Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ DOANH THU CHI PHÍ VÀ LỢI NHUẬN CỦA TẬP ĐOÀN KINH DOANH VÀ TỔNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.24 KB, 24 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ DOANH THU CHI PHÍ VÀ LỢI
NHUẬN CỦA TẬP ĐOÀN KINH DOANH VÀ TỔNG
CÔNG TY NHÀ NƯỚC.
1.1. TẬP ĐOÀN KINH DOANH VÀ CƠ CHẾ QUẢN LÝ DOANH THU, CHI PHÍ, LỢI
NHUẬN CỦA TẬP ĐOÀN KINH DOANH.
1.1.1.Tập đoàn kinh doanh.
1.1.1.1. Sự hình thành và phát triển của tập đoàn kinh doanh.
Quá trình hình thành và phát triển của tập đoàn kinh doanh trên thế giới gắn
liền với lịch sử phát triển của Chủ nghĩa Tư bản. Quá trình hình thành của tập đoàn
kinh doanh là sự phát triển khách quan, đáp ứng đòi hỏi sự tích tụ và tập trung tư
bản. Sự phát triển lực lượng sản xuất Tư Bản Chủ Nghĩa đã thúc đẩy sự thay đổi
trong hình thức tổ chức kinh doanh và làm xuất hiện các kiểu liên kết tập đoàn. Mặt
khác các chính sách của Chính phủ cũng có tác động rất lớn đối với sự phát triển của
các tập đoàn kinh doanh, các tập đoàn kinh doanh được hình thành theo các phương
thức sau:
- Hình thành tập đoàn do mở rộng quy mô và chia nhỏ công ty: phương thức
hình thành tập đoàn một cách tự nhiên là dựa trên sự mở rộng quy mô của công ty
tiến tới tách ra thành một số công ty hoạt động trên một lĩnh vực nhất định. Giữa các
công ty mới được thành lập và công ty ban đầu (công ty mẹ) tồn tại mối liên hệ kinh
tế tài - chính chặt chẽ. Nhiều tập đoàn của Nhật Bản được hình thành theo phương
thức này.
- Hình thành do liên kết, sát nhập tự nhiên: Đây là con đường hình thành các
tập đoàn kinh doanh đầu tiên trong lịch sử. Một số công ty có liên hệ nhất định về thị
trường, sản phẩm, nguyên liệu hoặc công nghệ tự nguyện liên minh lại theo kiểu
Cartel hay Trust. Trong quá trình phát triển, nhiều tổ chức Cartel, Trust, đã tan vỡ,
nhưng cũng có nhiều tổ chức loại này được cơ cấu lại và phát triển.
Quá trình tập trung đã góp phần đẩy nhanh quá trình thành lập tập đoàn kinh
doanh. Quá trình này diễn ra theo những phương thức khác nhau bằng con đường
thôn tính theo kiểu cá lớn nuốt cá bé thông qua việc mua lại các công ty nhỏ yếu hơn,
biến chúng thành bộ phận không thể tách rời của công ty mẹ theo con đường tự
nguyện sát nhập với nhau thành công ty lớn hơn chống lại nguy cơ bị thôn tính, tăng


khả năng cạnh tranh trên thị trường. Ở các nước công nghiệp hoá đi sau, các tập
đoàn kinh doanh được hình thành và phát triển chủ yếu bằng tích tụ và liên doanh
nhằm tăng nhanh vốn, khả năng sản xuất và khả năng chuyển giao công nghệ nước
ngoài, khả năng cạnh tranh nhằm chống lại nguy cơ bị các công ty nước ngoài thôn
tính.
1.1.1..2. Khái niệm tập đoàn kinh doanh.
Dựa trên những giác độ nghiên cứu và phân tích khác nhau người ta đưa ra
một số khái niệm khác nhau về tập đoàn kinh doanh. Có tác giả nêu ra khái niệm về
tập đoàn kinh doanh như sau: “tập đoàn kinh doanh là một thực thể kinh tế thực
hiện sự liên kết giữa các thành viên là các doanh nghiệp có quan hệ với nhau về công
nghệ và lợi ích được gọi bằng các tên khác nhau như: Hiệp hội, liên hiệp xí nghiệp,
Tổng công ty theo mô hình tập đoàn, tập đoàn kinh doanh...”
