Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Phát triển làng nghề ở huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình (Trường hợp làng nghề đá mỹ nghệ ở xã Ninh Vân)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 102 trang )


MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT i
DANH MỤC BẢNG BIỂU ii
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT
TRIỂN LÀNG NGHỀ 15
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LÀNG NGHỀ VÀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ 15
1.1.1. Khái niệm về làng nghề và phát triển làng nghề 15
1.1.2. Vai trò của phát triển làng nghề trong quá trình phát triển kinh tế
- xã hội 19
1.2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ 23
1.3. KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƢƠNG 28
1.3.1. Kinh nghiệm phát triển làng nghề của huyện Nghĩa Hƣng, tỉnh
Nam Định 28
1.3.2. Kinh nghiệm của làng nghề Đá mỹ nghệ Non Nƣớc, quận Ngũ
Hành Sơn 32
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ HUYỆN
HOA LƯ TỈNH NINH BÌNH: TRƯỜNG HỢP LÀNG NGHỀ ĐÁ MỸ
NGHỆ Ở XÃ NINH VÂN 39
2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI ẢNH HƢỞNG ĐẾN SỰ PHÁT
TRIỂN LÀNG NGHỀ HUYỆN HOA LƢ 39
2.1.1. Điều kiện tự nhiên 39
2.1.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội 42
2.2. TỔNG QUAN THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ Ở HUYỆN HOA
LƢ TỈNH NINH BÌNH 54

2.3. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ HUYỆN HOA LƢ, TỈNH NINH
BÌNH 58
2.3.1. Quá trình hình thành và phát triển các làng nghề huyện Hoa


Lƣ 58
2.3.2. Các chính sách phát triển làng nghề 59
2.3.3. Thực trạng các điều kiện phát triển làng nghề huyện Hoa Lƣ 62
2.3.4. Các hình thức sản xuất kinh doanh tại làng nghề 68
2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ HUYỆN HOA
LƢ, TỈNH NINH BÌNH 69
2.4.1. Đánh giá chung 69
2.4.2. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết để phát triển làng nghề huyện
Hoa Lƣ, tỉnh Ninh Bình 78
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP
CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ HUYỆN HOA LƯ TỈNH
NINH BÌNH: TRƯỜNG HỢP LÀNG NGHỀ ĐÁ MỸ NGHỆ Ở XÃ
NINH VÂN 83
3.1. QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ HUYỆN HOA LƢ,
TỈNH NINH BÌNH 83
3.1.1. Phát triển làng nghề phải gắn với thị trƣờng 83
3.1.2. Phát triển sản phẩm làng nghề trên cơ sở kết hợp yếu tố hiện đại
và yếu tố truyền thống. 84
3.1.3. Phát triển làng nghề phù hợp với thế mạnh của địa phƣơng. 84
3.1.4. Phát triển làng nghề trên cơ sở kết hợp hài hoà giữa phát triển
kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trƣờng và xây dựng nông thôn mới 85
3.1.5. Phát triển làng nghề gắn với đa dạng hoá hình thức tổ chức sản xuất
kinh doanh, kết hợp hài hòa các cơ sở ngành nghề quy mô vừa và nhỏ 86
3.2. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ HUYỆN HOA
LƢ TỈNH NINH BÌNH 87

3.2.1. Giải pháp về quy hoạch phát triển làng nghề 87
3.2.2. Giải pháp về thị trƣờng 89
3.2.3. Giải pháp phát triển thƣơng hiệu 91
3.2.4. Giải pháp về nguồn vốn cho phát triển làng nghề 92

3.2.5. Giải pháp về môi trƣờng 94
3.2.6. Phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các làng nghề 95
3.2.7. Đổi mới cơ chế, chính sách đối với phát triển làng nghề 95
KẾT LUẬN 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99



















DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


STT
Từ viết tắt
Nguyên nghĩa

1
CNH, HĐH
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
2
CN- TTCN
Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp
3
HĐND
Hội đồng nhân dân
4
HTX
Hợp tác xã
5
NN-PTNT
Nông nghiệp - Phát triển nông thôn
6
TTKT
Tăng trưởng kinh tế
7
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
8
UBND
Uỷ ban nhân dân
9
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
10
WTO
World Trade Organization














DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU


STT
Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
1
Bảng 2.1
Số liệu thống kê theo các đơn vị hành chính
thuộc huyện Hoa Lư năm 2009
36
2
Bảng 2.2
Cơ cấu kinh tế huyện Hoa Lư từ năm 1991 –
2010.

37
3
Bảng 2.3
Tốc độ tăng trưởng kinh tế huyện Hoa Lư qua
các năm
38
4
Bảng 2.4
Số lượng làng nghề, cụm làng nghề tại Ninh
Bình
49
5
Bảng2.5
Số lượng cơ cấu làng nghề huyện Hoa Lư chia
theo đơn vị hành chính
50
6
Bảng 2.6
Lao động tham gia làm nghề ở các làng nghề xã
Ninh Vân
56
7
Bảng 2.7
Nguồn vốn sản xuất tại các làng nghề xã Ninh
Vân năm 2010
57
8
Bảng 2.8
Tổng giá trị sản xuất từ nghề chế tác đá trên địa
bàn xã Ninh Vân

63
9
Bảng 2.9
Cơ cấu lao động xã Ninh Vân qua các năm 2005-
2010
65





MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Kinh tế nông thôn có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội ở nước ta. Một trong những nội dung định hướng phát triển kinh
tế nông thôn ở Đại hội IX đề ra là: Mở mang các làng nghề, phát triển các
điểm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ.

