Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore Luận văn ThS Luật Kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (697.87 KB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






TRỊNH THỊ THU HIỀN




SO SÁNH PHÁP LUẬT VỀ TRUNG TÂM TRỌNG TÀI VIỆT NAM VÀ
SINGAPORE


Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 01 07


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Lê Mai Thanh





Hà Nội – 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ
Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN



Trịnh Thị Thu Hiền














DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


STT
KÝ HIỆU

NỘI DUNG TỪ VIẾT TẮT
1.
FTAC
:
Hội đồng Trọng tài Ngoại thương
2.
HĐTT
:
Hội đồng trọng tài
3.
IAA
:
Đạo luật trọng tài quốc tế
4.
LTM
:
Luật thương mại
5.
MAC
:
Hội đồng Trọng tài Hàng hải
6.
SIAC
:

Singapore International Arbitral Centre
(Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore)
7.
TTTM
:
Trọng tài thương mại
8.
TTTT
:
Trung tâm trọng tài
9.
TTV
:
Trọng tài viên
10.
VIAC
:
Vietnam International Arbitral Centre
(Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam)















DANH MỤC CÁC BẢNG

SỐ HIỆU
BẢNG
TÊN BẢNG
TRANG
2.1.
Tranh chấp VIAC đã giải quyết từ năm 2006 đến năm 2013
40
2.2.
Tranh chấp SIAC đã giải quyết từ năm 2006 đến năm 2013
45
MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC CÁC BẢNG
LỜI MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu 3
3. Mục đích và Nhiệm vụ nghiên cứu 4
4. Phạm vi nghiên cứu 4
5. Phương pháp nghiên cứu 5
6. Những điểm mới của luận văn 5
7. Kết cấu của luận văn 5
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VÀ TRUNG
TÂM TRỌNG TÀI 7

1.1. Khái quát về trọng tài thương mại 7
1.1.1. Khái niệm và vai trò của trọng tài thương mại 7
1.1.3. Trung tâm trọng tài thương mại theo Pha
́
p luâ
̣
t Viê
̣
t Nam và Singapore 17
1.2. Tổ chức và hoạt động của các Trung tâm trọng tài Việt Nam và Singapore 24
1.2.1. Khái lược về Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) và Trung tâm
trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) 24
1.2.2. Căn cứ thành lập và chấm dứt hoạt động của trung tâm trọng tài 27
1.2.3. Mục tiêu nhiệm vụ và quyền hạn của Trung tâm trọng tài 28
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 30
CHƢƠNG 2: SO SÁNH THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRUNG TÂM
TRỌNG TÀI QUỐC TẾ VIỆT NAM (VIAC) VÀ TRUNG TÂM TRỌNG TÀI
QUỐC TẾ SINGAPORE (SIAC) 32
2.1. So sánh căn cứ thành lập và hoạt động của hai trung tâm trọng tài thương mại 32
2.1.1. Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) 32
2.1.2. Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) 36
2.1.3. Kinh nghiệm cho Việt Nam 38
2.2. So sánh thực trạng pháp luật về thẩm quyền giải quyết tranh chấp tại hai Trung
tâm trọng tài 39
2.2.1. Thực trạng về thẩm quyền giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài Quốc
tế Việt Nam 39
2.2.2. Thực trạng về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trung tâm trọng tài
Quốc tế Singapore 44
2.2.3. Kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam 46
2.3. Thực trạng áp dụng quy tắc tố tụng giải quyết tranh chấp tại Trung tâm trọng tài

Quốc tế Việt Nam và Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore 47
2.3.1. Thực trạng áp dụng quy tắc tố tụng tại Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam
(VIAC) 48
2.3.2. Thực trạng áp dụng quy tắc tố tụng tại Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore
(SIAC) 55
2.3.3. Kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam 68
2.4. Đánh giá hiệu lực quyết định trọng tài của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt
Nam (VIAC) và Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) 70
2.4.1. Hiệu lực quyết định trọng tài của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam 70
2.4.2. Hiệu lực quyết định trọng tài của Trung tâm trọng tài Quốc tế Singapore 74
2.4.3. Kinh nghiệm và bài học cho Việt Nam 76
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 77
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRỌNG TÀI
THƢƠNG MẠI VIỆT NAM VÀ KIỆN TOÀN CƠ CHẾ GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI TẠI VIAC 78
3.1. Hoàn thiện Pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam 78
3.1.1. Luật trọng tài 78
3.1.2. Giải pháp đối với pháp luật liên quan 82
3.2. Kiện toàn cơ chế nhằm nâng cao vai trò của trung tâm trọng tài Việt Nam 83
3.2.1. Kiện toàn cơ chế Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) 83
3.2.2. Tăng cường phối hợp giữa trọng tài và các cơ quan liên quan nhằm phát huy
vai trò trọng tài tại Việt Nam 84
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 89
KẾT LUẬN 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong thời đại ngày nay, toàn cầu hóa và khu vực hóa đang diễn ra ngày càng
sâu sắc mà không một quốc gia nào có thể đứng ngoài. Các quan hệ kinh tế quốc tế
trở nên sôi động hơn bao giờ hết và có tác động to lớn đến sự phát triển của các
quốc gia trên thế giới. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường trong xu
hướng hội nhập kinh tế quốc tế đã tạo điều kiện cho các quan hệ thương mại phát
triển, đồng thời các tranh chấp phát sinh từ các quan hệ này tăng nhanh chóng với
tính chất ngày càng phức tạp. Mặc dù tranh chấp không phải là điều mong muốn
của các thương nhân và họ đã rất cẩn trọng trong việc áp dụng các biện pháp nhằm
loại bỏ tranh chấp, song các bên không thể khẳng định rằng sẽ không có bất kỳ
tranh chấp nào xảy ra trong các thương vụ mà họ tham gia. Vì vậy, điều quan trọng
mà các thương nhân cần nhìn nhận trước đó là phương pháp nào cần thực hiện nếu
có tranh chấp phát sinh. Hiện nay, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, các hình thức
giải quyết tranh chấp phổ biến đang được sử dụng bao gồm: thương lượng, hòa giải,
tòa án, trọng tài. Thực tế đã đặt ra nhu cầu hoàn thiện các phương thức giải quyết
tranh chấp thương mại hiệu quả và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Trên thế giới, phương thức trọng tài giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt
động thương mại đã trở nên thông dụng. Tại Việt Nam, phương thức giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài cũng được chú trọng. Từ những năm 1960, Hội đồng
Trọng tài Ngoại thương và Hội đồng Trọng tài Hàng hải Việt Nam bên cạnh Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã đi vào hoạt động. Để kiện toàn căn cứ
giải quyết tranh chấp kinh tế bằng trọng tài nói riêng, và hoàn thiện hệ thống giải
quyết tranh chấp nói chung, ngày 25/02/2003, Pháp lệnh Trọng tài thương mại đã
được Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành, có hiệu lực từ ngày 01/7/2003. Pháp
lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 đáp ứng điều kiện kinh tế - xã hội thời điểm
đó, cũng như tương thích với pháp luật quốc tế, các điều ước mà Việt Nam tham
gia. Nhằm hoàn thiện hơn pháp luật về trọng tài thương mại, ngày 17 tháng 6 năm
2010, Quốc hội đã ban hành Luật Trọng tài thương mại 2010, bắt đầu có hiệu lực từ

