Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Một số vấn đề pháp lý về kiểm soát của bên nhượng quyền trong hoạt động nhượng quyền thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 113 trang )


3
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





CHỬ THU HƢƠNG




NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ
KIỂM SOÁT CỦA BÊN NHƢỢNG QUYỀN TRONG
NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC






Hà Nội – 2012



4
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





CHỬ THU HƢƠNG




NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ
KIỂM SOÁT CỦA BÊN NHƢỢNG QUYỀN TRONG
NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60.38.50



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Nguyên Khánh





Hà Nội – 2012

5
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN












6

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN 3
MỤC LỤC 6
MỞ ĐẦU 9
CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ KIỂM SOÁT
CỦA BÊN NHƢỢNG QUYỀN TRONG NHƢỢNG QUYỀN
THƢƠNG MẠI 14
1.1. Những vấn đề pháp lý về hoạt động NQTM 14
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại hoạt động NQTM 14
1.1.1.1. Khái niệm về hoạt động NQTM: 14
1.1.1.2. Đặc điểm của hoạt động NQTM: 17
1.1.1.3. Phân loại hoạt động NQTM: 21
1.1.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về NQTM 28
1.1.2.1. Quy định về hình thức nhượng quyền và HĐNQ 28
1.1.2.2. Các quy định liên quan với sở hữu trí tuệ và cạnh tranh 35
1.2. Những vấn đề pháp lý về kiểm soát của Bên nhƣợng quyền trong
hoạt động NQTM 38
1.2.1. Cơ sở quyền kiểm soát của Bên nhượng quyền trong NQTM 38
1.2.1.1. Cơ sở lý luận quyền kiểm soát của Bên nhượng quyền trong
NQTM 38
1.2.1.2. Cơ sở thực tiễn việc kiểm soát của bên nhượng quyền trong NQTM
41
1.2.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về quyền kiểm soát của bên
nhượng quyền trong NQTM 42
1.2.2.1. Quy định trong Luật thương mại và các văn bản hướng dẫn thi
hành Luật thương mại 42
1.2.2.2. Quy định trong các văn bản pháp luật liên quan 43

7
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT CỦA

BÊN NHƢỢNG QUYỀN TRONG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG
MẠI Ở VIỆT NAM 48
2.1. Thực trạng pháp luật về kiểm soát của bên nhƣợng quyền thông
qua Luật thƣơng mại và các văn bản hƣớng dẫn thi hành Luật thƣơng
mại 48
2.1.1. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về quyền kiểm soát của bên nhượng
quyền thông qua các quy định về chủ thể của hợp đồng NQTM 48
2.1.2 Thực trạng pháp luật về quyền kiểm soát của bên nhượng quyền
thông qua các quy định về nội dung của hợp đồng NQTM 53
2.1.3 Thực trạng pháp luật về quyền kiểm soát của bên nhượng quyền
thông qua các quy định về hình thức của hợp đồng NQTM 55
2.1.4 Thực trạng pháp luật về quyền kiểm soát của bên nhượng quyền
thông qua các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng
NQTM 57
2.1.5 Thực trạng pháp luật về kiểm soát của bên nhượng quyền thông qua
các quy định về điều kiện pháp lý của việc giao kết hợp đồng NQTM và
thời hạn, thay đổi và chấm dứt hợp đồng NQTM 63
2.2. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về quyền kiểm soát của bên
nhƣợng quyền thông qua hợp đồng theo mẫu và điều kiện thƣơng mại
chung. 68
2.3. Thực trạng pháp luật về quyền kiểm soát của bên nhƣợng quyền
trong pháp luật về sở hữu trí tuệ và pháp luật cạnh tranh 73
2.3.1. Thực trạng pháp luật về quyền kiểm soát của bên nhượng quyền
trong pháp luật về sở hữu trí tuệ 73
2.3.2. Thực trạng pháp luật về quyền kiểm soát của bên nhượng quyền
trong pháp luật cạnh tranh 79

8
CHƢƠNG III: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT CỦA
BÊN NHƢỢNG QUYỀN TRONG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG

MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 90
3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật điều chỉnh kiểm soát của bên
nhƣợng quyền trong NQTM 90
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh NQTM nói chung trên quan điểm
nhìn nhận, đánh giá khách quan những hạn chế, bất cập của pháp luật điều
chỉnh NQTM của Việt Nam nói chung 90
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh NQTM trên cơ sở đảm bảo sự đồng
bộ của hệ thống pháp luật thương mại. 93
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại phải đáp
ứng yêu cầu hội nhập 94
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh kiểm soát của bên
nhƣợng quyền trong NQTM 95
3.2.1 Sửa đổi, bổ sung một số quy định về NQTM trong Luật Thương mại
2005, các văn bản hướng dẫn Luật thương mại 2005 và các văn bản pháp
luật liên quan 95
3.2.2 Hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp
đồng NQTM 97
3.2.5 Hoàn thiện các quy định về sở hữu trí tuệ điều chỉnh hoạt động
NQTM nói chung và kiểm soát của bên nhượng quyền nói riêng 103
3.2.6 Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động NQTM dưới góc độ pháp
luật cạnh tranh 104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 108

9
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhượng quyền thương mại (“NQTM”) là một phát triển tất yếu và là
yêu cầu của kinh tế thị trường. Mô hình này đã xuất hiện từ rất lâu trong
lịch sử các quốc gia có nền kinh tế phát triển. Khi chủ động hội nhập quốc