Phát triển ngành nghề nông thôn là cách làm “rẻ” nhất để tạo việc làm,
tăng thu nhập và xóa đói giảm nghèo cho người dân nông thôn, góp phần
thực hiện chiến lược kinh tế hướng ngoại, với sản phẩm mũi nhọn là hàng
thủ công mỹ nghệ và cũng là thực hiện mục tiêu “ly nông bất ly hương” ở
nông thôn. Phát triển làng nghề con mang ý nghĩa giữ gìn và quảng bá bản
sắc văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Như vậy, việc phát triển các làng nghề ở nông thôn có ý nghĩa kinh tế,
chính trị, xã hội rất lớn đối với kinh tế nông thôn.


Huyện Hoa Lư là vùng đất nổi tiếng của Ninh Bình không chỉ với
truyền thống lịch sử vẻ vang, với tiềm năng lớn về du lịch mà còn nổi tiếng
với nhiều nghề tiểu thủ công nghiệp và thủ công truyền thống như nghề thêu
ren (xã Ninh Hải), nghề mộc (Phúc Lộc)…Đặc biệt nghề Đá mỹ nghệ ở xã
Ninh Vân được xem là một nghề đầy triển vọng. Nghề chế tác đá tập trung
chủ yếu ở xã Ninh Vân bởi có lợi thế về truyền thống và nguồn nguyên liệu
núi đá vôi dồi dào, chiếm 32% diện tích đất tự nhiên. Trước đây do chiến
tranh, nghề chế tác Đá mỹ nghệ bị mai một, nay đất nước đang trên đà phát
triển và hội nhập, cuộc sống của nhân dân ngày càng được nâng lên thì nhu
cầu về mặt hàng Đá mỹ nghệ ngày càng lớn.


Tên tuổi của làng nghề Đá mỹ nghệ xã Ninh Vân được đánh dấu bởi
các công trình nổi tiếng như: Tượng đài Bác Hồ ở thành phố Vinh; cụm
tượng đài Bà mẹ và Tổ quốc ở thành phố Hồ Chí Minh; cụm tượng đài ở
Nghĩa trang Trường Sơn; tượng đài Thanh niên xung phong ở Quảng Trị;
tượng đài Trần Hưng Đạo ở Hải Dương; gần đây nhất là trên 500 pho tượng
La Hán ở chùa Bái Đính-Ninh Bình, ngôi chùa được coi là lớn nhất Đông
Dương…Bên cạnh đó, một số sản phẩm còn vượt khỏi phạm vi quốc gia
như tượng cố Tổng Bí thư Cay – Sỏn – Phôm – Vy – Hẳn đặt tại Lào; tượng
đài chiến thắng ở Campuchia; tượng phật ở Đài Loan và hàng nghìn công
trình mang ý nghĩa tâm linh khác nằm ở khắp các khu du lịch, danh lam
thắng cảnh của Quốc gia đó là: các bức phù điêu; cổng tam quan; văn bia;
lăng mộ và các công trình công sở; đình chùa; đền thờ; miếu mạo, với quy
mô to nhỏ khác nhau, kiến trúc nghệ thuật vô cùng phong phú. Với tiềm
năng lớn về lao động và nguyên liệu đá, nghề chế tác Đá mỹ nghệ đã thu hút
trên 75 doanh nghiệp tư nhân và 453 hộ tham gia hoạt động sản xuất kinh
doanh, chế tác Đá mỹ nghệ, doanh thu mỗi năm trên 200 tỷ đồng, đóng góp
ngân sách địa phương gần 100 tỷ đồng. Tạo việc làm cho 6000 lao động
chính, 4000 lao động theo mùa vụ, thu nhập bình quân của riêng người thợ

chế tác đá khoảng 60 - 80 triệu đồng/ người/ năm. Doanh thu tại xã Ninh
Vân, nghề đá chiếm gần 80 % thu nhập toàn xã.

Cùng với sự đóng góp vô cùng to lớn của làng nghề Đá mỹ nghệ trên
tất cả các lĩnh vực là những khó khăn vướng mắc mang tính cấp bách mà
các làng nghề đang gặp phải như: Khu tập trung sơ chế đá chưa được hình
thành, phần lớn các làng nghề còn sản xuất với quy mô nhỏ lẻ. Các doanh
nghiệp luôn trong tình trạng “khát vốn”, bế tắc trong việc tìm đầu ra, hoạt
động mang tính tự phát chưa có kế hoạch phát triển cụ thể, cũng như chưa
có sự liên minh gắn kết tạo nên sức mạnh tổng hợp. Sự cạnh tranh còn thiếu

lành mạnh, quảng bá, giới thiệu sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm chưa được quan tâm đúng mức…Bên cạnh đó là các vấn đề nhức nhối
ngay tại các làng nghề Đá mỹ nghệ như: ô nhiễm môi trường; tiếng ồn; bụi
bặm; vấn đề suy giảm đạo đức và trình độ học vấn…đã và đang ảnh hưởng
không nhỏ đến đời sống và phát triển kinh tế - xã hội của huyện Hoa Lư.

Bối cảnh đó đã lý giải: Vì sao phải phát triển làng nghề ở huyện Hoa
Lư, đặc biệt là làng nghề Đá mỹ nghệ ở xã Ninh Vân? Trên thực tế các cấp
lãnh đạo tỉnh Ninh Bình đã nhìn thấy rõ tính cấp thiết này và đã có các quan
điểm, chủ trương phát triển làng nghề Đá mỹ nghệ. Tuy nhiên, vấn đề là làm
gì và làm thế nào để phát triển mạnh mẽ hơn làng nghề Đá mỹ nghệ. Để tìm
câu trả lời cho các câu hỏi đó cần thiết phải nghiên cứu tìm ra các giải pháp
nhằm phát huy thế mạnh, khắc phục các tồn tại, hạn chế trên cơ sở đánh giá
đúng thực trạng, động thái và xu hướng vận động của làng nghề Đá mỹ
nghệ. Với yêu cầu cả về lý luận và thực tiễn, học viên chọn đề tài “Phát
triển làng nghề huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình: Trường hợp làng nghề Đá
mỹ nghệ ở xã Ninh Vân” làm luận văn tốt nghiệp của mình.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài


Do vai trò quan trọng cả về kinh tế, văn hóa, xã hội nên phát triển làng
nghề được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu trên nhiều phương diện
và đã đạt được những kết quả nhất định. Điển hình là các công trình như:

- “Bảo tồn và phát triển các làng nghề trong quá trình CNH” của tiến
sĩ Dương Bá Phượng, NXB khoa học xã hội, 2001.

