ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LƢƠNG THỊ HÒA
PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI LÝ HẢI QUAN
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LƢƠNG THỊ HÒA
PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI LÝ HẢI QUAN
VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật Kinh Tế
Mã số : 60 38 01 07
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Anh Sơn
Hà Nội – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Lƣơng Thị Hòa
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập và nghiên cứu tại Khoa Luật, Đại học Quốc
gia Hà Nội, đến nay tôi đã hoàn thành bản luận văn tốt nghiệp. Để có đƣợc
kết quả đó, tôi vô cùng cảm ơn TS. Nguyễn Anh Sơn đã giúp đỡ tôi rất nhiều
trong quá trình xác định hƣớng nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo của Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội, các cán bộ nhân viên Trung tâm thông tin - thƣ viện, Đại
học Quốc gia Hà Nội và Thƣ viện Quốc gia Việt Nam cùng bạn bè, gia đình
đã giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn.
Luận văn là công trình nghiên cứu công phu, nghiêm túc, khoa học của
bản thân, nhƣng do khả năng có hạn nên khó tránh khỏi những khiếm khuyết
nhất định. Tôi rất mong sự đóng góp nhiệt tình của các thầy, cô giáo để luận
văn đƣợc hoàn thiện hơn nữa.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠI LÝ HẢI QUAN 6
1.1. Những vấn đề lý luận chung 6
1.1.1. Khái niệm về đại lý hải quan 6
1.1.2. Đặc điểm cơ bản của đại lý hải quan 9
1.1.3. Phân loại đại lý làm thủ tục hải quan 12
1.2. Sự hình thành, phát triển và vai trò của đại lý hải quan trong nền kinh tế 15
1.2.1. Sự hình thành và phát triển đại lý hải quan trên thế giới 15
1.2.2. Sự hình thành và phát triển đại lý hải quan ở Việt Nam 16
1.2.3. Vai trò của đại lý hải quan trong nền kinh tế 21
1.3. Pháp luật về đại lý hải quan 25
1.3.1. Khái quát pháp luật về đại lý hải quan ở Việt Nam 25
1.3.2. Pháp luật về đại lý hải quan của một số nƣớc trên thế giới 29
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẠI LÝ HẢI QUAN Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY 36
2.1. Các nội dung cơ bản của pháp luật về Đại lý hải quan 36
2.1.1. Pháp luật về Chủ thể tham gia hoạt động Đại lý làm thủ tục hải quan . 36
2.1.2. Xác lập tƣ cách Đại lý hải quan 37
2.1.3. Quyền và nghĩa vụ của các bên 42
2.1.4. Hoạt động của Đại lý hải quan 47
2.1.5. Các hành vi vi phạm và chế tài trong hoạt động đại lý hải quan 48
2.1.6. Chấm dứt quan hệ đại lý làm thủ tục hải quan: 50
2.2. Thực trạng hoạt động của Đại lý hải quan ở Việt Nam 51
2.2.1. Phƣơng hƣớng phát triển Đại lý hải quan của các nƣớc trên thế giới 51
2.2.2. Phƣơng hƣớng phát triển Đại lý hải quan của Việt Nam 53
2.2.3. Chủ trƣơng, chính sách của Nhà nƣớc về phát triển Đại lý hải quan 55
2.2.4. Những hạn chế và nguyên nhân tồn tại về hoạt động của Đại lý
hải quan 56
CHƢƠNG 3: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ ĐẠI LÝ HẢI QUAN Ở VIỆT NAM 76
3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về Đại lý hải quan 76
3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đại lý hải quan 79
3.2.1. Giải pháp từ phía cơ quan Hải quan 79
3.2.2. Các giải pháp từ phía Đại lý làm thủ tục hải quan và doanh nghiệp xuất
nhập khẩu 90
KẾT LUẬN 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO 102
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
STT
Chữ viết tắt
Diễn giải
1
AEO
Doanh nghiệp ƣu tiên đặc biệt
2
CBFCA
Hiệp hội các hƣớng giao nhận và đại lý hải quan
Australia
3
CBP
Cơ quan hải quan và bảo vệ biên giới Mỹ
4
FACBA
Hiệp hội đại lý làm thủ tục hải quan Châu Á
5
IATA
Hiệp hội vận tải hàng không quốc tế
6
IFCBA
Hiệp hội đại lý làm thủ tục hải quan Thế giới
7
JCBA
Hiệp hội đại lý làm thủ tục hải quan Nhật Bản
8
NK
Nhập khẩu
9
WCO
Tổ chức hải quan thế giới
10
WTO
Tổ chức thƣơng mại thế giới
11
XK
Xuất khẩu
12
XNK
Xuất nhập khẩu
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Thống kê hoạt động Đại lý hải quan 6 tháng đầu năm 2012 tại 4
Cục Hải quan tỉnh, thành phố 57
- 1 -
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại lý làm thủ tục hải quan, hay còn gọi là đại lý hải quan đƣợc biết
đến nhƣ một hoạt động khai thuê hải quan, là loại hình dịch vụ nằm trong
chuỗi dịch vụ đƣợc cung ứng cho hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá. Trong
bối cảnh thƣơng mại hoá toàn cầu, xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động
dịch vụ này ngày càng phát triển mạnh mẽ về số lƣợng doanh nghiệp tham gia
cung cấp dịch vụ - tạo ra một nghề mới trong xã hội, góp phần thúc đẩy hoạt