2


ngày 1 tháng 1 năm 2011. Luật Trọng tài thương mại 2010 tiếp tục giải quyết những
vấn đề chưa được ghi nhận thấu đáo trong Pháp lệnh: phạm vi thẩm quyền giải
quyết tranh chấp của trọng tài, vấn đề lựa chọn quy tắc tố tụng trọng tài trong giải
quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài, vấn đề xem xét thỏa thuận trọng tài,
Luật Trọng tài thương mại 2010 đã khắc phục được những hạn chế của Pháp
lệnh Trọng tài thương mại năm 2003; là căn cứ đảm bảo áp dụng hiệu quả các quy
tắc tố tụng trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại. Tuy nhiên, hình thức
giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài thương mại Việt Nam
vẫn chưa được các cá nhân, tổ chức áp dụng nhiều trên thực tế. Nguyên nhân xuất
phát từ khung pháp luật và cơ chế hoạt động của các trung tâm trọng tài tại Việt
Nam gây sự thiếu tin tưởng cho các cá nhân, doanh nghiệp. So với các hình thức
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thông dụng trên thế giới, cơ cấu tổ
chức và hoạt động của các trung tâm trọng tài chuyên nghiệp hơn, do đó, các cá
nhân và doanh nghiệp tin tưởng sử dụng hình thức giải quyết tranh chấp này hơn.
Để phát huy hiệu quả hình thức giải quyết tranh chấp tại trọng tài trong điều
kiện gia tăng xung đột quyền lợi của các chủ thể khi tham gia kinh tế thị trường
cũng như trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; cần có những nghiên cứu tương
quan so sánh với pháp luật trọng tài các nước để từ đó rút ra ca
́
c bài h ọc kinh
nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng hình thức trọng tài tại Việt Nam. Hiện nay,
Singapore la
̀

̣
t quốc gia co
́
nền kinh tế pha
́
t triê

̉
n tương đối nhanh (là một trong
bốn con rồng cu
̉
a C hâu A
́
). Vơ
́
i mô
̣
t nươ
́
c co
́
nền kinh tế pha
́
t triê
̉
n như vâ
̣
y , các
tranh chấp liên quan đến hoa
̣
t đô
̣
ng thương ma
̣
i la
̀


̣
t điều không tra
́
nh kho
̉
i .
Singapore la
̀
nươ
́
c đầu tiên trong khu vư
̣
c a
́
p du
̣
ng tro
̣
ng ta
̀
i quốc tế đê
̉
gia
̉
i quyết ca
́
c
tranh chấp thương ma
̣
i va

̀
đa
̣
t đươ
̣
c nhiều hiê
̣
u qua
̉

̀
viê
̣
c a
́
p du
̣
ng na
̀
y . Từ những
kết quả mà Singapore đã đạt được chúng ta có thể tìm ra được những bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam trong quá trình hoàn thiện cơ chế về trung tâm trọng tài tại
Việt Nam.
Từ những phân tích trên, tác giả đã chọn đề tài: “So sánh pháp luật về trung
tâm trọng tài Việt Nam va
̀
Singapore” làm đề tài nghiên cứu luận văn của mình.

