Tải bản đầy đủ (.pdf) (113 trang)

Pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (929.2 KB, 113 trang )



1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




LÊ NGỌC MAI




PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ
GIAO DỊCH BẢO ĐẢM TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Lan Hương




Hà nội - 2013



2
MỤC LỤC


Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các từ viết tắt


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU
1


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH
BẢO ĐẢM VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH
BẢO ĐẢM TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC
NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
6
1.1.
Những vấn đề lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm
6
1.1.1.
Khái niệm, đặc điểm và các hình thức đăng ký giao dịch bảo đảm
6
1.1.2.
Vai trò, ý nghĩa và giá trị pháp lý của việc đăng ký giao dịch
bảo đảm
13
1.2.
Quan hệ pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm trong hoạt
động cho vay của các ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam
19
1.2.1.
Chủ thể tham gia quan hệ đăng ký giao dịch bảo đảm
20
1.2.2.
Đối tƣợng đăng ký giao dịch bảo đảm
24
1.2.3.
Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ đăng ký giao
dịch bảo đảm
24
1.2.4.

Xác lập và chấm dứt quan hệ pháp luật về đăng ký giao dịch
bảo đảm
26

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH
PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
29
2.1.
Đối tƣợng đăng ký giao dịch bảo đảm
29


3
2.2.
Tổ chức và thẩm quyền của cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm
31
2.2.1.
Thực trạng quy định của pháp luật
31
2.2.2.
Thực tiễn thi hành pháp luật trong tổ chức đăng ký của cơ
quan đăng ký giao dịch bảo đảm
35
2.3.
Các trƣờng hợp yêu cầu đăng ký, thay đổi, xóa đăng ký giao
dịch bảo đảm
41
2.3.1.

Các trƣờng hợp yêu cầu đăng ký giao dịch bảo đảm
41
2.3.2.
Các trƣờng hợp đăng ký thay đổi nội dung giao dịch bảo đảm
đã đăng ký
48
2.3.3.
Các trƣờng hợp xóa đăng ký giao dịch bảo đảm
50
2.4.
Hồ sơ và thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm
52
2.4.1.
Hồ sơ đăng ký giao dịch bảo đảm
52
2.4.2.
Thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm
54
2.5.
Cung cấp và công bố thông tin về giao dịch bảo đảm
65
2.5.1.
Pháp luật về cung cấp và công bố thông tin về giao dịch bảo đảm
65
2.5.2.
Thực tiễn thi hành pháp luật về cung cấp và công bố thông tin
về giao dịch bảo đảm
69
2.6.
Đăng ký giao dịch bảo đảm qua mạng điện tử

73

Chương 3: ĐỊNH HƢỚNG HOÀN THIỆN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
VỀ PHÁP LUẬT ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC NGÂN
HÀNG THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
80
3.1.
Những định hƣớng hoàn thiện pháp luật về đăng ký giao dịch
bảo đảm trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thƣơng
mại ở Việt Nam
80
3.2.
Một số kiến nghị cụ thể hoàn thiện pháp luật về đăng ký giao
dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của các ngân hàng
thƣơng mại
83


4
3.2.1.
Các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm
83
3.2.2.
Hoàn thiện về mô hình tổ chức, hoạt động của hệ thống các
cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm
89
3.2.3.
Xây dựng cơ chế trao đổi thông tin về tình trạng pháp lý của
tài sản bảo đảm giữa cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm và

các cơ quan có liên quan
92
3.2.4.
Tập trung thực hiện một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm
93
3.2.5.
Hoàn thiện hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm trực tuyến
97
3.2.6.
Các kiến nghị đối với ngân hàng thƣơng mại
97

KẾT LUẬN
101

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
103


5



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS
: Bộ luật Dân sự
NHTM
: Ngân hàng thƣơng mại



6



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Tổng hợp kết quả đăng ký các giao dịch bảo đảm của ba
Trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản (Hà Nội, Thành phố Hồ
Chí Minh, Đà Nẵng) thuộc Bộ Tƣ pháp từ năm 2005- 2011
35



7

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Có thể nói vấn đề chủ yếu và quan trọng mà bên có quyền trong các
quan hệ hợp đồng quan tâm chính là khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên có
nghĩa vụ. Do đó, các quy định về biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ ra đời
trƣớc hết là nhằm hƣớng đến mục tiêu bảo vệ bên có quyền trong sự ổn định
và hài hòa các quan hệ này. Đặc biệt trong lĩnh vực tín dụng - ngân hàng, vấn