Trong công trình này tác giả đã đưa ra những nét cơ bản về khái niệm
làng nghề truyền thống về đặc điểm kinh tế - xã hội trong các làng nghề, đề

xuất giải pháp cơ bản để bảo tồn làng nghề truyền thống trong quá trình
CNH, HĐH.

- “Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong quá
trình CNH, HĐH” của tiến sĩ Trần Minh Yến, NXB khoa học xã hội, 2004.


Luận án đã đưa ra những vấn đề cơ bản bao quát nhất lý luận về làng
nghề. Đã chỉ ra được mâu thuẫn của làng nghề trong quá trình phát triển.
Luận án cũng đã trình bày tổng thể các giải pháp để phát triển làng nghề
trong quá trình CNH, HĐH.

- “Những giải pháp nhằm phát triển làng nghề ở một số tỉnh Đồng
bằng sông Hồng”. Đề tài cấp bộ của viện đào tạo Công nghệ và Quản lý
quốc tế, 2005, chủ nhiệm đề tài GS.TS Nguyễn Trí Dĩnh.

- “Về các giải pháp phát triển thủ công nghiệp theo hướng CNH, HĐH
ở vùng Đồng bằng sông Hồng”. Đề tài cấp bộ của học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, 1998, chủ nhiệm đề tài PGS.TS Đặng Lễ Nghi.



Các đề tài nghiên cứu ở cấp bộ đã đưa ra được các số liệu đa dạng,
phong phú và chỉ ra được các giải pháp chung cơ bản để phát triển làng nghề
trong quá trình CNH, HĐH.

Ngoài ra còn có một số công trình khoa học, sách báo, tạp chí và các
bài viết đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng về phát triển
làng nghề ở Việt Nam. Có thể đánh giá chung các công trình nghiên cứu
trên đều đề xuất các giải pháp phát triển làng nghề trong quá trình CNH,
HĐH. Tuy nhiên chưa có đề tài nào nghiên cứu trực tiếp vấn đề phát triển
làng nghề ở huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình, trường hợp làng nghề Đá mỹ
nghệ ở xã Ninh Vân.


3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

* Mục đích

Trên sơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển làng
nghề. Mục đích của luận văn là đưa ra bức tranh tổng quan về sự phát triển
làng nghề ở huyện Hoa Lư, đặc biệt là đánh giá đúng thực trạng làng nghề
Đá mỹ nghệ của huyện Hoa Lư. Từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu
nhằm phát triển làng nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập cho người lao động,
góp phần phát triển kinh tế - xã hội của huyện trong thời gian tới.

* Nhiệm vụ

Thực hiện mục đích trên, đề tài cần tập trung giải quyết những nhiệm
vụ sau:


- Trình bày có hệ thống một số lý luận cơ bản về phát triển làng nghề.

- Tổng quan kinh nghiệm phát triển làng nghề ở một số địa phương
trong nước để rút ra bài học cho phát triển làng nghề huyện Hoa Lư

- Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển làng nghề của huyện Hoa
Lư.

- Đề xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển làng
nghề ở huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình trong thời gian tới.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

* Đối tượng nghiên cứu

Luận văn lấy sự phát triển làng nghề huyện Hoa Lư, đặc biệt là các
làng nghề Đá mỹ nghệ làm đối tượng nghiên cứu dưới góc độ Kinh tế chính
trị.


* Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: Các làng nghề và đặc biệt là làng nghề Đá mỹ nghệ,
huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình.

- Về thời gian: Nghiên cứu sự phát triển làng nghề của huyện Hoa Lư
từ năm 1995 đến nay.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu


Trong quá trình nghiên cứu luận văn sử dụng phương pháp luận duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử làm phương pháp luận chung. Ngoài ra
còn chú trọng đến các phương pháp như:

- Phương pháp phân tích tổng hợp:

Phương pháp này được thực hiện thông qua việc phân tích dữ liệu thực
tế. Từ đó đánh giá chính xác nhất những thành tựu và hạn chế trong quá
trình phát triển của làng nghề Đá mỹ nghệ. Tìm ra nguyên nhân chủ yếu của
những thành tựu và hạn chế đó, đồng thời đề xuất những quan điểm giải
pháp nhằm phát triển mạnh mẽ làng nghề Đá mỹ nghệ ở xã Ninh Vân trong
thời gian tới.

- Phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu:

Trong quá trình làm luận văn, học viên sẽ thu thập tài liệu từ nhiều
nguồn khác nhau, sau đó so sánh, xử lý các số liệu rồi rút ra kết luận. ví dụ:
Sử dụng phương pháp thống kê, so sánh để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp, hộ gia đình chế tác Đá mỹ nghệ trong những
năm qua.

- Phương pháp điều tra thực tế:


Học viên dùng hệ thống các câu hỏi theo nội dung xác định, có thể
dùng phiếu điều tra hoặc phỏng vấn chuyên sâu để thu thập thông tin phục
vụ cho luận văn.

6. Những đóng góp của luận văn


- Hệ thống hóa được những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển làng nghề.

- Phân tích đánh giá một cách toàn diện thực trạng phát triển của làng
nghề huyện Hoa Lư. Rút ra những thành tựu đã đạt được, chỉ ra những tồn
tại, hạn chế và nguyên nhân của nó.