3


2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề trọng tài có thể nói không phải là vấn đề hoàn toàn mới ở Việt Nam.
Xung quanh vấn đề này đã có rất nhiều công trình nghiên cứu khoa học do các nhà
khoa học pháp lý của Việt Nam thực hiện. Nhất là trong những năm trở lại đây, khi
xây dựng pháp luật trọng tài thương mại đang đặt ra một yêu cầu cấp thiết thì vấn
đề này càng được quan tâm, nghiên cứu nhiều hơn. Các công trình nghiên cứu đề tài
này được thực hiện dưới nhiều hình thức và những góc độ khác nhau.
Một số luận văn thạc sỹ đã nghiên cứu liên quan đến vấn đề trọng tài như:
luận văn thạc sỹ “Tác động của những quy định mới trong Luật trọng tài thương
mại tới hoạt động giải quyết tranh chấp thương mại tại trọng tài ở Việt Nam” của
Nguyễn Thị Thanh Huyền năm 2012; luận văn thạc sỹ “Pháp luật về thi hành phán
quyết của trọng tài thương mại ở Việt Nam – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”
của Nguyễn Mạnh Cường năm 2012; luận văn thạc sỹ “Biện pháp khẩn cấp tạm
thời trong tố tụng trọng tài thương mại – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của
Đặng Thị Minh Ngọc năm 2013; luận văn thạc sỹ “Những nguyên tắc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thương mại” của Nguyễn Thị Hiển năm 2013.
Ngoài ra, còn có những bài viết đăng trên tạp chí nghiên cứu về trọng tài dưới
nhiều khía cạnh khác nhau như PGS.TS Phạm Hữu Nghị có bài “Về cơ chế giải
quyết tranh chấp kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay” đăng trên báo đời sống
pháp luật số ra ngày 23/8/2010; LS Trần Hữu Huỳnh có bài “Pháp luật trọng tài
thương mại những thử thách phía trước” đăng trên báo Tiền Phong số ra ngày
20/7/2011.
Mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề trọng tài
thương mại, nhưng chủ yếu là những công trình nghiên cứu xem xét một vài khía
cạnh liên quan đến trọng tài hoặc pháp luật về trọng tài Việt Nam nói chung mà
chưa có công trình nghiên cứu so sánh pháp luật về trung tâm trọng tài như một
thiết chế giải quyết tranh chấp từ kinh nghiệm của các nước có trung tâm trọng tài
hoạt động hiệu quả như Singapore. Vì vậy, có thể nói đây là công trình nghiên cứu
so sánh một cách đầy đủ và toàn diện các vấn đề về pháp luật trung tâm trọng tài.


4

3. Mục đích và Nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận
và thực tiễn áp dụng của pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam và Singapore
cũng như tổ chức và hoạt động của thiết chế trọng tài, từ đó tìm ra những bài học và
khả năng ứng dụng tại Việt Nam nhằm nâng cao hiệu quả hình thức giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại bằng trọng tài.
Để đạt được mục đích này, luận văn đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
- Nhận diện cách tiếp cận, mục tiêu, nguyên tắc và các tiêu chí xây dựng
pháp luật trọng tài Việt Nam và Singapore; trên cơ sở đó phân tích, so sánh
nhằm rút ra những kinh nghiệm hữu ích hoàn thiện pháp luật trọng tài thương
mại Việt Nam. Bên cạnh đó, luận văn cũng chú ý phân tích tính tương thích với
Luật mẫu về trọng tài thương mại làm căn cứ cho quá trình hoàn thiện thiết chế
trọng tài tại Việt Nam.
- Phân tích thực trạng tổ chức và hoạt động của Trung tâm trọng tài
Singapore; so sánh với Trung tâm trọng tài quốc tế bên cạnh Phòng thương mại và
công nghiệp Việt Nam (VIAC) cũng như thực tế giải quyết tranh chấp của các trung
tâm trọng tài, từ đó rút ra kinh nghiệm kiện toàn cơ cấu hoạt động Trung tâm trọng
tài của Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp cụ thể để hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại
Việt Nam và kiện toàn cơ chế trung tâm trọng tài giải quyết tranh chấp như Trung
tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC).
4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào việc so sánh Luật trọng
tài thương mại Singapore hiện hành với thiết chế trọng tài trung tâm là Trung
tâm trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC) và pháp luật Trọng tài thương mại hiện
hành của Việt Nam với thiết chế trọng tài trung tâm là Trung tâm trọng tài
Quốc tế Việt Nam (VIAC).


5

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết những vấn đề nêu trên, tác giả đã vận dụng phương pháp luận
biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác- Lênin; quán triệt quan điểm, chủ trương của
Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, về đảm bảo quyền tự do kinh doanh, về việc hoàn thiện hệ thống các cơ quan
tài phán kinh tế.
Với mục đích của đề tài là So sánh pháp luật về trung tâm trọng tài của Việt
Nam với pháp luật về trung tâm trọng tài thương mại Singapore trên cơ sở các tiêu
chí cụ thể theo pháp luật trọng tài thương mại của Việt Nam và Singapore. Đối với
yêu cầu của đề tài như trên, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp trong quá
trình nghiên cứu như sau: phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp khái quát hóa để làm rõ nội
dung đề tài.
6. Những điểm mới của luận văn
Kết quả nghiên cứu đề tài cho thấy những đóng góp mới của luận văn tập
trung vào một số vấn đề sau đây:
Về mặt lý luận, luận văn đã nghiên cứu cách tiếp cận và thể chế hóa các quy
định pháp luật về trọng tài thương mại Singapore – một trong quốc gia có tổ chức
trọng tài được đánh giá hoạt động hiệu quả nhất hiện nay để từ đó xác định những
điểm tương đồng, khác biệt và rút ra kinh nghiệm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
vấn đề này.
Về mặt thực tiễn, luận văn cũng nghiên cứu thực trạng giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại tại hai trung tâm trọng tài lớn ở Việt Nam và Singapore. Từ
việc so sánh thực trạng này, đưa ra những đánh giá “đời sống xã hội” của các quy
định pháp luật về trọng tài và đề xuất kiến nghị nâng cao hiệu quả hoạt động của
trọng tài tại Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được

thiết kế bố cục gồm 3 chương như sau:

6

Chƣơng 1. Cơ sở lý luận về trọng tài thương mại và trung tâm trọng tài
Chƣơng 2. So sánh thực trạng pháp luật về Trung tâm trọng tài quốc tế Việt
Nam (VIAC) và Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore (SIAC)
Chƣơng 3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam và
kiện toàn cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tại VIAC.


























