Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo lãnh thanh toán của các ngân hàng thương mại trên địa bàn Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 96 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



VŨ HỒNG MINH





GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO LÃNH THANH TOÁN
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thị Thu Thủy



HÀ NỘI - 2009




MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


Danh mục các sơ đồ


Danh mục các biểu đồ


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO LÃNH THANH

TOÁN NGÂN HÀNG
5
1.1.
Khái niệm, chức năng của bảo lãnh ngân hàng
5
1.1.1.
Khái về bảo lãnh ngân hàng
5
1.1.2.
Chức năng của bảo lãnh ngân hàng
8
1.2.
Khái niệm, đặc điểm của bảo lãnh thanh toán ngân hàng
10
1.2.1.
Khái niệm về bảo lãnh thanh toán ngân hàng
10
1.2.2
Đặc điểm của bảo lãnh thanh toán ngân hàng
11
1.2.2.1.
Bảo lãnh thanh toán ngân hàng là mối quan hệ đa phương
11
1.2.2.2.
Bảo lãnh thanh toán ngân hàng mang tính độc lập
12
1.2.2.3.
Bảo lãnh thanh toán ngân hàng là một hoạt động ngoại bảng
của ngân hàng
13

1.2.2.4.
Bảo lãnh thanh toán ngân hàng tiến hành trên cơ sở chứng từ
13
1.3.
Rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh thanh toán ngân hàng
15
1.3.1.
Rủi ro đối với ngân hàng bảo lãnh
15
1.3.2.
Rủi ro đối với bên được bảo lãnh
16
1.3.3.
Rủi ro đối với người thụ hưởng bảo lãnh
16
1.4.
Vai trò của nghiệp vụ bảo lãnh thanh toán ngân hàng
16
1.4.1.
Đối với ngân hàng
17
1.4.2.
Đối với doanh nghiệp
17
1.5.
Nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng thương mại thuộc khối
Liên minh Châu Âu
18
1.5.1.
Các yêu cầu chung đối với bảo lãnh

19
1.5.2.
Quyền tự chủ của bảo lãnh đối ứng
20

Chương 2: CÁC QUI ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO
LÃNH THANH TOÁN CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA
BÀN HÀ NỘI
23
2.1.
Các qui định pháp luật về bảo lãnh thanh toán của ngân hàng
thương mại Việt Nam
23
2.1.1.
Trình tự, thủ tục bảo lãnh thanh toán ngân hàng
24
2.1.2.
Chủ thể của bảo lãnh thanh toán ngân hàng
30
2.1.3.
Phạm vi của bảo lãnh thanh toán ngân hàng
32
2.1.4.
Hình thức pháp lý của quan hệ bảo lãnh thanh toán ngân hàng
34
2.1.5.
Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ bảo lãnh thanh
toán ngân hàng
36

2.1.6.
Giải quyết tranh chấp phát sinh trong hợp đồng bảo lãnh
thanh toán ngân hàng
39
2.2.
Thực tiễn áp dụng các qui định về bảo lãnh thanh toán của
các ngân hàng thương mại trên địa bàn Hà Nội
43
2.2.1.
Đặc điểm của các ngân hàng thương mại trên địa bàn Hà Nội
43
2.2.2.
Khái quát chung về hoạt động bảo lãnh thanh toán ngân hàng
trên địa bàn Hà Nội
46
2.2.3.
Khách hàng trong quan hệ bảo lãnh thanh toán ngân hàng
48
2.2.4.
Thời hạn của bảo lãnh thanh toán ngân hàng
50
2.2.5.
Phí áp dụng đối với bảo lãnh thanh toán ngân hàng
52
2.2.6.
Giải quyết tranh chấp phát sinh trong hợp đồng bảo lãnh
thanh toán ngân hàng
53
2.3.
Đánh giá thực trạng hoạt động bảo lãnh thanh toán của các

ngân hàng thương mại trên địa bàn Hà Nội trong thời gian qua
62
2.3.1.
Những thuận lợi
62
2.3.2.
Những khó khăn, vướng mắc và bất cập
64
2.3.3.
Nguyên nhân
67
2.3.3.1.
Nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng
67
2.3.3.2.
Nguyên nhân khách quan
68

Chương 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO LÃNH THANH TOÁN
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
72
3.1.
Hoàn thiện môi trường pháp lý
72
3.1.1.
Cơ sở hoàn thiện
72
3.1.1.1.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước trong hoàn thiện pháp

luật về ngân hàng nói chung và bảo lãnh ngân hàng nói riêng
72
3.1.1.2.
Những cơ hội thách thức đối với hoạt động ngân hàng nói chung và
bảo lãnh thanh toán ngân hàng nói riêng trong giai đoạn hiện nay
74
3.1.1.3.
Mục tiêu phát triển các tổ chức tín dụng đến năm 2010 và
định hướng chiến lược đến năm 2020
78
3.1.2.
Một số biện pháp cụ thể
79
3.1.2.1.
Đối với bảo lãnh thanh toán của các ngân hàng thương mại
nói chung
79
3.1.2.2.
Đối với bảo lãnh thanh toán ngân hàng trên địa bàn Hà Nội
82
3.2.
Ổn định môi trường kinh doanh
83
3.3.
Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước
84
3.4.
Một số kiến nghị đối với ngân hàng thương mại
85


KẾT LUẬN
87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
88
DANH MỤC CÁC BẢNG


Số hiệu
bảng
Tên bảng

Trang

2.1
Doanh số bảo lãnh của các ngân hàng thương mại trên
địa bàn Hà Nội
46
2.2
Số dư bảo lãnh thanh toán so với các bảo lãnh khác
47
2.3
Cơ cấu khách hàng bảo lãnh
48
2.4
Một số chỉ tiêu bảo lãnh thanh toán của các ngân hàng
thương mại Hà Nội
49
2.5
Thời hạn các loại hình bảo lãnh