đề bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ có sự tác động trực tiếp,
mạnh mẽ tới quyết định cấp tín dụng của các ngân hàng thƣơng mại (NHTM) -
đối tƣợng cấp tín dụng chủ yếu trong nền kinh tế nƣớc ta hiện nay.
Thực tiễn cho thấy, một trong những yếu tố ảnh hƣởng đến quyết định
cấp tín dụng của các tổ chức này chính là thông tin về tình trạng pháp lý của
tài sản đƣợc dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ của bên vay vốn. Bởi
lẽ, việc nắm bắt các thông tin này sẽ giúp ích rất nhiều cho quá trình phân
tích, đánh giá mức độ rủi ro của giao dịch bảo đảm mà các NHTM dự định
thiết lập với khách hàng, làm cơ sở cho việc đƣa ra các quyết định tài trợ vốn
đúng đắn. Và điều này đƣợc xem nhƣ là nhu cầu mang tính tất yếu của các
nhà đầu tƣ nói chung và các NHTM nói riêng trong môi trƣờng kinh doanh
của nền tài chính hiện đại. Theo đó, thì một trong những công cụ hữu hiệu để
xác định tình trạng pháp lý của tài sản đang đƣợc dùng để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ, phục vụ trực tiếp cho việc đánh giá mức độ rủi ro của quyết định tài
trợ/cấp vốn của các ngân hàng là việc đăng ký giao dịch bảo đảm với ý nghĩa
công khai hóa chủ thể quyền cũng nhƣ các quyền tồn tại từ trƣớc đối với tài
sản bảo đảm của bên có nghĩa vụ trong các giao dịch tín dụng. Và cơ chế


8
đăng ký này cũng đƣợc pháp luật nhiều nƣớc trên thế giới quy định để bảo vệ
quyền, lợi ích của bên có quyền trong quan hệ với bên có nghĩa vụ.
Pháp luật Việt Nam đã bƣớc đầu thừa nhận, bảo đảm sự minh bạch về
thông tin pháp lý của các chủ thể, tài sản trong các giao dịch dân sự, hợp đồng
bằng việc ban hành Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 về đăng ký
giao dịch bảo đảm. Điều này tiếp tục đƣợc khẳng định trong các quy định của
Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005, Luật Đất đai năm 2003, Bộ luật Hàng Hải
năm 2005, Luật Nhà ở năm 2006, các văn bản của Bộ Tài nguyên và Môi
trƣờng, Bộ Tƣ pháp,… hƣớng dẫn hoạt động đăng ký đối với mỗi loại giao
dịch, tài sản. Và trên cơ sở kế thừa, pháp điển hóa các quy định của pháp luật

hiện hành về đăng ký giao dịch bảo đảm, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
83/2010/NĐ-CP ngày 09/09/2010 thay thế Nghị định số 08/2000/NĐ-CP
ngày 10/03/2000 về đăng ký giao dịch bảo đảm. Có thể nói văn bản này là
khung pháp lý quan trọng góp phần điều chỉnh hoạt động đăng ký giao dịch
bảo đảm cũng nhƣ đáp ứng yêu cầu công khai và minh bạch hóa thông tin, là
cơ sở cho quyết định cấp tín dụng của các NHTM ở Việt Nam hiện nay. Tuy
nhiên, vấn đề đặt ra là: các thiết chế hiện hành về đăng ký giao dịch bảo đảm
vẫn còn tồn tại nhiều điểm bất cập, hạn chế, một số nội dung về đăng ký chƣa
đƣợc quy định cụ thể, rõ ràng và chƣa thực sự phù hợp với thực tiễn đăng ký
của các bên tham gia giao dịch, đặc biệt là các NHTM và Bên bảo đảm, ví dụ
nhƣ: hệ thống văn bản pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm còn phân tán,
một số quy định trùng lặp, mâu thuẫn, không phù hợp với yêu cầu thực tiễn;
chƣa có cơ chế cơ chế phối hợp, cung cấp thông tin giữa các cơ quan đăng ký
giao dịch bảo đảm với một số cơ quan đăng ký sở hữu tài sản; mô hình tổ
chức, hoạt động của hệ thống các cơ quan đăng ký với nhiều đầu mối thực
hiện ít nhiều gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nƣớc và hoạt động đăng
ký của Bên bảo đảm; thiếu các quy định về thủ tục đăng ký liên quan đến các
giao dịch bằng quyền sử dụng đất đồng thời với tài sản gắn liền với đất hình


9
thành trong tƣơng lai, về thời hạn đăng ký thế chấp,… Các hạn chế này đã
ảnh hƣởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể yêu cầu đăng ký nhất là
các NHTM trong giao dịch tín dụng - cho vay đối với Bên bảo đảm.
Để khắc phục tình trạng nêu trên và trƣớc xu thế hội nhập ngày càng
sâu rộng của Việt Nam vào nền kinh tế thế giới, nền tài chính hiện đại đòi hỏi
pháp luật hiện hành về đăng ký giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của
các NHTM cần phải đƣợc nghiên cứu, đánh giá tổng thể, từ đó chỉ ra những quy
định còn hạn chế, vƣớng mắc và đề xuất, kiến nghị các giải pháp sửa đổi, hoàn
thiện những quy định này nhằm tối đa hóa thông tin về tình trạng pháp lý của tài

