Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Pháp luật về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong công ty cổ phần ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.4 MB, 95 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN THỊ THIÊN NHẪN







PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ DOANH THU,
CHI PHÍ VÀ LỢI NHUẬN
TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








Hà Nội – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





NGUYỄN THỊ THIÊN NHẪN






PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ DOANH THU,
CHI PHÍ VÀ LỢI NHUẬN
TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN Ở VIỆT NAM



Chuyên ngành : Luật Kinh Tế
Mã số : 60 38 01 07


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ LAN HƢƠNG




Hà Nội – 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể

bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN


Nguyễn Thị Thiên Nhẫn
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG
PHẦN MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ CÔNG TY CỔ
PHẦN VÀ QUẢN LÝ DOANH THU, CHI PHÍ VÀ LỢI NHUẬN TRONG
CÔNG TY CỔ PHẦN 7
1.1. Khái quát chung về công ty cổ phần 7
1.1.1. Lƣợc sử hình thành và phát triển của công ty cổ phần 7
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của công ty cổ phần 11
1.1.3. Quản lý công ty cổ phần 14
1.2. Những vấn đề pháp lý cơ bản về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận
của công ty cổ phần 15
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm về quản lý doanh thu, chi phí 15

1.2.2. Khái niệm lợi nhuận và nguyên tắc xác định lợi nhuận 25
1.3. Mục tiêu quản lý, chủ thể quản lý và phƣơng thức quản lý doanh thu, chi
phí và lợi nhuận trong công ty cổ phần 28
1.3.1. Mục tiêu quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận 28
1.3.2. Chủ thể quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận 29
1.3.3. Phƣơng thức quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận 29
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ QUẢN LÝ
DOANH THU, CHI PHÍ VÀ LỢI NHUẬN TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN 31
2.1. Qui định về quản lý doanh thu, chi phí trong nội bộ CTCP 31
2.1.1. Cơ sở xác định doanh thu, chi phí 31
2.1.2. Tổ chức nội bộ kiểm soát doanh thu, chi phí 37
2.1.3. Đánh giá thực trạng quản lý doanh thu, chi phí đối với CTCP theo Luật

kế toán, theo pháp luật thuế 43
2.2. Đặc thù về quản lý doanh thu, chi phí trong nội bộ CTCP 53
2.2.1. Về quản lý doanh thu 54
2.2.2. Về quản lý chi phí 55
2.3. Quy định về quản lý lợi nhuận trong công ty cổ phần 56
2.3.1. Xác định lợi nhuận 56
2.3.2. Đánh giá thực trạng phân phối lợi nhuận 58
2.3.3. Nguyên tắc phân chia lợi nhuận 61
Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ QUẢN LÝ DOANH THU, CHI PHÍ VÀ LỢI NHUẬN
TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN 64
3.1. Định hƣớng hoàn thiện 64

3.1.1. Bảo đảm công bằng giữa các chủ thể trong kinh doanh 64
3.1.2. Bảo đảm trật tự thị trƣờng 66
3.1.3. Bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế 67
3.2. Một số kiến nghị 67
3.2.1. Về lập pháp 67
3.2.2. Về hành pháp 72
3.2.3. Đối với Kiểm toán viên 73
3.2.4. Đối với Nhà đầu tƣ 74
3.3. Một số kiến nghị khác 76
3.3.1. Khuyến khích các hoạt động kinh doanh dịch vụ tƣ vấn tài chính - kế
toán, tƣ vấn thuế, đại lý thuế 76
3.3.2. Tăng cƣờng mối quan hệ phối hợp với các ngành khác trong việc tuyên

truyền các chính sách thuế, cung cấp thông tin, điều tra, xử lý và giải quyết
các vụ việc liên quan 77
3.3.3. Đầu tƣ xây dựng và phát triển hạ tầng truyền thông công nghệ thông tin 77
KẾT LUẬN 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 80
PHỤ LỤC

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CTCP : Công ty cổ phần
NSNN : Ngân sách nhà nƣớc
GCNĐKKD : Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh

UBCKNN : Ủy ban chứng khoán nhà nƣớc
DNTN : Doanh nghiệp tƣ nhân
HĐQT : Hội đồng quản trị
ĐHĐCĐ : Đại hội đồng cổ đông
BKS : Ban kiểm soát
TNHH : Trách nhiệm hữu hạn
GTGT : Giá trị gia tăng












DANH MỤC CÁC BẢNG

2.1 Thực trạng Báo cáo tài chính các CTCP niêm yết trong mùa kiểm toán
năm 2010.
2.2 Báo cáo về phân phối lợi nhuận và chia cổ tức năm 2013 của Hội đồng
quản trị CTCP đầu tƣ - thƣơng mại SMC (Xem phụ lục 1)

2.3 Báo cáo về phân phối lợi nhuận năm 2013 và kế hoạch cổ tức năm 2014
của Hội đồng quản trị CTCP dƣợc phẩm Imexpharm trình Đại hội đồng cổ
đông (Xem phụ lục 2)