- Đề xuất được những giải pháp chủ yếu có tính khả thi nhằm phát triển
làng nghề huyện Hoa Lư trong thời gian tới.

7. Bố cục của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:

- Chương 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển làng nghề.

- Chương 2: Thực trạng phát triển làng nghề huyện Hoa Lư tỉnh Ninh
Bình: trường hợp làng nghề Đá mỹ nghệ ở xã Ninh Vân.

- Chương 3: Quan điểm định hướng và giải pháp chủ yếu phát triển
làng nghề huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình: trường hợp làng nghề Đá mỹ nghệ
ở xã Ninh Vân.






CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ


1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LÀNG NGHỀ VÀ PHÁT TRIỂN
LÀNG NGHỀ
1.1.1. Khái niệm về làng nghề và phát triển làng nghề
* Làng nghề:

Đến nay đã có rất nhiều quan niệm khác nhau về làng nghề.
Quan niệm thứ nhất: Làng nghề là một cộng đồng dân cư sinh sống
trong một làng (hoặc khu vực dân cư) có hoạt động sản xuất kinh doanh tại
các hộ gia đình hoặc các cơ sở sản xuất trong làng, có sử dụng các nguyên
liệu trong và ngoài địa phương, phát triển đến mức trở thành nguồn sống
chính hoặc thu nhập chủ yếu của người dân trong làng.
Quan niệm thứ hai: Làng nghề là làng nghề cổ truyền làm thủ công,
nhưng không nhất thiết toàn bộ dân làng đều làm nghề thủ công. Người thợ
thủ công nhiều khi cũng làm nghề nông nhưng do yêu cầu chuyên môn hoá
họ chuyển sang sản xuất hàng thủ công ngay tại làng.
Quan niệm thứ ba: Làng nghề là trung tâm sản xuất thủ công, có quy tụ
các nghệ nhân và nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề truyền thống lâu đời có
sự liên kết hỗ trợ sản xuất, tiêu thụ sản phẩm theo kiểu phường hội và có
cùng tổ nghề.
Quan niệm thứ tư: Làng nghề là những làng ở nông thôn có các ngành
nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số hộ, số lao động và số thu nhập so
với nghề nông.
Quan niệm thứ năm: Làng nghề là nơi mà hầu hết mọi người trong làng
đều hoạt động cho một nghề thủ công và lấy đó làm nghề sinh sống chủ yếu.

Theo quy định hiện hành của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,

công nhận là làng nghề phải đảm bảo 3 tiêu chí sau:

1. Có tối thiểu 30 % tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động
ngành nghề nông thôn.

2. Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính tới thời
điểm đề nghị công nhận.

3. Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Từ các quan niệm trên cho thấy, “làng nghề” là một thiết chế kinh tế -
xã hội ở nông thôn gắn liền với 2 yếu tố “làng” và “nghề”
Làng là khối dân cư ở nông thôn tồn tại trong một không gian địa lý
nhất định, làm thành một đơn vị có đời sống riêng về nhiều mặt. Phần lớn
các làng xưa kia đều là nơi sản xuất nông nghiệp. Sau đó, do yêu cầu cuộc
sống đòi hỏi ngày càng nhiều sản phẩm hơn vì vậy một số nghề phi nông
nghiệp đã xuất hiện, có các hộ vừa sản xuất nông nghiệp vừa làm nghề hoặc
có hộ tách khỏi nông nghiệp để chuyên sản xuất nghề. Dần dần, nghề phi
nông nghiệp đã chiếm ưu thế. Phần lớn các nghề trong làng nghề thuộc lĩnh
vực tiểu thủ công nghiệp. Ngày nay, do sự phát triển của kinh tế hàng hoá đã
xuất hiện nhiều người chuyên làm dịch vụ cung cấp nguyên vật liệu và tiêu
thụ sản phẩm cho các hộ, các cơ sở sản xuất chuyên làm nghề thủ công, vì
vậy, nghề nghiệp được mở rộng sang cả lĩnh vực buôn bán.
Như vậy, yếu tố "nghề" trong làng nghề không nên hiểu là tất cả các
nghề tạo ra thu nhập, tạo việc làm nói chung mà "nghề" ở đây phải là những
nghề phi nông nghiệp.
Từ đó có thể rút ra khái niệm làng nghề như sau: Làng nghề là những
làng ở nông thôn có các ngành nghề phi nông nghiệp chiếm ưu thế về số
hộ, số lao động và tỷ trọng thu nhập so với nghề nông.

* Làng nghề truyền thống:

+ Nghề truyền thống:
Nghề truyền thống là một phạm trù dùng để chỉ những nghề đã có một
quá trình lịch sử phát triển lâu đời, được tập trung sản xuất tại một vùng hay
một làng, các sản phẩm được làm ra đã nổi tiếng trong vùng, trong nước
biết đến và được nhiều lớp nghệ nhân, thợ thủ công đã được rèn rũa tay nghề
qua nhiều đời và thế hệ thực hiện.
Đặc trưng cơ bản nhất của nghề truyền thống là có kỹ thuật và công
nghệ truyền thống, có các nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề. Mỗi nghề
bao giờ cũng có ông tổ của nghề, được dân làng ghi công và thờ phụng từ
đời này sang đời khác.
Nghề truyền thống ở nước ta rất phong phú đa dạng, có những nghề đã
hình thành và tồn tại hàng trăm năm, nhiều sản phẩm đã từng nổi tiếng trong
nước và thế giới, ví dụ như: Nghề gốm sứ Bát Tràng (Hưng Yên), nghề dệt
tơ lụa Vạn Phúc (Hà Đông), nghề dệt chiếu cói Nga Sơn (Thanh Hoá)…
Những nghề truyền thống được truyền bá trong phạm vi từng làng. Trong
những làng có nghề truyền thống thì đa số người dân biết làm nghề đó,
ngoài ra, họ còn có thể phát triển những nghề khác nhưng những nghề này
chiếm tỷ lệ nhỏ hơn nghề truyền thống.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, việc
sản xuất các sản phẩm có tính truyền thống được hỗ trợ bởi quy trình công
nghệ mới với những vật liệu mới. Vì vậy, khái niệm nghề truyền thống cũng
được mở rộng hơn. Khái niệm này có thể được hiểu : Nghề truyền thống bao
gồm những nghề tiểu thủ công nghiệp xuất hiện từ lâu trong lịch sử, được
truyền từ đời này qua đời khác còn tồn tại đến ngày nay kể cả những nghề
đã được cải tiến hoặc sử dụng những loại máy móc hiện đại để hỗ trợ sản
xuất nhưng vẫn tuân thủ công nghệ truyền thống và sản phẩm của nó vẫn
thể hiện những nét văn hoá đặc sắc của dân tộc.