sản, giúp các ngân hàng có đủ cơ sở để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình đồng thời giúp cơ quan có thẩm quyền đăng ký thực hiện tốt chức năng
quản lý nhà nƣớc về các giao dịch bảo đảm đƣợc đăng ký. Có nhƣ vậy mới
tạo đƣợc niềm tin của các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài vào Việt Nam. Đây cũng là
ý nghĩa và mục đích nghiên cứu của luận văn trong phạm vi đề tài này.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Ở nƣớc ta, đến thời điểm hiện tại, đã có một số công trình nghiên cứu
khoa học về đăng ký giao dịch bảo đảm nhƣ: công trình nghiên cứu khoa học
cấp cơ sở, với đề tài là: "Đăng ký và cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm
của Việt Nam - Thực trạng và giải pháp" của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch
bảo đảm, Bộ Tƣ pháp; luận văn thạc sĩ với đề tài: "Pháp luật về đăng ký giao
dịch bảo đảm", của Hồ Quang Huy, Khoa luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
Những công trình khoa học này đều tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng
của luật thực định về đăng ký giao dịch bảo đảm tại Việt Nam. Tuy nhiên, để
đi sâu nghiên cứu, phân tích một cách toàn diện, chi tiết các quy định pháp
luật và thực tiễn thi hành, áp dụng các quy định này từ phía các cơ quan nhà
nƣớc có thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm, các NHTM trong hoạt động
cho vay của các NHTM ở Việt Nam hiện nay thì hiện chƣa có công trình khoa
học nào nghiên cứu, đề cập tới.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn


10
Việc nghiên cứu đề tài "Pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm
trong hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện
nay" nhằm đạt các mục tiêu chủ yếu sau đây:
Một là, làm rõ một số vấn đề lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm và
pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của các
NHTM ở Việt Nam hiện nay.
Hai là, phân tích thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật

về đăng ký giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của các NHTM, đối
chiếu, so sánh với những quy định của pháp luật trƣớc đây nhằm làm rõ ƣu
điểm và đặc biệt là những bất cập, hạn chế của luật thực định trong lĩnh vực này.
Ba là, đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật cũng nhƣ các giải
pháp tổng thể nhằm tăng cƣờng hiệu quả hoạt động của hệ thống đăng ký giao
dịch bảo đảm đối với hoạt động cho vay của các NHTM hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đăng ký giao dịch bảo đảm xuất hiện là một đòi hỏi tất yếu khách
quan trong nền kinh tế thị trƣờng. Tuy nhiên hoạt động này mới chỉ nhận
đƣợc sự quan tâm của một bộ phận trong xã hội, việc đăng ký chủ yếu do các
NHTM thực hiện nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của mình nhằm tránh các rủi
ro trong quan hệ tín dụng. Do vậy, trong khuôn khổ của luận văn thạc sĩ, đề
tài chủ yếu tập trung nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về đăng ký giao dịch
bảo đảm, thực trạng và thực tiễn thi hành các quy định pháp luật hiện hành về
đăng ký giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của các NHTM ở Việt
Nam, đồng thời đề xuất một số giải pháp bƣớc đầu tháo gỡ những bất cập của
chế định này, qua đó thúc đẩy sự phát triển của hệ thống đăng ký trong thời
gian tới đồng thời góp phần bảo đảm an toàn cho hoạt động tín dụng của các
ngân hàng trong thời gian tới.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu


11
Luận văn sử dụng các phƣơng pháp phân tích, so sánh, đối chiếu quy
định của pháp luật có liên quan điều chỉnh hoạt động đăng ký giao dịch bảo
đảm để phân tích, xử lý dữ liệu, thông tin; các quan điểm, đƣờng lối, chính
sách đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế, các đạo luật
có liên quan.
6. Những kết quả đạt đƣợc của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên ở Việt Nam tập

trung nghiên cứu một cách có hệ thống, sâu sắc, toàn diện về pháp luật đăng
ký giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của các NHTM ở Việt Nam
hiện nay. Những vấn đề cụ thể về lý luận, cách nhìn nhận, đánh giá các quy
định của pháp luật thực định cũng nhƣ thực tiễn thi hành những quy định này
từ phía cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm và các
NHTM, từ đó đƣa ra hƣớng hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này trong
hoạt động cho vay của các NHTM ở Việt Nam chính là những đóng góp có
giá trị đối với công tác nghiên cứu khoa học, công tác lập pháp và hoạt động
của các NHTM của luận văn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về đăng ký giao dịch bảo đảm và
pháp luật về đăng ký giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của các ngân
hàng thƣơng mại ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về
đăng ký giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của các ngân hàng
thƣơng mại.


12
Chương 3: Định hƣớng hoàn thiện và một số kiến nghị về pháp luật
đăng ký giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của các ngân hàng
thƣơng mại.