7

CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VÀ
TRUNG TÂM TRỌNG TÀI

1.1. Khái quát về trọng tài thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm và vai trò của trọng tài thương mại
1.1.1.1. Khái niệm Trọng tài thương mại
Trọng tài, xét về mặt ngữ nghĩa, được hiểu là tài phán trung lập, ở đây chỉ
người thứ ba được cử ra làm trung gian để phân xử sự bất đồng giữa hai bên. Với ý
nghĩa này, trọng tài đã xuất hiện từ lâu, có vai trò giải quyết tranh chấp phát sinh
theo yêu cầu của các bên.
Khi thương mại phát triển thì tranh chấp xảy ra là điều không thể tránh khỏi
và các thương gia thường cố gắng tìm ra mọi phương pháp thích hợp để giải quyết
những tranh chấp đó. Trường hợp các bên không thể tự giải quyết được với nhau, vụ
việc sẽ được đưa đến một bên thứ ba trung lập, người thứ ba này thường là người có
kinh nghiệm để giải quyết. Trong thời kì đầu, việc giải quyết của người thứ ba chỉ
dừng lại ở việc tìm hiểu nội dung vụ việc, giải thích các vấn đề mà các bên đang
quan tâm và đưa ra ý kiến để họ tham khảo. Về sau này, xuất phát từ nhu cầu giải
quyết tranh chấp phải dứt điểm, nhanh chóng nên các bên thỏa thuận rằng quyết
định của bên thứ ba giải quyết tranh chấp là quyết định cuối cùng. Đó là tiền thân
của phương thức giải quyết tranh chấp thương mại ngày nay [14].
Hiện nay, TTTM đã trở thành một phương thức giải quyết tranh chấp phổ
biến và được các nhà kinh doanh ưa chuộng, nhất là ở các nước có nền kinh tế thị
trường phát triển. TTTM ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong việc

giải quyết các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại nhờ các ưu thế xuất
phát từ bản chất của trọng tài.
Trong khoa học pháp lý, trọng tài được nghiên cứu dưới những góc độ khác
nhau nhưng chủ yếu dưới hai phương diện sau đây:
Thứ nhất, trọng tài là một phương thức để giải quyết tranh chấp:

8

Theo hiệp hội trọng tài tại Hoa Kỳ: “Trọng tài là cách thức giải quyết tranh
chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một hoặc một số người khách quan xem
xét, giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng có giá trị bắt buộc các bên
tranh chấp phải thi hành” [25].
Theo giáo sư Philipe Fouchard:“Trọng tài là một phương thức giải quyết
tranh chấp, theo đó các bên thỏa thuận giao cho một cá nhân (Trọng tài viên) thẩm
quyền giải quyết tranh chấp phát sinh giữa họ với nhau” [6, tr17].
Cùng quan điểm coi trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp, cuốn
“Đạo đức và kĩ năng hành nghề của Luật sư trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa” đã định nghĩa về trọng tài như sau:“Trọng tài là phương
thức giải quyết tranh chấp, theo đó, hai hoặc nhiều bên đưa vụ tranh chấp của họ
ra trước bên thứ ba trung lập để chủ thể này tiến hành giải quyết tranh chấp theo
những thủ tục đặc trưng của quá trình đó” [8, tr10].
Giáo trình Luật kinh tế trường đại học Luật Hà Nội đưa ra định nghĩa:“Trọng
tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của trọng tài viên với tư
cách là bên thứ ba độc lập, nhằm chấm dứt xung đột bằng việc đưa ra một phán
quyết trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên tranh chấp và có hiệu lực bắt buộc đối
với mỗi bên” [36, tr55].
Luật Mẫu UNCITRAL quy định: “Trọng tài nghĩa là mọi hình thức trọng tài
có hoặc không có sự giám sát của một tổ chức thường trực”.
Pháp lệnh TTTM năm 2003 quy định tại Điều 2:“Trọng tài là phương thức
giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại được các bên thỏa

thuận và được tiến hành theo trình tự, thủ tục do Pháp lệnh quy định”.
Thứ hai, trọng tài là một thiết chế để giải quyết tranh chấp:
Xuất phát từ quan điểm coi trọng tài là một thiết chế tài phán, “Giáo trình Tư
pháp quốc tế của Liên Xô (cũ) có viết: Trọng tài bao gồm những cá nhân được các
bên lựa chọn để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các vụ việc dân sự của họ”
[34, tr384].

9

Theo giáo trình “Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại” của Trường Đại
học Ngoại thương: “Trọng tài thương mại là cơ quan trung gian được các bên
đương sự giao tranh chấp cho để xét xử” [37, tr79].
Ngoài ra, từ điển luật học Anh – Mỹ của Black đã đưa ra khái niệm về trọng
tài dưới góc độ tố tụng, theo đó, trọng tài được nhìn nhận như một quá trình: “Trọng
tài là một quá trình giải quyết tranh chấp do các bên tự nguyện lựa chọn, trong đó
bên thứ ba trung lập (Trọng tài viên) sau khi nghe các bên trình bày, sẽ ra quyết
định có tính chất bắt buộc đối với các bên trong tranh chấp ấy” [38, tr105].
Qua các định nghĩa về trọng tài nêu trên, có thể thấy rằng: Quan điểm coi
trọng tài là một thiết chế để giải quyết tranh chấp gần như thiên về mặt hình
thức nhiều hơn, nhìn nhận sự tồn tại thực tế của tổ chức trọng tài dưới dạng các
Trung tâm Trọng tài - cơ quan tài phán độc lập, tồn tại song song với Tòa án.
Quan điểm coi trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp thiên về mặt bản
chất nhiều hơn, khái quát các đặc trưng của trọng tài khác với các hình thức
giải quyết tranh chấp khác.
Các định nghĩa về trọng tài nêu trên đều có cơ sở lý luận và thực tiễn, chỉ
khác nhau ở mức độ khái quát và góc độ xem xét. Tất cả đều có điểm chung là
Trọng tài chính là công cụ để giải quyết tranh chấp theo thủ tục đặc trưng của nó: do
các bên thỏa thuận, vai trò trung lập, đưa ra quyết định bắt buộc các bên phải thực
hiện… Những đặc trưng này thể hiện bản chất của trọng tài là một phương thức tài
phán tư, kết hợp được hai mặt thỏa thuận và tài phán.