+ Làng nghề truyền thống
Từ khái niệm “làng nghề” và “nghề truyền thống” có thể khái quát

được khái niệm “ làng nghề truyền thống”.
Làng nghề truyền thống trước hết là những làng nghề đã tồn tại và
phát triển lâu đời trong lịch sử, trong đó gồm có một hoặc nhiều nghề thủ
công truyền thống, là nơi quy tụ các nghệ nhân và đội ngũ thợ lành nghề, là
nơi có nhiều hộ gia đình chuyên làm nghề truyền thống lâu đời, giữa họ có
sự liên kết, hỗ trợ trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong làng nghề
truyền thống những người thợ có cùng tổ nghề và đặc biệt các thành viên
luôn ý thức tuân thủ những chế ước xã hội và gia tộc. Sản phẩm được nhiều
thế hệ sản xuất ra có giá trị, có tính đặc thù riêng, nổi tiếng ở địa phương và
nhiều nơi biết đến.
Trong các làng nghề truyền thống thường có tuyệt đại bộ phận dân số
làm nghề truyền thống hoặc một vài dòng họ chuyên làm nghề theo kiểu cha
truyền con nối. Song, sự truyền nghề không phải là sự sao chép, mỗi làng
nghề, mỗi thợ thủ công khi tiếp thu nghề đều có những cải tiến, sáng tạo làm
cho sản phẩm của mình có những nét độc đáo riêng so với sản phẩm của
người khác, làng khác.
* Khái niệm phát triển làng nghề
Theo từ điển tiếng Việt năm 2004, phát triển là một khái niệm chỉ sự
biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Với ý nghĩa đó, phát triển làng nghề có thể được hiểu đó là sự củng cố,
duy trì, hoàn thiện hoạt động sản xuất kinh doanh của các làng nghề hiện có,
tạo điều kiện thuận lợi nhằm khuyến khích thúc đẩy, nâng cao năng lực sản
xuất và hiệu quả của các làng nghề . Từ đó, có thể sử dụng một cách có hiệu

quả những nguồn lực sẵn có ở nông thôn, đẩy mạnh sự chuyên môn hoá sản
xuất và tạo ra nhiều sản phẩm hơn đáp ứng nhu cầu của xã hội.

1.1.2. Vai trò của phát triển làng nghề trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội


* Góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nội dung và mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá là tạo ra một
cơ cấu kinh tế mới, hợp lý và hiệu quả trong nông nghiệp, nông thôn. Do đó
tất yếu phải chuyển nền kinh tế nông thôn với cơ cấu thuần nông, sản xuất
mang tính chất tự cấp, tự túc là chủ yếu sang nền kinh tế nông thôn công
nghiệp hoá với cơ cấu nông, công nghiệp, dịch vụ và sản xuất ra nhiều sản
phẩm hàng hoá.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn là nhằm phát triển
kinh tế nông thôn lên một bước mới về chất làm thay đổi cơ cấu sản xuất, cơ
cấu lao động, cơ cấu làm việc, cơ cấu giá trị sản lượng và cơ cấu thu nhập
của dân cư nông thôn bằng các nguồn lực từ trong lĩnh vực nông nghiệp và
phi nông nghiệp. Với mục tiêu như vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp, nông thôn ngày càng được thúc đẩy và diễn ra ngay trong
nội bộ ngành nông nghiệp và các bộ phận hợp thành khác của cơ cấu kinh tế
nông thôn. Trong quá trình vận động và phát triển của mình, các làng nghề
đã tỏ rõ vai trò tích cực đối với sự chuyển dịch này. Nó thể hiện ở chỗ góp
phần tăng tỷ trọng của công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, thu hẹp
tỷ trọng nông nghiệp, chuyển lao động từ sản xuất nông nghiệp có thu nhập
thấp sang ngành nghề phi nông nghiệp có thu nhập cao hơn. Trong thực tế
sự ra đời và phát triển của các làng nghề ngay từ đầu đã làm biến đổi cơ cấu
kinh tế nông thôn. Điều đó có nghĩa là ở nông thôn khi nghề thủ công xuất

hiện thì kinh tế nông thôn không chỉ có ngành nông nghiệp thuần nhất mà
bên cạnh nó còn có các ngành thủ công nghiệp, thương mại và dịch vụ cùng
tồn tại phát triển. Trên góc độ phân công lao động thì làng nghề có tác động
rất tích cực tới sản xuất nông nghiệp. Nó không chỉ cung cấp tư liệu sản xuất
cho nông nghiệp mà còn có tác dụng chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp. Chẳng hạn, ngành nghề chế biến lương thực, thực phẩm phát triển