13
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM
VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM TRONG

HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐĂNG KÝ GIAO DỊCH BẢO ĐẢM
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và các hình thức đăng ký giao dịch bảo đảm
1.1.1.1. Khái niệm giao dịch bảo đảm và đăng ký giao dịch bảo đảm
 Khái niệm giao dịch bảo đảm - đối tượng của hoạt động đăng ký
giao dịch bảo đảm
Tại Việt Nam, lần đầu tiên khái niệm "giao dịch bảo đảm" đƣợc chính
thức ghi nhận và quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định số 165/1999/NĐ-CP
ngày 19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm. Theo đó, thì giao dịch
bảo đảm đƣợc hiểu là "hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản theo
đó Bên bảo đảm cam kết với bên nhận bảo đảm về việc dùng tài sản để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự". Trên cơ sở quy định tại nghị định này, thuật
ngữ giao dịch bảo đảm đƣợc quy định và sử dụng rộng rãi tại các văn bản
nhƣ: Nghị định số 178/1999/NĐ-CP của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của
các tổ chức tín dụng, Nghị định số 08/2000/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm,…
Trong BLDS, khái niệm "giao dịch bảo đảm" đƣợc quy định nghĩa là
"giao dịch dân sự do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định về việc
thực hiện biện pháp bảo đảm được quy định tại khoản 1 Điều 318 của Bộ luật
này" [33, khoản 1 Điều 323], bao gồm các biện pháp: cầm cố, thế chấp tài sản,
bảo lãnh, đặt cọc, ký cƣợc, ký quỹ, tín chấp). Nhƣ vậy, giao dịch bảo đảm là các
giao dịch đƣợc xác lập nhằm tạo ra những "phương thức bảo đảm" cho việc
thực hiện nghĩa vụ dân sự phát sinh từ các giao dịch dân sự (nhƣ hợp đồng tín
dụng) và từ các căn cứ pháp lý khác nhƣ trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại.


14
Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu "giao dịch bảo đảm" là sự
thỏa thuận giữa Bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm, theo đó Bên bảo đảm

dùng tài sản của mình (tài sản bảo đảm) để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa
vụ. Trƣờng hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
thỏa thuận, thì bên nhận bảo đảm có quyền xử lý tài sản bảo đảm để bảo đảm
việc thực hiện nghĩa vụ.
 Khái niệm đăng ký giao dịch bảo đảm
Dƣới giác độ là biện pháp nhằm công khai và minh bạch hóa tình
trạng pháp lý của tài sản bảo đảm và lợi ích của việc đăng ký đối với các chủ
thể có liên quan, thì đăng ký đƣợc hiểu là hoạt động của cơ quan nhà nƣớc có
thẩm quyền ghi nhận và chứng thực về mặt pháp lý quyền sở hữu và các giao
dịch bảo đảm theo nghĩa rộng của từ này.
Trong những năm qua, đặc biệt từ năm 2000 đến nay, chế định về
đăng ký giao dịch bảo đảm đã từng bƣớc đƣợc xây dựng và phát triển trong hệ
thống các văn bản pháp luật quy định về lĩnh vực này. Tuy nhiên, cho đến
thời điểm hiện tại, trong khoa học pháp lý Việt Nam vẫn chƣa có khái niệm
chính thức về đăng ký giao dịch bảo đảm.
Song nhìn từ giác độ của pháp luật thực định, tại khoản 1, Điều 2 Nghị
định số 83/2010/NĐ-CP quy định: "Đăng ký giao dịch bảo đảm là việc cơ
quan đăng ký giao dịch bảo đảm ghi vào Sổ đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc
nhập vào cơ sở dữ liệu về giao dịch bảo đảm việc Bên bảo đảm dùng tài sản
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với nhận bảo đảm" [20]. Hay nói
cách khác, đăng ký giao dịch bảo đảm là việc một trong các bên tham gia
quan hệ bảo đảm tiến hành đăng ký giao dịch bảo đảm bằng tài sản tại cơ
quan nhà nƣớc có thẩm quyền, tránh việc chuyển dịch chủ sở hữu của tài sản
trong thời gian đăng ký.
Đối chiếu quy định nêu trên cho thấy, đăng ký giao dịch bảo đảm đƣợc
thực hiện trên cơ sở hợp đồng bảo đảm, theo đó một bên (gọi là Bên bảo đảm)