Theo tác giả, để có thể đưa ra một định nghĩa chung nhất về trọng tài, cần có
một cái nhìn tổng quát với sự đánh giá mang tính lịch sử:
- Về mặt thời gian, quan điểm định nghĩa trọng tài thiên về hình thức chủ yếu
tồn tại ở giai đoạn khi trọng tài chưa thực sự phát triển. Cụ thể, ý kiến coi “Trọng tài
bao gồm những cá nhân được các bên lựa chọn để giải quyết các tranh chấp phát
sinh từ các vụ việc dân sự của họ” được nêu ra từ năm 1984; ý kiến cho rằng
“Trọng tài thương mại là cơ quan trung gian được các bên đương sự giao tranh

10

chấp cho để xét xử” nêu trong giáo trình “Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối
ngoại” của trường đại học Ngoại thương xuất bản từ những năm 1994.
Từ điển luật học Black định nghĩa trọng tài cũng có sự thay đổi theo hướng
trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp.
+ Edition 6 (1990): “Trọng tài là quá trình giải quyết tranh chấp do các bên
tự nguyện lựa chọn, trong đó bên thứ ba trung lập (Trọng tài viên) sau khi nghe các
bên trình bày, sẽ ra quyết định có tính chất bắt buộc đối với các bên trong tranh
chấp ấy” [40, tr 105].
+ Edition 2 (2001): “Trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp có
sự tham gia của một hay nhiều bên thứ ba trung lập được chọn bởi các bên tranh
chấp và quyết định của họ có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên” [41, tr41].
Thời gian sau này, các định nghĩa trọng tài đều thiên về mặt bản chất, khẳng
định trọng tài là một phương thức giải quyết tranh chấp.
+ Xét về nội hàm của khái niệm thì quan điểm coi trọng tài là một thiết chế
chưa bao quát được đặc trưng riêng của trọng tài khác với các hình thức giải quyết
tranh chấp khác như thương lượng, hòa giải, tố tụng tư pháp… Mặt khác, việc coi
trọng tài là một thiết chế chỉ đúng nghĩa về mặt pháp lý; nếu xét về mặt tổ chức -
coi trọng tài là một cơ quan tồn tại hiện hữu có phần thiếu chính xác. Bởi lẽ, Ban
thường trực của các TTTT gồm Chính phủ, Phó chủ tịch, các nhân viên giúp việc
không thực hiện chức năng của trọng tài. Khi các bên trong tranh chấp giao quyền

lực cho trọng tài là giao quyền giải quyết tranh chấp cho TTV/HĐTT chứ không
phải giao quyền lực cho TTTT. Các TTV/HĐTT không phải là nhân viên của TTTT,
mà họ chỉ thực hiện những công việc giải quyết tranh chấp khi được các bên yêu
cầu và khi giải quyết xong thì họ hết nhiệm vụ với các bên. Khác với Tòa án là cơ
quan được Nhà nước thành lập để thực hiện quyền lực tư pháp của nhà nước; khi
các bên tranh chấp khởi kiện ra Tòa án, họ không có quyền lựa chọn để giao quyền
lực cho Thẩm phán, việc phân công Thẩm phán thuộc thẩm quyền của Chánh án.
Với lập luận trên, có thể thấy rằng coi trọng tài là phương thức giải quyết
tranh chấp với những đặc trưng riêng của nó là phù hợp nhất.

11

Trong lịch sử, khi kinh tế thị trường với những quy luật cơ bản như quy luật
giá trị, quy luật cạnh tranh… thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động
kinh tế nói chung và thương mại nói riêng, thì trọng tài chủ yếu được sử dụng trong
giải quyết các tranh chấp thương mại. Trong lĩnh vực này, nó tỏ ra phù hợp và ưu
thế hơn so với những cách giải quyết khác. Phạm vi các vụ tranh chấp được giải
quyết bằng phương thức TTTM rộng hay hẹp phụ thuộc vào các quy định trong
pháp luật của mỗi quốc gia, trong đó quan điểm về thương mại có ảnh hưởng rất
quan trọng.
Trên thế giới pháp luật của hầu hết các nước đều quan niệm “thương mại”
theo nghĩa rộng, bao gồm tất cả các hoạt động của thương nhân liên quan đến các
mối quan hệ có bản chất thương mại.
Bộ luật thương mại Thái Lan cũng có phạm vi điều chỉnh khá rộng, bao gồm
mua bán hàng hóa, thuê tài sản, thuê mua tài sản, tín dụng, thế chấp, đại diện, môi
giới, bảo hiểm, công ty, hợp danh…[7].
Trong phần chú thích của Điều 1 Luật Mẫu về TTTM Quốc tế năm 1985 của
UNCITRAL có ghi rõ:
Khái niệm thương nhân cần phải được giải thích theo nghĩa rộng, bao gồm tất
cả các vấn đề phát sinh từ tất cả các quan hệ có bản chất thương mại, dù có hay

không có hợp đồng. Quan hệ có bản chất thương mại bao hàm nhưng không chỉ giới
hạn với các giao dịch sau đây: Bất kỳ giao dịch buôn bán nào nhằm cung cấp, trao
đổi hàng hóa hay dịch vụ, hợp đồng phân phối, đại diện thương mại hay đại lý, các
công việc sản xuất, thuê máy móc thiết bị, xây dựng, tư vấn thiết kế cơ khí, li –
xăng, đầu tư, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm, các hợp đồng khai thác hoặc chuyển
nhượng, liên doanh và các hình thức khác của hợp tác công nghiệp hoặc kinh
doanh, vận tải hàng hóa hoặc hành khách bằng đường không, đường biển, đường sắt
hoặc đường bộ.
Trong khi đó, Luật thương mại năm 1997 của Việt Nam quy định khái niệm
thương mại với nội hàm rất hẹp, chỉ gồm những hành vi do thương nhân tiến hành
liên quan đến hàng hóa và dịch vụ mua bán hàng hóa. Khoản 2 Điều 5 Luật thương

