giáo dục thông qua tình cảm. Trong
khi giáo dục nhà trường, giáo dục xã hội không phân biệt sức khỏe, hoàn cảnh
sống… thì giáo dục gia đình lại tính đến tất cả các yếu tố cụ thể của đối tượng
giáo dục bởi đó là môi trường đầu tiên giúp con người lớn lên, hình thành
nhân cách ban đầu cũng như những suy nghĩ đầu đời về cuộc sống. Các cụ
thường nói “Giỏ nhà ai, quai nhà ấy” là vì vậy. Văn hóa gia đình in dấu ấn
đậm nét vào tâm hồn cũng như đời sống của cá nhân.
Đời người phần lớn là sống trong môi trường gia đình để được hấp thụ
những thói quen làm người, học ăn, học nói, học gói, học mở. Gia đình còn
dạy cho mỗi người học làm con, học làm cháu, học làm vợ, học làm chồng,
học làm bố, làm mẹ, làm ông, làm bà. Cứ như thế, các thế hệ nối tiếp nhau
sinh ra, lớn lên, trưởng thành.
Trong điều kiện hiện nay, chất lượng giáo dục con người phải không
ngừng nâng cao. Môi trường tạo ra chất lượng đó là gia đình, nhà trường, xã
hội, nhưng chủ yếu nhất vẫn là gia đình - cái nôi nuôi dưỡng, phát triển nhân
cách đạo đức, tình cảm, thẩm mỹ… Tuy thế, với sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế cùng với nó là sự phát triển của khoa học công nghệ, sự đa dạng và nhiều
mầu sắc của văn hóa thì giáo dục gia đình cũng ít nhiều có sự thay đổi. Bên
cạnh những bậc phụ huynh vẫn quan tâm chăm sóc con cái mình, xã hội còn
xuất hiện thêm những ông bố, bà mẹ phó mặc việc chăm sóc con mình cho
người giúp việc, phó mặc việc dạy dỗ con cho nhà trường, xã hội. Hoặc
không ít cha mẹ lại cảm thấy lúng túng, thậm chí là bất lực khi giáo dục con


17
em mình. Ngoài ra, có những gia đình bố mẹ bận bịu với công việc làm ăn,
buôn bán, lối sống thực dụng, coi trọng đồng tiền. Điều này có ảnh hưởng
không tốt đến nhân cách của trẻ.
Để thực hiện chức năng giáo dục gia đình có hiệu quả, chúng ta phải
chú ý đến mối quan hệ không thể tách rời giữa gia đình - nhà trường - xã hội,
tiến tới mục tiêu giáo dục tư tưởng và tình cảm lành mạnh cho thế hệ trẻ, góp
phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Muốn giáo dục gia đình có hiệu quả thì ông bà, cha mẹ phải là tấm gương
sáng cho con cháu noi theo. Mặt khác, những người lớn tuổi trong nhà cũng
cần nâng cao hiểu biết về tâm sinh lý, về khoa học công nghệ sao cho giáo
dục gia đình đạt hiệu quả tốt nhất.
Như vậy, chức năng nuôi dạy, giáo dục con cái là một chức năng hết
sức quan trọng. Xã hội có sự hỗ trợ to lớn đến đâu cũng không thể thay thế
được gia đình. Sự hình thành nhân cách gốc của trẻ em chịu ảnh hưởng của
giáo dục gia đình. Việc hoàn thiện và củng cố nhân cách con người ở tuổi
trưởng thành cũng như khi về già phần lớn do tác động của đời sống, sinh
hoạt văn hóa của gia đình.
Thứ tư: Chức năng thoả mãn nhu cầu tâm - sinh lý, tình cảm
Đây là một chức năng có tính văn hóa - xã hội của gia đình. Nhiều vấn
đề tâm sinh lý thuộc về giới tính, thế hệ, dòng họ, huyết thống… thường được
nảy sinh trong gia đình. Đặc biệt, với gia đình hiện đại, độ vững bền của nó
không chỉ phụ thuộc vào sự ràng buộc về các mối quan hệ trách nhiệm giữa
cha mẹ - con cái, vợ - chồng, anh chị em với nhau… mà nó còn bị chi phối
bởi các quan hệ tình yêu, tình cảm. Gia đình là nơi thể hiện và cũng là nơi mà
nhu cầu tình cảm được đáp ứng. Biết bao bộn bề của cuộc sống, những căng
thẳng, mệt mỏi về thể xác, về tinh thần, những lo toan, những suy tính… tất
cả sẽ được giải quyết trong môi trường hòa thuận, ấm áp của tình yêu gia