tế, , Việt Nam phải mở cửa cho các nước thành viên được giao dịch thương
mại tại đất nước mình và phải thực hiện các cam kết khi gia nhập WTO.
Mô hình kinh doanh NQTM là một trong những dự báo được nhiều thương
hiệu nổi tiếng trên thế giới quan tâm và có kế hoạch phát triển tại Việt
Nam, đây là một khó khăn mà các doanh nghiệp phải đối mặt.
Là một đất nước có nền kinh tế tăng trưởng cao suốt 5 năm qua,
GDP bình quân 7,5%/năm, không có xung đột về tôn giáo, chính trị; một
thị trường tiềm năng với dân số 84 triệu người, trong đó 70% số dân trong
độ tuổi dưới 30, ẩn chứa tiềm năng lớn về tiêu thụ các sản phẩm tiêu dùng.
Theo khảo sát của Tổng cục thống kê gần đây trong lĩnh vực tiêu dùng cho
thấy, có 90% người tiêu dùng quyết định mua sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ
thông qua thương hiệu và theo số liệu của Hội đồng nhượng quyền thương
mại thế giới – WFC, năm 2006 Việt Nam được xếp là thị trường bán lẻ
đứng thứ ba thế giới với sức mua khoảng 21 tỷ đô la Mỹ, có trên 70 hệ
thống nhượng quyền đang họat động với tốc độ tăng trưởng mỗi năm
khoảng 15 – 20%. Đây là xu hướng và cũng là cơ hội cho những doanh
nghiệp Việt Nam muốn thử sức bằng các hình thức nhượng quyền.
Những năm gần đây, hình thức “Nhượng quyền thương mại” không
còn xa lạ và trở thành vấn đề gây chú ý đối với các doanh nghiệp Việt
Nam. Nhìn một cách tổng quan, hoạt động nhượng quyền tại Việt Nam đã
khởi sắc, hứa hẹn một thị trường đầy hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước
ngoài. Bên cạnh các thương hiệu nhượng quyền nổi tiếng như Cà phê
Trung Nguyên, Phở 24, Kinh Đô, Vissan…đã xuất hiện các thương hiệu

10
mới như thời trang Foci, Nino Max, chuỗi cửa hàng G7, Nước mía siêu
sạch…Ngoài những thương hiệu trong nước, các thương hiệu nổi tiếng ở
nước ngoài cũng tham gia thị trường nhượng quyền như KFC, Lotteria,
Jollibee đã chuyển nhượng thành công tại thành phố Hồ Chí Minh và Hà
Nội. Đặc biệt sau hội nhập, NQTM đang nóng lên từng ngày, nhiều tập

đoàn lớn trên thế giới như Mc Donald‟s, cà phê Starbucks, cửa hàng tiện
lợi Seven-Eleven, tập đoàn bán lẻ hàng đầu của Mỹ – WalMart… đang có
kế hoạch xâm nhập thị trường Việt Nam. Việt Nam đang trong giai đoạn
khởi động lĩnh vực NQTM nên tiềm năng phát triển trong lĩnh vực này còn
rất lớn và chắc chắn sẽ tăng trưởng mạnh trong vài năm tới.
Tuy nhiên, điều rất đáng lưu ý là, những tranh chấp trong hoạt động
nhượng quyền thương mại đang ngày càng gia tăng, đặc biệt là trong quá
trình thực hiện quyền kiểm soát của bên nhượng quyền trong nhượng
quyền thương mại. Sở dĩ có nguyên nhân này là vì, các quy định pháp luật
về nhượng quyền thương mại nói chung, về nội dung và phương thức kiểm
soát của bên nhượng quyền nói riêng còn nhiều bất cập, chồng chéo, mâu
thuẫn và không phù hợp với thực tiễn phát triển hệ thống nhượng quyền ở
Việt Nam hiện nay. Vì những lý do nêu trên, tác giả Luận văn đã mạnh dạn
lựa chọn đề tài “Một số vấn đề pháp lý về kiểm soát của bên nhượng
quyền trong hoạt động nhượng quyền thương mại” là đề tài Luận văn
thạc sỹ luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu trong nƣớc
Trong thời gian qua đã có các nghiên cứu liên quan đến nhượng quyền
thương mại với các góc độ nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu và mức độ khác
nhau, có thể khái quát lại như sau:
- Tác giả Vũ Đặng Hải Yến với nghiên cứu “Nhượng quyền thương
mại trong mối quan hệ với pháp luật cạnh tranh và sở hữu trí tuệ”. Nghiên
cứu này có đề cập đến các quan điểm tư tưởng luật học về nhượng quyền

11
thương mại và pháp luật về nhượng quyền thương mại trong mối quan hệ
với pháp luật sở hữu trí tuệ và pháp luật cạnh tranh; các văn bản pháp luật
thực định của Việt Nam về nhượng quyền thương mại liên quan đến pháp
luật sở hữu trí tuệ và pháp luật cạnh tranh; thực tiễn xây dựng, áp dụng

pháp luật về nhượng quyền thương mại liên quan đến pháp luật sở hữu trí
tuệ và pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam.
- Tác giả Nguyễn Thị Vân với nghiên cứu “Hợp đồng nhượng quyền
thương mại theo pháp luật Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế”.
Luận văn này khái quát chung về nhượng quyền thương mại và hợp đồng
nhượng thương mại, nghiên cứu các vấn đề pháp lý cơ bản về hợp đồng
nhượng quyền thương mại bao gồm quyền và nghĩa vụ của các bên tham
gia hợp đồng, việc gia hạn, chấm dứt và thời hạn của hợp đồng từ đó giúp
các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng hiểu được bản chất của loại hợp
đồng này cũng như đưa ra nhận định về quy định của pháp luật Việt Nam
trong trường hợp liên quan; phân tích thực trạng nhượng quyền thương mại
ở Việt Nam và đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật điều
chỉnh hợp đồng nhượng quyền thương mại. Hay tác giả Đỗ Tuyết Nhung
với nghiên cứu “Pháp luật Việt Nam về hợp đồng nhượng quyền thương
mại”, tập trung vào các vấn đề sau: lý luận hoạt động nhượng quyền
thương mại nói chung và pháp luật điều chỉnh về hợp đồng nhượng quyền
thương mại tại Việt Nam nói riêng; phân tích thực trạng thực trạng pháp
luật hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện nay, đánh giá
những ưu điểm cũng như những mặt còn hạn chế, tồn tại trong các quy
định pháp luật hiện hành về hợp đồng nhượng quyền thương mại; đưa ra
một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi
của pháp luật hợp đồng nhượng quyền thương mại ở Việt Nam hiện nay.
Tuy nhiên, các nghiên cứu nêu trên tập trung khái quát về toàn bộ hệ
thống pháp luật nhượng quyền thương mại mà chưa có nghiên cứu nào đi
sâu nghiên cứu vấn đề kiểm soát của bên nhượng quyền. Đề tài “Một số

12
vấn đề pháp lý về kiểm soát của bên nhƣợng quyền trong hoạt động
nhƣợng quyền thƣơng mại” là đề tài hoàn toàn mới chưa được ai nghiên
cứu.