51
2.6
Tình hình thu phí bảo lãnh
52

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ


Số hiệu
sơ đồ
Tên sơ đồ

Trang

2.1
Quy trình nghiệp vụ bảo lãnh và nghiệp vụ bảo lãnh
thanh toán
25

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ


Số hiệu
biểu đồ
Tên biểu đồ

Trang

2.1
Mức tăng trưởng của các loại bảo lãnh qua các năm

48


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống ngân hàng có vai trò to lớn đối với nền kinh tế nước nhà,
đây là điều không thể phủ nhận. Đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, khi Việt
Nam đang vươn mình trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa và tham
gia tích cực vào công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế. Xu thế toàn cầu hóa
mạnh mẽ với nhịp điệu không ngừng, với áp lực cạnh tranh gay gắt đặt ra cho
hệ thống ngân hàng nhiều thời cơ và không ít những thách thức đòi hỏi phải
phát triển, đổi mới tiến tới hoàn thiện và đa dạng hóa các loại hình nghiệp vụ.
Nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng đã được bắt đầu sử dụng rộng rãi trên
thế giới từ đầu thập niên 70 và ngày càng khẳng định được vai trò của nó trong
các giao dịch kinh tế toàn cầu, nghiệp vụ này chỉ mới thật sự phát triển tại các
Ngân hàng Việt Nam trong vài năm trở lại đây. Điều đó chứng tỏ các ngân hàng
Việt Nam mới chỉ thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh ở mức độ còn sơ khai, chủ yếu
là nhằm đa dạng hóa các nghiệp vụ ngân hàng. Trong khi đó, nghiệp vụ bảo lãnh
lại là nghiệp vụ vừa đa dạng vừa phức tạp, chứa đựng rất nhiều rủi ro và liên
quan đến nhiều yếu tố vượt khỏi biên giới quốc gia. Chính vì vậy việc không
ngừng nâng cao chất lượng nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng tại Việt Nam là yêu
cầu cấp thiết đối với hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Trên địa bàn Hà Nội thời gian vừa qua, hoạt động bảo lãnh, đặc biệt là
hoạt động bảo lãnh thanh toán của hệ thống các ngân hàng thương mại đã có
những bước khởi sắc đáng mừng, góp phần tích cực vào sự thành công của
các giao dịch kinh tế và sự phát triển của hoạt động thương mại trên địa bàn.
Nghiệp vụ bảo lãnh đã khẳng định được vị trí và tính ưu việt không thể phủ
nhận của nó đối với nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên, bên cạnh những kết

quả khả quan đã đạt được, không phải không có những bất cập trong công tác

2
thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo lãnh ngân hàng nói chung và pháp luật về
bảo lãnh thanh toán nói riêng. Vì vậy, để tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho các tổ
chức tín dụng và khách hàng thực hiện hoạt động bảo lãnh thanh toán được
thuận lợi, việc hoàn thiện pháp luật về hoạt động bảo lãnh thanh toán ngân
hàng phù hợp với điều kiện thực tiễn và các chuẩn mực thông lệ quốc tế, tránh
được rủi ro trong quá trình hoạt động thực sự là đề tài rất đáng quan tâm
không chỉ với các nhà hoạch định chính sách, các ngân hàng, các doanh
nghiệp mà cả với các nhà nghiên cứu.
Xuất phát từ thực tế trên, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về lý
luận cũng như thực tiễn để nâng cao hiệu quả hoạt động bảo lãnh thanh toán
của ngân hàng nói chung và ngân hàng trên địa bàn Hà Nội nói riêng là vấn
đề cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy toọi chọn đề tài "Giải pháp nâng
cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo lãnh thanh toán của các ngân hàng
thương mại trên địa bàn Hà Nội" làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài viết về bảo lãnh ngân hàng đã có nhiều tác giả nghiên cứu như
đề tài nghiên cứu "Điều chỉnh pháp luật về bảo lãnh ngân hàng trong hoạt
động cho vay của Ngân hàng thương mại Việt Nam", của Bùi Vân Hằng, Đại
học Quốc gia Hà Nội, năm 2008…, nhưng cho đến nay nó vẫn còn nguyên
tính thời sự và vẫn là sự cần thiết vừa mang ý nghĩa lý luận, vừa mang ý nghĩa
thực tiễn và là một trong những vấn đề đang rất được quan tâm. Đặc biệt các
công trình nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở bảo lãnh ngân hàng nói chung, chưa
đi sâu vào hoạt động bảo lãnh thanh toán ngân hàng trên địa bàn Hà Nội, vì
vậy việc nghiên cứu đề tài trên là rất cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
- Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến bảo
lãnh thanh toán của ngân hàng thương mại.


3
- Phân tích thực trạng pháp luật về bảo lãnh thanh toán ở Việt Nam có
sự đối chiếu với pháp luật nước ngoài.
- Đánh giá tình hình thực thi các qui định về bảo lãnh thanh toán trong
hoạt động của các ngân hàng thương mại trên địa bàn Hà Nội.
- Nêu các giải pháp và đề xuất kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về
bảo lãnh ngân hàng nói chung và bảo lãnh thanh toán của các ngân hàng
thương mại trên địa bàn Hà Nội nói riêng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận, các
qui định pháp luật hiện hành về bảo lãnh ngân hàng mà cụ thể là bảo lãnh
thanh toán và thực tiễn tổ chức triển khai và thực hiện các qui định của các
ngân hàng thương mại tại Hà Nội, trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp, kiến
nghị liên quan đến pháp luật về bảo lãnh thanh toán ngân hàng nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn trọng tâm nghiên cứu các qui định
pháp luật Việt Nam về bảo lãnh thanh toán ngân hàng và các qui định cụ thể
hóa về bảo lãnh thanh toán của ngân hàng thương mại từ khi có hai Luật về
Ngân hàng có hiệu lực thi hành năm 1998. Quá trình phân tích dựa vào thực
tiễn hoạt động của các ngân hàng thương mại trên địa bàn Hà Nội thời gian từ
năm 2005 đến tháng 9 năm 2009.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu từ phương
pháp duy vật biện chứng đến các phương pháp nghiên cứu cụ thể như điều tra,
khảo sát, tổng hợp, phân tích, so sánh kết hợp giữa lý luận và thực tiễn.
- Các lý luận liên quan đến hoạt động ngân hàng đã được tổng hợp,
đúc kết sẽ được sử dụng làm tài liệu cho việc nghiên cứu đề tài cùng với vận