động xuất nhập khẩu hàng hoá phát triển, minh bạch hoá quy định về thủ tục
hải quan, chuyên nghiệp hoá khai báo hải quan theo hƣớng chính quy, hiện
đại và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Ở Việt Nam, khái niệm đại lý hải quan đƣợc xuất hiện lần đầu tiên tại
Luật Hải quan 2001. Mặc dù có hiệu lực từ 01/01/2002 nhƣng mãi đến ngày
16/06/2005 Chính Phủ mới ban hành Nghị định số 79/2005/NĐ-CP (đã đƣợc
thay thế bởi Nghị định số 14/2011/NĐ-CP) quy định về điều kiện đăng ký và
hoạt động của đại lý hải quan, Bộ Tài chính ban hành Thông tƣ 73/2005/TT-
BTC hƣớng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định 79/2005/NĐ-CP. Có thể
nói, hệ thống văn bản pháp luật trên bƣớc đầu đã tạo cơ sở pháp lý cho Đại lý
hải quan phát triển, hoạt động có hiệu quả và có tính chuyên nghiệp. Tuy
nhiên, trong một thời gian dài, đã có không ít các nhà kinh doanh, các doanh
nghiệp còn chƣa hiểu đúng và chƣa biết sử dụng các dịch vụ của Đại lý hải
quan, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhiều hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp Việt Nam đã không thành công hoặc không thu đƣợc
kết quả nhƣ mong muốn, phần lớn các doanh nghiệp XNK vẫn trực tiếp tham
gia vào việc giao nhận và thực hiện thủ tục hải quan; tỷ lệ hàng hóa đƣợc
thông quan thông qua doanh nghiệp Đại lý hải quan còn rất thấp. Việc này
- 2 -
cũng khó khăn cho cơ quan hải quan vì không ít doanh nghiệp, nhất là doanh
nghiệp mới thành lập còn chƣa có nhiều kiến thức về thủ tục hải quan nên
khai hải quan còn lúng túng, mất nhiều thời gian, đôi khi có nhiều sai sót dẫn
đến thời gian làm thủ tục kéo dài, không đạt hiệu quả.
Vì vậy, mặc dù đã ra đời hơn 10 năm nhƣng nhìn chung hoạt động đại
lý hải quan ở Việt Nam vẫn mang tính tự phát, hoạt động chƣa đúng với ý
nghĩa của nó, công việc khai báo vẫn mang tính thủ công, trình độ của nhân
viên đại lý làm thủ tục hải quan còn nhiều hạn chế, doanh nghiệp đại lý làm
thủ tục hải quan hoạt động còn manh mún và chƣa thực sự phát triển mạnh.
Để phát triển hoạt động đại lý hải quan - thực sự là cánh tay nối dài của
lực lƣợng hải quan, đòi hỏi những nỗ lực rất lớn trong việc tạo ra một hành
lang pháp lý đầy đủ, phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Tác giả chọn đề tài:
“Pháp luật về đại lý hải quan và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam” để nghiên
cứu vì những lý do sau đây:
Thứ nhất là mong muốn đuợc nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy
đủ những quy định của pháp luật về đại lý hải quan. Hiện nay, Việt Nam đã
chính thức gia nhập Nghị định thƣ sửa đổi Công ƣớc Kyoto, chúng ta phải cố
gắng trƣớc hết hoàn thiện các quy định pháp luật để tƣơng thích với chuẩn
mực pháp lý của các nƣớc thành viên và của chính tổ chức này. Việc nghiên
cứu đề tài này sẽ góp phần vào việc thực hiện mục tiêu trên.
Thứ hai là hiện nay, với số lƣợng khiêm tốn gồm 258 doanh nghiệp Đại lý
hải quan với gần 3.600 nhân viên đại lý đƣợc cấp thẻ, đƣợc coi là con số quá ít
so với Doanh nghiệp hoạt động XNK và lƣu lƣợng hàng hóa XNK cần làm thủ
tục hải quan. Thực tế cho thấy, các quy định trong Luật Hải quan và các văn bản
hƣớng dẫn dƣới Luật đƣợc đánh giá là thiếu chặt chẽ trong các vấn đề ràng buộc
trách nhiệm giữa bên khai thuê và bên thuê cũng nhƣ các quy định điều kiện để
trở thành đại lý khai thuê và chƣa xây dựng đƣợc một cơ chế thực sự ƣu tiên, tạo
- 3 -
thuận lợi cho hoạt động của đại lý hải quan phát triển. Việc nghiên cứu về pháp
luật về đại lý hải quan một cách thấu đáo sẽ tạo hành lang pháp lý đầy đủ, phù
hợp với thông lệ quốc tế một cách đúng đắn và đem lại hiệu quả thiết thực cho
việc triển khai hoạt động đại lý hải quan.
Thứ ba là thông qua việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng những quy định
pháp luật về đại lý hải quan mà các nƣớc trên thế giới đang sử dụng và so
sánh với tình hình áp dụng pháp luật về đại lý hải quan ở Việt Nam để đƣa ra
những nhận xét và đề xuất phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật Việt Nam
trong việc điều chỉnh lĩnh vực này.
2. Tình hình nghiên cứu:
Đại lý hải quan là một trong những vấn đề quan trọng của Pháp luật hải
quan. Tuy nhiên, cho đến nay vấn đề này chƣa đƣợc chú trọng quan tâm đúng
mức. Hầu hết chỉ có một số bài báo nghiên cứu về đại lý hải quan, ví dụ nhƣ:
Tác giả Trƣờng Sơn (2008), “Đại lý làm thủ tục hải quan: cần hành
lang pháp lý phù hợp để nhân rộng”, Báo điện tử Thời báo kinh tế Việt Nam,
Hà Nội.
Tác giả Đỗ Thanh Quang (2010),“Suy nghĩ về mô hình dịch vụ môi giới
khai thuê hải quan của hiệp hội môi giới hải quan quốc tế (IFCBA); Báo điện
tử Hải quan Việt Nam, Hà Nội.