1

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự vận động không ngừng của nền kinh tế thị trƣờng, đã xuất
hiện nhiều loại hình doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau,
tuy đều phải trải qua các giai đoạn thăng trầm nhƣng phần lớn các doanh
nghiệp đều đã rút ra đƣợc nhiều bài học, kinh nghiệm quý báu trong sản xuất,
kinh doanh nhằm thích nghi với môi trƣờng mới năng động và sáng tạo.
Nếu nhƣ trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trƣớc đây các xí

nghiệp quốc doanh đơn thuần chỉ sản xuất và giao nộp sản phẩm theo kế
hoạch mà không cần quan tâm đến chất lƣợng, giá thành và lợi nhuận thì ngày
nay khi đối mặt với nền kinh tế thị trƣờng mà mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh đều phải tính toán đến hiệu quả thật sự chứ không phải là tình trạng
“Lãi giả, lỗ thật”. Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều phải đặt trên cơ sở
thị trƣờng, năng suất, chất lƣợng. Hay nói cách khác đều phải chú ý đến
doanh thu, chi phí mình bỏ ra và lợi nhuận thu về có khả quan hay không?
Đây đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội cũng nhƣ mỗi một
doanh nghiệp.
Song song với nó là sự kiểm soát chặt chẽ của Nhà nƣớc bằng pháp
luật. Vì vậy, các doanh nghiệp vừa phải tính toán làm sao để có thể quản lý
doanh thu, chi phí hợp lý và thu đƣợc lợi nhuận cao. Đồng thời vừa phải thực

hiện nghĩa vụ đối với Nhà nƣớc một cách mẫn cán, trung thực trong khuôn
khổ pháp luật cho phép.
Quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong doanh nghiệp là một
phần của các chiến lƣợc tăng trƣởng kinh doanh nhằm không những cắt giảm
chi phí mà còn tạo ra các ƣu thế cạnh tranh rõ rệt trên thị trƣờng. Nếu không
có kiến thức cơ bản về quản lý doanh thu, chi phí và lợị nhuận thì các doanh
2

nghiệp không thể nào nhận biết đƣợc tình hình thực tế của các dự án đầu tƣ,
các kế hoạch kinh doanh cũng nhƣ thực trạng hoạt động của công ty.
Việc tìm giải pháp tài chính tối ƣu cho chiến lƣợc phát triển bền vững
trong thời kỳ hậu hội nhập luôn là vấn đề nan giải nhất đối với các doanh

nghiệp hiện nay. Cho nên, theo các chuyên gia kinh tế: "Một trong những
nƣớc cờ mà doanh nghiệp cũng phải tính đến là việc quản lý và tiết kiệm
doanh thu, chi phí và lợi nhuận ngày một hiệu quả hơn để sản phẩm và dịch
vụ của mình ngày càng có chất lƣợng, giá cả phù hợp với khách hàng" [36].
Thực tế ở Việt Nam cho thấy mô hình CTCP khá phổ biến và đƣợc ƣa
chuộng. Bởi sự hình thành và phát triển của CTCP gắn liền với sự hình thành
của thị trƣờng vốn và thị trƣờng tiền tệ. Theo ý kiến của LS Nguyễn Ngọc
Bích: “CTCP là một loại hình kinh doanh phổ biến hiện nay, được xem là
phương thức phát triển cao nhất cho đến nay của loài người để huy động vốn
cho kinh doanh và qua đó làm cho nền kinh tế của mỗi quốc gia phát triển”
[20, tr.38]. Chính vì ý nghĩa lớn lao như vậy đối với nền kinh tế mỗi quốc gia,
cũng như đối với mỗi cá nhân nên pháp luật về CTCP luôn chiếm một vị trí vô

cùng quan trọng trong các quy định pháp luật về doanh nghiệp, tổ chức kinh
doanh hay công ty. Đây là mô hình doanh nghiệp hay tổ chức kinh doanh phổ
biến nhất cho các doanh nghiệp có quy mô lớn [20, tr.39]. Cho nên việc quản
lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận là hết sức cần thiết. Chính vì vậy nhu cầu
tìm hiểu, tiến tới hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp luật liên quan đến
doanh thu, chi phí và lợi nhuận của loại hình doanh nghiệp này có ý nghĩa to
lớn trên cả hai phƣơng diện lý luận lẫn thực tiễn. Mặc dù ở nƣớc ta hiện nay
có khá nhiều cấu trúc luật điều chỉnh doanh thu, chi phí và lợi nhuận của các
doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng nhƣng ít nhiều vẫn còn nhiều bất
cập và hạn chế trong việc quản lý nhƣ nạn thất thu thuế, hiện tƣợng khai gian,
khai giảm hóa đơn diễn ra tƣơng đối phổ biến, nạn buôn bán hóa đơn và
3


những vi phạm khác về công tác kế toán, kiểm toán doanh thu, chi phí và lợi
nhuận. Vì thế, pháp luật ở Việt Nam cần có những nghiên cứu đánh giá nghiêm
túc, nhìn nhận khách quan, đúng đắn góp phần hoàn thiện vấn đề này để phù
hợp với môi trƣờng kinh doanh và loại hình doanh nghiệp trong bối cảnh nền
kinh tế thị trƣờng “hợp tác và mở rộng”, “hòa nhập chứ không hòa tan”.
Nhận thức đƣợc tầm quan trọng đó, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài:
“Pháp luật về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong công ty cổ
phần ở Việt Nam” làm đề tài Luận văn nghiên cứu của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận là một trong những khâu quan
trọng và chính yếu nhất của công tác quản lý tài chính doanh nghiệp. Bởi trong

điều kiện đất nƣớc ta hội nhập vào “sân chơi chung” thế giới, tài chính doanh
nghiệp góp phần không nhỏ thúc đẩy sự tăng trƣởng kinh tế, huy động tối đa các
nguồn lực xã hội vào sản xuất kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống
cho ngƣời lao động và góp phần làm “phong phú” thêm Ngân sách Nhà nƣớc.
Điều đó đồng nghĩa với việc pháp luật nƣớc ta cũng đã, đang và sẽ chịu nhiều
sức ép trong việc điều chỉnh quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận hợp lý để
vừa làm sao mang lại hiệu quả cho các doanh nghiệp nói chung, CTCP nói riêng
nhƣng vẫn đảm bảo lợi ích của Nhà nƣớc. Mặc dù, số lƣợng công trình khoa
học, các bài báo cáo, tham luận nghiên cứu về doanh thu, chi phí và lợi nhuận
khá đa dạng ở một số loại hình doanh nghiệp cụ thể nhƣng chủ yếu dựa trên góc
độ quản trị tài chính, kế toán. Tiêu biểu gồm các công trình của các tác giả sau:
Nguyễn Đình Cung (2009), Cơ sở khoa học hoàn thiện chế độ quản trị công ty