Theo khái niệm trên, tập đoàn kinh doanh là thể hiện bởi các liên kết kinh tế
giữa các chủ thể kinh doanh và quan hệ với nhau về công nghệ, lợi ích giữa các chủ
thể thành viên.
Theo các tác giả của từ điển thương mại Anh - Pháp - Việt, khái niệm tập đoàn
được hiểu như sau: “Một nhóm các công ty bao gồm công ty mẹ và các công ty khác
mà nó kiểm soát hay trong đó nó tham gia. Mỗi công ty bản thân nó cũng có thể kiểm
soát các công ty khác hay tham gia các tổ hợp khác”. Theo quan niệm này, đặc trưng
chủ yếu của tập đoàn kinh doanh là cấu trúc và sự kiểm soát của một công ty lớn
nhất (công ty mẹ) trong tổ hợp của công ty đó.
Trên thực tế, ở nhiều nước, hình thức biểu hiện, tên gọi và đặc điểm của các tổ
chức kinh tế dưới dạng tập đoàn kinh doanh rất đa dạng và phong phú. Sự phát
triển của lực lượng sản xuất và những thay đổi trong tổ chức kinh doanh những
năm gần đây đã và đang có những tác động nhất định đối với hình thức biểu hiện
của tập đoàn kinh doanh. Những yếu tố đó thể hiện rõ nhất các sắc thái biến đổi của
tập đoàn kinh doanh trong thời gian gần đây có thể đưa ra một số điểm chủ yếu sau
đây:
- Mức độ liên kết giữa các doanh nghiệp thành viên đã và đang được điều
chỉnh trong các tập đoàn kinh doanh, kèm theo đó là sự cải cách về kiểm soát và

chiến lược phát triển chung của cả tập đoàn.
- Phạm vi, lĩnh vực hoạt động của cả tập đoàn và các đơn vị thành viên đã và
đang thay đổi nhiều trong tập đoàn kinh doanh, kể cả một số công ty đã có những
thay đổi lớn về lĩnh vực kinh doanh để thích ứng với môi trường kinh doanh hiện
nay.
Từ phân tích trên, ta có thể đưa ra một khái niệm chung về tập đoàn kinh
doanh như sau: “tập đoàn kinh doanh là một thực thể kinh tế có quy mô lớn bao gồm
một số tổ chức thành viên có mối liên kết với nhau về kinh tế, tài chính, công nghệ,
thông tin, đào tạo, nghiên cứu; với một cấu trúc tổ chức nhất định, được kiểm soát và
điều hành bởi một bộ máy quản lý thống nhất. Tập đoàn là một hình thức tổ chức
sản xuất kinh doanh đặc biệt nhưng có thể biểu hiện dưới hình thức tổ chức và cấu
trúc đa dạng”.
1.1.1.3. Những đặc điểm cơ bản của tập đoàn kinh doanh
Nghiên cứu một số tập đoàn kinh doanh của các nước như: Nhật Bản, Hoa Kỳ,
Thuỷ Điển, Hàn Quốc, Thái Lan... Có thể nhận thấy một số nét đặc thù của tập đoàn
kinh doanh trong điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi quốc gia và trong từng thời kỳ lịch
sử. Mặc dù các tập đoàn kinh doanh hết sức đa dạng và có những sắc thái khác nhau,
nhưng có thể thấy những đặc điểm chung nhất của tập đoàn kinh doanh như sau:
- Đặc điểm về cấu trúc và tổ chức: Hầu hết các tập đoàn kinh doanh là tổ hợp
của nhiều công ty thành viên. Các công ty thành viên chịu sự chi phối của một công ty
lớn nhất, đó là công ty mẹ. Công ty mẹ nắm cổ phần các công ty thành viên và tạo
thành một cấu trúc giống như các vệ tinh quay quanh hạt nhân.
- Đặc điểm về qui mô: hầu hết các tập đoàn kinh doanh có qui mô rất lớn về
vốn, lao động, doanh thu và thị trường, có phạm vi hoạt động rộng với các chi nhánh
không chỉ hoạt động trong phạm vi lãnh thổ quốc gia mà còn ở nhiều quốc gia trên
thế giới. Qui mô của tập đoàn có thể biểu hiện dưới một số chỉ tiêu như: tổng số vốn,
tổng tài sản hay doanh thu; số nước có chi nhánh hay văn phòng đại diện; thị phần
đối với một loại hay một nhóm các sản phẩm chủ yếu.