Tác giả Song Linh (2010), “Tiếp sức để đại lý làm thủ tục hải quan
phát huy hiệu quả, Báo Diễn đàn doanh nghiệp, Hà Nội.
Tác giả Nguyễn Hà (2012), “Phát triển đại lý hải quan - một nhu cầu
cấp thiết”, Báo Diễn đàn doanh nghiệp, Hà Nội
Tác giả Phan Công Sơn (2014), chuyên đề về “Đại lý hải quan”, Báo
Hải quan, Hà Nội.
Hầu hết các công trình nghiên cứu trên đều tập trung phân tích, làm rõ
một số khía cạnh của vấn đề đại lý hải quan, chƣa có công trình nghiên cứu
- 4 -
chuyên sâu, cụ thể và toàn diện về pháp luật đại lý hải quan. Trong xu thế hội
nhập hiện nay, việc nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề này mang ý
nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận về đại lý hải quan; luận văn
đƣa ra những nhận xét, đánh giá thực tiễn cũng nhƣ đánh giá xu hƣớng pháp
luật về đại lý hải quan của các nƣớc trên thế giới. Qua đó, nêu lên những kiến
nghị có thể áp dụng cho Việt Nam trong việc hoàn thiện pháp luật đối với lĩnh
vực này đồng thời xây dựng cơ chế cho việc áp dụng chúng một cách phù hợp
với pháp luật và thông lệ quốc tế.
4. Đối tƣợng, phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về đại lý hải
quan nhƣ: khái niệm, đặc điểm, nội dung và vai trò của hoạt động đại lý hải
quan; cơ sở của việc pháp luật quy định hoạt động đại lý hải quan và thực tiễn
áp dụng tại Việt Nam trong thời gian qua.
Luận văn nghiên cứu về pháp luật đại lý hải quan và thực tiễn áp dụng
tại Việt Nam. Vì vậy, tác giả đã khảo sát và tìm hiểu thực tiễn áp dụng hoạt
động đại lý hải quan trên phạm vi toàn quốc. Từ đó, có cái nhìn toàn diện về
hoạt động đại lý hải quan ở Việt Nam.
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác -
Lênin, phƣơng pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, quan điểm của
Đảng, Nhà nƣớc và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhà nƣớc và pháp luật. Đồng
thời, trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn sử dụng các phƣơng pháp nghiên
cứu khoa học truyền thống nhƣ phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp so sánh,
phƣơng pháp hệ thống và phƣơng pháp khảo sát thực tiễn.
5. Những đóng góp của đề tài:
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu có tính hệ thống những vấn đề
liên quan đến đại lý hải quan, thể hiện ở các nội dung cơ bản sau đây:
- 5 -
- Góp phần hoàn thiện khái niệm về đại lý hải quan
- Làm rõ các đặc điểm, ý nghĩa, nội dung của đại lý hải quan và cơ sở
của việc quy định hoạt động này
- Phân tích, đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật về đại
lý hải quan và thực tiễn áp dụng
- Đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện và thực hiện những
quy định của pháp luật về đại lý hải quan
6. Kết cấu của khoá luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn gồm 03 chƣơng với bố cục nhƣ sau:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về đại lý hải quan
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật về đại lý hải quan ở Việt Nam hiện nay
Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về đại lý
hải quan ở Việt Nam.
- 6 -
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠI LÝ HẢI QUAN
1.1. Những vấn đề lý luận chung
1.1.1. Khái niệm về đại lý hải quan
- Khái niệm về Đại lý
Trong quá trình phát triển kinh tế, các hoạt động thƣơng mại diễn ra ngày
càng sôi nổi. Bên cạnh phƣơng thức truyền thống gặp nhau trực tiếp để ký kết hợp
đồng gữa bên bán và bên mua, giữa bên cung ứng và bên thuê dịch vụ thì các chủ
thể kinh doanh cũng cần đến một phƣơng thức mới mẻ hơn, giúp họ xâm nhập
những thị trƣờng mới một cách an toàn mặc dù chƣa có hệ thống khách hàng hay
không am hiểu thị trƣờng, không biết rõ pháp luật và tập quán thƣơng mại địa
phƣơng, và do đó, dịch vụ trung gian thƣơng mại ra đời là tất yếu.
Giao dịch qua trung gian trong hoạt động thƣơng mại là phƣơng
thức giao dịch trong đó mọi việc thiết lập quan hệ giữa ngƣời mua và ngƣời
bán hàng hóa (ngƣời cung ứng dịch vụ và ngƣời sử dụng dịch vụ) và việc xác
định các điều kiện giao dịch đƣợc tiến hành thông qua một ngƣời trung gian.
Đại lý chính là một trong những hình thức trung gian thƣơng mại nhƣ vậy.
Luật Thƣơng mại Việt Nam năm 2005 quy định về Đại lý thƣơng mại nhƣ
sau: “Các hoạt động trung gian thương mại là hoạt động của thương nhân để
thực hiện các giao dịch thương mại cho một hoặc một số thương nhân được xác
định, bao gồm hoạt động đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, uỷ
thác mua bán hàng hoá và đại lý thương mại” [Điều 3]; “Đại lý thương mại là
hoạt động thương mại theo đó bên giao đại lý và bên đại lý thoả thuận việc bên
đại lý nhân danh chính mình mua bán hàng hoá cho bên giao đại lý hoặc cung
ứng dịch vụ của bên giao đại lý để nhận thù lao” [Điều 166];
Nhƣ vậy, đại lý trong thƣơng mại không chỉ liên quan đến hoạt động
mua bán đơn thuần mà còn bao gồm cả hoạt động cung ứng các dịch vụ kèm
- 7 -
theo (nhƣ dịch vụ trong các lĩnh vực vận tải, bảo hiểm, giao nhận hàng hoá,
làm thủ tục hải quan, giám định ).