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của Luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề
pháp lý cơ bản về kiểm soát của bên nhượng quyền trong hoạt động thương
mại; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật
về kiểm soát của bên nhượng quyền trong hoạt động thương mại; để từ đó
đề xuất các phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về kiểm
soát của bên nhượng quyền trong hoạt động thương mại ở nước ta hiện nay
Để đạt được mục tiêu trên. Luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu cụ
thể sau đây:
- Nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề pháp lý cơ bản về nhượng
quyền thương mại và kiểm soát của bên nhượng quyền trong hoạt động
thương mại;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp
luật về kiểm soát của bên nhượng quyền trong hoạt động thương mại;
- Nghiên cứu so sánh về pháp luật về kiểm soát của bên nhượng
quyền trong hoạt động thương mại của Việt Nam với pháp luật của một số
quốc gia trên thế giới;
- Đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm
soát của bên nhượng quyền trong hoạt động thương mại ở Việt Nam hiện
nay.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài dựa trên cơ sở vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin về nhà nước và pháp luật, đồng thời vận dụng đường lối, quan điểm,

13
định hướng của Đảng và Nhà nước ta về phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Phương pháp luận nghiên cứu trong đề tài này sử dụng phép biện

chứng duy vật nhằm tổng kết, phản ảnh hiện thực những quy định của
pháp luật của bên nhượng quyền trong hoạt động thương mại của Việt
Nam hiện nay.
Luận văn này cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu như thống
kê, tổng hợp, so sánh, phân tích, … nhằm phục vụ cho nhiệm vụ và mục
đích nghiên cứu của đề tài nghiên cứu này.

5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu là hoạt động NQTM và pháp luật về kiểm
soát của bên nhượng quyền trong hoạt động NQTM Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: khi đánh giá thực tiễn, luận văn chỉ tiến hành
khảo sát việc áp dụng các quy định pháp luật về kiểm soátcủa bên nhượng
quyền đối với các hoạt động NQTM đã được đăng ký tại Việt Nam

6. Bố cục của Luận văn :
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các phụ lục, nội dung nghiên cứu
được chia thành ba chương:
Chương I : Những vấn đề pháp lý cơ bản về kiếm soát của bên
nhượng quyền trong NQTM
Chương II: Thực trạng pháp luật về kiểm soát của bên nhượng
quyền trong NQTM ở Việt Nam
Chương III: Hoàn thiện pháp luật về kiểm soát của bên nhượng
quyền trong NQTM ở Việt Nam hiện nay.

14
CHƢƠNG I :
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ KIỂM SOÁT CỦA BÊN
NHƢỢNG QUYỀN TRONG NHƢỢNG QUYỀN THƢƠNG MẠI

1.1. Những vấn đề pháp lý về hoạt động NQTM

1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và phân loại hoạt động NQTM
1.1.1.1. Khái niệm về hoạt động NQTM:
Có xuất xứ từ châu Âu nhưng phát triển mạnh nhất tại Mỹ từ những
năm 60, NQTM (còn gọi là NQTM) là một trong những hoạt động thương
mại thu hút được sự chú ý của đông đảo các doanh nghiệp trong mọi lĩnh
vực như kinh doanh đồ uống, đồ ăn, khách sạn, nhà hàng, thời trang, bất
động sản, giáo dục, đào tạo … trên thế giới. Do sự khác biệt về quan điểm
và môi trường kinh tế, chính trị, xã hội giữa các quốc gia, các định nghĩa về
NQTM của các nước thường khác nhau. Theo từ điển Anh - Việt của Viện
Ngôn ngữ học “NQTM có nghĩa là cho phép một thương nhân hoặc một
doanh nghiệp chính thức được bán hàng hoá hay dịch vụ của một công ty ở
một khu vực cụ thể nào đó”, trong khi đó Từ điển Webster của Anh thì
định nghĩa “NQTM là một đặc quyền được trao cho một người hay một
nhóm người để phân phối hay bán sản phẩm của chủ thương hiệu”. Do nằm
trong khuôn khổ từ điển nên cả hai định nghĩa trên đều ngắn gọn nên chưa
mô tả được hết nội dung của từ NQTM.
Hội đồng Thương mại Liên bang Hoa Kỳ (Federal Trade Commission)
đã đưa ra định nghĩa “NQTM là một hợp đồng hay một thoả thuận giữa ít
nhất hai người, trong đó người mua quyền thương mại được cấp quyền bán
hay phân phối sản phẩm, dịch vụ theo cùng một kế hoạch hay hệ thống tiếp
thu này gắn liền với nhãn hiệu, thương hiệu, biểu tượng, khẩu hiệu, tiêu
chí, quảng cáo và những biểu tượng khác của chủ thương hiệu. Người mua
quyền phải trả một khoản phí, trực tiếp hay gián tiếp, gọi là phí NQTM”.
Định nghĩa này tuy đã khá dài và chi tiết nhưng một số nước vẫn đưa ra

15
nhiều định nghĩa khác mà nội dung có thêm một số ý mới. Trong cuốn “
Hướng dẫn NQTM tại Malaysia”, tác giả Awalan Abdul Aziz lại định
nghĩa “NQTM là một hình thức tiếp thị và phân phối một sản phẩm hay
dịch vụ dựa trên mối quan hệ giữa hai bên đối tác, một bên gọi là bên