4

dụng kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan đến hoạt
động Ngân hàng thương mại để làm sâu sắc thêm các luận điểm.
6. Những đóng góp của luận văn
- Luận văn phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về hoạt động
bảo lãnh thanh toán trên cơ sở thực tiễn hoạt động của các ngân hàng thương
mại ở Hà Nội. Vì vậy, kết quả nghiên cứu sẽ đóng góp thiết thực cho việc tiếp
tục hoàn thiện các qui định về bảo lãnh nói chung và bảo lãnh thanh toán
nói riêng.
- Những kiến nghị, đề xuất cụ thể của luận văn góp phần hoàn thiện
pháp luật về ngân hàng, nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng
thương mại trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần vào việc hoạch định
chính sách tiền tệ, quản lý hoạt động ngân hàng nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1 Một số vấn đề lý luận về bảo lãnh thanh toán ngân hàng.
Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật về hoạt động bảo lãnh thanh
toán của các ngân hàng thương mại tại Hà Nội.
Chương 3: Một số đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật
về bảo lãnh thanh toán của các ngân hàng thương mại.

5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ BẢO LÃNH THANH TOÁN NGÂN HÀNG

1.1. KHÁI NIỆM, CHỨC NĂNG CỦA BẢO LÃNH NGÂN HÀNG
1.1.1. Khái niệm về bảo lãnh ngân hàng
Trong khoa học pháp lý ở Việt Nam, bảo lãnh lần đầu tiên được nhắc

đến tại Điều 40 và 41 Pháp lệnh Hợp đồng dân sự ngày 29/4/1991 như là một
chế định đặc biệt cho phép người có quyền yêu cầu trong một hợp đồng dân
sự có thêm một người có nghĩa vụ ngoài người có nghĩa vụ là bên giao kết
hợp đồng đó, trong trường hợp bên giao kết không thực hiện nghĩa vụ.
Bộ Luật dân sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005
tại Điều 361 có định nghĩa về bảo lãnh như sau:
Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là bên bảo lãnh) cam kết
với bên có quyền (gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ
thay cho bên có nghĩa vụ (gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến
thời hạn mà người được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thỏa thuận về việc bên
bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên bảo lãnh không có khả
năng thực hiện nghĩa vụ của mình [28].
Theo Điều 20, Luật các tổ chức tín dụng và tại Khoản 1, Điều 2 trong Quy
chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết định số 26/2006/QĐ-NHNN
ngày 26/6/2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Bảo lãnh ngân hàng
được định nghĩa như sau:
Bảo lãnh ngân hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng
(bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện

6
nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên
nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng
số tiền đã được trả thay.
Cam kết văn bản được qui định ở đây là văn bản bảo lãnh của tổ
chức tín dụng bao gồm:
- Thư bảo lãnh: là cam kết đơn phương bằng văn bản của tổ chức tín
dụng về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho
khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng

nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
- Hợp đồng bảo lãnh: là thỏa thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng
với bên nhận bảo lãnh hoặc giữa tổ chức tín dụng, bên nhận bảo lãnh, khách
hàng và các bên có liên quan (nếu có) về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện
nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh.
Vậy có thể xem xét cam kết của bên bảo lãnh là một hành vi giao kết
hợp đồng được không? Có quan điểm cho rằng, cam kết của bên bảo lãnh
không thể xem là hợp đồng mà chỉ là sự cam kết đơn phương.
Bộ luật dân sự xác định rằng các bên có thể thỏa thuận về việc người
bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi người được bảo lãnh không có khả
năng thực hiện nghĩa vụ của mình. Với nội dung qui định như vậy, Bộ luật
Dân sự đã thể hiện rõ là quan hệ bảo lãnh thực chất chỉ phát sinh dựa trên cơ sở
thỏa thuận giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh từ việc đưa ra cam kết của
người bảo lãnh. Việc ghi nhận yếu tố thoả thuận này chứng tỏ quan hệ bảo lãnh
không phát sinh mang tính đơn phương bằng cam kết riêng của bên bảo lãnh.
Trong thực tiễn pháp lý, quan niệm cho rằng "quan hệ bảo lãnh là
quan hệ hợp đồng" vẫn còn khá phổ biến. Theo Black Dictionary Law, St.

7
Paul, Minn West Publishing Co, 1991, thì bảo lãnh ngân hàng là sự thỏa thuận
mà theo đó người bảo lãnh chấp thuận sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bên nợ
chỉ khi bên nợ không trả nợ; là việc bên bảo lãnh bảo đảm hoặc hứa thực hiện
nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực
hiện nghĩa vụ của mình. Khái niệm này cho thấy không chỉ pháp luật Việt
Nam mà cả pháp luật nước ngoài cũng xem bảo lãnh ngân hàng không phải là
một cam kết bảo lãnh chỉ mang tính đơn phương.
Như vậy, có thể thấy rõ rằng việc xác định yếu tố thỏa thuận trong
quan hệ bảo lãnh nói chung và quan hệ bảo lãnh ngân hàng nói riêng được thể
hiện khá rõ trong tư tưởng pháp lý. Vì vậy, sự thỏa thuận giữa bên bảo lãnh

với bên nhận bảo lãnh là điều kiện bắt buộc để thiết lập quan hệ bảo lãnh. Đối
với cam kết bảo lãnh mà tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) đưa ra thì không nên
xem đó chỉ là cam kết đơn phương, mà về bản chất pháp lý thì đó là văn bản
dự thảo hợp đồng và nếu không được bên nhận bảo lãnh chấp nhận thì quan
hệ bảo lãnh đó xem như không được thiết lập.
Việc xác định đúng bản chất pháp lý của quan hệ bảo lãnh ngân hàng
sẽ là cơ sở để phân định tư cách chủ thể trong quan hệ bảo lãnh: bên bảo lãnh,
bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Cam kết bảo lãnh được đưa ra và
chấp nhận giữa hai bên là người thứ ba (người bảo lãnh) và bên có quyền (bên
nhận bảo lãnh), còn việc thực hiện nghĩa vụ của bên được bảo lãnh được qui
định như sau: khi người bảo lãnh hoàn thành xong nghĩa vụ của mình thì có
quyền yêu cầu người được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong
phạm vi bảo lãnh nếu không có thỏa thuận khác. Pháp luật hiện hành cho
phép ngân hàng được sử dụng uy tín và khả năng tài chính của mình để đảm
bảo cho người nhận bảo lãnh.
Từ những phân tích trên đây cho thấy, khi ngân hàng thực hiện bảo
lãnh thì sẽ có các quan hệ sau đây phát sinh:
- Quan hệ giữa ngân hàng với bên nhận bảo lãnh;