+ Tại Phụ lục tổng quát của Công ƣớc quốc tế về đơn giản hoá và hài
hoà thủ tục hải quan (hay còn gọi là Công ƣớc Kyoto sửa đổi, mà Việt Nam
đã ký kết gia nhập từ năm 2008) quy định: “Luật pháp quốc gia phải quy
định những điều kiện trong đó một người có thể hoạt động vì và thay mặt cho
một người khác trong quan hệ với cơ quan Hải quan và phải định rõ trách
nhiệm của bên thứ ba đó về các khoản thuế hải quan và thuế khác cũng như
về bất cứ hành vi vi phạm nào” [Chuẩn mực 8.2].
Theo định nghĩa của Công ƣớc Kyoto thì bên thứ ba là bất cứ ngƣời
nào giao dịch trực tiếp với cơ quan hải quan, vì lợi ích và thay mặt cho một
ngƣời khác, liên quan đến việc nhập khẩu, xuất khẩu, vận chuyển hay lƣu kho
hàng hoá. Nhƣ vậy, bên thứ ba có thể là đại lý hải quan, ngƣời giao nhận
hàng, ngƣời vận chuyển đa phƣơng thức và họ có thể thay mặt chủ hàng
thực hiện một hoặc một số giao dịch với cơ quan hải quan.
- Khái niệm về đại lý hải quan
Trong điều kiện kinh tế thị trƣờng, các hoạt động thƣơng mại phát triển
phong phú, đa dạng và đan xen lẫn nhau. Việc một thƣơng nhân, chỉ bằng
năng lực của mình, thực hiện tất cả các công đoạn của quá trình giao lƣu
thƣơng mại ngày càng trở nên hạn hữu. Các thƣơng nhân có thể tự mình thực
hiện tất cả các công đoạn trên nhƣng do không có năng lực chuyên môn mà
việc tự tiến hành các hoạt động phụ trợ làm phát sinh nhiều chi phí cho họ. Để
giảm chi phí sản xuất, các thƣơng nhân này có nhu cầu sử dụng những dịch
vụ khác nhau, vì vậy, dịch vụ Logistics ra đời và ngày càng khẳng định đƣợc
vai trò quan trọng của mình trong lƣu thông hàng hoá. Dịch vụ này là một
hoạt động thƣơng mại có nội dung rất đa dạng bao gồm các công việc nhƣ
- 8 -
nhận hàng từ ngƣời gửi để tổ chức việc vận chuyển, đóng gói bao bì, ghi kí
mã hiệu, làm thủ tục hải quan, làm thủ tục gửi giữ hàng hoá
Là một nội dung trong chuỗi dịch vụ Logistics, đại lý hải quan là một
loại hình dịch vụ tuy rất mới mẻ nhƣng cũng đóng vai trò rất quan trọng đối
với các doanh nghiệp, ngành Hải quan nói riêng và với nền kinh tế nói chung.
Đối với nhiều quốc gia cũng nhƣ với Việt Nam thì đại lý hải quan là một bộ
phận quan trọng không thể thiếu trong quá trình làm thủ tục hải quan, nó
chính là cầu nối giữa cơ quan Hải quan và Doanh nghiệp. Khi đại lý hải quan
hoạt động một cách chuyên nghiệp sẽ giúp cho cơ quan Hải quan nâng cao
đƣợc hiệu quả quản lý đồng thời giúp cho các doanh nghiệp thông quan nhanh
hàng hoá.
Khái niệm đại lý hải quan đƣợc quy định tại Luật Hải quan năm 2011
nhƣ sau:“Đại lý làm thủ tục hải quan là người khai hải quan theo sự uỷ quyền
của người có quyền và nghĩa vụ trong việc làm thủ tục hải quan đối với hàng
hoá xuất nhập khẩu” [Điều 21].
Tại Nghị định số 14/2011/NĐ-CP ngày 16/02/2012 của Chính phủ quy
định về điều kiện đăng ký và hoạt động của đại lý làm thủ tục hải quan (sau
đây gọi là Nghị định số 14 /2011/NĐ-CP) cũng nêu rõ: “Đại lý làm thủ tục
hải quan (dưới đây gọi tắt là đại lý hải quan) là thương nhân thay mặt người
có hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu (dưới đây gọi là chủ hàng) thực hiện trách
nhiệm của người khai hải quan theo quy định tại khoản 1 Điều 16 Luật Hải
quan năm 2001 và thực hiện các công việc khác về thủ tục hải quan theo thoả
thuận trong hợp đồng” [Điều 1].
Theo quy định này thì đại lý hải quan sẽ đứng ra thay mặt doanh nghiệp
xuất nhập khẩu theo sự uỷ quyền để làm dịch vụ thủ tục hải quan một cách
nhanh chóng, thuận lợi theo đúng quy định của pháp luật về thuế, pháp luật hải
quan và các quy định về quản lý xuất nhập khẩu hàng hoá. Với sự thay mặt của
- 9 -
đại lý này thì cơ quan Hải quan sẽ rút ngắn đƣợc thời gian trong việc tìm hiểu
thông tin của từng lô hàng, từng doanh nghiệp làm thủ tục thông qua vai trò bảo
lãnh của đại lý hải quan, giảm thiểu sai sót tiến tới phƣơng pháp quản lý mới
theo thủ tục hải quan điện tử, phù hợp với chuẩn mực quốc tế. Trong trƣờng hợp
nếu có sai sót xảy ra thì cơ quan quản lý Nhà nƣớc chỉ cần xử lý doanh nghiệp
làm đại lý hải quan thay cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Chính vì thế, đại lý
hải quan đƣợc ví nhƣ “cánh tay nối dài” của cơ quan Hải quan.