12

mại 1997 quy định: “Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi
thương mại của thương nhân, bao gồm việc mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc
nhằm thực hiện các chính sách kinh tế xã hội”. Khái niệm “thương mại” rất bất cập
này dẫn đến nhiều hành vi có bản chất thương mại đã không được coi là hành vi
thương mại, xét riêng về sự liên quan đến TTTM thì rõ ràng đã thu hẹp thẩm quyền
của TTTM ở Việt Nam.
Khắc phục hạn chế nêu trên, Pháp lệnh TTTM được ban hành năm 2003 đã
đưa ra một khái niệm mới là khái niệm “hoạt động thương mại” và quy định TTTM
có quyền giải quyết mọi tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. Khái
niệm hoạt động thương mại trong pháp lệnh TTTM được hiểu theo một nghĩa rất
rộng, bao gồm hầu như các lĩnh vực hoạt động của thương nhân, từ sản xuất đến lưu
thông, phân phối, từ sản xuất hàng hóa đến cung ứng dịch vụ, từ hoạt động kinh
doanh thông thường đến hoạt động kinh doanh có tính chất đặc thù. Theo quy định
tại Khoản 3 Điều 2 pháp lệnh này thì “ Hoạt động thương mại là việc thực hiện một
hay nhều hành vi thương mại của cá nhân, tổ chức kinh doanh bao gồm mua bán

hàng hóa; cung ứng dịch vụ; phân phối; đại diện; đại lý thương mại; ký gửi; thuê,
cho thuê; thuê mua; xây dựng; tư vấn; kỹ thuật; li- xăng; đầu tư; tài chính, ngân
hàng; bảo hiểm; thăm dò, khai thác; vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường
hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo
quy định của pháp luật”. Về cơ bản, có thể nói, thuật ngữ “hoạt động thương mại”
trong Pháp lệnh TTTM năm 2003 của Nhà nước ta có nội hàm tương tự như khái
niệm thương mại trong luật Mẫu UNCITRAL về TTTM và khái niệm “kinh doanh”
trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 (Khoản 2 Điều 4).
Được ban hành trong điều kiện nhà nước ta đang đẩy nhanh tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế, Luật Thương mại năm 2005 đã định nghĩa “hoạt động thương
mại” với nội hàm như khái niệm nêu trên trong pháp lệnh TTTM, nhưng nội dung
gọn hơn và thể hiện rõ hơn bản chất của thương mại: “Hoạt động thương mại là

13

hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ,
đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”.
Như vậy, có thể nói khái niệm hoạt động thương mại được quy định trong
Pháp lệnh TTTM và Luật Thương mại năm 2005 đã tiếp cận được với pháp luật
quốc tế và pháp luật của các nước trên thế giới, cho phép mở rộng phạm vi các hoạt
động thương mại.
Khoản 1 Điều 3 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 có quy định: “Trọng tài
thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được
tiến hành theo quy định của Luật này”. Có thể nhận thấy, quy định của Luật Trọng
tài thương mại còn khá chung chung. Để có được cách hiểu đầy đủ nhất về trọng tài
thương mại ta có thể đưa ra định nghĩa trọng tài thương mại như sau:
Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp, theo đó các
bên thỏa thuận đưa vụ việc ra trước một bên thứ ba trung lập để xem xét và ra phán
quyết, bên thứ ba này có thể là một trọng tài viên hoặc một hội đồng trọng tài; phán
quyết của bên thứ ba có giá trị bắt buộc thi hành đối với các bên.

1.1.1.2. Vai tro
̀
cu
̉
a tro
̣
ng t ài thương mại trong gii quyt tranh chp kinh doanh
thương ma
̣
i
Cùng với sự chuyển mình mạnh mẽ của nước ta từ hình thức kinh tế tập
trung sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các hoạt động
thương mại giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau cũng như sự giao thương
với các doanh nghiệp nước ngoài ngày càng phát triển. Đặc biệt là khi Nhà nước ta
đang dần dần hoàn thiện một hành lang pháp lý vững chắc, giúp bảo vệ quyền lợi và
lợi ích của các doanh nghiệp khi thực hiện hoạt động kinh doanh, thương mại. Đi
kèm với những bước tiến đó là những nảy sinh trong tranh chấp thương mại giữa
các bên ngày càng nhiều về số lượng và rắc rối trong cách giải quyết tranh chấp.
Điều này đã đặt lên vai những người làm luật một trọng trách nặng nề, đặc biệt là
những người cầm cân nảy mực, đảm bảo sự công bằng cho các bên trước pháp luật.
Bên cạnh hệ thống Tòa án thì Trọng tài là một biện pháp giải quyết tranh chấp tồn
tại từ rất lâu, và ở Việt Nam thì Trọng tài đã từng được thừa nhận vào cuối thế kỷ

14

thứ XIX [7]. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì trọng tài đã chuyển từ một tổ
chức cơ quan hành chính nhà nước có chức năng giải quyết sang một tổ chức có
chức năng tài phán. Đặc biệt là sự ra đời của Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm
2003, và mới đây nhất là Luật Trọng tài thương mại 2010 đã đánh một dấu mốc
quan trọng trong lịch sử phát triển của pháp luật Trọng tài Việt Nam.