8
- Quan hệ dịch vụ bảo lãnh giữa tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với
khách hàng (bên được bảo lãnh) phát sinh do thỏa thuận giữa các bên trong
việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho khách hàng và nghĩa vụ
hoàn trả của khách hàng với tổ chức tín dụng.
Vậy bảo lãnh ngân hàng dù được thể hiện dưới hình thức là thư bảo
lãnh hay hợp đồng bảo lãnh hay các hình thức pháp luật khác không cấm phù
hợp với thông lệ quốc tế thì về bản chất đều là sự thể hiện của một hợp đồng
bảo lãnh giữa các bên. Ngoài ra việc phân định rõ hai loại quan hệ tồn tại
song song trên có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định thẩm quyền của tòa
án giải quyết các tranh chấp trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng.

Trong quan hệ bảo lãnh ngân hàng, việc thực hiện nghĩa vụ trước tiên
thuộc về bên được bảo lãnh, trường hợp bên được bảo lãnh không có khả
năng thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình thì bên bảo
lãnh mới có nghĩa vụ thực hiện thay, tức là bên bảo lãnh được coi như có vai
trò "dự bị" trong việc thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, nếu bên nhận bảo lãnh
miễn thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh thì bên được bảo lãnh vẫn phải tiếp
thực thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa
thuận hoặc pháp luật qui định phải liên đới thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, hoặc
trong trường hợp một trong số các tổ chức tín dụng cùng bảo lãnh liên đới cho
một nghĩa vụ của khách hàng được miễn việc thực hiện phần nghĩa vụ của mình
thì những tổ chức tín dụng khác vẫn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của họ
(Điều 19, Quy chế bảo lãnh Ngân hàng Nhà nước ban hành theo Quyết định
số 26/2006/QĐ-NHNN ngày 26/6/2006 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước).
1.1.2. Chức năng của bảo lãnh ngân hàng
Bảo lãnh không những ngăn chặn và hạn chế các rủi ro phát sinh khi
thực hiện các giao dịch thương mại mà còn bù đắp những thiệt hại về mặt tài
chính cho người thụ hưởng một cách nhanh chóng và chắc chắn khi có rủi ro

9
xảy ra và người được bảo lãnh không thực hiện hoặc không thực hiện đầy đủ
nghĩa vụ của mình. Cụ thể bảo lãnh ngân hàng có ba chức năng sau:
Bảo lãnh là biện pháp bảo đảm nghĩa vụ
Đây là chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh. Trong các giao dịch
thương mại đặc biệt là trong thương mại quốc tế các đối tác thường không
hiểu biết về nhau nhiều nên cần phải có sự đảm bảo của các ngân hàng ở các
quốc gia khác nhau đã thiết lập quan hệ đại lý với nhau đứng ra đảm bảo.
Bằng việc cam kết chi trả bồi thường khi xảy ra các biến cố vi phạm hợp đồng
của người được bảo lãnh, các ngân hàng phát hành bảo lãnh đã tạo ra một sự
đảm bảo chắc chắn cho người thụ hưởng.
Bảo lãnh được sử dụng như là một công cụ tài trợ

Bảo lãnh không chỉ là công cụ đảm bảo an toàn cho người thụ hưởng
mà còn là công cụ tài trợ về mặt tài chính cho người được bảo lãnh. Trong rất
nhiều trường hợp, nhờ có bảo lãnh mà người được bảo lãnh không phải xuất
quỹ, được thu hồi vốn nhanh, được kéo dài thời gian thanh toán hàng hóa,
dịch vụ, nghĩa vụ nộp thuế… Như vậy, bảo lãnh ngân hàng đã tạo điều kiện
cho khách hàng được hưởng những thuận lợi về ngân quỹ như khi cho vay
thực sự.
Bảo lãnh là công cụ thúc đẩy thực hiện hợp đồng
Ngoài hai chức năng là công cụ đảm bảo và công cụ tài trợ bảo lãnh
ngân hàng còn có chức năng thúc đẩy thực hiện hợp đồng.
Khi ngân hàng đứng ra bảo lãnh, ngân hàng phát hành bảo lãnh cũng
thường xuyên theo dõi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng của người
được bảo lãnh và thúc đẩy họ thực hiện hợp đồng. Đối với người được bảo
lãnh, khi vi phạm hợp đồng họ luôn phải đối mặt với việc hoàn trả ngân hàng
số tiền mà ngân hàng đã trả thay với lãi suất cao hơn nhiều so với lãi suất đi
vay thông thường đồng thời còn bị phạt tiền. Mà quan trọng hơn nữa là họ sẽ