Các quy định của Pháp luật cũng đã quy định rõ đại lý hải quan nhân
danh mình để khai, ký tên và đóng dấu trên Tờ khai hải quan và chịu trách
nhiệm trƣớc pháp luật nếu khai không đúng những thông tin và chứng từ liên
quan do chủ hàng cung cấp. Nhƣ vậy, đại lý hải quan phải thấy rõ trách nhiệm
và nghĩa vụ của mình để làm tốt công việc đã đƣợc chủ hàng ký hợp đồng,
qua đó tạo đƣợc uy tín và thƣơng hiệu cho mình, thu hút đƣợc khách hàng;
đối với chủ hàng cũng yên tâm khi ký hợp đồng với đại lý hải quan, từ đó có
thể giảm thời gian thông quan và giảm thiểu chi phí.
1.1.2. Đặc điểm cơ bản của đại lý hải quan
Dƣới góc độ là một hoạt động thƣơng mại, đại lý hải quan có những
đặc điểm sau:
- Đại lý hải quan là hoạt động thương mại phát sinh giữa người có
hàng hoá xuất nhập khẩu (chủ hàng) và bên đại lý làm thủ tục hải quan.
Hoạt động đại lý hải quan là một loại hình dịch vụ đặc thù, gắn liền với
hoạt động xuất nhập khẩu. Vì vậy, quan hệ đại lý hải quan cũng chỉ phát sinh trực
tiếp hoặc liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu. Và chủ thể của quan hệ này
chính là ngƣời có hàng hóa xuất nhập khẩu (chủ hàng) và bên đại lý hải quan.
Theo Nghị định số 14/2011/NĐ-CP thì đại lý hải quan là thƣơng nhân
và Luật Thƣơng mại năm 2005 quy định: “Thương nhân bao gồm tổ chức
- 10 -
kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách
độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh” [Điều 6].
Chủ hàng là bên có hàng hóa XNK có nhu cầu thuê đại lý hải quan thực
hiện việc khai hải quan và một số công việc liên quan đến thủ tục hải quan
theo hợp đồng. Việc thực hiện này phải thông qua hợp đồng giữa doanh
nghiệp và bên đại lý; Các doanh nghiệp này không những phải cung cấp cho
đại lý hải quan đầy đủ, chính xác các chứng từ, thông tin cần thiết cho việc
làm thủ tục hải quan đối với lô hàng XNK mà còn phải chịu trách nhiệm trƣớc
pháp luật đối với trƣờng hợp cung cấp không chính xác, không đầy đủ các
thông tin, các chứng từ liên quan đến lô hàng, cung cấp các chứng từ không
hợp pháp, hợp lệ cho đại lý hải quan dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật.
- Đại lý hải quan mang đậm đặc trưng của một hình thức đại lý cung
ứng dịch vụ
Đây là sự khác biệt của đại lý làm thủ tục hải quan với việc ủy quyền
cho các doanh nghiệp giao nhận làm thủ tục hải quan cho hàng hóa XNK
trƣớc đây. Nếu ngƣời đƣợc doanh nghiệp XNK ủy quyền làm thủ tục hải quan
chỉ căn cứ vào văn bản uỷ quyền, mà không ký tên đóng dấu trên tờ khai,
không chịu trách nhiệm khi xảy ra sai sót vi phạm; thì đại lý làm thủ tục hải
quan lại nhân danh mình để khai, ký tên và đóng dấu trên tờ khai hải quan và
chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật nếu khai không đúng những thông tin và
chứng từ liên quan do chủ hàng cung cấp. Điều này đã thể hiện rõ đặc trƣng
của đại lý làm thủ tục hải quan là một Đại lý thƣơng mại hoạt động trên
nguyên tắc đại diện, chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật trong phạm vi đƣợc ủy
quyền, có trách nhiệm cao hơn đối với chủ hàng.
Mặt khác, theo quy định của pháp luật, Đại lý làm thủ tục hải quan
cũng là ngƣời khai hải quan, do vậy cũng phải tuân theo quy định về quyền và
nghĩa vụ của ngƣời khai theo quy định của pháp luật. Cụ thể theo Luật Hải
- 11 -
quan năm 2005 quy định về quyền và nghĩa vụ của ngƣời khai hải quan thì
ngƣời khai hải quan có nghĩa vụ: “Khai hải quan và thực hiện đúng quy định
tại khoản 1, điều 16, các điều 18, 20, 68 của Luật này; đồng thời chịu trách
nhiệm trước pháp luật về sự xác thực của nội dung đã khai và các chứng từ
đã nộp, xuất trình…” [Điều 23].
- Hoạt động đại lý hải quan phát sinh trên cơ sở hợp đồng
Hợp đồng là cơ sở pháp lý ràng buộc trách nhiệm giữa doanh nghiệp
XNK hàng hoá và ngƣời nhận ủy thác là doanh nghiệp đại lý làm thủ tục hải
quan. Quan hệ giữa doanh nghiệp XNK (ngƣời uỷ thác) và đại lý hải quan
thƣờng đƣợc thể hiện bằng một hợp đồng chặt chẽ hơn so với môi giới thƣơng
mại. Nếu nhƣ quan hệ giữa ngƣời ủy thác và ngƣời môi giới là quan hệ từng
vụ việc, thì quan hệ giữa doanh nghiệp XNK với đại lý hải quan có tính chất
dài hạn hơn.