nhượng quyền hay bên bán quyền (franchisor) và một bên được gọi là bên
được nhượng quyền hay bên mua quyền (NQTM). Bên mua quyền được
cấp phép sử dụng thương hiệu của bên bán quyền để kinh doanh tại một địa
điểm hay một khu vực nhất định, trong một khoảng thời gian nhất định”.
Hiệp hội nhượng quyền kinh doanh quốc tế (the International
Fanchise Association) đã định nghĩa NQTM như sau: “Nhượng quyền
thương mại là mối quan hệ theo hợp đồng, giữa Bên nhượng quyền và Bên
nhận quyền, theo đó Bên nhượng quyền đề xuất hoặc phải duy trì sự quan
tâm liên tục tới doanh nghiệp của Bên nhận quyền trên các khía cạnh như
bí quyết kinh doanh (know – how), đào tạo nhân viên; Bên nhận hoạt động
dưới nhãn hiệu hàng hoá, phương thức, phương pháp kinh doanh do bên
nhượng sở hữu hoặc kiểm soát”. Theo định nghĩa này, vai trò của Bên nhận
quyền kinh doanh trong việc đầu tư vốn và điều hành doanh nghiệp được
đặc biệt nhấn mạnh hơn so với trách nhiệm của Bên nhượng quyền. Trong
khi đó, Liên minh Châu Âu EU lại định nghĩa NQTM theo hướng nhấn
mạnh tới quyền của bên nhận. Mặc dù có ghi nhận vai trò của thương hiệu
và hệ thống bí quyết kinh doanh của Bên nhượng quyền, định nghĩa này
không đề cập tới những đặc điểm khác của việc NQTM. EU định nghĩa
NQTM là “tập hợp những quyền sở hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ liên
quan tới nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, biển hiệu cửa hàng, giải pháp
hữu ích, kiểu dáng, bản quyền tác giả, bí quyết hoặc sáng chế sẽ được khai
thác bán sản phẩm hoặc cung cấp dịch vụ tới người sử dụng cuối cùng”.
Luật Mêhicô đề cập tới lợi ích của việc NQTM về mặt hỗ trợ kỹ
thuật (technical assistance) và nhấn mạnh tới việc chuyển giao “kiến thức
kỹ thuật” (technical knowledge) để bán sản phẩm hoặc dịch vụ đồng bộ và

16
có chất lượng. Luật sở hữu công nghiệp của Mêhicô có hiệu lực từ tháng
6/1991 quy định “NQTM tồn tại khi có sự chuyển giao kiến thức công nghệ
hoặc hỗ trợ kỹ thuật để một người sản xuất, chế tạo hoặc bán sản phẩm,

hoặc cung cấp dịch vụ đồng bộ với các phương pháp vận hành (operative
methods), các hoạt động thương mại hoặc hành chính đã được chủ thương
hiệu (brand owner) thiết lập, với chất lượng, danh tiếng, hình ảnh của sản
phẩm hoặc dịch vụ đã tạo dựng được dưới thương hiệu đó. Định nghĩa này
phản ánh một phần quan điểm của Mêhicô là một nước đang phát triển có
nhu cầu rất lớn trong việc nhập khẩu công nghệ và bí quyết kinh doanh từ
nước ngoài.
Tương tự như định nghĩa của EU, định nghĩa của Nga nhấn mạnh tới
việc Bên nhượng chuyển giao một số quyền sở hữu trí tuệ độc quyền cho
Bên nhận để đổi lấy những khoản phí nhất định mà không đề cập đến vai
trò, nghĩa vụ của bên nhận và được thể hiện tại Chương 54, Bộ Luật dân sự
Nga như sau “ Theo Hợp đồng NQTM, một bên (bên có quyền) phải cấp
cho bên kia (bên sử dụng) quyền được sử dụng đối với dấu hiệu, chỉ dẫn
thương mại, quyền đối với bí mật kinh doanh và các quyền độc quyền theo
hợp đồng đối với các đối tượng khác như nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu
dịch vụ …với một khoản thù lao và theo một thời hạn xác định”.
Tất cả các định nghĩa về NQTM trên đây đều dựa trên quan điểm cụ
thể của các nhà làm luật tại mỗi quốc gia. Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng
các điểm chung trong tất cả những định nghĩa này là việc một Bên nhận
phân phối sản phẩm hoặc dịch vụ dưới nhãn hiệu hàng hoá, các đối tượng
khác của quyền sở hữu trí tuệ và hệ thống kinh doanh đồng bộ do một bên
khác (Bên nhượng) phát triển và sở hữu. Để được phép làm việc này, bên
nhận phải trả phí và chấp nhận một số hạn chế do bên nhượng quy định.
Theo quan điểm của Việt Nam, tại mục 8, chương VI, Luật Thương
mại (sửa đổi) được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14
tháng 6 năm 2005, NQTM được định nghĩa “là hoạt động thương mại, theo

17
đó bên nhượng quyền cho phép và yêu cầu bên nhận quyền tự mình tiến
hành việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ theo các điều kiện sau đây:

- Việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ được tiến hành theo cách
thức tổ chức kinh doanh do bên nhượng quyền quy định và được gắn với
nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, bí quyết kinh doanh, khẩu hiệu kinh
doanh, biểu tượng kinh doanh, quảng cáo của bên nhượng quyền.
- Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát và trợ giúp cho bên nhận
quyền trong việc điều hành công việc kinh doanh”.
Định nghĩa này được xây dựng với mục đích xác định rõ phạm vi
điều chỉnh hoạt động NQTM, trách nhiệm và nghĩa vụ của Bên nhượng
quyền và Bên nhận quyền ….và tương đối phù hợp với định nghĩa về
NQTM của Hiệp hội NQTM quốc tế và của Liên minh châu Âu EU.
1.1.1.2. Đặc điểm của hoạt động NQTM:
Theo quy định của Luật Thương mại Việt Nam năm 2005, có thể
thấy rõ rằng về bản chất NQTM là “một hoạt động thƣơng mại”, trong đó
bên nhượng quyền sẽ chuyển giao quyền sử dụng đối tượng nhượng quyền
cho bên nhận quyền. Bên nhận quyền sau khi ký hợp đồng nhượng quyền
(UFOC) được phép khai thác kinh doanh trên một không gian địa lý nhất
định và phải trả một khoản phí chuyển nhượng cũng như tỷ lệ phần trăm
doanh thu định kỳ cho bên nhượng quyền trong một khoảng thời gian nhất
định.
Điểm đặc trưng của hoạt động NQTM là tạo nên một mối quan hệ
hợp tác cùng có lợi giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền trong việc
cùng khai thác giá trị thương mại các đối tượng NQTM của bên nhượng
quyền nhưng lại hoàn toàn riêng rẽ độc lập, không phụ thuộc nhau về mặt
pháp lý và tài chính. Nói cách khác, NQTM là hoạt động thể hiện mối quan
hệ hợp tác cả phụ thuộc lẫn bình đẳng, độc lập. NQTM là quan hệ phụ
thuộc khi xem xét dưới góc độ là các sản phẩm, dịch vụ được phân phối từ
Bên nhượng quyền đến Bên nhận quyền rồi đến người tiêu dùng; Quan hệ