18

đình. Trên cơ sở đó, mỗi thành viên có thể sống khỏe mạnh hơn, lạc quan
hơn, tự tin vào bản thân mình hơn, hăng say lao động hơn, yêu cuộc sống hơn.
Có thể thấy rằng gia đình là tổ ấm, là chỗ dựa cả về vật chất lẫn tinh
thần. Ở đó, người ta tìm thấy sự đùm bọc, chia sẻ, giúp đỡ, hy sinh cho nhau,
tìm thấy niềm hạnh phúc của đời người. Sức mạnh của tình cảm gia đình
khiến con người ta có thêm sức mạnh để vượt qua biết bao khó khăn, vươn tới
thành công.
Thỏa mãn nhu cầu tâm sinh lý, tình cảm còn là một chức năng đặc thù
của gia đình mà không tổ chức xã hội nào làm được. Xã hội thừa nhận sự thỏa
mãn nhu cầu này trong gia đình là nhu cầu hiển nhiên, thông qua đó, mọi người
vừa tự nhận thức về mình, về trách nhiệm, nghĩa vụ của bản thân vừa có lợi ích
trong sự thống nhất của mái ấm gia đình. Các thành viên khác nhau về lứa tuổi,
giới tính, trình độ, tính cách, diễn biến tâm trạng… nên mức độ thỏa mãn nhu
cầu tâm sinh lý cũng như tình cảm là khác nhau. Do vậy, bản thân mỗi thành
viên phải tự điều chỉnh cách ứng xử của mình sao cho phù hợp.
Trong gia đình Việt Nam hiện nay, việc thực hiện chức năng này tác
động mạnh mẽ đến sự tồn tại của hôn nhân, hạnh phúc gia đình. Sự rạn nứt
trong các mối quan hệ tình cảm gia đình không những ảnh hưởng xấu đến
gia đình ấy mà nó còn tác động không tốt đến xã hội. Thực trạng nói trên
đòi hỏi chúng ta phải quan tâm hơn nữa đến yếu tố tình cảm của gia đình,
góp phần tích cực vào việc củng cố các quan hệ xã hội, tạo cho xã hội sự
phát triển bền vững.
Trên đây là những chức năng cơ bản nhất của gia đình. Chúng có mối
quan hệ hữu cơ với nhau, tác động mạnh mẽ đến tiến bộ xã hội nói chung. Tất
cả các thành viên trong gia đình có trách nhiệm vun đắp cho tổ ấm của mình.
Tóm lại, gia đình là một thiết chế đa chức năng. Với việc thực hiện các
chức năng của mình, nó tác động đến xã hội nhằm xây dựng con người mới,
phát triển nhân cách gốc cho con người. Phân chia nội dung của các chức