Về bố cục và nội dung của hợp đồng đại lý hải quan thƣờng đƣợc thể
hiện ở những điểm sau:
+ Phần mở đầu của hợp đồng tức là phần giới thiệu, bao gồm: cơ sở ký
kết hợp đồng, các bên trong hợp đồng, ngƣời đại diện, địa chỉ giao dịch, điện
thoại, điện tín, tên ngân hàng, số tài khoản (nếu có).
+ Ngày hiệu lực của hợp đồng và ngày hết hạn.
+ Tên hàng hóa hoặc dịch vụ thực hiện.
+ Địa điểm thực hiện
+ Bên ủy thác và bên có liên quan trong hợp đồng.
+ Quyền và nghĩa vụ của bên ủy thác.
+ Quyền và nghĩa vụ của bên đại lý làm thủ tục hải quan.
+ Thù lao và chi phí hoạt động.
+ Thanh toán (tổng số tiền thanh toán và phƣơng thức thanh toán).
+ Thanh lý hợp đồng đại lý làm thủ tục hải quan.
- 12 -
+ Chữ ký của các bên ủy thác và đại lý làm thủ tục hải quan.
Đại lý hải quan cũng giống nhƣ các hoạt động dịch vụ thƣơng mại
khác. Vì vậy, quá trình phát sinh, thay đổi và chấm dứt hợp đồng đại lý hải
quan đƣợc áp dụng theo pháp luật Thƣơng mại.
- Trong hoạt động đại lý hải quan, bên Đại lý chịu sự giám sát, quản lý
trực tiếp từ cơ quan Hải quan.
Pháp luật và thực tiễn hoạt động quản lý đại lý hải quan ở các nƣớc
trên thế giới cũng nhƣ tại nƣớc ta cho thấy, cơ quan Hải quan là đơn vị giám
sát, quản lý hoạt động của các đại lý hải quan. Cơ quan Hải quan quản lý hoạt
động của các đại lý thông qua việc đăng ký đại lý làm thủ tục hải quan, cấp
thẻ nhân viên đại lý, tổ chức thi chứng chỉ nghiệp vụ khai hải quan nghiệp vụ
khai hải quan, khen thƣởng đối với các đại lý chấp hành, có thành tích tốt
trong việc thực hiện pháp luật hải quan và xử phạt đối với các đại lý hải quan
có hành vi vi phạm pháp luật hải quan.
1.1.3. Phân loại đại lý làm thủ tục hải quan
Theo tiêu chí nghiệp vụ xuất nhập khẩu hàng hóa, có thể phân đại lý
hải quan thành các loại nhƣ sau:
- Đại lý hải quan xuất khẩu hàng hóa:
Là thƣơng nhân thay mặt ngƣời có hàng hóa xuất khẩu tiến hành các
thủ tục hải quan tại nƣớc xuất khẩu để đƣa hàng hóa ra khỏi lãnh thổ của nƣớc
xuất khẩu.
Trong trƣờng hợp này, chủ hàng chịu trách nhiệm xếp hàng và thuê
phƣơng tiện vận chuyển hàng hóa từ kho đến cảng/ cửa khẩu xuất, đồng thời
chuẩn bị đầy đủ bộ chứng từ xuất khẩu và giao cho đại lý hải quan để làm thủ
tục hải quan xuất khẩu. Đại lý phải chịu trách nhiệm khai hải quan, quản lý,
theo dõi hàng hóa từ khi đƣa vào khu vực làm thủ tục hải quan đến khi thực
xuất khỏi lãnh thổ nƣớc xuất khẩu và trao trả lại cho chủ hàng bộ chứng từ, hồ
- 13 -
sơ hàng xuất khẩu đã đƣợc cơ quan hải quan xác nhận. Đại lý không thực hiện
các thủ tục liên quan đến nhập khẩu hàng hóa tại nƣớc nhập và các dịch vụ
giao nhận hàng hóa XNK.
- Đại lý hải quan nhập khẩu hàng hóa:
Là thƣơng nhân thay mặt ngƣời có hàng hóa nhập khẩu tiến hành các
thủ tục hải quan tại nƣớc nhập khẩu để đƣa hàng hóa ra khỏi khu vực quản lý
của cơ quan hải quan và giao cho ngƣời nhập khẩu.
Trong trƣờng hợp này, chủ hàng chịu trách nhiệm chuẩn bị đầy đủ bộ
chứng từ nhập khẩu và giao cho đại lý hải quan để làm thủ tục hải quan nhập
khẩu, thuê phƣơng tiện để vận chuyển hàng hóa từ cảng/ cửa khẩu xuất về
kho của mình sau khi đại lý hải quan hoàn thành thủ tục hải quan nhập khẩu.
đại lý hải quan phải chịu trách nhiệm khai báo, làm thủ tục hải quan, giao
hàng hóa đã làm xong thủ tục hải quan cho ngƣời vận chuyển do ngƣời nhập
khẩu chỉ định và trao trả lại cho chủ hàng bộ chứng từ, hồ sơ hàng nhập khẩu
đã đƣợc cơ quan hải quan xác nhận. Đại lý hải quan không thực hiện các thủ
tục liên quan đến xuất khẩu hàng hóa tại nƣớc xuất và các dịch vụ giao nhận
hàng hóa XNK.
- Đại lý hải quan xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa:
Là thƣơng nhân thay mặt ngƣời có hàng hóa xuất khẩu và/hoặc nhập
khẩu tiến hành các thủ tục hải quan tại nƣớc xuất khẩu và/hoặc nƣớc nhập khẩu
để đƣa hàng hóa ra khỏi lãnh thổ của nƣớc xuất khẩu và/hoặc đƣa hàng hóa ra
khỏi khu vực quản lý của cơ quan hải quan và giao cho ngƣời nhập khẩu.