18
NQTM là quan hệ bình đẳng khi xem xét dưới góc độ pháp lý, tài chính với

nghĩa là các bên nhận quyền và bên nhượng quyền là các chủ thể độc lập
với nhau về mặt pháp lý và tài chính, có sự cạnh tranh với nhau (và cạnh
tranh cả với Bên nhượng quyền) ở cùng một cấp độ cạnh tranh trong việc
đưa sản phẩm, dịch vụ đến người tiêu dùng.
Bảng 1. Sự khác biệt cơ bản giữa Bên nhượng quyền và Bên nhận quyền
Điểm khác biệt
Bên nhƣợng quyền
Bên nhận quyền
I- Sự khác biệt cơ
bản
- Sở hữu thương hiệu;

- Cung cấp hỗ trợ (đào
tạo, quảng cáo, tiếp thị);
- Nhận phí nhượng
quyền.
- Được cấp giấy phép sử
dụng thương hiệu;
- Điều hành cửa hàng
với sự giúp đỡ của chủ
thương hiệu;
- Trả phí nhượng quyền.
II- Chức năng, nhiệm vụ:
1. Chọn mặt bằng
Hỗ trợ
Chọn với sự đồng ý của
chủ thương hiệu
2. Thiết kế
Cung cấp mẫu thiết kế
Áp dụng mẫu thiết kế trả

phí
3. Nhân viên
Giới thiệu hỗ trợ
Tuyển dụng, giám sát,
điều hành
4. Thực đơn
Xây dựng, quy định
Thay đổi khi được chấp
thuận
5. Giá
Đề nghị tư vấn
Quyết định
6. Nguồn cung cấp
Có thể yêu cầu Bên
nhận quyền mua hàng
của mình hoặc mua theo
chỉ định nguồn cung cấp
cho hệ thống NQTM
Phối hợp, tuân theo

19
hoặc yêu cầu theo các
tiêu chuẩn nhất định.
7. Quảng cáo
Thiết kế chương trình,
yêu cầu đóng góp
Trả phí quảng cáo. Phải
được chấp thuận
8. Kiểm soát chất
lượng

Xây dựng tiêu chuẩn.
Đào tạo nhân viên thanh
tra.
Huấn luyện nhân viên.
Triển khai giám sát hàng
ngày.
Việc xem xét sự khác biệt của hoạt động NQTM với một số hoạt động
thương mại khác dưới đây sẽ giúp hiểu rõ hơn về bản chất của hoạt động
NQTM.
a- NQTM và bán hàng đa cấp:
Bán hàng đa cấp là một hình thức kinh doanh mới xuất hiện ở Việt
Nam trong mấy năm gần đây. Bản chất của hình thức bán hàng đa cấp là
tiếp thị để bán lẻ hàng hoá thông qua mạng lưới người tham gia bán hàng
đa cấp gồm nhiều cấp, nhiều nhánh khác nhau, hàng hoá được người tham
gia bán hàng đa cấp tiếp thị trực tiếp cho người tiêu dùng tại nơi ở, nơi làm
việc của người tiêu dùng hoặc địa điểm khác không phải là địa điểm bán lẻ
thường xuyên của doanh nghiệp hoặc của người tham gia; người tham gia
bán hàng đa cấp được hưởng tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế
khác từ kết quả tiếp thị bán hàng của mình và của người tham gia bán hàng
đa cấp cấp dưới trong mạng lưới được doanh nghiệp bán hàng đa cấp chấp
thuận. Tuy bán hàng đa cấp và NQTM đều là hình thức phát triển kinh
doanh thông qua một mạng lưới bán lẻ, nhưng trên thực tế bản chất của bán
hàng đa cấp và NQTM là rất khác nhau, thể hiện ở một số điểm sau đây:
- Khi NQTM thì Bên nhượng quyền được phép thu một khoản phí
dưới danh nghĩa phí gia nhập mạng lưới NQTM, phí đào tạo và các khoản
phí khác cho việc xây dựng mở cửa hàng … Trong khi đó, theo hình thức
bán hàng đa cấp, ngoài khoản phí đặt cọc (để mua hàng hóa), người tham

20
gia không phải trả bất kỳ khoản phí nào kể cả dưới danh nghĩa khóa học,

khoá đào tạo, hội thảo, hoạt động xã hội hay các hoạt động tương tự khác.
- Khi kinh doanh theo nhượng quyền thì bên nhận quyền bắt buộc
phải mở cửa hàng với cách trang trí, cách phục vụ đồng nhất với bên
nhượng quyền. Trong khi theo hình thức bán hàng đa cấp thì người tham
gia vào mạng lưới bán hàng đa cấp không cần thời gian cố định, địa điểm
cố định mà họ hoạt động rất cơ động trên thị trường này đến thị trường
khác vào bất kể thời gian nào.
- Theo phương thức NQTM thì lợi nhuận của Bên nhận quyền là
doanh thu từ hoạt động kinh doanh của mình. Còn với phương thức bán
hàng đa cấp, lợi nhuận nằm ở phần trăm hoa hồng được hưởng từ công ty
bán hàng đa cấp (công ty bán hàng đa cấp trả hoa hồng cho người tham gia
tuỳ theo công sức đóng góp).
- NQTM là một phương thức kinh doanh rất được khuyến khích phát
triển ở nhiều nước trên thế giới, còn bán hàng đa cấp bị kiểm soát rất chặt
chẽ bởi Nhà nước.
b- NQTM và đại lý bán hàng hoá:
Hoạt động NQTM và đại lý bán hàng hoá có nhiều nét mà nhìn về
hình thức là giống nhau. Trên thực tế thì nhiều người không phân biệt được
một cửa hàng đại lý với một cửa hàng kinh doanh nhượng quyền. Tuy
nhiên, về bản chất thì NQTM và đại lý bán hàng hoá là tương đối khác
nhau.
Đại lý bán hàng là việc bên đại lý nhận hàng của bên nhượng đại lý
để bán và hưởng thù lao do bên nhượng đại lý trả trên cơ sở thoả thuận
giữa các bên trong hợp đồng đại lý. Thù lao đại lý là khoản tiền do bên
nhượng đại lý trả cho bên đại lý dưới hình thức hoa hồng hoặc chênh lệch
giá. Trong hình thức đại lý bán hàng thì Bên nhượng đại lý có quyền ổn
định giá mua, giá bán hàng hoá đại lý, nhưng đồng thời cũng có trách
nhiệm trả thù lao cho Bên đại lý, bên đại lý không phải trả phí cho bên