15
cam kết với bên có quyền (gọi là bên nhận bảo đảm) về việc sẽ thực hiện một

hoặc nhiều nghĩa vụ cụ thể đối với bên có quyền, nếu đến hạn mà nghĩa vụ đó
không đƣợc ngƣời có nghĩa vụ thực hiện theo (các) hợp đồng đƣợc bảo đảm đã
giao kết giữa các bên. Xét theo khía cạnh học thuật cũng nhƣ quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành (Điều 410 BLDS, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP
ngày 29/12/2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm) về mối quan hệ hiệu lực
của hai hợp đồng nêu trên, chúng ta thấy rằng: các hợp đồng này về bản chất là
những hợp đồng độc lập, không hề ảnh hƣởng và chi phối đến hiệu lực của nhau,
cho dù mục đích của việc thiết lập hợp đồng bảo đảm (thế chấp, bảo lãnh,…) là
nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đƣợc bảo đảm (hợp đồng
tín dụng,…). "Và theo đó, nếu một trong hai hợp đồng này bị vô hiệu và/hoặc
bị chấm dứt, hủy bỏ thì cũng không ảnh hưởng đến hiệu lực của hợp đồng còn
lại" [1]. Điều này là khá hợp lý, vì nó giúp cho bên chủ nợ nói chung và các
NHTM nói riêng bảo vệ đƣợc quyền, lợi ích của mình và tránh đƣợc những
rủi ro, thiệt hại trong trƣờng hợp hợp đồng có nghĩa vụ đƣợc bảo đảm bị vô hiệu.
Thêm vào đó, nếu đặt trong mối tƣơng quan với quan hệ dân sự thông
thƣờng, chúng ta thấy rằng: các giao dịch dân sự đƣợc thiết lập dựa trên cơ sở
sự thỏa thuận của các chủ thể có đầy đủ điều kiện luật định khi tham gia quan
hệ dân sự, và nếu sự thỏa thuận này là hợp pháp thì nó chỉ có giá trị pháp lý
ràng buộc các bên trong quan hệ đó, chứ không có hiệu lực pháp lý đối với
bên thứ ba (ngƣời không phải là chủ thể tham gia quan hệ này). Các bên
không thể viện dẫn việc xác lập giao dịch này để bảo vệ quyền của mình đối
với một ngƣời thứ ba có liên quan nếu nhƣ có phát sinh tranh chấp.Vì thế,
trên thực tế đã có một số trƣờng hợp, bên có nghĩa vụ dùng một tài sản đi cầm
cố, thế chấp ở nhiều nơi khác nhau mà (các) bên nhận bảo đảm không thể biết
đƣợc điều này. Do đó, khi xảy ra tranh chấp rất khó xử lý, vì không thể xác
định đƣợc thứ tự ƣu tiên thanh toán cho các chủ thể khi bán tài sản bảo đảm.
Còn quan hệ đăng ký giao dịch bảo đảm đƣợc phát sinh giữa một bên là
những chủ thể tham gia quan hệ bảo đảm với một bên là cơ quan nhà nƣớc có



16
thẩm quyền đăng ký giao dịch đó. Nội dung đăng ký chính là những điều
khoản thỏa thuận của các bên trong giao dịch bảo đảm mà ngƣời yêu cầu đăng
ký kê khai, thông báo cho cơ quan đăng ký với mục đích nhằm công khai hóa
các giao dịch bảo đảm, từ đó xác lập giá trị pháp lý đối với ngƣời thứ ba về
quyền ƣu tiên thanh toán của bên nhận bảo đảm với tài sản bảo đảm. Đồng
thời tạo điều kiện để Nhà nƣớc quản lý hoạt động của các giao dịch bảo đảm,
cung cấp thông tin cho các chủ thể có liên quan nhằm góp phần giảm bớt rủi
ro, gian lận trong giao dịch kinh tế - dân sự đặc biệt là các giao dịch trên thị
trƣờng tài chính, tín dụng - các giao dịch vay vốn mà NHTM là bên cho vay,
qua đó làm cho môi trƣờng đầu tƣ trở nên hấp dẫn hơn.
Nhƣ vậy, với những ƣu điểm nêu trên cho thấy, việc đăng ký giao dịch
bảo đảm sẽ mang lại nhiều quyền và lợi ích hợp pháp cho Bên nhận bảo đảm
đặc biệt là các NHTM hơn so với giao dịch dân sự thông thƣờng không đƣợc
đăng ký theo thủ tục này.
1.1.1.2. Các đặc điểm về đăng ký giao dịch bảo đảm
Với mục đích làm minh bạch hóa thông tin về giao dịch bảo đảm, tình
trạng pháp lý của tài sản bảo đảm, hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm có
những đặc điểm pháp lý nhƣ sau:
Thứ nhất: Đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện theo một trình
tự, thủ tục do pháp luật quy định
Pháp luật hiện hành quy định khác nhau về trình tự, thủ tục về đăng ký
giao dịch bảo đảm bằng động sản và bất động sản. Tuy nhiên, mục tiêu chung
của việc quy định này là vẫn là nhằm công khai hóa quyền lợi của Bên nhận
bảo đảm đối với Bên bảo đảm. Đăng ký giao dịch bảo đảm không ghi nhận
toàn bộ nội dung của giao dịch bảo đảm (thể hiện trong các Hợp đồng cầm cố,
Hợp đồng thế chấp,…) mà chỉ ghi nhận những thông tin để làm rõ quyền của
Bên nhận bảo đảm, nghĩa vụ của Bên bảo đảm và tài sản để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ là gì?