yêu cầu nguyên liệu từ nông nghiệp phải nhiều hơn, đa dạng hơn và chất
lượng cao hơn. Vì vậy, trong nông nghiệp hình thành những khu vực nông
nghiệp chuyên môn hoá, ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra năng
suất lao động cao và nhiều sản phẩm hàng hoá. Đồng thời, người nông dân
trước yêu cầu tăng lên của sản xuất sẽ tự thấy nên đầu tư vào lĩnh vực nào là
có lợi nhất. Như vậy, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp đã
được thực hiện dưới tác động của sản xuất và nhu cầu thị trường.
Sản xuất phi nông nghiệp ở các làng nghề cho thu nhập và giá trị sản
lượng cao hơn so với sản xuất nông nghiệp. Do từng bước tiếp cận với nền
kinh tế thị trường, người lao động chuyển sang đầu tư vào các ngành nghề
phi nông nghiệp, đặc biệt là ngành mà sản phẩm có khả năng tiêu thụ mạnh.
Điều đó có nghĩa là khu vực sản xuất nông nghiệp sẽ bị thu hẹp lại, khu vực
sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp được tăng lên. Sự phát triển
này đã khẳng định một hướng đi đúng, nó tạo ra cơ sở kinh tế phi nông
nghiệp cho những vùng thuần nông trước đây chỉ chuyên có trồng trọt và
chăn nuôi. Cùng với các nghề thủ công, làng nghề phát triển đã tạo cơ hội
cho hoạt động dịch vụ ở nông thôn mở rộng quy mô và địa bàn hoạt động,
thu hút nhiều lao động. Sản xuất trong các làng nghề là một quá trình liên
tục, vì vậy đòi hỏi dịch vụ cung cấp nguyên vật liệu và tiêu thụ sản phẩm
phải thường xuyên. Do đó, dịch vụ nông thôn phát triển mạnh mẽ với nhiều
hình thức phong phú đa dạng. Như vậy, sự phát triển làng nghề có tác dụng

quan trọng đối với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông
thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
* Góp phần giải quyết việc làm, tận dụng nguồn nguyên liệu và lực
lượng lao động.
Giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn là vấn đề bức
xúc ở nước ta hiện nay. Bởi khu vực nông thôn chiếm khoảng 75% dân số
và 70% lao động cả nước, đất canh tác bình quân đầu người thấp, người
nông dân chỉ sử dụng khoảng 60-70% thời gian làm nông nghiệp, vì vậy,

tình trạng thiếu việc làm là phổ biến. Với vai trò đặc biệt của mình, làng
nghề đã tạo ra được một khối lượng lớn công việc, thu hút nhiều lao động ở
nông thôn. Phát triển làng nghề có vai trò quan trọng trong giải quyết việc
làm cho người lao động không những cho riêng làng mình mà còn cho dân
cư của làng khác đến làm thuê.
Sự phát triển của làng nghề kéo theo sự phát triển của nhiều ngành
nghề khác tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, bởi vì khi phát triển
làng nghề đưa những nghề thủ công vào các vùng nông thôn nó sẽ lại tạo
điều kiện cho các ngành nghề khác phát triển hơn, ví dụ như ngành chế biến
lương thực thực phẩm tạo điều kiện cho ngành cơ khí chế tạo công cụ,
ngành chăn nuôi phát triển, ngành tái chế nguyên vật liệu đã tạo điều kiện
cho mạng lưới thu gom nguyên liệu, phế liệu phát triển và nó còn có tác
dụng làm sạch môi trường.
Do đặc điểm sản xuất của các làng nghề ở quy mô hộ là chủ yếu đồng
thời nơi sản xuất cũng chính là nơi ở của người lao động nên có khả năng
tận dụng và thu hút nhiều loại lao động từ lao động thời vụ, nông nhàn đến
lao động trên dưới độ tuổi lao động vào quá trình sản xuất. Lực lượng lao
động này chiếm một tỷ lệ rất đáng kể trong tổng số lao động trong các làng
nghề.

* Thu hút vốn nhàn rỗi.
Quy mô các cơ sở kinh tế trong làng nghề chủ yếu là hộ gia đình và
đang hình thành một số doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đồng thời, hầu hết các cơ
sở sản xuất kinh doanh trong các làng nghề đều dành một phần diện tích nhà
ở của gia đình làm nơi sản xuất, kinh doanh, nhiều nghề chỉ cần công cụ thủ
công nhỏ, thô sơ là những người thợ trong các làng nghề có thể tự sản xuất
hoặc chế tạo được. Cho nên, mức đầu tư cho một lao động và quy mô vốn
cho một cơ sở sản xuất - kinh doanh trong các làng nghề không nhiều. Vì
vậy, rất phù hợp với khả năng huy động vốn và các nguồn lực vật chất của
các hộ gia đình. Vốn đầu tư không lớn, trong điều kiện hiện nay thì đó là

một lợi thế để các làng nghề có thể huy động các loại vốn nhàn rỗi trong dân
vào hoạt động sản xuất kinh doanh.
* Cải thiện đời sống nhân dân và xây dựng nông thôn mới.
Việc cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân chỉ có thể thực hiện được
trên cơ sở ổn định việc làm và nâng cao thu nhập. Ở nông thôn, vấn đề này
được phản ánh rất rõ thông qua tác động của phát triển làng nghề. Những
vùng có làng nghề phát triển đều thể hiện một sự thay đổi về đời sống, có
dân trí cao hơn hẳn những vùng thuần nông. Ở các làng nghề, tỷ lệ hộ khá
và giàu cao, tỷ lệ hộ nghèo thấp và hầu như không có hộ đói. Thu nhập từ
nghề thủ công chiếm tỷ lệ lớn trong tổng thu nhập đã đem lại cho người dân
của các làng nghề một cuộc sống đầy đủ, phong lưu hơn cả về vật chất lẫn
tinh thần, số hộ có nhà cao tầng, các loại đồ dùng tiện nghi đắt tiền chiếm tỷ
lệ khá. Như ở làng nghề Bát Tràng Hà Nội mức thu nhập bình quân của các
hộ từ 40 - 50 triệu đồng/năm còn các hộ có thu nhập cao thì đạt tới hàng
trăm triệu đồng/năm; ở làng nghề Ninh Hiệp Hà Nội tỷ lệ hộ gia đình giàu
chiếm 30%, hộ nghèo chỉ chiếm 1%.