21

nhượng đại lý khi trở thành đại lý của bên nhượng đại lý. Ngược lại trong
quan hệ NQTM, Bên nhận quyền phải trả phí cho bên nhượng quyền khi
trở thành Bên nhận quyền của Bên nhượng quyền. Và điều khác nhau quan
trọng nhất là trong suốt quá trình làm đại lý, bên đại lý được hưởng thù lao
do bên nhượng đại lý trả thì ngược lại với quan hệ NQTM trong quá trình
sản xuất, kinh doanh theo nhượng quyền, Bên nhận quyền phải trả phí theo
định kỳ (tính theo tỷ lệ phần trăm doanh thu) cho Bên nhượng quyền. Một
điểm khác nhau nữa là cách trang trí của đại lý là hoàn toàn theo ý thích
của chủ cửa hàng đại lý, còn việc trang trí cửa hàng nhượng quyền là phải
tuân theo những tiêu chuẩn, quy cách thống nhất do Bên nhượng quyền đặt
ra.
c- NQTM và bán hàng qua hệ thống cửa hàng chi nhánh:
Trong hoạt động NQTM thì Bên nhận quyền là các chủ thể kinh
doanh độc lập với bên nhượng quyền về mặt tài chính và pháp lý. Ngược
lại, việc bán hàng qua hệ thống các cửa hàng chi nhánh thì các cửa hàng chi
nhánh là đơn vị phụ thuộc của doanh nghiệp, có nhiệm vụ thực hiện toàn
bộ hoặc một phần chức năng của doanh nghiệp, kể cả chức năng đại diện
theo uỷ quyền. Các cửa hàng chi nhánh thực hiện các hoạt động kinh doanh
phụ thuộc vào Bên nhượng quyền cả về mặt pháp lý, tài chính, toàn bộ
quyền sở hữu các cửa hàng chi nhánh là thuộc về doanh nghiệp.
1.1.1.3. Phân loại hoạt động NQTM:
Về mặt lý thuyết, muốn phân loại đầy đủ các hình thức hoạt động
NQTM cần phải dựa trên cơ sở hệ thống các tiêu chí về bản chất của hoạt
động NQTM; phạm vi lãnh thổ hoạt động của hoạt động NQTM (hoạt động
NQTM trong nước và hoạt động NQTM ra nước ngoài); đối tượng kinh
doanh NQTM (sản phẩm hàng hoá, sản phẩm dịch vụ …) và thậm chí cả
mức độ kiểm soát của bên nhượng quyền với bên nhượng quyền. Tuy
nhiên, trong phạm vi của đề tài, việc phân loại chủ yếu dựa theo tiêu chí về
bản chất của hoạt động NQTM.


22
a. Căn cứ vào bản chất của NQTM mà có thể phân loại hoạt động
NQTM theo hai hình thức sau:
* Nhượng quyền phân phối sản phẩm :
Nhượng quyền phân phối sản phẩm là loại hình NQTM, trong đó bên
nhận quyền chỉ giới hạn ở việc bán các sản phẩm được sản xuất và mang
nhãn hiệu của Bên nhượng quyền. Theo hình thức NQTM này thì bên
nhượng quyền trực tiếp thực hiện việc sản xuất sản phẩm và phân phối sản
phẩm đó cho bên nhận quyền để bên nhận quyền bán cho người tiêu dùng
dưới nhãn hiệu của bên nhượng quyền và trong các cửa hàng mang biển
hiệu của bên nhượng quyền.
Đối với hình thức nhượng quyền này, bên nhận quyền thường không
nhận được sự hỗ trợ đáng kể nào từ phía chủ thương hiệu ngoại trừ việc
được phép sử dụng tên nhãn hiệu (trade mark), thương hiệu (trade name),
biểu tượng (logo), khẩu hiệu (slogan) và phân phối sản phẩm hay dịch vụ
của bên chủ thương hiệu trong một phạm vi khu vực và thời gian nhất định.
Điều này có nghĩa bên nhận quyền sẽ quản lý điều hành cửa hàng nhượng
quyền của mình khá độc lập, ít bị ràng buộc nhiều bởi những quy định từ
phía chủ thương hiệu. Bên nhận quyền trong trường hợp này thậm chí có
thể cải tiến cung cách phục vụ và kinh doanh theo ý mình.
* Nhượng quyền phương pháp kinh doanh (NQTM trọn gói):
Nhượng quyền phương pháp kinh doanh là loại NQTM mà Bên
nhượng quyền cho phép Bên nhận quyền thực hiện hoạt động kinh doanh
đối với tất cả các đối tượng NQTM của mình như thực hiện kinh doanh
dưới tên thương mại, nhãn hiệu của Bên nhượng quyền và sử dụng toàn bộ
phương pháp quản lý và thực hiện kinh doanh, bao gồm tất cả các yếu tố
cần thiết để hoạt động kinh doanh với các hoạt động đào tạo, trợ giúp cần
thiết dựa trên những cơ sở được xác định trước.
Bản chất của loại hình NQTM trọn gói là bên nhận quyền mua quyền
sử dụng các bí quyết kỹ thuật, bí mật thương mại, kinh nghiệm, phương