17
Ngoài ra, đăng ký giao dịch bảo đảm còn là một trong những cách
thức làm phát sinh hiệu lực pháp lý đối với bên thứ ba. Về vấn đề này, ở phần
lớn các nƣớc có pháp luật về giao dịch bảo đảm hiện đại, một quyền lợi bảo
đảm có giá trị và có thể thực thi không gắn kèm theo nó vị thế nào ƣu tiên đối
với bên thứ ba trừ khi nó đƣợc "hoàn thiện" bằng một trong hai cách: đăng ký
thông báo tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, hoặc trực tiếp chiếm hữu,
kiểm soát tài sản bảo đảm. Việc hoàn thiện lợi ích bảo đảm đƣợc hiểu là việc
công bố công khai sự tồn tại của lợi ích bảo đảm cho ngƣời thứ ba đƣợc biết.
Và điều này cũng đồng thời là căn cứ để xác định thứ tự ƣu tiên thanh toán
của lợi ích bảo đảm so với các quyền, lợi ích khác liên quan đến tài sản bảo
đảm. Trong trƣờng hợp có hai hay nhiều lợi ích bảo đảm liên quan đến tài sản
bảo đảm, thì lợi ích bảo đảm nào đƣợc hoàn thiện trƣớc sẽ đƣợc ƣu tiên thực
hiện. Vì vậy, việc đăng ký giao dịch bảo đảm phải theo trình tự, thủ tục luật định
là điều kiện cần thiết để bảo vệ quyền lợi của các bên trong giao dịch bảo đảm.
Thứ hai: Đăng ký giao dịch bảo đảm là hoạt động dịch vụ công của
Nhà nước
Hiện nay, ở các nƣớc cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm nói chung
và đăng ký bất động sản nói riêng là cơ quan độc lập với cơ quan quản lý nhà
nƣớc về giao dịch bảo đảm hoặc bất động sản. Đây là những cơ quan chuyên
môn không thực hiện chức năng quản lý nhà nƣớc, hoạt động theo nguyên tắc
"lấy thu, bù chi". Thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm đƣợc xác định theo
loại tài sản bảo đảm, theo địa giới hành chính - lãnh thổ hoặc theo địa vị pháp
lý của bên nhận bảo đảm (tổ chức hoặc cá nhân). Tùy thuộc vào điều kiện
kinh tế - chính trị - xã hội của đất nƣớc, mỗi quốc gia thiết lập một mô hình
cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm phân tán hoặc tập trung khác nhau. Các
nƣớc có hệ thống đăng ký bất động sản tập trung và thống nhất từ trung ƣơng
xuống địa phƣơng, nhƣ ở Nhật Bản là Sở Pháp Vụ, Hàn Quốc là Tòa án, ở
Việt Nam là Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cấp tỉnh, huyện thuộc Sở

và Phòng Tài nguyên và Môi trƣờng,… Do mục đích của đăng ký giao dịch


18
bảo đảm là công khai hóa thông tin về tài sản bảo đảm nên việc đăng ký này
mang tính dịch vụ công, vì vậy, mọi tổ chức, cá nhân khi có yêu cầu đều đƣợc
cung cấp thông tin cũng nhƣ các quyền đã thiết lập với tài sản bảo đảm.
Thứ ba: Đăng ký giao dịch bảo đảm được thực hiện một cách bắt
buộc hoặc tự nguyện tùy theo quy định của pháp luật
Trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia đều quy định những trƣờng
hợp bắt buộc phải đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc đăng ký theo yêu cầu tự
nguyện của một trong các bên tham gia giao dịch bảo đảm. Đăng ký bắt buộc là
loại đăng ký mà pháp luật buộc một trong các bên tham gia giao dịch bảo đảm
phải đăng ký giao dịch đó tại cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Nhà nƣớc chỉ
thừa nhận giá trị pháp lý của giao dịch đó khi nó đã đƣợc đăng ký tại cơ quan
đăng ký giao dịch bảo đảm có thẩm quyền. Điều này đƣợc ghi nhận trong
pháp luật một số nƣớc nhƣ Luật Đăng ký bất động sản của Liên bang Nga, tại
khoản 1 Điều 3 quy định: "Đăng ký nhà nước các quyền đối với bất động sản
và các giao dịch về bất động sản là sự kiện pháp lý công nhận và chứng thực
bởi nhà nước sự phát sinh, hạn chế, chuyển dịch hoặc chấm dứt các quyền đối
với bất động sản theo quy định của Bộ luật dân sự Liên bang Nga" [24, tr. 7].
Theo đó thì việc đăng ký đƣợc thực hiện bắt buộc, không quy định các trƣờng
hợp đăng ký tự nguyện. Còn đăng ký tự nguyện là loại đăng ký mà các bên
trong quan hệ bảo đảm có thể đăng ký hoặc không đăng ký giao dịch bảo đảm
đó tại cơ quan đăng ký có thẩm quyền của Nhà nƣớc. Và việc đăng ký hay
không đăng ký này không ảnh hƣởng đến hiệu lực pháp lý của giao dịch bảo
đảm mà các bên đã thiết lập.
Thứ tư: Thông tin về giao dịch bảo đảm được đăng ký phải được cung
cấp cho mọi tổ chức, cá nhân có nhu cầu tìm hiểu
Cung cấp thông tin là mục tiêu quan trọng của tất cả các hệ thống

đăng ký giao dịch bảo đảm trên thế giới. Do vậy, thông tin về tình trạng pháp
lý của tài sản bảo đảm đã đăng ký tại các cơ quan có thẩm quyền đều đƣợc