- Đặc điểm về ngành và lĩnh vực kinh doanh: Mặc dù đặc điểm nổi bật của các
tập đoàn kinh doanh là hoạt động đa ngành, nhưng vẫn có một số tập đoàn kinh

doanh trong một số lĩnh vực tương đối hẹp. Điều đó minh hoạ cho cả hai xu hướng
phát triển của tập đoàn kinh doanh. Xu hướng thứ nhất là phát triển đa dạng hóa, đa
ngành phân tán rủi ro và tăng khả năng chi phối thị trường. Xu hướng thứ hai là
phát triển chuyên môn hoá sâu để khai thác thế mạnh và chuyên môn, bí quyết công
nghệ, uy tín đặc biệt trong ngành. Các xu hướng này thể hiện khác nhau tuỳ theo
ngành nghề kinh doanh, lĩnh vực hoạt động. Tuy nhiên người ta sẽ nhận thấy hiện
nay xu hướng đa dạng hóa thể hiện rõ nét hơn.
Hiện nay, do sức ép ngày càng tăng của cạnh tranh toàn cầu, nên hầu hết các
tập đoàn không ngừng mở rộng cả quy mô và phạm vi hoạt động. Tính chất đa
ngành, đa lĩnh vực đang có chiều hướng vượt trội hơn so với tính chất chuyên ngành.
Một số tập đoàn không chỉ mở rộng lĩnh vực hoạt động mà còn tìm cách đa dạng hoá
lĩnh vực đầu tư của họ để phân tán rủi ro, thông qua việc nắm giữ cổ phiếu và các tài
sản tài chính trong một số ngành khác.
Các mối liên kết kinh tế giữa các đơn vị thành viên của tập đoàn kinh doanh
có ảnh hưởng to lớn đối với sức cạnh tranh và khả năng phát triển của đoàn kinh
doanh. Trong thập kỷ 80, các liên kết nội bộ giữa các công ty con với công ty mẹ và
giữa chúng với nhau còn tương đối lỏng lẻo so với hiện nay. Quá trình quốc tế hoá và
cạnh tranh gay gắt đã tạo ra sức ép buộc các tập đoàn phải cải tổ cơ cấu và tăng
cường liên kết và phối hợp chiến lược trong tập đoàn.
Qua nghiên cứu một số tập đoàn kinh doanh ở các nước khác nhau cho thấy;
các tập đoàn kinh doanh có những hình thức tổ chức rất đa dạng và linh hoạt tuỳ
thuộc vào một số nhân tố nhất định; ở đây chỉ đề cập tới một số hình thức tổ chức
tập đoàn chủ yếu nhất:
- Hình thức thứ nhất: Quan hệ liên kết giữa các thành viên tương đối lỏng lẻo
thông qua các thoả thuận hoặc cam kết hợp tác. Trong hình thức này, các công ty
thành viên tham gia tập đoàn chịu sự giàng buộc tương đối lỏng lẻo, các thành viên
có tính độc lập cao. Thông thường cơ sở tồn tại loại hình tập đoàn này là thoả thuận
hoặc tạo ra sự liên kết “mềm” giữa các thành viên để tăng thêm lợi thế cho nhóm
thành viên đó. Các công ty thành viên ký kết hợp đồng thoả thuận với nhau về những
nguyên tắc chung trong hoạt động sản xuất kinh doanh như xác định qui mô sản

xuất, hợp tác nghiên cứu và trao đổi bằng phát minh sáng chế kỹ thuật, qui định giá
cả và thị trường tiêu thụ... Về tổ chức, có ban quản trị chung điều hành các hoạt động
phối hợp của tập đoàn theo đường lối chung thống nhất, nhưng các công ty thành
viên vẫn giữ nguyên tính độc lập về tổ chức sản xuất và thương mại.