23
pháp kinh doanh và các quyền sở hữu trí tuệ khác của bên nhượng quyền.
Bên NQTM cung cấp tất cả các loại dịch vụ cần thiết để bên nhận quyền có
thể hoạt động kinh doanh độc lập một cách tốt nhất, bao gồm lựa chọn địa
điểm, huấn luyện, cung cấp sản phẩm, kế hoạch Marketing, trợ giúp tài
chính … Yếu tố cơ bản của NQTM trọn gói là chiến lược kế hoạch
Marketing, sách hướng dẫn thông tin, thực hành kinh doanh và cách trang
trí đồng nhất. Bên nhận quyền phải thanh toán một khoản phí ban đầu cho
Bên nhượng quyền, đồng thời trong suốt thời hạn hợp đồng thương mại có
hiệu lực, hàng tháng Bên nhận quyền phải trả cho Bên nhượng quyền một
khoản lợi tức (tính theo tỷ lệ phần trăm doanh thu của Bên nhận quyền) và
trong suốt quá trình đó, bên nhượng quyền sẽ thực hiện việc đào tạo bổ
sung, nghiên cứu, phát triển và trợ giúp cho bên nhận quyền. Nói cách
khác, đối với hình thức nhượng quyền phương pháp kinh doanh thì hợp
đồng nhượng quyền bao gồm thêm việc chuyển giao kỹ thuật kinh doanh
và phương pháp điều hành quản lý. Các chuẩn mực của mô hình kinh
doanh phải tuyệt đối được giữ đúng. Mối liên hệ và hợp tác giữa bên
nhượng quyền và bên nhận quyền phải rất chặt chẽ và liên tục, và đây cũng
là hình thức nhượng quyền phổ biến và hiệu quả nhất hiện nay. Bên nhận
quyền thường phải trả một khoản phí cho bên nhượng quyền, có thể là một
khoản phí trọn gói một lần, có thể là một khoản phí hàng tháng dựa trên
doanh số, và cũng có thể tổng hợp luôn cả hai khoản phí kể trên. Tất cả tùy
vào uy tín thương hiệu, sự thương lượng và chủ trương của chủ thương
hiệu.
Trên thực tế, từ hai loại hình NQTM cơ bản trên có thể phát triển
thành nhiều loại NQTM khác nhau, tuỳ thuộc vào các điều kiện kinh tế, xã
hội, môi trường kinh doanh, loại hình hoạt động thương mại của bên
nhượng quyền hay bên nhận quyền.
b. Căn cứ vào phương thức triển khai hoạt động, NQTM được phân

thành các loại sau đây:

24
(i) NQTM cho từng cá nhân riêng lẻ (Single unit NQTM)
Đây là phương thức NQTM khá phổ biến khi bên nhận quyền ký một
hợp đồng nhượng quyền trực tiếp với bên nhượng quyền. Bên nhượng
quyền có thể là chủ thương hiệu hoặc chỉ là một đại lý độc quyền, còn bên
nhận quyền có thể là một cá nhân hay một công ty nhỏ được chủ thương
hiệu hay đại lý độc quyền của chủ thương hiệu cấp quyền kinh doanh tại
một địa điểm và một thời gian nhất định. Sau thời gian này, hợp đồng sẽ có
thể gia hạn và người nhận quyền thương mại sẽ trả một phí nhỏ để gia hạn
hợp đồng. Lý do hợp đồng nhượng quyền phải có thời hạn là để người
nhượng quyền có thể rút quyền kinh doanh thương hiệu trong trường hợp
bên nhận quyền không tuân thủ các quy định chung của hệ thống nhượng
quyền hoặc kinh doanh kém hiệu quả, gây ảnh hưởng không tốt đến uy tín
của thương hiệu. Người nhận quyền thương mại theo phương thức này
không được quyền nhượng lại quyền cho người khác cũng như không được
tự ý mở thêm một cửa hàng mang cùng thương hiệu. Mỗi một cửa hàng
mới đều phải ký thêm hợp đồng nhượng quyền mới nhưng còn tuỳ thuộc
vào hiệu quả kinh doanh và khả năng hợp tác với chủ thương hiệu tại cửa
hàng hiện tại. Nhiều hệ thống nhượng quyền còn yêu cầu người nhận quyền
không được kinh doanh các mặt hàng tương tự khác thương hiệu. Điểm lợi
thế lớn của hình thức bán lẻ này là chủ thương hiệu có thể làm việc và kiểm
tra sâu sát với từng doanh nghiệp được nhượng quyền. Ngoài ra, phí
nhượng quyền thu được không phải chia cho một đối tác trung gian nào.
Tuy nhiên, hình thức này đòi hỏi một guồng máy điều hành quy mô với các
khâu hậu cần, nhân sự, quản trị rất vững mạnh từ phía chủ thương hiệu.
Chuỗi nhà hàng thức ăn nhanh McDonald's với hơn 20.000 cửa hàng
trên thế giới đã sử dụng hình thức này để nhân rộng mô hình kinh doanh
thay vì dựa hoàn toàn vào hệ thống đại lý NQTM độc quyền như hầu hết

các đối thủ cạnh tranh đã làm. Theo Chủ tịch tập đoàn McDonald's thì
chiến thuật nhân rộng mô hình kinh doanh thông qua hệ thống đại lý

25
NQTM độc quyền tuy giúp chủ thương hiệu nổi tiếng và làm giàu rất nhanh
nhưng hoàn toàn không bền vững. Lý do là các đại lý NQTM độc quyền do
đã bỏ tiền ra quá nhiều để mua độc quyền thương mại nên họ có khuynh
hướng tìm cách thu lại lợi nhuận càng nhanh càng tốt, doanh số chứ không
phải chất lượng sẽ được đặt lên hàng đầu. Do đó, các đại lý NQTM độc
quyền có thể sẽ nới lỏng các tiêu chuẩn đồng bộ gắt gao của hệ thống
NQTM vốn là nền tảng và sự sống còn của việc kinh doanh nhượng quyền.
Tuy nhiên, việc nhân rộng thương hiệu thông qua hình thức bán lẻ trực tiếp
như McDoanld's là khá tốn kém và khó khăn đối với các chủ thương hiệu
nhỏ chưa có hệ thống hậu cần, nhân sự và quản trị đủ tốt để giám sát chặt
chẽ đối tác nhận quyền thương mại tại nước ngoài mà chỉ khi nào chủ
thương hiệu đã xây dựng được hệ thống trong nước mạnh thì mới có thể
vươn ra nước ngoài theo hình thức NQTM trực tiếp.
(ii) Phương thức đại lý NQTM độc quyền (Master NQTM)
Đây là cách phổ biến nhất và nhanh nhất trong việc đưa thương hiệu
ra nước ngoài. Đối với hình thức này, chủ thương hiệu sẽ chọn và chỉ định
một đối tác địa phương làm đối tác nhận quyền độc quyền kinh doanh
thương hiệu của mình trong phạm vi khu vực, thành phố hay cả một quốc
gia trong một thời gian nhất định. Để được độc quyền như vậy, doanh
nghiệp mua quyền ban đầu riêng biệt, thường là cao hơn nhiều so với hợp
đồng mua quyền riêng lẻ (single unit NQTM). Trong trường hợp này,
người nhận quyền có thể chủ động tự mở thêm nhiều cửa hàng hay bán
quyền thương mại lại cho bất kỳ ai nằm trong phạm vi khu vực mà mình
kiểm soát. Khi đó, đại lý nhượng quyền độc quyền là người đại diện chủ
thương hiệu đứng ra ký hợp đồng nhượng quyền với bên thứ ba muốn
nhượng quyền trong khu vực của mình và có nghĩa vụ cung cấp tất cả các