10
mất uy tín đối với ngân hàng và đối tác kinh doanh điều này ảnh hưởng rất
lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. Do vậy bảo lãnh sẽ giúp họ có
ý thức thực hiện hợp đồng.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA BẢO LÃNH THANH TOÁN NGÂN HÀNG
1.2.1. Khái niệm về bảo lãnh thanh toán ngân hàng
Bảo lãnh thanh toán là cam kết của ngân hàng với bên nhận bảo lãnh,
về việc sẽ thực hiện nghĩa vụ thanh toán thay cho khách hàng trong trường
hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ thanh
toán của mình khi đến hạn.
Bảo lãnh này thường được dùng trong các hợp đồng mua bán thiết bị
hàng hóa trả chậm. Quan hệ giữa người bán và người mua ở đây thực chất là
quan hệ tín dụng thương mại, theo đó người mua chấp nhận trả tiền hàng hóa

theo kỳ hạn nợ cụ thể. Để bảo vệ mình trước rủi ro không thanh toán đầy đủ
và đúng hạn của người mua, người bán có thể yêu cầu một bảo lãnh trả chậm
của ngân hàng. Ngân hàng phát hành bảo lãnh thanh toán cam kết thanh toán
cho người bán toàn bộ số tiền người mua đã cam kết trả chậm khi người mua
không thanh toán đầy đủ, đúng hạn cho người bán số tiền đã cam kết.
Bảo lãnh thanh toán ngân hàng được dùng phổ biến ở các nước đang
phát triển và có thể được sử dụng thay thế cho tín dụng chứng từ. Nó có ưu
điểm là bảo vệ lợi ích cho người bán đồng thời cũng giúp giảm áp lực về vốn
cho người mua. Ngoài ra bảo lãnh thanh toán ngân hàng phát triển cũng chính
là làm tăng uy tín của ngân hàng, giúp hoạt động ngân hàng phát triển. Các
doanh nghiệp nhỏ và vừa bị hạn chế về vốn, chưa có nhiều uy tín trên thương
trường, hoạt động bảo lãnh thanh toán của ngân hàng sẽ giúp các doanh
nghiệp tận dụng được cơ hội kinh doanh, tiếp cận thị trường tốt hơn, nâng cao
hiệu quả kinh doanh của chính mình và của nền kinh tế.

11
1.2.2. Đặc điểm của bảo lãnh thanh toán ngân hàng
1.2.2.1. Bảo lãnh thanh toán ngân hàng là mối quan hệ đa phương
Nghiệp vụ bảo lãnh thanh toán có sự tham gia của ít nhất ba chủ
thể là: ngân hàng bảo lãnh thanh toán, người được bảo lãnh và người nhận
bảo lãnh. Do đó một nghiệp vụ bảo lãnh thanh toán không chỉ đơn thuần là
quan hệ giữa ngân hàng bảo lãnh và người được bảo lãnh mà còn bao hàm
nhiều mối quan hệ giữa ngân hàng bảo lãnh thanh toán và người nhận bảo
lãnh. Trong đó quan hệ giữa người được bảo lãnh và người nhận bảo lãnh
là mối quan hệ gốc, là cơ sở phát sinh yêu cầu bảo lãnh. Trong mối quan
hệ đó, người được bảo lãnh có nghĩa vụ bắt buộc phải thực hiện đối với
người nhận bảo lãnh. Tùy từng loại hợp đồng mà nghĩa vụ đó có thể là
nghĩa vụ tài chính như nghĩa vụ trả nợ, nghĩa vụ đóng thuế hoặc là nghĩa
vụ phi tài chính như nghĩa vụ cung ứng hàng hóa, dịch vụ, nghĩa vụ bảo
hành sản phẩm

Ngoài ra, nếu nghiệp vụ bảo lãnh thanh toán còn xuất hiện thêm các
bên khác nữa như ngân hàng xác nhận bảo lãnh thì còn xuất hiện thêm các
mối quan hệ khác nữa giữa ngân hàng xác nhận bảo lãnh và ngân hàng bảo
lãnh thanh toán Còn quan hệ giữa ngân hàng và bên nhận bảo lãnh thể hiện
trong thư bảo lãnh do ngân hàng phát hành, quy định những điều kiện để bên
nhận bảo lãnh có thể nhận được thanh toán của ngân hàng trong trường hợp
bên được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ đã cam kết.
Như vậy, hoạt động bảo lãnh thanh toán chỉ hình thành khi có sự thỏa
thuận thống nhất từ cả ba chủ thể trên, được thể hiện cụ thể qua ba hợp đồng
có liên quan đó là hợp đồng gốc, hợp đồng cấp bảo lãnh và hợp đồng bảo lãnh
ngân hàng. Ba hợp đồng này tuy có sự độc lập với nhau song nó vẫn có những
ảnh hưởng qua lại. Đó chính là đặc điểm khác biệt giữa bảo lãnh thanh toán
với các hình thức cho vay và bảo hiểm.

12
1.2.2.2. Bảo lãnh thanh toán ngân hàng mang tính độc lập
Mặc dù mục đích của bảo lãnh ngân hàng là bồi hoàn cho bên nhận
bảo lãnh những thiệt hại từ việc không thực hiện hợp đồng của bên được bảo
lãnh trong quan hệ hợp đồng nhưng việc thanh toán bảo lãnh chỉ hoàn toàn
căn cứ vào các điều khoản và các điều kiện như trong cam kết bảo lãnh. Như
vậy một khi các điều khoản và điều kiện của bảo lãnh được đáp ứng về mặt
pháp lý, bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu thanh toán tiền mà không cần
thiết phải chứng minh các vi phạm của bên được bảo lãnh.
Trong quan hệ giữa ngân hàng và người nhận bảo lãnh, các quyền và
nghĩa vụ của hai bên chỉ bị chi phối duy nhất bởi các điều khoản ghi nhận
trong cam kết bảo lãnh. Bên nhận bảo lãnh chỉ được quyền đòi tiền bảo lãnh
theo bảo lãnh nếu điều kiện ghi nhận trong đó xảy ra và ngân hàng cũng
không thể viện ra các điều khoản trong hợp đồng để từ chối thực hiện nghĩa
vụ của mình. Tuy nhiên, các điều khoản trong hợp đồng gốc chính là căn cứ
phát sinh các điều khoản trong cam kết bảo lãnh. Việc thanh toán của ngân