- Hình thức thứ hai: mối liên kết giữa các công ty thành viên rất chặt chẽ, mức
độ phụ thuộc lẫn nhau rất cao, các đơn vị thành viên bị hạn chế tính độc lập. Nói
chung với hình thức này, cơ sở kinh tế của sự liên kết chặt chẽ trong nội bộ tập đoàn
là quyền sở hữu, giữa các công ty thành viên có sự nắm giữ cổ phiếu của nhau hoặc
có một công ty mạnh nhất chi phối cả tập đoàn. Về mặt cấu trúc, có thể có ba dạng
khác nhau của hình thức này.
Thứ nhất, các công ty thành viên có liên kết dọc về công nghệ sử dụng đầu ra
của nhau: ví dụ một tập đoàn gồm các công ty khai khoáng, luyện kim, chế tạo máy
và sản xuất cấu kiện kim loại như tập đoàn Mitsubishi.
Thứ hai, tập đoàn có liên kết theo chiều ngang: Trong loại hình này các công
ty có quan hệ với nhau về sản phẩm hay dịch vụ bổ trợ cho nhau hoặc các sản phẩm
cho cùng một nhóm khách hàng hoặc cùng nhóm mục tiêu sử dụng. Ví dụ: trong tập
đoàn LG (Hàn Quốc) có công ty sản xuất máy tính, công ty sản xuất máy in, máy
photôcopy và thiết bị văn phòng, công ty sản xuất giấy...Các công ty này có thể tạo
thành một tổ hợp để tạo lợi thế chung.
Thứ ba, kiểu liên kết hạt nhân: Giữa các công ty thành viên có sự liên kết về
công nghệ, hoặc thị trường ... nhưng xoay quanh một nhóm sản phẩm mũi nhọn. Ví
dụ: tập đoàn Generel Motor cung cấp một số loại sản phẩm và dịch vụ khác nhau,
nhưng sản xuất ôtô là hạt nhân của cả tập đoàn.
Chúng ta cần thấy rằng: các mối liên kết và hình thức nói trên là tương đối,
luôn biến đổi do tác động của môi trường kinh tế, xã hội và tiến bộ KHKT.
- Hình thức thứ ba: Do sự phát triển cao của thị trường tài chính, hình thành
kiểu tập đoàn có hạt nhân liên kết là công ty tài chính. Công ty mẹ là công ty tài chính
nắm giữ cổ phần chi phối các công ty con. Sự phát triển cao của thị trường tài chính
và công nghệ thông tin cho phép một công ty chi phối nhiều công ty khác thông qua
quyền sở hữu cổ phiếu. Do đó, các công ty trong tập đoàn không nhất thiết có mối

liên hệ về sản phẩm, công nghệ hay kỹ thuật.
Hình thức công ty mẹ kiểu này đang trở lên phổ biến. Công ty mẹ là một công
ty kiểm soát một hoặc nhiều công ty khác, thông thường bằng cách nắm giữ đa số cổ
phiếu của các công ty chi nhánh. Đối với một số lượng lớn các công ty với số vốn tập
hợp lại lớn hơn rất nhiều vốn của chính nó vì công ty mẹ chỉ nắm giữ một nửa hay
thậm chí ít hơn một nửa số cổ phiếu của các công ty chi nhánh của nó.
1.1.1.4. Vai trò và ý nghĩa của tập đoàn kinh doanh:
Các tập đoàn kinh doanh đã và đang đóng một vai trò quan trọng trong nền
kinh tế của nhiều nước cũng như nền kinh tế toàn cầu. Việc hình thành tập đoàn
kinh doanh có ý nghĩa quan trọng sau:
- Làm tăng sức mạnh kinh tế và khả năng cạnh tranh cuả cả tập đoàn cũng
như từng đơn vị thành viên trong tập đoàn.
Tập đoàn kinh doanh cho phép các nhà kinh doanh huy động được nguồn lực
về vật chất, con người và nguồn lực to lớn trong xã hội vào quá trình sản xuất kinh
doanh hình thành những công ty hiện đại, có qui mô và tiềm lực kinh tế lớn. Việc hình
thành các tập đoàn kinh doanh cho phép hạn chế tới mức tối đa sự cạnh tranh giữa
các công ty thành viên: mặt khác nhờ mối liên hệ chặt chẽ giữa các công ty sẽ tạo ra
điều kiện thuận lợi cho việc thống nhất phương hướng và chiến lược phát triển kinh
doanh của cả tập đoàn. Đồng thời, nâng cao khả năng cạnh tranh để chống lại sự
cạnh tranh của các tập đoàn khác, đặc biệt là các tập đoàn tư bản nước ngoài.