Thực tế khi các tranh chấp phát sinh trong các hoạt động thương mại, các
bên có thể thương lượng, hòa giải với nhau để giải quyết vụ việc. Trong trường hợp
các bên không thể tự hòa giải được thì có thể đưa đến cơ quan Trọng tài hoặc Tòa
án. Trong khi đó, trên thực tế có nhiều tranh chấp xảy ra mang yếu tố nước ngoài.
Tuy nhiên, thường các bên e ngại Thẩm phán sẽ ưu ái cho đương sự nước họ hơn.
Còn nếu tiến hành tố tụng ở một nước thứ ba thì thủ tục không hề đơn giản, mặt
khác các bên có thể bỡ ngỡ trước những quy tắc, thủ tục và trình tự tố tụng của quốc
gia thứ ba đó. Ngoài ra, thủ tục tố tụng dù thực hiện ở cơ quan Tòa án nào cũng đòi
hỏi những thủ tục phức tạp, mất nhiều thời gian và tiền bạc. Do đó, trên thực tế,
Trọng tài đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc giải quyết tranh chấp thương
mại, đặc biệt là các tranh chấp thương mại có yếu tố nước ngoài. Cụ thể là:
Thứ nhất, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài rất tôn trọng ý chí của
các bên đương sự. Các bên có quyền lựa chọn trọng tài viên, chọn thủ tục trọng tài
nhằm giải quyết có hiệu quả nhất tranh chấp mà có thể hạn chế được tổn thất về mặt
thời gian cũng như tài chính. Việc giải quyết tranh chấp có thể được tiến hành bởi
một trọng tài viên hay HĐTT tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên.
Thứ hai, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tuy tuân theo ý chí của
các bên nhưng vẫn có sự ràng buộc về mặt pháp lý. Điều đó giúp cho cơ chế giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài hữu hiệu hơn biện pháp hòa giải hay thương lượng.
Nếu như hòa giải hay thương lượng chỉ mang tính khuyến nghị chứ không mang
tính ràng buộc về mặt pháp lý đối với các bên tranh chấp thì quyết định của Trọng
tài mang hiệu lực pháp luật nên các bên có nghĩa vụ thi hành.
Thứ ba, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài linh hoạt hơn Tòa án.
Trong cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, các trọng tài viên được các bên

15

lựa chọn có quyền xem xét và ra quyết định một cách hoàn toàn độc lập trên cơ sở
những chứng cứ, tài liệu mà các bên cung cấp hoặc có được bằng con đường khác
như: tự điều tra xem xét; giám định viên và nhân chứng cung cấp thông tin trên cơ

sở quy định của pháp luật. Chính điều này dễ làm ta liên tưởng đến tố tụng tại Tòa
án. Tuy nhiên, về bản chất quyền lực của Tòa án và Trọng tài khác hẳn nhau. Nếu
như Tòa án đại diện cho quyền lực của Nhà nước thì Trọng tài đại diện cho ý chí
của các bên đương sự. Do đó, khi yêu cầu sự can thiệp của Trọng tài các bên có thể
tự do lựa chọn Trọng tài viên hay các cơ quan trọng tài để giải quyết. Nhưng trong
tố tụng tại Tòa án, các bên không có quyền lựa chọn Tòa giải quyết cũng như lựa
chọn Thẩm phán.
Thứ tư, tố tụng Trọng tài thường nhanh chóng hơn so với tố tụng tại Tòa án.
Đặc điểm của tố tụng Trọng tài là chỉ xét xử một lần và phán quyết có giá trị chung
thẩm, chỉ trong một số trường hợp đặc biệt Tòa án mới xem xét lại quyết định của
Trọng tài. Đối với các tranh chấp thương mại thì sự nhanh gọn của hình thức giải
quyết này là một trong những ưu thế mà các bên ưu tiên lựa chọn.
Thứ năm, Trọng tài có thể xét xử không công khai nếu như các bên đương sự
yêu cầu. Nhờ vậy mà có thể giữ được các bí mật chi tiết, số liệu, thông tin cụ thể mà
các bên tranh chấp không muốn công khai… giúp tránh được những hậu quả khôn
lường và thiệt hại sau này khi các bên kết thúc tranh chấp.
Với những đặc điểm và vai trò như vậy, giải quyết tranh chấp bằng biện
pháp trọng tài đã đáp ứng được yêu cầu giải quyết tranh chấp dân sự nói chung
và thương mại nói riêng đối với các tranh chấp có yếu tố nước ngoài và trong
quan hệ quốc tế. Có thể nói đây là phương thức giải quyết tranh chấp có tính
khả thi và phổ biến nhất.
1.1.2. Pháp luật Việt Nam và Singapore về trọng tài thương mại
1.1.2.1. Pháp luật Việt Nam về trọng tài thương mại
Hiện nay, cơ sở pháp lý chủ yếu cho hoạt động Trọng tài thương mại ở Việt
Nam được xây dựng bởi các quy định trong các văn bản sau đây:

16

- Luật Trọng tài thương mại Việt Nam được Quốc hội nước CHXHCN Việt
Nam thông qua ngày 17/6/2010 tại kỳ họp thứ 7, khóa XII, được công bố ngày