cổ phần thúc đẩy phát triển kinh tế ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Kinh tế, Bộ kế
hoạch và đầu tƣ – Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ƣơng, Hà Nội; Phạm
Ngọc Côn (2002), Một số ý kiến nhằm hoàn thiện việc quản lý doanh nghiệp sau
cổ phần hóa, Tạp chí kinh tế và phát triển, số 3/2001, tr.49; Nguyễn Hƣng, Quản
4

trị công ty – Tiến tới lành mạnh hóa môi trường hoạt động và phát triển doanh
nghiệp, Tạp chí chứng khoán, số 5,6/2006, Nguyễn Thị Lan Hƣơng (2005), Điều
chỉnh pháp lý về sở hữu cổ phần chéo ở Nhật Bản, Tài chính, 2005, số 11, tr 52-
54; Nguyễn Thị Lan Hƣơng (2009), Một số so sánh về công ty cổ phần theo luật
công ty Nhật Bản và luật doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí khoa học – Đại học
quốc gia Hà Nội, 2009, số 25, tr 87-93 Ngoài ra còn có một đề tài Luận văn

Thạc sĩ, chuyên đề tốt nghiệp bậc đại học có liên quan nhƣ: Lê Thị Phƣơng Thảo
(2009), Đổi mới công tác thanh tra, kiểm tra đối tượng nộp thuế ở Việt Nam hiện
nay, Luận văn thạc sĩ Kinh tế; Nguyễn Quang Tuấn (2004), Các giải pháp hoàn
thiện thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp trong điều kiện kinh tế
thị trường ở Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế; Hoàn thiện cơ chế quản lý
doanh thu, chi phí và lợi nhuận theo mô hình tập đoàn trong Tổng công ty than
Việt Nam, khóa luận tốt nghiệp bậc đại học
Nhìn chung các công trình khoa học nghiên cứu nói trên chủ yếu tập trung
nghiên cứu một số khía cạnh pháp lý có liên quan hoặc có ảnh hƣởng đến doanh
thu, chi phí và lợi nhuận của doanh nghiệp nói chung hoặc chỉ đề cập đến một
khía cạnh về mặt tài chính, kế toán chứ chƣa có một nghiên cứu mang tính tổng
quan đề cập cụ thể đến các cấu trúc pháp luật điều chỉnh doanh thu, chi phí và lợi

nhuận của các doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng. Cho nên đề tài
“Pháp luật về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong công ty cổ phần ở
Việt Nam” mà tác giả lựa chọn là một công trình nghiên cứu đầu tiên đƣợc thực
hiện nhằm nghiên cứu một cách nghiêm túc các quy định của của pháp luật trong
CTCP về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài đƣợc thực hiện nhằm đạt đƣợc các mục đích cụ thể sau:
Thứ nhất, hệ thống, phân tích và làm rõ những quy định cơ bản của
pháp luật Việt Nam về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong CTCP.
5

Thứ hai, nghiên cứu đặc thù của pháp luật về quản lý doanh thu, chi

phí và lợi nhuận trong nội bộ CTCP ở Việt Nam hiện nay. Từ đó chỉ ra thực
trạng, đánh giá tác động, ảnh hƣởng của chúng trong thực tiễn quản lý pháp
luật về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong CTCP ở Việt Nam.
Thứ ba, trên cơ sở phân tích thực trạng rút ra những bất cập, hạn chế
của pháp luật và đƣa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong CTCP ở Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Những vấn đề pháp lý và thực tiễn của pháp luật
về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong công ty cổ phần.
Phạm vi nghiên cứu: Giới hạn về việc tìm hiểu thực trạng pháp luật về
quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong nội bộ công ty cổ phần ở Việt Nam
theo sự điều chỉnh chủ yếu của pháp luật thuế, Luật kế toán, Luật chứng khoán

5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu tổng hợp, thống kê, phân
tích, so sánh để đánh giá các thông tin thu thập đƣợc liên quan đến các vấn đề
pháp lý về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong CTCP ở Việt Nam.
Bên cạnh đó trong phần thực trạng, Luận văn sử dụng các số liệu chủ yếu từ
một số CTCP đƣợc công khai trên các diễn đàn báo chí, mạng Internet và
trong quá trình tác giả công tác tổng hợp đƣợc. Các phƣơng pháp nghiên cứu
trên sẽ giúp Luận văn làm sáng tỏ những luận cứ khoa học trong phạm vi
nghiên cứu của đề tài và tăng tính thuyết phục cho các đề xuất, kiến nghị hoàn
thiện các quy định của pháp luật về quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận
trong CTCP ở Việt Nam.
6. Kết cấu luận văn

Ngoài lời nói đầu, phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, nội dung Luận văn gồm 3 chƣơng:
6

Chƣơng 1: Những vấn đề pháp lý cơ bản về công ty cổ phần và quản lý
doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong công ty cổ phần.
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về quản lý doanh thu, chi
phí và lợi nhuận trong công ty cổ phần.
Chƣơng 3: Định hƣớng và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong công ty cổ phần.