- Tập đoàn kinh doanh có khả năng tập trung điều hoà vốn:
Thành lập các tập đoàn kinh doanh là một đòi hỏi thực tế và khách quan
nhằm hạn chế về vốn của từng công ty riêng biệt. Nguồn vốn của cả tập đoàn kinh
doanh được huy động từ các công ty thành viên và theo hình thức khác được pháp
luật cho phép và tập trung đầu tư vào những lĩnh vực, những dự án hiệu quả nhất,
khắc phục tình trạng vốn bị phân tán trong những công ty nhỏ. Nguồn vốn tập trung
của tập đoàn được sử dụng bởi các công ty mẹ. Thực chất các công ty mẹ không phải
là ngân hàng vì nó không nhận tiền gửi của các tầng lớp dân cư. Công ty mẹ huy
động vốn từ các công ty thành viên và điều hoà vốn đầu tư vào những lĩnh vực cần
phát triển, các công ty thành viên sẽ trả lãi theo cổ phần mà nó đóng góp. Công ty mẹ

cũng có thể huy động vốn từ các công ty thành viên theo hình thức vay với lãi suất
thoả thuận.
Như vậy, nhờ việc thành lập các tập đoàn kinh doanh mà vốn của các công ty
thành viên được sử dụng vào những lĩnh vực hiệu quả nhất, những dự án tốt nhất,
tạo ra sức mạnh quyết định cho sự phát triển của tập đoàn. Do có việc huy động vốn
giữa các công ty với nhau, vốn của công ty này được huy động vào công ty khác và
ngược lại đã giúp cho các công ty liên kết với nhau chặt chẽ hơn, quan tâm tới hiệu
quả nhiều hơn từ đó mà phát huy được hiệu quả nguồn vốn của từng công ty và cả
tập đoàn.
- Thành lập tập đoàn là giải pháp hữu hiệu cho việc đẩy mạnh nghiên cứu
triển khai ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh của các công
ty thành viên vì:
+ Hoạt động nghiên cứu ứng dụng công nghệ mới đòi hỏi một lượng vốn rất
lớn mà mỗi công ty riêng rẽ khó có khả năng huy động. Tập trung điều hoà vốn sẽ có
tác động tích cực trong việc tạo điều kiện cho triển khai, nghiên cứu ứng dụng khoa
học công nghệ mới vào sản xuất .
+ Các đề tài nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ lớn đòi hỏi phải có sự
hợp tác của đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học và các phòng thí nghiệm, các thiết bị
nghiên cứu khác. Chỉ trên cơ sở liên kết các công ty lại mới tạo được tiềm năng
nghiên cứu khoa học to lớn đó.
+ Tập đoàn kinh doanh có tác dụng to lớn trong việc cung cấp, trao đổi thông
tin và những kinh nghiệm quan trọng trong việc tổ chức nghiên cứu ứng dụng khoa
học công nghệ giữa các công ty thành viên.
+ Sự hợp tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ trong tập đoàn cho
phép các công ty thành viên có khả năng đưa nhanh kết quả nghiên cứu vào thực
tiễn trên qui mô rộng lớn, nâng cao hiệu quả hoạt động nghiên cứu ứng dụng và thu
hồi nhanh, giảm được tác động sấu do hao mòn vô hình gây ra.
- Tập đoàn kinh doanh với hình thức là các công ty đa quốc gia có ý nghĩa rất
lớn, được coi như là giải pháp quan trọng giúp các nước công nghiệp hoá đi sau thực
hiện chiến lược chuyển giao công nghệ từ nước ngoài một cách có hiệu quả nhất.

Các thông tin và kinh nghiệm trong chuyển giao công nghệ từ các công ty
thành viên được phổ biến rộng rãi trong tập đoàn, do đó tránh được những sai lầm
do thiếu những hiểu biết cơ bản trong chuyển giao công nghệ nước ngoài. Sự phối
hợp thống nhất giữa các công ty thành viên trong thực hiện chiến lược công nghệ
chung thông qua sự chỉ đạo của một trung tâm thống nhất, tạo điều kiện cho việc lựa
chọn khâu quan trọng có ý nghĩa đột phá trong chuyển giao công nghệ với chi phí
thấp nhất, giảm lãng phí về vốn, tập trung được nguồn lực vào thực hiện những mục
tiêu chiến lược có lợi cho tất cả các công ty thành viên và cả tập đoàn.