Thông thƣờng trong trƣờng hợp này, đại lý hải quan có thể làm thủ tục
hải quan cho riêng lô hàng xuất khẩu hoặc nhập khẩu tƣơng tự nhƣ đại lý hải
quan xuất khẩu hàng hóa và đại lý hải quan nhập khẩu hàng hóa, tuy nhiên,
cùng có nhiều trƣờng hợp hợp đồng mua bán có điều kiện giao hàng tại một
địa điểm do ngƣời mua chỉ định tại nƣớc xuất khẩu hoặc giao đến tận nhà
- 14 -
máy, chân công trình hoặc một địa điểm cụ thể do ngƣời mua chỉ định tại
nƣớc nhập khẩu và đại lý hải quan sẽ phải thay mặt chủ hàng để làm thủ tục
hải quan xuất khẩu tại nƣớc xuất khẩu và sau đó phải làm thủ tục nhập khẩu
hàng hóa tại nƣớc nhập khẩu.
- Đại lý hải quan đối với hàng hóa XNK và giao nhận hàng hóa hàng
hóa XNK:
Nhƣ đúng tên gọi của loại này, thì thƣơng nhân này vừa thực hiện công
việc thủ tục hải quan đối với cả hàng hóa XK, hàng hóa NK và làm dịch vụ
giao nhận hàng hóa XNK.
Trong các loại thƣơng nhân làm đại lý hải quan nêu trên thì loại hình
này là phổ biến nhất, đƣợc nhiều doanh nghiệp XNK sử dụng, ký kết hợp
đồng thực hiện. Bởi vì khi doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực XNK hàng
hóa, ký hợp đồng với đại lý hải quan, đều có yêu cầu doanh nghiệp đại lý thay
họ tiến hành các việc để NK hoặc XK hàng hóa và đƣa hàng hóa đó đến nơi
theo yêu cầu của mình.
Trong hoạt động thƣơng mại, đại lý hải quan là ngƣời có thể đứng tên
trong hợp đồng. Tuỳ theo mối quan hệ mà đại lý hải quan có thể đƣợc nhà
xuất khẩu/nhập khẩu uỷ thác có thể đứng tên trong hợp đồng mua bán hàng
hoá và nhƣ vậy đại lý hải quan đã trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ.
Về mối quan hệ giữa đại lý hải quan và ngƣời ủy thác là mối quan hệ
hợp đồng dài hạn và chỉ đƣợc chấm dứt khi có thỏa thuận trong hợp đồng, hay
đƣợc một hoặc cả hai bên có ý muốn chấm dứt bằng việc thông báo cho phía
bên kia bằng văn bản, hoặc đã đƣợc nêu rõ trong hợp đồng giữa hai bên.
Ngƣời ủy thác (là ngƣời chủ sở hữu về hàng hóa) đã uỷ thác cho đại lý hải
quan, hoạt động nhân danh mình với chi phí của ngƣời ủy thác để mua bán
hàng hóa hay cung ứng dịch vụ theo giá do ngƣời ủy thác quyết định cho
- 15 -
khách hàng và đƣợc hƣởng tiền thù lao. Các hoạt động xuất nhập khẩu ủy
thác của các thƣơng nhân Việt Nam hiện nay thuộc loại này.
1.2. Sự hình thành, phát triển và vai trò của đại lý hải quan trong nền
kinh tế
1.2.1. Sự hình thành và phát triển đại lý hải quan trên thế giới
Đại lý hải quan đƣợc hình thành vào đầu thế kỷ 19 ở Mỹ và một số
quốc gia Châu Âu (Anh, Pháp, Tây Ban Nha ). Nguyên nhân chủ yếu ban
đầu là xuất phát từ những khó khăn trong việc tổ chức sắp xếp đƣa hàng hoá
qua biên giới giữa các nƣớc, trong điều kiện các quy định về thủ tục của các
nƣớc rƣờm rà, khắt khe và chƣa có chuẩn mực thống nhất. Sau đó do chuyên
môn hoá nên việc kinh doanh dịch vụ thủ tục hải quan đã tách thành một nghề
độc lập, có tính chuyên môn riêng. Đến giai đoạn chủ nghĩa tƣ bản phát triển,
đội ngũ các nhà trung gian làm thủ tục hải quan đã hình thành và từng bƣớc
lớn mạnh cả về số lƣợng và chất lƣợng dịch vụ. Ở rất nhiều quốc gia, loại
hình Đại lý làm thủ tục hải quan chuyên nghiệp trong hoạt động XNK đã rất
phổ biến, đây là một khâu trong cả chuỗi dịch vụ giao nhận hàng hóa mà
nhiều nƣớc đã áp dụng rất hiệu quả. Hiện nay, hầu nhƣ tại các nƣớc phát triển
trên thế giới thì 100% hàng hoá XNK đều đƣợc thông quan điện tử, dựa trên
các tiêu chí quản lý rủi ro có trên mạng. Nhân viên hải quan kiểm tra các
thông tin trên tờ khai, nếu chƣa đủ hoặc phải thay đổi thì thông báo cho đại lý
hải quan hoặc doanh nghiệp bổ sung, sửa đổi, sau khi kiểm tra hồ sơ giấy thì
kiểm tra thực tế hàng hoá XNK. Thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất nhập
khẩu (khai báo hải quan, phân tích xử lý thông tin, thông quan hàng hoá, tính
thuế, nộp thuế, hoàn thuế ) đều đƣợc thực hiện qua hệ thống tự động hoá hải
quan, hàng hoá xuất khẩu thông thƣờng đƣợc kiểm tra tại kho hàng của doanh
nghiệp. Chính vì thế hệ thống đại lý khai thuê hải quan của các nƣớc trên thế
giới cũng mang tính đặc thù, phát triển đa dạng và chuyên nghiệp. Có thể nói,
- 16 -
hoạt động kinh doanh dịch vụ thủ tục hải quan không chỉ phát triển trên bình
diện quốc gia mà còn đƣợc phát triển trên toàn thế giới.