19
lƣu giữ và cung cấp công khai cho các tổ chức, cá nhân có yêu cầu. Pháp luật
về đăng ký giao dịch bảo đảm của các nƣớc khẳng định quyền đƣợc tiếp cận
thông tin về giao dịch bảo đảm của các tổ chức, cá nhân khi xác lập, thực hiện
các giao dịch liên quan đến tài sản bảo đảm. Cùng với sự phát triển của nền
kinh tế, tài chính hiện đại, hoạt động cho vay có bảo đảm bằng tài sản của các
tổ chức tín dụng ngày càng đƣợc mở rộng hơn về hình thức và mức độ. Theo
đó, thì nhu cầu đảm bảo an toàn pháp lý, tránh rủi ro cho các bên tham gia
giao dịch đặc biệt là các ngân hàng cũng ngày càng tăng cao. Trong bối cảnh
đó, việc công khai, minh bạch hóa thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản
bảo đảm đặc biệt có ý nghĩa, góp phần làm lành mạnh hóa thị trƣờng tài chính -
tiền tệ, ngăn ngừa các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này cũng nhƣ
các tác động tiêu cực đối với sự phát triển, ổn định của môi trƣờng đầu tƣ của
các quốc gia. Hiện nay thì nhiều nƣớc đang hƣớng đến mục tiêu xây dựng hệ
thống dữ liệu thông tin về giao dịch bảo đảm tập trung, thống nhất, vì đó là
một trong những đặc điểm quan trọng của hệ thống giao dịch bảo đảm hiện đại.
Pháp luật hiện hành của Việt Nam cũng khẳng định quyền đƣợc tìm
hiểu, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm đƣợc lƣu giữ trong Sổ đăng ký
quốc gia, Cơ sở dữ liệu về giao dịch bảo đảm của tổ chức, cá nhân có nhu cầu
cũng nhƣ trách nhiệm cung cấp các thông tin này của cơ quan đăng ký nhà
nƣớc có thẩm quyền tại Điều 41 Nghị định số 83/2010/NĐ-CP.
1.1.1.3. Các hình thức đăng ký giao dịch bảo đảm
Điều 16 Nghị định số 83/2010/NĐ-CP quy định:
Hồ sơ đăng ký giao dịch bảo đảm được nộp theo một trong
các phương thức sau đây:
1. Nộp trực tiếp tại trụ sở của cơ quan đăng ký;

2. Gửi qua đường bưu điện;
3. Gửi qua fax hoặc gửi qua thư điện tử đối với đăng ký
giao dịch bảo đảm bằng động sản tại các Trung tâm Đăng ký giao


20
dịch, tài sản với điều kiện người yêu cầu đăng ký đã đăng ký khách
hàng thường xuyên tại Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm
thuộc Bộ Tư pháp;
4. Gửi qua hệ thống đăng ký trực tuyến [20].
Theo quy định này thì khi nộp hồ sơ đăng ký giao dịch bảo đảm,
ngƣời yêu cầu đăng ký có thể lựa chọn một trong các phƣơng thức đăng ký
nêu trên. Pháp luật của một số nƣớc về đăng ký giao dịch bảo đảm quy định
hình thức đăng ký thông thƣờng là nộp đơn trực tiếp cho cơ quan đăng ký và
qua đƣờng bƣu điện. Pháp luật hiện hành của Việt Nam, ngoài việc quy định
hình thức đăng ký thông thƣờng giống pháp luật một số nƣớc trên thế giới thì
còn cho phép ngƣời yêu cầu đƣợc đăng ký theo hình thức "gửi qua fax" và
"qua hệ thống đăng ký trực tuyến" cũng nhƣ trình tự, thủ tục cụ thể khi thực
hiện đăng ký theo phƣơng thức này tại Thông tƣ số 22/2010/TT-BTP ngày
06/12/2010 của Bộ Tƣ pháp hƣớng dẫn về đăng ký, cung cấp thông tin trực
tuyến giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên thi hành án (sau
đây gọi tắt là Thông tƣ số 22/2010/TT-BTP).
1.1.2. Vai trò, ý nghĩa và giá trị pháp lý của việc đăng ký giao dịch
bảo đảm
1.1.2.1. Vai trò của việc đăng ký giao dịch bảo đảm
Trong những năm qua, việc đăng ký giao dịch bảo đảm ở nƣớc ta đã
phát huy ý nghĩa quan trọng trong việc công khai và minh bạch các giao dịch
bảo đảm nói chung, bên cạnh việc giúp cho Bên bảo đảm là các doanh nghiệp,
tổ chức và cá nhân có thêm cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn để phát triển
sản xuất, kinh doanh hoặc đáp ứng nhu cầu vật chất, tinh thần còn giúp cho

các NHTM - Bên cho vay đồng thời là Bên nhận bảo đảm thì việc đăng ký
giao dịch bảo đảm tạo nguồn thông tin để tra cứu, tìm hiểu trƣớc khi xem xét,
quyết định cấp vốn cho Bên bảo đảm và có căn cứ để xác định chính xác thứ
tự ƣu tiên thanh toán trong trƣờng hợp cần xử lý tài sản để thanh toán nghĩa
vụ của Bên bảo đảm.