Phát triển làng nghề góp phần tăng thu nhập của người dân đồng thời
tạo ra nguồn tích luỹ khá lớn và ổn định cho ngân sách địa phương cũng như
cho các hộ gia đình. Vì vậy, nguồn vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn
được huy động từ sự đóng góp của người dân tại các địa phương này khác
hẳn với các địa phương không có nghề. Ở làng nghề, đặc biệt là các làng
nghề vùng Đồng bằng sông Hồng, gần như 100% đường làng ngõ xóm được
bê tông hoá hoặc lát gạch, các địa phương đều có trường mầm non, tiểu học,
phổ thông cơ sở khang trang; hệ thống điện nước được cải tạo nâng cấp; đời
sống vật chất, tinh thần của người dân được cải thiện, sức mua tăng lên tạo
thị trường công nghiệp và dịch vụ tăng; thu hẹp dần khoảng cách giữa thành
thị và nông thôn.

1.2. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ


Quá trình phát triển của làng nghề chịu tác động của nhiều nhân tố,
những nhân tố này có sự biến đổi trong từng thời kỳ và tác động theo những
mức độ khác nhau. Ở đây chúng ta có thể nêu lên những nhân tố tác động
đến sự phát triển làng nghề:
* Một là nguồn nguyên vật liệu:
Đây là một yếu tố có ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất của các làng
nghề. Trước đây, nguồn vật liệu được coi là một trong những điều kiện tạo
nên sự hình thành và phát triển của các làng nghề truyền thống. Hiện nay,
nhờ sự hỗ trợ tích cực của các phương tiện giao thông vận tải và phương tiện
kỹ thuật vấn đề xa hay gần nguồn nguyên liệu trở nên không quan trọng đối
với sự phát triển của các làng nghề. Tuy nhiên, vấn đề khối lượng, chất
lượng chủng loại và khoảng cách từ cơ sở sản xuất tới nơi có nguồn nguyên
vật liệu vẫn có ảnh hưởng nhất định tới sản xuất và giá thành sản phẩm của
các đơn vị sản xuất kinh doanh. Cho đến nay, nguồn nguyên vật liệu cung

cấp cho một số làng nghề truyền thống vẫn phong phú đặc biệt là nguyên
liệu cho các làng nghề chế biến lương thực, thực phẩm. Nhưng đối với nhiều
làng nghề thì đây lại là một khó khăn gây cản trở tới sản xuất vì nguồn
nguyên liệu vật liệu đang bị cạn kiệt dẫn đến không đủ để đáp ứng cho sản
xuất. Chẳng hạn như nguyên liệu dùng để sản xuất chiếu cói ở Nga Sơn
Thanh Hoá, gỗ quý cho sản xuất đồ gỗ mỹ nghệ…
* Hai là nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực là một trong những nguồn lực quan trọng nhất của sự
phát triển. Nguồn nhân lực của làng nghề bao gồm những nghệ nhân, những
người thợ thủ công và chủ cơ sở sản xuất kinh doanh. Những nghệ nhân có
vai trò đặc biệt quan trọng trong việc truyền nghề, dạy nghề, đồng thời họ là
những người sáng tạo ra những sản phẩm độc đáo mang đậm yếu tố văn hoá
dân tộc. Hiện nay, ở nhiều làng nghề truyền thống vẫn còn những nghệ nhân
tâm huyết với nghề, muốn giữ gìn và phát triển nghề. Bên cạnh đó, một lực

lượng lao động dồi dào, cơ cấu lao động trẻ có khả năng thích ứng với
những điều kiện mới của nền kinh tế thị trường, là nhân tố cốt yếu nhất
quyết định toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh ở các làng nghề. Song, một
hạn chế rất lớn đối với nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực ở các
làng nghề nói riêng là chất lượng nguồn nhân lực chưa cao, trình độ chuyên
môn và trình độ văn hoá thấp, nhất là đối với các chủ doanh nghiệp. Đây là
một khó khăn cơ bản trong việc phát triển sản xuất theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá.
* Ba là yếu tố thị trường:
Sự tồn tại và phát triển của làng nghề phụ thuộc rất lớn vào thị trường
và sự biến động của nó. Những làng nghề có khả năng thích ứng với sự thay
đổi của nhu cầu thị trường, có khả năng tiêu thụ lớn thường có tốc độ phát
triển nhanh. Điều này đã được chứng minh ở sự phát triển của một số làng

nghề gốm sứ mỹ nghệ, chạm khắc gỗ, chế biến lương thực, thực phẩm.
Ngược lại, một số làng nghề không phát triển được, ngày càng mai một,
giảm sút, thậm chí có nguy cơ tan rã không duy trì được nghề do sản phẩm
làm ra không đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe của thị trường hoặc nhu
cầu thị trường không cần đến loại sản phẩm đó nữa như: Dệt chiếu ở làng
Ứng Luật xã Quang Thiện huyện Kim Sơn Kim Sơn; làm Miến dong ở làng
Chí Tĩnh xã Hùng Tiến, huyện Kim Sơn. Ngay ở trong một làng (một cơ sở
sản xuất) có sản phẩm phát triển như các mẫu nhỏ, khay, đĩa được làm ra từ
cây cói và được xuất khẩu ra nước ngoài, trong khi đó, sản phẩm chiếu chẻ
lại trở nên sa sút. Như vậy, rõ ràng thị trường và sự phát triển của thị trường
đã tác động rất mạnh tới phương hướng phát triền, cách thức sản xuất kinh
doanh, cơ cấu sản phẩm và là động lực thúc đẩy sản xuất của làng nghề. Tuy
nhiên, nếu thị trường không ổn định sẽ gây ra những khó khăn và bấp bênh
cho sản xuất của làng nghề.
* Bốn là nguồn vốn:
Đây là một nguồn lực vật chất rất quan trọng đối với quá trình hoạt