7

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ CÔNG TY CỔ
PHẦN VÀ QUẢN LÝ DOANH THU, CHI PHÍ VÀ LỢI NHUẬN
TRONG CÔNG TY CỔ PHẦN

1.1. Khái quát chung về công ty cổ phần
1.1.1. Lược sử hình thành và phát triển của công ty cổ phần
Trên thế giới, CTCP đã ra đời và phát triển từ rất sớm góp phần quan
trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Các sử gia trên thế
giới đã ghi nhận rằng, lịch sử của CTCP trên thế giới là lịch sử đã có từ hàng

trăm năm. Theo John Mickletwait và Adrian Woolridge (2003) thì “loại hình
công ty này là một ý tưởng cách mạng diễn biến theo một quá trình rất dài,
thậm chí đã có ngay từ 3000 năm trước công nguyên, từ người Assyria,
Phoenicia rồi người Hy Lạp. Họ đã lập ra những tổ chức để kinh doanh
thương mại ở vùng Đại Trung Hải” [46, tr.28-29].
Ở các nƣớc khác nhau, CTCP có thể có những tên gọi khác nhau. Ở
Pháp là công ty vô danh (anonymous Company), Ở Anh là công ty với trách
nhiệm hữu hạn (Company LTD), ở Mỹ nó đƣợc gọi là công ty kinh doanh
(Commercial Coporation) và ở Nhật Bản gọi là công ty chung cổ phần
(Kabushiki Kaisha)…
Từ thế kỷ XVIII, XIX sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tƣ bản đòi hỏi
sản xuất kinh doanh phải có quy mô ngày càng lớn, cạnh tranh, độc quyền. Các

chủ tƣ bản đi đến thoả hiệp với nhau nhằm thu đƣợc lợi nhuận tối đa và bành
trƣớng hơn nữa thế lực kinh tế của mình. CTCP là hình thức kinh doanh thoả
mãn đƣợc những nhu cầu này, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút và tập
trung tƣ bản. Vì thế cho nên sự ra đời của CTCP là một tất yếu khách quan.
CTCP xuất hiện đầu tiên trên thế giới là công ty Đông Ấn (East India
Company) của Anh (1600-1874). Nó đƣợc thành lập ngày 31/10/1600 bởi một
8

nhóm có 218 ngƣời và đƣợc cấp phép độc quyền kinh doanh trong vòng 15
năm ở vùng Đông Ấn, các quốc gia và hải cảng ở châu Á, châu Phi và đƣợc đi
lại từ tất cả các hải cảng của các đảo, thị trấn và địa điểm ở châu Á, châu Phi
và Mỹ hay bất kỳ địa điểm nào nhƣ thế nằm ngoài Mũi Hảo Vọng (Cape of

Good Hope) và Eo biển Magellan. Ngày 01/6/1874, công ty bị giải thể khi
giấy phép lần sau cùng không đƣợc gia hạn. Công ty đầu tiên này hoạt động
hết sức lỏng lẻo:“Người đầu tư góp vốn theo chuyến đi biển và sau mỗi
chuyến đi biển nhận lại vốn cổ phần và tiền lãi” [39, tr.35]. Đến năm 1602, ở
Hà Lan xuất hiện các CTCP theo hình thức tƣơng tự công ty Đông Ấn của
Anh, rồi lần lƣợt CTCP xuất hiện ở Thụy Điển, Đan Mạch, Đức…
Ở Mỹ, CTCP cũng ra đời sớm và phát triển rất mạnh. Lúc đầu là vì
phải xây dựng đƣờng xe lửa, sau này là để thiết lập mạng lƣới phân phối và
bán lẻ trên toàn lãnh thổ rộng lớn của Mỹ. Chính do yêu cầu tài trợ cho các
công ty làm đƣờng xe lửa mà thị trƣờng chứng khoán ở NewYork phát triển.
Năm 1811, bang NewYork ban bố luật về tính TNHH dành cho các công ty
sản xuất. Nhờ có luật này, tiền ùn ùn đổ về NewYork và tính hữu hạn kia trở

thành phổ biến vì bang nào không dùng đến nó là không thu hút đƣợc vốn
[20, tr.36].
Chính từ nhu cầu khách quan phát triển kinh tế – xã hội cần có sự liên
kết hùn vốn, đồng thời về mặt chủ quan, các nhà đầu tƣ muốn chia sẻ những
gánh nặng rủi ro trong kinh doanh và tìm kiếm lợi nhuận cao hơn đã dẫn đến
sự ra đời của CTCP. Sự ra đời của CTCP đã giúp cho các nhà doanh nghiệp
giải quyết đƣợc mâu thuẫn về tiền vốn một cách sáng tạo nhƣng cũng đặt ra
nhiều thách thức đối với các nhà làm luật để có sự điều chỉnh hợp lý.
Ở Anh, Luật về CTCP đƣợc ban hành năm 1844. Theo đó các công ty
muốn đƣợc thành lập không phải xin phép mà chỉ cần đăng ký. Quy định này
đã tạo động lực mạnh mẽ cho các CTCP ở Anh phát triển. Mặt khác, luật này
9


không cho công ty đƣợc hƣởng chế độ trách nhiệm hữu hạn. Sự hạn chế này
phản ánh sự nghi ngờ của dƣ luận về CTCP lúc đó. Tuy nhiên, vào những
năm 1850 có hơn 40 công ty Anh sang Pháp để thành lập dù chi phí thành lập
công ty ở Pháp rất cao. Chính phủ Anh sợ mất doanh nghiệp nên vào năm
1855 ban hành luật về tính TNHH (Limited Liability Act) dành cho các công
ty đã đƣợc thành lập theo luật về CTCP. Cuối cùng cả hai luật kia đƣợc sáp
nhập thành một năm 1862 lấy tên là Luật về công ty (Companies Act).
Luật công ty của Mỹ đƣợc ban hành năm 1881 ở NewYork chịu sự
ảnh hƣởng mạnh mẽ từ Luật Công ty của Anh do nguồn gốc hình thành nƣớc Mỹ.
Riêng Pháp và Đức đi theo con đƣờng khác do những khác biệt về văn
hoá và lịch sử. Ở Đức, luật CTCP đƣợc ban hành năm 1870. CTCP của Đức