19

năng nói trên chỉ mang tính chất tương đối. Trong những không gian và thời
gian khác nhau thì nội dung, vị trí của mỗi chức năng có sự thay đổi cho phù
hợp với tình hình thực tế.
1.2. Chức năng giáo dục của gia đình đối với trẻ em
1.2.1. Quan niệm về trẻ em và chức năng giáo dục của gia đình đối
với trẻ em
Thứ nhất: Quan niệm về trẻ em
 Khái niệm trẻ em
Trước hết, cần khẳng định rẳng trẻ em là niềm hạnh phúc của gia đình,
là tương lai của dân tộc. Chúng ta quan niệm: “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày
mai” cũng là vì vậy.
Đề cập đến khái niệm về trẻ em, Liên hiệp quốc đã đưa ra quan niệm
của mình trong Điều 1 của Công ước về quyền trẻ em như sau: “Trẻ em được
xác định là người dưới 18 tuổi, trừ khi luật pháp quốc gia quy định tuổi thành
niên sớm hơn”. Từ trước đến nay đã có nhiều nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh
vực khác nhau nghiên cứu về trẻ em như các ngành tâm lý học, luật học, tội
phạm học, y học, xã hội học…
Ở nước ta, từ phương diện tâm lý học, TS. Minh Chí ở Viện tâm lý học
thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo cho rằng: Trẻ em Việt Nam là trong 17 tuổi
hay dưới 18 tuổi vì các chức năng tâm lý thần kinh cao cấp chưa hoạt động
theo quỹ đạo chiến lược làm việc của hai bán cầu não như người trưởng
thành. Trong cuộc sống cũng như trong nghiên cứu, rất nhiều người có cùng
quan điểm như trên.
Còn theo GS. Phạm Tất Dong, 16 tuổi là giới hạn để xác định phạm trù
trẻ em ở Việt Nam. Lý do khiến ông khẳng định như trên là vì hết tuổi 15 thì
đội viên đội Thiếu niên tiền phong có thể chuyển lên Đoàn thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh.

20
Pháp luật nước ta thì quy định: “Trẻ em là công dân Việt Nam dưới

16 tuổi”.
Như vậy, trẻ em là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như
về tâm sinh lý, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của trẻ bị hạn chế,
thiếu những điều kiện và bản lĩnh tự lập, khả năng kiềm chế chưa cao, dễ bị
kích động lôi kéo vào những hoạt động phiêu lưu mạo hiểm. Cuộc sống của
các em thiên về tình cảm, dễ xúc động, dễ hành động theo cảm tính… Điều
này đòi hỏi các bậc phụ huynh phải hết sức khéo léo, am hiểu tâm lý của trẻ
nhỏ, uốn nắn nhẹ nhàng sao cho có hiệu quả vì trẻ ở mỗi lứa tuổi lại có những
đặc điểm không giống nhau.
 Vị trí của trẻ em đối với sự phát triển xã hội
Tổ chức Liên Hiệp Quốc ngay từ những ngày đầu mới ra đời đã quan
tâm đến trẻ em. Một trong những hành động trước hết của tổ chức này là
thành lập Quỹ nhi đồng Liên Hiệp Quốc (viết tắt là UNICEF). Vấn đề trẻ em
chính thức được khẳng định và thừa nhận trong Tuyên ngôn Giơnevơ về
quyền trẻ em do Hội Quốc liên thông qua vào năm 1924 dựa trên cơ sở Hiến
chương về quyền trẻ em năm 1923.
Tuy nhiên, việc bảo vệ trẻ em đòi hỏi phải có một khuôn khổ và chuẩn
mực được cộng đồng quốc tế nhất trí. Đó là ý tưởng về một Công ước quốc tế
về quyền trẻ em. Công ước được soạn thảo trong suốt 10 năm. Nó có hiệu lực
và trở thành Luật quốc tế từ ngày 2 tháng 9 năm 1990.
Việt Nam phê chuẩn Công ước này vào ngày 20 tháng 2 năm 1990
nhưng vấn đề trẻ em đã được quan tâm từ rất sớm. Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc
sinh thời thường nhắc nhở:
“Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan”

21
Bác nhắc nhở: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân
tộc Việt Nam có được sánh vai với các cường quốc năm châu hay không,
chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”.