hàng bảo lãnh không dựa trên mối quan hệ giữa ngân hàng bảo lãnh và người
được bảo lãnh. Tuy nhiên tính độc lập của nghiệp vụ bảo lãnh chỉ mang tính
tương đối. Tùy theo điều kiện của bảo lãnh, tính độc lập của bảo lãnh có thể
rất cao cũng có thể rất thấp. Nếu bảo lãnh yêu cầu kèm theo quyết định của
trọng tài hay tòa án thì nghĩa vụ bảo lãnh của ngân hàng không chỉ căn cứ trên
thỏa thuận giữa ngân hàng bảo lãnh và người nhận bảo lãnh mà còn căn cứ
vào bên thứ ba là tòa án hoặc trọng tài.
Tính độc lập còn thể hiện ở trách nhiệm thanh toán của tổ chức tín
dụng phát hành bảo lãnh. Trách nhiệm này hoàn toàn độc lập đối với mối
quan hệ giữa tổ chức tín dụng và bên được bảo lãnh. Nếu như chứng từ hoàn
toàn phù hợp thì tổ chức tín dụng không thể từ chối thanh toán vì bất cứ lý do
gì nảy sinh trong quan hệ giữa họ và bên được bảo lãnh như: bên được bảo
lãnh phá sản, bên được bảo lãnh vẫn còn nợ ngân hàng…

13
1.2.2.3. Bảo lãnh thanh toán ngân hàng là một hoạt động ngoại bảng
của ngân hàng
Thật vậy, bảo lãnh là việc ngân hàng dùng uy tín của mình để cam kết
thanh toán và chỉ khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết
với bên thứ ba thì ngân hàng mới phải thanh toán thay cho bảo lãnh. Điều này
có nghĩa, khi quyết định bảo lãnh thanh toán cho khách hàng, ngân hàng
không phải xuất tiền ngay nên không ảnh hưởng tới bảng cân đối kế toán và
do đó bảo lãnh được xếp vào hoạt động ngoại bảng. Tuy nhiên, nếu rủi ro xảy
ra, ngân hàng phải thực hiện thanh toán thay cho bên được bảo lãnh thì ngay
lập tức sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới bảng cân đối kế toán. Khoản trả thay này
được xếp vào loại tài sản "xấu" trong nội bảng, cấu thành nên nợ quá hạn.
Luật các Tổ chức tín dụng Việt Nam ghi nhận bảo lãnh là một nghiệp
vụ tín dụng của ngân hàng, nhưng từ việc phân tích đặc điểm trên, ta thấy bảo
lãnh không phản ánh đúng bản chất của tín dụng là chuyển nhượng một lượng
giá trị của chủ thể này sang chủ thể khác. Bảo lãnh chỉ trở thành một hoạt

động tín dụng khi ngân hàng thực hiện nghĩa vụ trả thay cho bên được bảo
lãnh, khi đó bảo lãnh là một khoản cho vay bắt buộc. Ngoài ra, thu nhập của
ngân hàng bảo lãnh là từ việc thu phí (xếp vào các hoạt động dịch vụ) chứ
không dựa trên chênh lệch lãi suất như các hoạt động tín dụng.
Như vậy, nếu hoạt động bảo lãnh có chất lượng kém thì không những
có ảnh hưởng xấu tới uy tín của ngân hàng mà còn có ảnh hưởng trực tiếp tới
khả năng tài chính của ngân hàng. Vì vậy, việc đưa ra quyết định bảo lãnh
đúng đắn là rất quan trọng.
1.2.2.4. Bảo lãnh thanh toán ngân hàng tiến hành trên cơ sở chứng từ
Giao dịch truyền thống của ngân hàng là bằng chứng từ và trên cơ sở
chứng từ, bảo lãnh không phải là một ngoại lệ. Bảo lãnh là một cam kết bằng
văn bản, việc ngân hàng thực hiện các nghĩa vụ tài chính trong bảo lãnh cũng

14
như thực hiện quyền đòi bồi hoàn từ người được bảo lãnh cũng căn cứ vào các
chứng từ. Chỉ cần người thụ hưởng xuất trình đầy đủ chứng từ theo nội dung thư
bảo lãnh thì ngân hàng phải ngay lập tức thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
Dựa vào những đặc điểm nêu trên cần phân biệt hoạt động bảo lãnh
thanh toán ngân hàng với hoạt động thanh toán bằng thư tín dụng (hay còn gọi
là L/C) bởi có nhiều ý kiến cho rằng hình thức bảo lãnh thanh toán ngân hàng
và thanh toán L/C gần như hoàn toàn giống nhau. bảo lãnh thanh toán và L/C
đều dùng để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ thanh toán.
- Đối với L/C: Sau khi ngân hàng đồng ý mở thư bảo lãnh cho người
bán theo yêu cầu của người mua, nghĩa là ngân hàng có trách nhiệm thanh toán
cho người bán khi người bán thực hiện nghĩa vụ nộp chứng từ hợp lệ. Người bán
cũng có thể yêu cầu bên mua mở thư tín dụng không thể hủy ngang có xác
nhận để đảm bảo chắc chắn được thanh toán nếu ngân hàng mở L/C do một
nguyên nhân nào đó không thanh toán.
- Đối với bảo lãnh thanh toán ngân hàng, trước hết bên nhận bảo lãnh
phải yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ của mình và chỉ trong

trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ thì ngân hàng mới thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thanh toán. Còn đối
với L/C ngân hàng phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán ngay sau khi bên bán
hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng mua bán với bên mua thể hiện qua L/C,
điều này có nghĩa là ngân hàng thực hiện thanh toán cho người bán rồi sau đó
mới yêu cầu bên mua thanh toán lại cho mình. Do đó L/C ít rủi ro đối với
người bán nhưng lại nhiều rủi ro đối với ngân hàng.
- Thư bảo lãnh của ngân hàng có thể cấp trực tiếp cho người thụ
hưởng hoặc thông qua ngân hàng địa phương của người thụ hưởng, hình thức
bảo lãnh thanh toán ngân hàng giúp tiết kiệm được chi phí cho người yêu cầu
vì không cần đến ngân hàng trung gian và ngân hàng phát hành thư bảo lãnh.
Trong trường hợp bên nhận bảo lãnh và bên được bảo lãnh ở hai nước khác