bị luật quy định chặt chẽ và không uyển chuyển nhƣ công ty của Anh và Mỹ.
Ở Pháp, bộ luật Napoleon năm 1807 đã thiết lập một nền tảng cho công ty
bằng cách cho lập hội hợp tƣ cổ phần [20, tr.26].
Trải qua hàng trăm năm phát triển cho đến nay, cùng với quá trình toàn
cầu hóa, hình thức CTCP đã có sức bật mới với sự xuất hiện của các loại hình
CTCP “đa quốc gia”, “xuyên quốc gia” có tầm hoạt động rộng lớn và khả
năng cạnh tranh cao.
Nếu nhƣ trên thế giới, CTCP ra đời từ rất sớm và có bề dày lịch sử từ
hàng trăm năm thì tại Việt Nam, lịch sử CTCP gắn liền với lịch sử “non trẻ”
của luật công ty. Nhƣng phải đến khi Luật công ty 1990 ra đời, CTCP mới
thực sự đƣợc hiểu đúng nghĩa là “của ngƣời Việt Nam”. Mặc dù trƣớc đó
trong chiều dài lịch sử, CTCP đã ít nhiều đƣợc “manh mún”.

Cho đến ngày 21/12/1990, khi Luật công ty đƣợc ban hành, hình thức
CTCP mới chính thức đƣợc quy định cụ thể.
Sau khi Luật Công ty ra đời, nhiều văn bản pháp luật khác nhau đã
đƣợc ban hành nhằm điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động
10

trong các lĩnh vực khác nhau nhƣng đƣợc tổ chức dƣới hình thức CTCP. Hoạt
động của các doanh nghiệp này một mặt phải tuân thủ các quy định của Luật
Công ty, mặt khác, do đặc thù riêng của các ngành nghề kinh doanh, hoạt
động của các doanh nghiệp này còn phải tuân thủ theo quy định của các luật
chuyên ngành.
Sau gần 10 năm thực hiện, Luật Công ty đã phát huy đƣợc tích cực vai

trò của mình, góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển và đổi mới kinh
tế đất nƣớc. Tuy nhiên, thực tiễn các quan hệ kinh doanh ở nƣớc ta trong thời
kỳ này liên tục biến đổi, Luật công ty đã bộc lộ rất nhiều bất cập, không đáp
ứng đƣợc nhu cầu điều chỉnh hoạt động của các loại hình doanh nghiệp theo
cơ chế thị trƣờng và thông lệ quốc tế. Vì thế yêu cầu đặt ra là phải sửa đổi
thay thế luật này nhƣ là một tất yếu khách quan.
Ngày 12/6/1999, Quốc hội đã thông qua Luật doanh nghiệp để thay thế
cho Luật Công ty và Luật DNTN. Sau hơn 5 năm đi vào hoạt động, Luật
doanh nghiệp 1999 đã đƣợc thay đổi bằng Luật doanh nghiệp 2005. Kể từ khi
Luật doanh nghiệp 2005 có hiệu lực, lần đầu tiên chúng ta có một Luật doanh
nghiệp duy nhất, áp dụng thống nhất và không phân biệt đối xử đối với tất cả
các loại hình doanh nghiệp, không phân biệt tính chất sở hữu, ngƣời trong

nƣớc cũng nhƣ ngƣời nƣớc ngoài đƣợc lựa chọn bất kỳ loại hình doanh
nghiệp nào theo quy định của pháp luật.
Nhƣ vậy, cùng với các loại hình doanh nghiệp khác, mặc dù CTCP ở Việt
Nam ra đời khá muộn so với các nƣớc trên thế giới nhƣng với những đặc trƣng
vốn có, CTCP đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đƣợc hình
thành và phát triển cùng với sự thừa nhận nền kinh tế thị trƣờng có điều tiết, thể
hiện sự thay đổi sâu sắc trong tƣ duy lãnh đạo kinh tế của Đảng và Nhà nƣớc ta.
Đồng thời theo các quy định của pháp luật Việt Nam, CTCP đang ngày càng
đƣợc hoàn thiện nhằm đáp ứng nhu cầu về quyền tự do kinh doanh, góp phần đa
dạng hóa nền kinh tế làm giàu thêm cho Ngân sách Nhà nƣớc.
11


1.1.2. Khái niệm và đặc điểm của công ty cổ phần
 Khái niệm
CTCP là một trong bốn loại hình doanh nghiệp trong Luật doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay cho nên tìm hiểu khái niệm CTCP trƣớc tiên cần
tìm hiểu khái niệm và đặc điểm của một doanh nghiệp nói chung.
Theo khoản 1 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2005, Doanh nghiệp đƣợc
định nghĩa là “tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn
định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích
thực hiện hoạt động kinh doanh”. Nhƣ vậy, một doanh nghiệp nói chung có
những đặc điểm pháp lý cơ bản sau đây:
Thứ nhất, là tổ chức kinh tế có tƣ cách chủ thể pháp lý độc lập;
Thứ hai, đƣợc xác lập tƣ cách (thành lập và đăng ký kinh doanh) theo

thủ tục do pháp luật quy định;
Thứ ba, có ngành nghề kinh doanh.
Do CTCP là một trong bốn loại hình doanh nghiệp theo Luật doanh
nghiệp 2005 nên ngoài mang các đặc điểm nói chung của một doanh nghiệp
thì trên cơ sở các dấu hiệu đặc trƣng về số lƣợng thành viên, cơ cấu góp vốn,
trách nhiệm pháp lý của cổ đông, tƣ cách pháp nhân của công ty, việc chuyển
nhƣợng vốn và phát hành chứng khoán, CTCP theo Điều 77 Luật doanh
nghiệp còn đƣợc định nghĩa nhƣ sau:
"Công ty cổ phần là doanh nghiệp, trong đó:
Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiểu là ba và
không hạn chế số lượng tối đa;

Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác
của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người
khác, trừ trường hợp đối với các cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết
12

không được chuyển nhượng cổ phần đó cho người khác và hạn chế quyền tự
do chuyển nhượng cổ phần phổ thông trong thời hạn 3 năm kể từ ngày công
ty cổ phần được cấp GCNĐKKD đối với các cổ đông sáng lập quy định tại
khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84 của Luật này".
 Đặc điểm của CTCP
Về cơ bản có thể thấy cách định nghĩa CTCP theo LDN 2005 mang

tính chất liệt kê các thuộc tính. Từ khái niệm này, có thể khái quát đặc điểm
của CTCP nhƣ sau:
Thứ nhất, về phƣơng diện pháp lý: CTCP là một tổ chức có tƣ cách
pháp nhân độc lập; vốn điều lệ đƣợc chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là
cổ phần. Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu, ngƣời mua cổ phiếu
gọi là cổ đông, lợi nhuận có đƣợc hàng năm gọi là lợi tức; CTCP chỉ chịu
trách nhiệm đối với khoản nợ bằng tài sản riêng của công ty.
Thứ hai, về phƣơng diện sở hữu: CTCP là một doanh nghiệp đa sở hữu,
hiểu theo số lƣợng chủ sở hữu (các cổ đông) của CTCP thƣờng rất lớn và
không giới hạn số lƣợng, đồng thời lại có tính phân tán cao. Việc có quá
nhiều chủ sở hữu dẫn đến hệ lụy thông thƣờng các cổ đông sẽ không trực tiếp
tham gia vào việc quản lý, điều hành công việc hàng ngày của công ty mà sẽ

thông qua các thiết chế là HĐQT và Giám đốc/Tổng giám đốc (ban giám
đốc). Các cổ đông thể hiện quyền sở hữu của mình thông qua việc nhận cổ
tức, tham gia ĐHĐCĐ để thảo luận các vấn đề quan trọng mang tính chiến
lƣợc của công ty nhƣ: thông qua Điều lệ công ty (mới hoặc sửa đổi); ứng cử,
bầu cử các thành viên HĐQT, các chức danh quản lý công ty; đề ra phƣơng
hƣớng kinh doanh; xem xét, thông qua báo cáo tài chính
Thứ ba, về phƣơng diện huy động vốn: trong quá trình hoạt động của
mình, CTCP đƣợc quyền phát hành chứng khoán ra công chúng để huy động
vốn theo quy định của pháp luật về phát hành chứng khoán. Có thể thấy Luật
13

công ty năm 1990, Luật doanh nghiệp năm 1999, Luật doanh nghiệp năm

2005 đều quy định: Đối với công ty TNHH khi muốn tăng vốn điều lệ của
mình chỉ thực hiện bằng cách hoặc tăng thêm phần vốn góp của các thành
viên, hoặc kết nạp thêm thành viên mới. Trong khi đó khả năng huy động vốn
để tăng thêm vốn điều lệ của CTCP là rất lớn, bất cứ khi nào hội đủ các điều
kiện theo luật định thì CTCP cũng có quyền phát hành cổ phiếu mới để kêu
gọi vốn đầu tƣ từ các cổ đông. Điều này cho thấy tính ƣu việt của CTCP,
đƣợc xem nhƣ là một kênh huy động vốn thông qua các giao dịch trên thị
trƣờng chứng khoán.
Một đặc điểm khác, phần vốn góp của các cổ đông đƣợc thể hiện dƣới
hình thức cổ phiếu. Các cổ phiếu do CTCP phát hành là “hàng hóa” nên ngƣời
sở hữu các “hàng hóa” này có thể tự do chuyển nhƣợng cho ngƣời khác, có
quyền yêu cầu công ty mua lại theo quy định của điều lệ công ty, trừ trƣờng

hợp đối với cổ đông sở hữu cổ phần ƣu đãi biểu quyết không đƣợc chuyển
nhƣợng cổ phần cho ngƣời khác và hạn chế quyền tự do chuyển nhƣợng cổ
phần phổ thông trong thời hạn 3 năm kể từ ngày CTCP đƣợc cấp GCNĐKKD
đối với các cổ đông sáng lập. Đối với công ty TNHH, việc chuyển nhƣợng
phần vốn góp bị hạn chế hơn, tức là nếu thành viên muốn chuyển nhƣợng một
phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình thì trƣớc tiên phải chào bán phần
vốn góp đó cho các thành viên còn lại theo tỷ lệ tƣơng ứng phần vốn góp của
họ trong công ty với cùng điều kiện.
Nhƣ vậy, so với các loại hình công ty khác thì CTCP có nhiều ƣu điểm
hơn, khắc phục đƣợc những hạn chế của loại hình công ty đối nhân và công ty
TNHH để phù hợp với nền kinh tế thị trƣờng. Bên cạnh đó, CTCP có khả
năng huy động vốn cao đồng thời chia sẻ rủi ro cho các thành viên. Tuy

nhiên, do CTCP thƣờng có quy mô kinh doanh lớn, số lƣợng thành viên đông
14

nên việc quản lý, điều hành sẽ gặp không ít khó khăn, trở ngại đặc biệt là
trong việc quản lý tài chính về doanh thu, chi phí và lợi nhuận.
1.1.3. Quản lý công ty cổ phần
Khi nói đến quản lý CTCP là nói đến các trung tâm hay cơ cấu quyền
lực ở đó. Theo quan niệm của luật học, quản lý CTCP là phƣơng thức tổ chức
các cơ quan quyền lực trong công ty và mối quan hệ quyền lực giữa các cơ
quan đó. Chính vì có liên quan đến việc bố trí và tổ chức quyền lực nên quản
lý CTCP còn đƣợc gọi là “Cơ cấu quản lý CTCP” (Corporate Governance
Structure) [38, tr.7]. Nhìn chung, trong các CTCP thƣờng thiết lập ba cơ quan