dịch vụ hỗ trợ thay thế chủ thương hiệu đại lý . Do đó, phần phí nhượng
quyền (phí ban đầu và phí hàng tháng) thu được từ phía người nhận quyền
sẽ được chủ thương hiệu chia cho đại lý độc quyền này theo tỉ lệ thoả thuận

26
như 50/50,60/40 hay 70/30. Thường thì bên đại lý NQTM độc quyền sẽ
được chia phần nhiều hơn chủ thương hiệu vì phần lớn công sức và chi phí
để tìm kiếm và phát triển số người nhượng quyền trong khu vực đều do
phía đại lý NQTM độc quyền gánh chịu.
Người nhận NQTM độc quyền thường phải cam kết với chủ thương
hiệu rằng trong một thời gian nhất định phải có bao nhiêu cửa hàng nhượng
quyền được mở ra, và nếu không thực hiện đúng được cam kết này thì có
nguy cơ bị cắt độc quyền trong khu vực hay lãnh thổ đó. Ngoài số lượng
các cửa hàng phải mở theo đúng kế hoạch đã thống nhất trong hợp đồng,
người nhận quyền thương mại còn phải cam kết xây dựng các chương trình
huấn luyện, đào tạo các đối tác nhận nhượng quyền sau này để đảm bảo
chất lượng và uy tín của thương hiệu. Do đó, nhiều chủ thương hiệu yêu
cầu bên dự kiến nhận quyền phải lên một kế hoạch phát triển kinh doanh và
quản trị hệ thống nhượng quyền trong vòng 3-5 năm để xét duyệt trước khi
quyết định cấp phép. Do đó, bên nhận NQTM độc quyền, ngoài vốn kinh
nghiệm trong lĩnh vực liên quan đến sản phẩm nhượng quyền, còn phải có
tiềm lực vững chắc về tài chính và quản trị để có thể xây dựng các một hệ
thống để phục vụ cho tất cả các cửa hàng trong khu vực độc quyền kinh
doanh của mình.
Do cả hai phương án NQTM thông qua đại lý độc quyền (Master
NQTM) hay bán lẻ trực tiếp (single unit NQTM) đều có những khiếm
khuyết của nó nên nhiều chủ thương hiệu đã chọn chiến thuật trung gian là
NQTM lẻ trực tiếp trước để thăm dò, sau đó nếu thấy khả năng hợp tác và
điều hành của đối tác nhận quyền thương mại đạt các tiêu chuẩn cần thiết
thì mới phát triển họ thành đại lý NQTM độc quyền. Chiến thuật này tuy

chậm nhưng chắc chắn và an toàn hơn cho chủ thương hiệu. Tuy nhiên,
cũng có nhiều đối tác sau khi đã kinh doanh thành công cửa hàng NQTM
đầu tiên nhưng lại không muốn phát triển thành đại lý NQTM độc quyền
(master NQTM) mà họ chỉ muốn được mở thêm một hay nhiều cửa hàng

27
NQTM riêng lẻ tương tự. Trong trường hợp này họ sẽ trở thành đối tác sở
hữu một lúc nhiều cửa hàng NQTM (multiple single-unit operators)
(iii) NQTM phát triển khu vực (Area development NQTM)
Đây là hình thức NQTM nằm ở giữa hai hình thức NQTM riêng lẻ
và NQTM độc quyền. Trong trường hợp này, bên nhận NQTM phát triển
khu vực cũng sẽ được độc quyền trong phạm vi và thời gian nhất định, tuy
nhiên không được bán lại quyền cho bất cứ ai. Dưới hình thức này, bên
nhận quyền cũng phải cam kết phát triển được bao nhiêu cửa hàng theo một
tiến độ thời gian đã được ghi rõ trong hợp đồng với chủ thương hiệu. Nếu
không đáp ứng đúng những thoả thuận trong hợp đồng, doanh nghiệp này
sẽ bị mất ưu tiên độc quyền tương tự như đối với trường hợp của NQTM
độc quyền. Trong một số trường hợp, sau một thời gian kinh doanh tốt bên
nhận quyền có thể xin chuyển hợp đồng thành hợp đồng NQTM độc quyền
nếu muốn nhượng lại quyền thương mại cho bên thứ ba. Bên nhận quyền
dưới hình thức NQTM phát triển khu vực thường được yêu cầu thanh toán
trước một khoản tiền khá lớn để được độc quyền mở cửa hàng trong một
khu vực nào đó.
(iv) NQTM thông qua công ty liên doanh (Joint venture)
Với hình thức này chủ thương hiệu sẽ hợp tác với một doanh nghiệp
địa phương để thành lập công ty liên doanh. Công ty liên doanh này trở
thành công ty thay mặt cho chủ thương hiệu toàn quyền kinh doanh tại một
thành phố, một quốc gia hay một khu vực nào đó, tức là công ty liên doanh
này sẽ đóng vai trò của một đại lý NQTM độc quyền. Cả hai đối tác trong
công ty liên doanh sẽ đàm phán về cổ phần của mình và cách thức huy

động vốn. Thông thường, doanh nghiệp địa phương sẽ đóng góp bằng tiền
và kiến thức địa phương còn chủ thương hiệu sẽ đóng góp bằng bí quyết
kinh doanh, thương hiệu, cộng thêm một phần tiền, chủ thương hiệu thì
ngoài phần đóng góp bằng tiền, có đóng góp chủ yếu bằng bí quyết kinh
doanh, thương hiệu. Đây là hình thức mà chủ thương hiệu không mấy ưu

×