15
nhau, bên nhận bảo lãnh có thể yêu cầu thư bảo lãnh do ngân hàng địa
phương phát hành để đảm bảo an toàn khi có nhu cầu thanh toán.
Thanh toán L/C là hình thức phổ biến nhất hiện nay nhưng trong nhiều
năm gần đây hệ thống ngân hàng gặp không ít khó khăn khi khách hàng
không đủ khả năng hoặc cố tình không thanh toán lại cho ngân hàng.
1.3. RỦI RO TRONG NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH THANH TOÁN NGÂN HÀNG
1.3.1. Rủi ro đối với ngân hàng bảo lãnh
Khi ngân hàng phát hành bảo lãnh cho khách hàng đồng nghĩa với
việc ngân hàng chấp nhận trả thay cho khách hàng nếu họ không thực hiện
đúng và đầy đủ nghĩa vụ trong hợp đồng, khi đó ngân hàng có thể chịu tổn
thất, thiệt hại. Rủi ro đối với ngân hàng có thể phát sinh từ nguyên nhân
khách quan từ phía khách hàng do khách hàng không có khả năng thực hiện
nghĩa vụ đối với người thụ hưởng hoặc do nguyên nhân chủ quan từ chính
bản thân ngân hàng gây ra như:
- Do việc thực hiện không đúng quy trình bảo lãnh. Đôi khi còn xem
nhẹ khâu thẩm định, khâu theo dõi kiểm tra tình hình thực hiện nghĩa vụ đã

cam kết của khách hàng.
- Do chất lượng cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu của công việc, trình độ
thẩm định của cán bộ chưa cao, còn thiếu kinh nghiệm nên không đánh giá
chính xác tình hình và khả năng thực hiện hợp đồng của khách hàng ngân
hàng có thể gặp rủi ro không lường trước được.
- Do công nghệ ngân hàng còn thấp, thông tin không đầy đủ cũng là
cản trở đối với ngân hàng. Thiếu hụt thông tin, chất lượng thông tin thấp cán
bộ ngân hàng sẽ không đủ cơ sở để đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh
hiện tại và tương lai, cũng như khả năng thực hiện hợp đồng của khách hàng,
không dự đoán được những biến động có thể xảy ra.

16
Ngoài ra, ngân hàng cũng phải chịu những ảnh hưởng của những yếu
tố khách quan bên ngoài như tình hình diễn biến nền kinh tế trong nước và
quốc tế, tình hình chính trị, pháp luật quốc gia…Tất cả những yếu tố này đều
ảnh hưởng đến chất lượng và nguy cơ rủi ro tiềm ẩn cho hoạt động bảo lãnh
ngân hàng.
1.3.2. Rủi ro đối với bên đƣợc bảo lãnh
Rủi ro đối với bên được bảo lãnh trước hết là rủi ro trong kinh doanh
thương mại đơn thuần. Mặt khác, trong bảo lãnh người được bảo lãnh là
người có nghĩa vụ chính và trực tiếp đối với người thụ hưởng. Vì thế, người
được bảo lãnh sẽ phải đền bù về tài chính nếu trong thời gian hiệu lực của bảo
lãnh có chứng minh sự vi phạm hợp đồng. Hơn nữa, người được bảo lãnh
luôn phải đề phòng trường hợp người thụ hưởng làm chứng từ giả về việc vi
phạm hợp đồng của mình trong thời hạn hiệu lực của bảo lãnh trong khi trên
thực tế bên được bảo lãnh vẫn thực hiện nghiêm túc hợp đồng đã ký kết.
1.3.3. Rủi ro đối với ngƣời thụ hƣởng bảo lãnh
Mặc dù bảo lãnh là một hình thức đảm bảo cho người thụ hưởng tránh
được rủi ro trong các giao dịch thương mại song thực tế người thụ hưởng vẫn
có thể gặp rủi ro trong quá trình bảo lãnh vì người thụ hưởng bảo lãnh bị chi

phối nhiều bởi khả năng tài chính của ngân hàng bảo lãnh. Nếu ngân hàng bảo
lãnh gặp rủi ro và có thể phá sản lúc đó người thụ hưởng cũng phải gánh chịu
rủi ro.
1.4. VAI TRÒ CỦA NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH THANH TOÁN NGÂN HÀNG
Bảo lãnh ngân hàng nói chung và bảo lãnh thanh toán ngân hàng nói
riêng ngày càng phát triển và đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế,
hoạt động này không chỉ đem lại nguồn thu ngày càng lớn cho tổ chức tín
dụng, mà quan trọng hơn nó đem lại rất nhiều tiện ích cho khách hàng cũng
như sự tin tưởng của các chủ thể khi giao kết hợp đồng.

17
1.4.1. Đối với ngân hàng
Trước hết, bảo lãnh giúp cho ngân hàng đa dạng hóa danh mục sản
phẩm dịch vụ nhờ đó ngân hàng có thể giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh
doanh. Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt thì việc phát triển các
loại hình sản phẩm dịch vụ hiện đại là một yêu cầu cấp bách đối với các ngân
hàng. Bảo lãnh là một trong những nghiệp vụ không chỉ thúc đẩy hoạt động kinh
doanh của ngân hàng mà còn giúp cho ngân hàng tăng uy tín trên thương trường.
Thứ hai, ngân hàng sẽ thu được một khoản thu nhập lớn thu được từ
phí bảo lãnh khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh. Đây là một khoản thu chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng thu từ dịch vụ của một ngân hàng thương mại hiện đại.
Việc cấp bảo lãnh không đòi hỏi ngân hàng phải cấp vốn ngay mà chỉ dùng uy
tín của mình đứng ra bảo lãnh cho khách hàng do đó ngân hàng chưa phải sử
dụng đến vốn của mình. Hơn nữa ngân hàng cũng rất ít khi phải đứng ra bồi
hoàn bảo lãnh nên hầu như ngân hàng không sử dụng vốn của mình, không
phải trả chi phí cho huy động vốn.
Thứ ba, theo quy định của từng ngân hàng khi muốn được bảo lãnh thì
khách hàng phải có một khoản ký quỹ tại ngân hàng trong suốt thời gian bảo
lãnh. Khoản tiền này ngân hàng có thể sử dụng để cho vay mà không phải trả
lãi hoặc trả lãi không thời hạn cho người được bảo lãnh. Đây là một nguồn