quyền lực chủ yếu là ĐHĐCĐ, HĐQT và BKS.
Theo nghĩa hẹp, quản lý CTCP có nghĩa là cách thức tổ chức và phân
chia quyền lực giữa ba cơ quan nêu trên và mối quan hệ giữa chúng. Luật
Công ty Anh Quốc năm (1985) xác định quản lý công ty là một thiết chế pháp
lý về mối quan hệ giữa cổ đông, thành viên HĐQT và kiểm soát viên. Theo
đó, các thành viên HĐQT là ngƣời quản lý điều hành và lãnh đạo công ty thực
hiện mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận; các cổ đông bảo đảm các thành viên
HĐQT làm việc đúng hƣớng và đúng luật pháp; và các kiểm soát viên thực
hiện quyền và nhiệm vụ giám sát hoạt động quản lý kinh doanh của HĐQT để
bảo đảm công ty không có sai phạm về tài chính và đảm bảo HĐQT đƣợc đề
xuất báo cáo tài chính một cách chân thực và công bằng.
Ở Việt Nam, khái niệm quản lý CTCP cũng tƣơng tự nhƣ ở các nƣớc

khác. Theo TS. Nguyễn Ngọc Côn (2002): “Cơ cấu quản lý doanh nghiệp là
sự thiết lập, vận hành các cơ quan quyền lực trong doanh nghiệp và mối quan
hệ giữa các cơ quan quyền lực đó. Một cơ cấu quản lý doanh nghiệp có hiệu
quả được thể hiện ở sự hợp tác lâu dài giữa những người có quan hệ lợi ích
trên cơ sở cân đối trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích” [22, tr.49]. Ở đây,
“doanh nghiệp” có thể hiểu là CTCP.
15

Trên cơ sở tham khảo các khái niệm nêu trên và nghiên cứu các quy
định của Luật doanh nghiệp 2005 về cơ cấu tổ chức quản lý CTCP [Điều 95],
quản lý CTCP đƣợc hiểu là cách thức tổ chức các cơ quan quyền lực của công
ty bao gồm: ĐHĐCĐ, HĐQT, GĐ/TGĐ, BKS và mối quan hệ quyền lực giữa

các cơ quan đó.
Trong cơ cấu tổ chức quản lý CTCP, toàn thể các cổ đông hợp thành một
cơ quan để hình thành ý chí và thể hiện lợi ích của các cổ đông, đó là ĐHĐCĐ -
cơ quan quyết định cao nhất. Cơ quan này xây dựng và thông qua một quy chế
quản lý chung đƣợc gọi là Điều lệ. Theo Điều lệ công ty, ĐHĐCĐ bầu ra và ủy
quyền một số ngƣời để hình thành cơ quan chấp hành là HĐQT để thực hiện ý
chí của cơ quan quyết định. Bên cạnh cơ quan chấp hành, ĐHĐCĐ lại bầu ra và
ủy quyền cho một nhóm ngƣời để hình thành cơ quan giám sát là BKS để
thƣờng xuyên kiểm soát hoạt động quản lý điều hành của cơ quan chấp hành. Cơ
cấu quản lý nhƣ vậy thể hiện sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý
kinh doanh và sự cân bằng giữa các cơ quan nội bộ công ty. Có thể thấy rằng, cơ
sở của chế độ quản lý CTCP là cơ chế phân quyền và mối quan hệ quyền lực

giữa các cơ quan quyền lực trong công ty trên cơ sở tách biệt quyền sở hữu với
quyền quản lý kinh doanh của công ty.
1.2. Những vấn đề pháp lý cơ bản về quản lý doanh thu, chi phí và lợi
nhuận của công ty cổ phần
Để tìm hiểu những vấn đề pháp lý về quản lý doanh thu, chi phí và lợi
nhuận của CTCP trƣớc hết cần tìm hiểu về doanh thu, chi phí và lợi nhuận
của doanh nghiệp nói chung.
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm về quản lý doanh thu, chi phí
Doanh thu và chi phí là hai mặt của một quá trình, đó là quá trình sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đây đƣợc xem là hai chỉ tiêu quan trọng
phản ánh tình hình lãi lỗ của doanh nghiệp và đƣợc thể hiện trên báo cáo kết
quả sản xuất kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp. Việc quản lý doanh thu

16

và chi phí liên quan trực tiếp đến thu nhập doanh nghiệp, các sắc thuế và các
quyền nghĩa vụ tài chính khác của doanh nghiệp. Đồng thời chịu sự điều
chỉnh của Luật kế toán, pháp luật về thuế.
 Khái niệm và đặc điểm về quản lý doanh thu
* Khái niệm doanh thu
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về doanh thu:
Theo chuẩn mực kế toán số 01 (VAS 01) định nghĩa: “Doanh thu là giá
trị các lợi ích kinh tế doanh nghiệp trong kỳ kế toán, phát sinh từ các hoạt
động sản xuất, kinh doanh thông thƣờng góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu,
không bao gồm khoản góp vốn của cổ đông hoặc chủ sở hữu”.

Theo Uỷ ban chuẩn mực kế toán quốc tế (IASC) định nghĩa : “Thu
nhập là các yếu tố làm tăng lợi ích kinh tế trong niên độ kế toán dƣới hình
thức tăng tài sản hay giảm công nợ kết quả là làm tăng vốn tự có mà không
phải do việc đóng góp vốn của các bên chủ hữu”. Trong khái niệm này thu
nhập bao gồm cả doanh thu bán hàng và các khoản thu nhập từ các hoạt động
khác, IASC nhấn mạnh đến dấu hiệu xác định doanh thu phải thoả mãn hai
điều kiện: tăng lợi ích kinh tế của doanh nghiệp bằng cách tăng vốn tự có và
không phải do việc góp vốn của các chủ sở hữu. Nhƣ vậy, doanh nghiệp
muốn tăng lợi ích kinh tế, tăng khả năng độc lập về tài chính thì một trong
những biện pháp cơ bản là tăng doanh thu .
Theo chuẩn mực kế toán quốc tế số 18 (IAS 18) định nghĩa: “Doanh
thu là luồng thu gộp các lợi ích kinh tế trong kỳ, phát sinh trong quá trình hoạt