1.1.2. Nội dung cơ chế quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận của tập đoàn
kinh doanh.
Cơ chế là những cách thức những phương thức và công cụ qua đó người ta
thực hiện quá trình hoạt động của mình.
Cơ chế quản lý là một hệ thống các nguyên tắc, hình thức phương pháp quản
lý trong những giai đoạn khác nhau của nền sản xuất xã hội.
Cơ chế quản lý tài chính là những phương thức công cụ qua đó quá trình quản
lý tài chính được thực hiện.
Cơ chế quản lý tài chính của một doanh nghiệp bao gồm rất nhiều yếu tố cấu
thành và có liên quan đến một loạt các vấn đề khác nhau. Tuy nhiên cơ chế quản lý
tài chính bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
-Cơ chế quản lý sử dụng vốn và tài sản;
-Cơ chế quản lý doanh thu và chi phí;
-Cơ chế quản lý và phân phối lợi nhuận;
-Cơ chế kiểm soát tài chính của doanh nghiệp.
Cơ chế quản lý tài chính trong tập đoàn kinh doanh là khâu có ý nghĩa quan
trọng quyết định trong toàn bộ cơ chế quản lý của tập đoàn. Nội dung cơ chế quản lý
tài chính trong tập đoàn kinh doanh bao gồm nhiều bộ phận cấu thành, trong phạm
vi của Luận văn chỉ nghiên cứu cơ chế quản lý doanh thu, chi phí và lợi nhuận của
tập đoàn, cụ thể là:
1.1.2.1. Nội dung cơ chế quản lý doanh thu.
Doanh thu được thực hiện sau quá trình sản suất và cung ứng sản phẩm, giúp

cho các doanh nghiệp thu hồi vốn, xác định kết quả và tái sản xuất kinh doanh của
chu kỳ tiếp theo. Như vậy, doanh thu chịu tác động của nhiều yếu tố như: khách hàng,
thời hạn thanh toán, các điều kiện thanh toán...Vấn đề đặt ra đối với nhà quản lý là
phải có cơ chế doanh thu như thế nào để đảm bảo thu hồi vốn một cách nhanh nhất
và hiệu quả cao. Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp mà người ta có thể lựa chọn,
xây dựng một phương thức quản lý doanh thu sao cho phù hợp với tình hình và đặc
điểm kinh doanh của đơn vị.
Cũng như các doanh nghiệp, doanh thu của tập đoàn bao gồm: doanh thu từ
hoạt động sản suất kinh doanh, doanh thu từ hoạt động tài chính và doanh thu từ
hoạt động bất thường. Cơ chế doanh thu của tập đoàn phụ thuộc rất nhiều vào mô
hình hoạt động, lĩnh vực kinh doanh đa ngành và tính chất sở hữu của từng tập
đoàn. Có thể thấy cơ chế quản lý doanh thu của tập đoàn có các hình thức chủ yếu
sau:
- Cơ chế quản lý doanh thu theo hình thức tập trung:
Hình thức này tồn tại trong các tập đoàn chi phối mạnh các công ty thành viên
và thực hiện quản lý chặt chẽ doanh thu của các công ty con. Trên cơ sở đó xác định
doanh thu của toàn bộ tập đoàn cùng với việc xác định doanh thu của các đơn vị
thành viên.
- Cơ chế quản lý doanh thu theo hình thức phân tán:
Theo hình thức này, chỉ có các đơn vị thành viên xác định doanh thu, không
xác định doanh thu chung cho toàn bộ tập đoàn, hoặc nếu có chỉ xác định mang tính
thống kê để làm căn cứ cho những hoạch định chiến lược kinh doanh chung của tập
đoàn. Hình thức này thường tồn tại ở những tập đoàn có mối liên kết lỏng giữa công
ty mẹ và các công ty thành viên.
- Cơ chế quản lý doanh thu theo hình thức hỗn hợp:

×