Nhìn chung, đại lý hải quan ở các nƣớc có một số đặc điểm giống nhau,
đó là: (1) Đƣợc luật quy định tƣơng đối chặt chẽ trong các văn bản pháp luật; (2)
Đáp ứng đủ những điều kiện cần thiết, đặc biệt là điều kiện về trình độ nghiệp vụ
của nhân viên làm đại lý với quy trình đào tạo và sát hạch bắt buộc; (3) Phải có
hệ thống sổ sách và tài liệu lƣu trữ bắt buộc rõ ràng, đúng quy định.
1.2.2. Sự hình thành và phát triển đại lý hải quan ở Việt Nam
- Giai đoạn mở đầu (trước năm 2005)
Trong thời kỳ nhà nƣớc thực hiện chính sách độc quyền ngoại thƣơng,
đại lý hải quan không có điều kiện để hoạt động. Từ khi đất nƣớc thực hiện
công cuộc đổi mới, nhất là từ khi thực hiện Luật Hải quan sửa đổi, hoạt động
thƣơng mại ở Việt Nam ngày càng đƣợc mở rộng, hoạt động xuất khẩu, nhập
khẩu hàng hoá tăng nhanh, thì hoạt động của đại lý hải quan mới bắt đầu có
điều kiện để phát triển. Luật Thƣơng mại ra đời ngày 23-5-1997 và có hiệu
lực từ ngày 1-1-1998, đã luật hóa phạm vi điều chỉnh các hoạt động mua bán
và các hoạt động dịch vụ thƣơng mại. Để hƣớng dẫn thực hiện Luật Thƣơng
mại, Chính phủ đã ban hành Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31-7-1998, quy
định rõ hoạt động của ngƣời trung gian trong lĩnh vực thƣơng mại. Để đáp
ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới, tháng 6-2005 Luật Thƣơng mại
mới đã đƣợc Quốc hội thông qua, mở rộng hơn phạm vi điều chỉnh sang cả
các lĩnh vực khác nhƣ vận tải, bảo hiểm, thủ tục hải quan.
Trong giai đoạn này hoạt động đại lý hải quan ở Việt Nam không ổn
định. Pháp lệnh Hải quan ngày 20 tháng 2 năm 1990 và Nghị định 171/HĐBT
ngày 27 tháng 5 năm 1991 đã cho phép ngƣời thứ ba thay mặt chủ hàng khai
báo hải quan; Ngày 8/4/1999 Tổng cục Hải quan đã ban hành Quy chế tạm
thời về dịch vụ thủ tục hải quan và đƣợc luật hoá trong Luật Hải quan ngày
- 17 -
29/6/2001. Trƣớc và khi ban hành Luật Hải quan, số lƣợng các doanh nghiệp
kinh doanh trong lĩnh vực này cũng đã tăng lên.
Tuy nhiên sau đó, do không quản lý đƣợc hoạt động của đại lý hải
quan, cũng nhƣ hoạt động của đại lý hải quan chƣa có đủ điều kiện pháp lý
cần thiết, nên việc cấp phép cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
này đã bị dừng lại sau một thời gian.
- Giai đoạn 2005 - 2007:
Ngày 16 tháng 6 năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định số
79/2005/NĐ-CP quy định điều kiện làm đại lý kinh doanh dịch vụ thủ tục hải
quan dựa trên cơ sở Luật Hải quan năm 2001 và Luật Hải quan sửa đổi năm
2005, sau đó, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tƣ số 73/2005/TT-BTC ngày
05/9/2005 hƣớng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 79/2005/NĐ-CP
và đến ngày 26/12/2007, Bộ Tài chính ban hành tiếp công văn số 17511/BTC-
TCHQ hƣớng dẫn cụ thể một số nội dung tại Thông tƣ số 73/2005/TT-BTC.
Đây là những văn bản pháp lý đầu tiên dƣới Luật tạo điều kiện cho sự phát
triển của đại lý hải quan. Trong giai đoạn này, hoạt động đại lý hải quan bƣớc
đầu đã hình thành.Tuy nhiên, ở giai đoạn này hoạt động đại lý hải quan vẫn
theo hƣớng tự phát, yếu cả về số lƣợng và chất lƣợng. Đến cuối tháng 6/2007,
Tổng cục Hải quan và Học viện Tài chính đã đào tạo đƣợc gần 1000 học viên
về nghiệp vụ khai hải quan; Tổng cục Hải quan đã cấp 78 thẻ nhân viên đại lý
làm thủ tục hải quan cho 27 doanh nghiệp thuộc địa bàn quản lý của 07 Cục
Hải quan tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Hồ Chí Minh, Quảng Nam,
Khánh Hoà, Bình Dƣơng, Đồng Nai và Cần Thơ.
- Giai đoạn từ 2008 - 2010:
Xuất phát từ những hạn chế trong công tác phát triển đại lý hải quan đã
có từ giai đoạn trƣớc, Bộ Tài chính đã có chỉ đạo Ngành Hải quan khẩn
trƣơng tìm ra giải pháp thúc đẩy hoạt động đại lý làm thủ tục hải quan, đƣa hệ