động thông thƣờng, làm nguồn vốn chủ sở hữu, chứ không phải phần đóng
góp của những ngƣời tham gia góp vốn cổ phần. Doanh thu không bao gồm
những khoản thu cho bên thứ ba”.
Theo Học viện Đào tạo các kế toán viên cộng đồng của Mỹ (AICPA)
định nghĩa: “Doanh thu là tổng giá trị gia tăng tài sản hay là sự giảm gộp các
17

khoản nợ đƣợc công nhận và đƣợc định lƣợng theo đúng các nguyên tắc kế
toán đƣợc chấp thuận, là kết quả của các loại hoạt động có lợi nhuận của
doanh nghiệp và có thể làm thay đổi vốn chủ sở hữu”.
Nhƣ vậy, có thể thấy ở Việt Nam và các nƣớc trên thế giới, mặc dù
cách định nghĩa về doanh thu có thể không giống nhau về mặt câu từ hay cách

diễn đạt nhƣng về cơ bản không làm thay đổi bản chất của doanh thu là khoản
thu từ hoạt động kinh doanh, cơ sở tạo ra kết quả kinh doanh trong kỳ của
doanh nghiệp và khẳng định không phải mọi nghiệp vụ kinh tế làm tăng tài
sản đều phát sinh doanh thu, đồng thời không chỉ có sự phát sinh doanh thu
mới làm thay đổi nguồn vốn chủ sở hữu. Doanh thu chỉ là một trong những
nghiệp vụ kinh tế phát sinh làm tăng tài sản và làm thay đổi vốn chủ sở hữu.
Nhận thức rõ bản chất của doanh thu và xác định đúng phạm vi, thời
điểm, cơ sở ghi nhận doanh thu ảnh hƣởng có tính chất quyết định đến tính
khách quan, trung thực của chỉ tiêu doanh thu, kết quả trong báo cáo tài chính.
Do vậy, cần xác định đúng thời điểm ghi nhận doanh thu.
Ở nƣớc ta, đến thời điểm hiện tại, việc xác định và ghi nhận doanh thu
phải tuân thủ các quy định trong chuẩn mực kế toán Việt Nam số 14 (VAS

14) đƣợc ban hành theo Quyết định số 149/2001/QĐ–BTC. Theo đó doanh
thu đƣợc xác định nhƣ sau:
Thứ nhất, doanh thu đƣợc xác định theo giá trị hợp lý của các khoản đã
thu hoặc sẽ thu đƣợc.
Thứ hai, doanh thu phát sinh từ giao dịch đƣợc xác định bởi thỏa thuận
giữa doanh nghiệp với bên mua hoặc bên sử dụng tài sản. Nó đƣợc xác định
bằng giá trị hợp lý của các khoản đã thu đƣợc hoặc sẽ thu đƣợc sau khi trừ (-)
các khoản chiết khấu thƣơng mại, chiết khấu thanh toán, giảm giá hàng bán
và giá trị hàng bán bị trả lại.
18

Thứ ba, đối với các khoản tiền hoặc tƣơng đƣơng tiền không đƣợc nhận

ngay thì doanh thu đƣợc xác định bằng cách quy đổi giá trị danh nghĩa của
các khoản sẽ thu đƣợc trong tƣơng lai về giá trị thực tế tại thời điểm ghi nhận
doanh thu theo tỷ lệ lãi suất hiện hành. Giá trị thực tế tại thời điểm ghi nhận
doanh thu có thể nhỏ hơn giá trị danh nghĩa sẽ thu đƣợc trong tƣơng lai. Vì
thế nếu hàng hóa hoặc dịch vụ đƣợc trao đổi để lấy hàng hóa hoặc dịch vụ
tƣơng tự về bản chất và giá trị thì việc trao đổi đó không đƣợc coi là một giao
dịch tạo ra doanh thu. Ngƣợc lại khi hàng hóa hoặc dịch vụ đƣợc trao đổi để
lấy hàng hóa hoặc dịch vụ khác không tƣơng tự thì việc trao đổi đó đƣợc coi
là một giao dịch tạo ra doanh thu. Trƣờng hợp này doanh thu đƣợc xác định
bằng giá trị hợp lý của hàng hóa hoặc dịch vụ nhận về, sau khi điều chỉnh các
khoản tiền hoặc tƣơng đƣơng tiền trả thêm hoặc thu thêm. Khi không xác định
đƣợc giá trị hợp lý của hàng hóa hoặc dịch vụ nhận về thì doanh thu đƣợc xác

định bằng giá trị hợp lý của hàng hóa hoặc dịch vụ đem trao đổi, sau khi điều
chỉnh các khoản tiền hoặc tƣơng đƣơng tiền trả thêm hoặc thu thêm. Còn theo
TS. Mai Ngọc Anh (2011): "Doanh thu được ghi nhận khi doanh nghiệp đã
chuyển giao quyền sở hữu đối với hàng hóa cho người mua hoặc doanh
nghiệp đã hoàn thành các nghĩa vụ cung cấp dịch vụ cho người mua theo hợp
đồng "[19, tr.23].
Tóm lại, doanh thu đƣợc ghi nhận khi bán hàng hóa và cung cấp dịch
vụ, là cơ sở xác định khả năng thu hồi vốn của doanh nghiệp đầu tƣ. Doanh
thu chịu sự tác động của nhiều yếu tố nhƣ: khách hàng, thời hạn thanh toán,
các điều kiện thanh toán Vấn đề đặt ra đối với các nhà quản lý là phải có cơ
chế quản lý doanh thu nhƣ thế nào để đảm bảo thu hồi vốn nhanh nhất, hiệu
quả cao và thực hiện nghĩa vụ đối với Nhà nƣớc.

×