Người còn kêu gọi: “Vì tương lai của con em ta, dân tộc ta, mọi người,
mọi ngành phải quyết tâm chăm sóc, giáo dục các cháu bé cho tốt”.
Đảng, Nhà nước ta xác định mọi chủ trương phát triển kinh tế - xã hội
trước hết phải hướng vào mục tiêu phát triển con người, nâng cao chất lượng
cuộc sống, đem lại hạnh phúc cho con người, trước hết là trẻ em.
Trong mỗi gia đình, trẻ em là niềm hạnh phúc, niềm hi vọng, niềm tự
hào của không ít gia đình Việt. Đó là người kế tục sự nghiệp của cha ông,
dòng họ… Vì thế, các em cần được chăm sóc, giáo dục tốt, nếu không sẽ ảnh
hưởng xấu không chỉ đến gia đình mà là cả xã hội.
Thứ hai: Chức năng giáo dục của gia đình đối với trẻ em
Công ước về quyền trẻ em của Liên Hiệp Quốc coi trọng vai trò của gia
đình - nhóm xã hội cơ bản và môi trường tự nhiên cho sự phát triển cuộc sống
hạnh phúc của trẻ em. Gia đình đồng thời là phòng tuyến hàng đầu và quan
trọng nhất trong việc bảo vệ trẻ em. Nhà nước có trách nhiệm lớn lao trong
việc hỗ trợ gia đình thực hiện quyền trẻ em.
Mặc dù thành phần cũng như cấu trúc của gia đình ngày nay đã có
nhiều thay đổi, song, gia đình vẫn là nơi có trách nhiệm trước tiên trong việc
nuôi nấng, bảo vệ trẻ nhỏ. Các em tiếp thu những chuẩn mực và giá trị văn
hóa từ chính gia đình của mình. Sự phát triển đầy đủ, hài hòa của trẻ em nằm
ngay trong môi trường gia đình.
Người ta thường nói con người muốn trở thành người cần phải có giáo
dục. Đó gần như là một chân lý được đúc kết trong lịch sử phát triển của nhân
loại. Quá trình nuôi dưỡng con người bắt đầu từ trong bào thai của người mẹ.
Khi cất tiếng khóc chào đời thì sứ mệnh nuôi dưỡng, giáo dục đứa trẻ không
thể giao phó hay chuyển nhượng cho tổ chức nào có trách nhiệm hơn, tốt đẹp

22
hơn là gia đình. Đây là trường học đầu tiên của mỗi con người qua suốt cuộc
đời. Theo A. C. Macarenkô: “Những gì mà bố mẹ đã làm cho con trước 5
tuổi, đó là 90% kết quả của quá trình giáo dục” [48, tr.10]. Kinh nghiệm của

ông cha ta là:
“Uốn cây từ thuở còn non
Dạy con từ thuở con còn trẻ thơ”
Việc thực hiện chức năng giáo dục của gia đình có ý nghĩa mạnh mẽ,
sâu sắc không chỉ đối với tuổi thơ mà còn có ý nghĩa với suốt cuộc đời. Muốn
vậy, cha mẹ phải thường xuyên tạo ra môi trường sống có tác dụng giáo dục,
giúp con cái hình thành và phát triển toàn diện nhân cách của một công dân
tương lai sống có ích cho xã hội. Thực chất, đây là công việc xã hội hóa đứa
trẻ, biến sinh thể tự nhiên thành một thực thể xã hội có khả năng hòa nhập,
thích nghi, học tập cũng như lao động theo yêu cầu của xã hội. Từ nền văn
hóa gia đình, đứa trẻ càng lớn lên, càng trưởng thành lại càng tiếp xúc với nền
văn hóa rộng hơn, phong phú hơn thông qua các hoạt động xã hội.
Mặc dù quá trình xã hội hóa đứa trẻ không phải hoàn toàn do giáo dục
gia đình quyết định nhưng cha mẹ với tư cách là những nhà giáo dục đầu tiên,
khởi nguồn cho việc hình thành, phát triển các yếu tố nhân cách gốc, tạo nền
móng cho việc tiếp thu giáo dục nhà trường, giáo dục của các đoàn thể xã hội
khác một cách có hiệu quả.
Giáo dục gia đình đối với trẻ em có những nét đặc thù mà giáo dục nhà
trường và xã hội không có được. Đó là giáo dục chủ yếu bằng tình cảm
thương yêu vô bờ bến của cha mẹ, ông bà, những người lớn tuổi - những
người sẵn sàng dành tất cả những điều kiện tốt nhất cho con em mình để giáo
dục chúng nên người.
Đồng thời, chúng ta cần khẳng định lại rằng giáo dục gia đình là nền
giáo dục toàn diện, vừa cụ thể hóa vừa có tính cá biệt hóa rất cao. Cha mẹ dạy
con cách đi đứng, nói năng, chào hỏi… Nền giáo dục của gia đình hoạt động

×