29/06/2010 và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2011.
- Bộ luật Tố tụng Dân sự được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 15/06/2004
có hiệu lực ngày 01/01/2005 (Phần thứ năm: Chương XXV thủ tục giải quyết các
việc dân sự liên quan đến hoạt động Trọng tài thương mại Việt Nam; Phần thứ sáu:
Chương XXI thủ tục xét đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết
định của Trọng tài nước ngoài).
- Luật Thương mại 2005 được Quốc hội khóa XI thông qua ngày 14/06/2005
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2006 quy định việc giải quyết tranh chấp với
hình thức Trọng tài tại Điều 17.
- Luật Thi hành án dân sự năm 2008, trong đó có quy định về tổ chức là thủ
tục thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài được Tòa án Việt Nam công nhận
và cho thi hành tại Việt Nam và Quyết định của Trọng tài thương mại Việt Nam.
- Đối với thiết chế VIAC, áp dụng Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm
trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC).
- Công ước New York 1958 về Công nhận và Thi hành các quyết định trọng
tài nước ngoài, mà Việt Nam là 1 trong 120 thành viên gia nhập ngày 12/9/2005 với
nội dung cơ bản được luật hóa tại Bộ luật Tố tụng dân sự 2004.
1.1.2.2. Pháp luật Singapore về trọng tài thương mại
Hiện nay, hoạt động của Trọng tài thương mại Singapore chủ yếu dựa vào các
quy định pháp luật sau đây làm nền tảng:
- Luật trọng tài năm 1970 (sửa đổi, bổ sung năm 1980);
- Đạo luật Trọng tài Quốc tế (“IAA”), thông qua năm 1994. Đạo luật này
đã được sửa đổi một số lần mà gần nhất là năm 2009. IAA được thiết kế gồm ba
phần: Phần I là điều khoản chung; Phần II chứa các quy định về thủ tục trọng
tài quốc tế, trong đó Luật Mẫu UNCITRAL được ghi nhận là một phần pháp
luật Singapore ngoại trừ Chương VIII của Luật Mẫu về công nhận và cho thi

17

hành phán quyết trọng tài; Sở dĩ như vậy vì Phần III của IAA ghi nhận Công

ước New York về vấn đề này.
- Luật Mẫu UNCITRAL về Trọng tài Thương mại Quốc tế năm 1985.
- Đối với thiết chế SIAC, áp dụng Quy tắc tố tụng trọng tài của Trung tâm
trọng tài Quốc tế Singapore (SIAC).
- Công ước New York 1958 về công nhận và cho thi hành phán quyết trọng
tài nước ngoài.
1.1.3. Trung tâm trọng tài thương mại theo Pha
́
p luâ
̣
t Viê
̣
t Nam và Singapore
1.1.3.1 Thẩm quyền
Về cơ bản, pháp luật về trọng tài của các nước trên thế giới đều quy định cho
trọng tài có một quyền năng rất rộng. Trọng tài có thể giải quyết tất cả các loại tranh
chấp phát sinh từ những quan hệ được thiết lập trên cơ sở bình đẳng và thoả thuận
của các bên.
Trọng tài thương mại được thành lập là để giải quyết các tranh chấp thương
mại. Trọng tài chỉ có thẩm quyền xét xử nếu giữa các bên tồn tại một thỏa thuận
chọn Trọng tài để giải quyết tranh chấp, đó phải là một thỏa thuận trọng tài cụ thể,
rõ ràng và theo đúng quy định của Pháp luật và Quy tắc tố tụng Trọng tài.
Khác với thẩm quyền của Tòa án, thẩm quyền của trọng tài chỉ là thẩm quyền
vụ việc, nếu được các bên có “vụ việc” lựa chọn đích danh. Các nguyên tắc phân
định thẩm quyền theo lãnh thổ, theo trụ sở hoặc chỗ ở của bị đơn và theo sự thỏa
thuận của nguyên đơn không được áp dụng trong tố tụng trọng tài. Thẩm quyền của
trọng tài không được phân định theo lãnh thổ, vì các bên có tranh chấp có quyền
thỏa thuận lựa chọn bất kỳ một tổ chức trọng tài nào để giải quyết tranh chấp cho
họ, không phụ thuộc vào nơi ở cũng như trụ sở của nguyên đơn hay bị đơn, cũng
không phân định theo cấp xét xử, vì chỉ có một cấp trọng tài và lại càng không phân

định theo sự lựa chọn của nguyên đơn, vì trọng tài chỉ có thẩm quyền giải quyết nếu
các bên có thỏa thuận trọng tài.
Khi các bên đã có thỏa thuận đưa vụ tranh chấp ra giải quyết bằng con đường
trọng tài, tức là họ đã trao đổi cho hội đồng trọng tài thẩm quyền giải quyết tranh

18

chấp và phủ nhận thẩm quyền xét xử đó của tòa án, trừ khi thỏa thuận trọng tài vô
hiệu hoặc các bên hủy thỏa thuận trọng tài.
Như vậy, trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp nào
được pháp luật quy định là tranh chấp thương mại và các tranh chấp khác được
pháp luật quy định và các bên có thỏa thuận trọng tài. Nếu thiếu một trong hai điều
kiện trên, vụ việc sẽ không thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài thương mại.
Điều 2 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 quy định trọng tài có thẩm
quyền giải quyết các loại tranh chấp sau đây:
(i). Tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt động thương mại;
(ii). Tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt động
thương mại;
(iii). Tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định được giải quyết
bằng trọng tài.
Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 quy định cụ thể các loại “hoạt
động thương mại” theo hình thức liệt kê, Luật Trọng tài thương mại năm 2010
không hề có quy định nào giải thích khái niệm “hoạt động thương mại” mà khái
niệm hoạt động thương mại khi vận dụng luật, ta phải căn cứ vào quy định pháp luật
có quan hệ gần nhất là Luật Thương mại năm 2005, Khoản 1 Điều 3 của luật này
quy định “hoạt động thương mại” gồm các “hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao
gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt
động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Như vậy, có thể thấy phạm vi của hoạt động
thương mại rất rộng.
So với Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003, phạm vi thẩm quyền của

trọng tài theo quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010 đã được mở rộng đáng
kể, phạm vi giải quyết tranh chấp của trọng tài không chỉ giới hạn là các tranh chấp
liên quan đến lĩnh vực thương mại theo quy định của Pháp lệnh Trọng tài thương
mại năm 2003 mà còn hướng đến các tranh chấp không kể phát sinh từ nghĩa vụ
hợp đồng hay nghĩa vụ ngoài hợp đồng. Tất nhiên là loại trừ các tranh chấp liên
quan đến quyền nhân thân, tranh chấp liên quan đến hôn nhân, gia đình và thừa kế

×