động sản xuất kinh doanh. Nhiệm vụ chủ yếu của nguồn vốn là đầu tư để
phát triển sản xuất, đầu tư phát triển cơ sở vật chất và kết cấu hạ tầng, đầu tư
đổi mới công nghệ. Trong khi đó, với thực trạng phát triển nhỏ lẻ ở các làng
nghề hiện nay, nguồn vốn có để sản xuất kinh doanh chủ yếu là vốn tự có và
vốn vay của người thân nên kéo theo: Sản phẩm làm ra thường không có sức
cạnh tranh, bởi một phần vì công nghệ lạc hậu, mẫu mã kém phong phú còn
phần khác là không tận dụng được lợi thế về qui mô nên chi phí tăng cao bất
lợi trong cạnh tranh về giá. Để giải quyết được vấn đề này, làng nghề cần
thiết phải huy động được một lượng vốn lớn để thay đổi cả qui mô sản xuất
lẫn công nghệ, vừa nâng cao năng suất, chất lượng, tận dụng ưu thế về qui
mô, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Đồng thời, nâng cao năng lực

quản lý, lúc này khả năng tìm kiếm thị trường mới của làng nghề được nâng
cao, thị trường được đa dạng hoá, làng nghề có thể xác định được thị trường
mục tiêu cho mình. Vì vậy, sự phát triển của làng nghề phụ thuộc rất lớn vào
các nguồn vốn huy động được. Trước đây, vốn của các hộ sản xuất kinh
doanh đều rất nhỏ bé . Tuy nhiên, với năng lực của các làng nghề thì không
thể tự huy động được nguồn vốn lớn như vậy. Cho nên, để giải quyết khó
khăn này, các làng nghề cần có sự hỗ trợ tích cực và cụ thể từ phía Nhà nước.
* Năm là trình độ kỹ thuật và công nghệ:
Trình độ kỹ thuật và công nghệ ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất
lượng và giá thành của sản phẩm, đến năng lực cạnh tranh của các sản phẩm
hàng hoá trên thị trường và cuối cùng là quyết định đến sự tồn tại phát triển
hay suy vong của một cơ sở sản xuất, một ngành nghề nào đó. Nhận thức
được điều đó, nhiều làng nghề đã đổi mới trang thiết bị, cải tiến áp dụng tiến
bộ khoa học và công nghệ vào các lĩnh vực sản xuất để đa dạng hoá sản
phẩm, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm đáp ứng được nhu cầu tiêu
dùng trong nước và xuất khẩu, tạo ra sự phát triển mạnh mẽ và ổn định cho
các làng nghề. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp do đặc điểm kỹ thuật công
nghệ của một số làng nghề vẫn còn mang nặng tính chất thủ công, thô sơ lạc

hậu nên đó vẫn là một trong những nhân tố làm cản trở quá trình phát triển
các làng nghề.
* Sáu là kết cấu hạ tầng:
Kết cấu hạ tầng bao gồm hệ thống các đường giao thông, điện, cấp và
thoát nước, bưu chính viễn thông… có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành,
tồn tại và phát triển của các làng nghề. Thực tế ngày càng cho thấy rõ làng
nghề chỉ có thể phát triển mạnh ở những nơi có kết cấu hạ tầng đảm bảo và
đồng bộ. Đây là yếu tố có tác dụng tạo điều kiện, tiền đề cho sự ra đời và
phát triển của làng nghề, tạo điều kiện khai thác và phát huy những tiềm

năng sẵn có của làng nghề. Sự phát triển của yếu tố này sẽ đảm bảo việc vận
chuyển và cung ứng nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm, mở rộng giao lưu
hàng hoá, đưa nhanh tiến bộ khoa học công nghệ mới vào sản xuất đồng thời
làm giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Hệ thống thông tin liên lạc, bưu chính
viễn thông đã giúp các chủ thể sản xuất kinh doanh nắm bắt kịp thời, nhanh
chóng, chính xác thông tin thị trường để có những ứng xử kịp thời. Tuy
nhiên, cho đến nay sự phát triển của các làng nghề vẫn còn gặp phải không
ít khó khăn do ảnh hưởng của sự yếu kém và thiếu đồng bộ của hệ thống kết
cấu hạ tầng.
* Bẩy là chính sách kinh tế - xã hội của Nhà nước:
Hệ thống chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước có ảnh hưởng rất lớn
tới sự phát triển hay suy vong của các làng nghề. Thời kỳ trước đổi mới,
chúng ta chỉ tập trung phát triển kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể,
không chấp nhận kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể. Các hộ sản xuất trong các
làng nghề truyền thống không được coi là các chủ thể kinh tế độc lập. Đó là
một nhân tố khiến cho các làng nghề không phát triển được. Từ khi thực
hiện công cuộc đổi mới đến nay, các làng nghề đã phục hồi và phát triển
mạnh. Sự chuyển biến quan trọng này được tác động bởi các đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước; Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI,
VII, VIII, IX, X và nhiều nghị quyết trung ương đã nhấn mạnh vai trò quan

trọng của kinh tế nông thôn, đề ra biện pháp, chính sách phát triển toàn diện
kinh tế xã hội nông thôn, trong đó có làng nghề. Một trong những chính
sách đặc biệt quan trọng trong thời kỳ đổi mới có tác dụng phát huy sức
mạnh nội lực của làng nghề, đó là chính sách phát triển các thành phần kinh
tế. Với chính sách này, các thành phần kinh tế tư nhân, kinh tế cá thể trước
đây không được chấp nhận nay được khuyến khích phát triển. Chính sách
này có tác động thúc đẩy tất cả các thành phần kinh tế tồn tại trong làng

×