vốn rẻ, ổn định và an toàn của ngân hàng.
1.4.2. Đối với doanh nghiệp
Đối với bên thụ hưởng: Nhờ có bảo lãnh họ có thể yên tâm ký kết và
thực hiện hợp đồng. Trong trường hợp có rủi ro xảy ra hợp đồng không thực
hiện được thì họ sẽ được ngân hàng bồi hoàn ngay lập tức khi họ xuất trình
đầy đủ chứng từ chứng minh sự vi phạm của bên được bảo lãnh mà ngân hàng
không được viện dẫn lý do nào. Hơn nữa nhờ có bảo lãnh mà họ tiết kiệm được
thời gian và chi phí tìm hiểu bạn hàng, không bị bỏ lỡ cơ hội kinh doanh.

18
Đối với bên được bảo lãnh: Bảo lãnh có vai trò rất lớn đối với bên
được bảo lãnh. Trước hết họ được cung cấp một khoản vay với chi phí nhỏ
hơn nhiều so với việc đi vay ngân hàng thương mại thậm chí họ còn tiết kiệm
được một khoản vốn đáng kể. Hơn nữa họ còn được các chuyên gia của ngân
hàng giúp phân tích đánh giá việc sử dụng vốn sao cho có hiệu quả.
Mặt khác, bảo lãnh ngân hàng còn tạo ra cơ hội kinh doanh cho các
doanh nghiệp. Nhất là đối với các doanh nghiệp chưa có uy tín trên thị trường
khó có thể ký kết được hợp đồng, đặc biệt với đối tác nước ngoài. Chính vì
vậy bảo lãnh ngân hàng giúp họ có thể tham gia ký kết hợp đồng thương mại
nhất là các giao dịch thương mại quốc tế. Đồng thời bảo lãnh cũng khuyến
khích và thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng vốn kinh doanh có hiệu quả để
tăng thêm uy tín trên thị trường.
Đối với nền kinh tế: Bảo lãnh thực sự là chất xúc tác tạo điều kiện
thúc đẩy sản xuất phát triển kinh tế. Bảo lãnh đáp ứng nhu cầu vốn của nền
kinh tế để mở rộng sản xuất kinh doanh. Các hoạt động bảo lãnh vay vốn
nước ngoài mua máy móc vật tư thiết bị sản xuất theo phương thức trả chậm
có bảo lãnh của ngân hàng tạo điều kiện mạnh mẽ để thu hút vốn, đặc biệt là
đối với các nước đang phát triển để giúp các nước này có điều kiện ứng dụng
công nghệ tăng năng suất lao động.
Việt Nam đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hiện đại hóa,

nguồn vốn đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế. Bảo lãnh
ngân hàng có thể giúp cho các doanh nghiệp thu hút được nguồn vốn đầu tư
đặc biệt là những nguồn vốn rẻ với thời hạn dài từ trong nước và nước ngoài.
1.5. NGHIỆP VỤ BẢO LÃNH CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI THUỘC
KHỐI LIÊN MINH CHÂU ÂU
Các qui định pháp luật về ngân hàng thương mại của Liên Minh Châu
Âu: tại Chỉ thị 2006/48/EC của Âu Châu nghị viện và Hội đồng Châu Âu

19
được áp dụng ở các nước như Anh, Thụy Điển, Ba Lan, Úc, Đức, Pháp, Tây
Ban Nha, Bồ Đào Nha, Đan Mạch, Ý, Hungary, Ba Lan, Phần Lan…
1.5.1. Các yêu cầu chung đối với bảo lãnh
Đối với bảo hộ tín dụng phát sinh từ một khoản bảo lãnh sẽ được công
nhận, các điều kiện sau cần phải được thỏa mãn:
- Bảo hộ tín dụng là trực tiếp;
- Phạm vi bảo hộ tín dụng sẽ được xác định một cách rõ ràng và
hiển nhiên;
- Hợp đồng bảo hộ tín dụng không chứa bất kỳ điều khoản nào mà để
thỏa mãn điều khoản đó lại nằm ngoài quyền kiểm soát trực tiếp của bên cho
vay mà: (i) cho phép bên cung cấp bảo hộ tín dụng đơn phương hủy bỏ bảo hộ
tín dụng; (ii) tăng chi phí bảo hộ cần thiết hậu quả sự suy giảm chất lượng tín
dụng của rủi ro tổn thất được bảo hộ; (iii) có thể ngăn bên cung cấp bảo hộ tín
dụng khỏi bị bắt buộc phải thanh toán hết đúng hạn khi bên giao ước ban đầu
không thể thanh toán đúng hạn; (iv) có thể cho phép thời hạn thanh toán bảo
hộ tín dụng được giảm bởi bên cung cấp bảo hộ tín dụng;
- Phải có hiệu lực pháp lý trong tất cả các vi phạm quyền lực liên quan
tại thời điểm kết thúc thỏa thuận tín dụng (Phụ lục số VIII, phần 2 điều 2,
điểm 14 Chỉ thị 2006/48/EC của Âu châu nghị viện và Hội đồng Châu Âu).
Qui định trên khá tương đồng với qui định về nghiệp vụ bảo lãnh của
Việt Nam. Tổ chức tín dụng cấp bảo lãnh được phép linh hoạt trong việc thu

phí tùy theo chất lượng tín dụng hoặc rủi ro tổn thất của bảo hộ. Việc ra quyết
định cấp bảo lãnh phải nằm trong tầm kiểm soát của tổ chức tín dụng tức là tổ
chức tín dụng cấp bảo lãnh phải có được đầy đủ các thông tin về khách hàng,
khách hàng có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết. Tổ chức tín
dụng được phép đơn phương tăng hoặc giảm mức phí nếu chứng minh được
có rủi ro tín dụng sẽ xẩy ra, điều này khác với qui định của Việt Nam, các

×