21
Có thể nói, Nghị định số 83/2010/NĐ-CP ra đời đã đánh dấu sự thành
công bƣớc đầu trong việc nhất thể hóa pháp luật về đăng ký giao dịch bảo
đảm của nƣớc ta, góp phần tạo thuận lợi cho ngƣời dân và doanh nghiệp trong
việc tìm hiểu và áp dụng pháp luật đồng thời tác động trực tiếp tới các bên
tham gia giao dịch cũng nhƣ các bên có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và tác
động tới nền kinh tế xã hội một cách đáng kể, cụ thể đó là với bên nhận bảo
đảm, Bên bảo đảm và các bên thứ ba có liên quan nhƣ sau:
Thứ nhất: Đối với các NHTM - Bên nhận bảo đảm
Đăng ký giao dịch bảo đảm là một trong những cách thức để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của bên nhận bảo đảm nói chung và các NHTM nói
riêng ở Việt Nam hiện nay. Pháp luật về giao dịch bảo đảm của các nƣớc đều
thừa nhận giao dịch bảo đảm đƣợc đăng ký mang ý nghĩa công bố quyền lợi
của bên nhận bảo đảm với ngƣời thứ ba và tất cả những ai (ngƣời thứ ba) xác
lập giao dịch liên quan đến tài sản bảo đảm đều buộc phải biết về sự hiện hữu
của các quyền liên quan đến tài sản bảo đảm đã đƣợc đăng ký.
Ngoài quyền truy đòi tài sản bảo đảm, việc đăng ký giao dịch bảo đảm
còn giúp cho các ngân hàng có đƣợc thứ tự ƣu tiên thanh toán khi xử lý tài
sản bảo đảm so với các chủ nợ khác. Trong trƣờng hợp một tài sản bảo đảm
thực hiện nhiều nghĩa vụ, thì khi xử lý tài sản đó, thứ tự ƣu tiên thanh toán
giữa các bên nhận bảo đảm đƣợc xác định căn cứ theo thứ tự đăng ký giao
dịch bảo đảm. Về nguyên tắc "ai đăng ký trước hoặc hoàn thiện lợi ích bảo
đảm trước thì được ưu tiên trước" [27, tr. 11]. Điều này có nghĩa, bên nhận

bảo đảm đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc hoàn thiện lợi ích bảo đảm (nắm
giữ tài sản bảo đảm) sẽ đƣợc ƣu tiên thanh toán trƣớc. Nhƣ vậy, thời điểm
đăng ký giao dịch bảo đảm là một trong những cách thức để xác định thứ tự
ƣu tiên thanh toán giữa các bên nhận bảo đảm với nhau.
Thứ hai: Đối với Bên bảo đảm
Một trong những yêu cầu đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội là việc
dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ không đƣợc ảnh hƣởng đến hoạt


22
động sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt của Bên bảo đảm. Điều này có nghĩa,
Bên bảo đảm vẫn giữ tài sản bảo đảm và tiếp tục khai thác, sử dụng tài sản
nhằm phục vụ mục đích sản xuất, kinh doanh của mình (trừ trƣờng hợp pháp
luật hoặc các bên tham gia giao dịch có thỏa thuận khác). Đặc điểm này vô
cùng quan trọng trong nền tài chính hiện đại, vì thƣơng gia buộc phải có hàng
trong tay thì mới có thể giới thiệu, tiếp thị hàng đƣợc, nhà thầu phải sử dụng
thiết bị mới có thể thực hiện hợp đồng và một nhà nông phải có máy móc để
gieo trồng và thu hoạch mùa màng Thông qua cơ chế đăng ký giao dịch bảo
đảm, Bên bảo đảm vừa đạt đƣợc mục đích dùng tài sản để bảo đảm việc thực
hiện nghĩa vụ, vừa duy trì đƣợc hoạt động sản xuất - kinh doanh của mình.
Chính nguồn lợi thu đƣợc từ việc khai thác tài sản bảo đảm sẽ giúp bên nhận
bảo đảm từng bƣớc thu hồi vốn, tái đầu tƣ và thanh toán đƣợc nợ cho bên
nhận bảo đảm. Do vậy, nếu phải giao tài sản bảo đảm cho bên nhận bảo đảm
hoặc ngƣời thứ ba giữ, thì mọi hoạt động sản xuất - kinh doanh của Bên bảo
đảm bị ngƣng trệ. Điều này đi ngƣợc lại với mục đích của giao dịch bảo đảm
hiện đại, đó là vừa giúp các giao dịch đƣợc an toàn, vừa thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội.
Thứ ba: Đối với bên thứ ba
Trong nhiều trƣờng hợp, do thiếu thông tin nên bên thứ ba có thể dễ
dàng cho rằng tài sản vẫn chƣa đƣợc dùng để bảo đảm cho bất kỳ một nghĩa

vụ nào trên thực tế. Vậy làm thế nào để bên thứ ba (ví dụ: bên cho vay tiếp
theo hoặc bên mua tài sản) có thể xác định để biết đƣợc liệu còn có ai đó có
quyền lợi liên quan đến một tài sản cụ thể nào đó hay không? Việc công khai
hóa thông tin về giao dịch bảo đảm đƣợc đăng ký là một giải pháp, cụ thể là
bên thứ ba có thể tìm hiểu thông tin tại cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm để
biết đƣợc những giao dịch bảo đảm liên quan đến tài sản bảo đảm đã tồn tại từ
trƣớc, vì những thông tin về giao dịch bảo đảm đƣợc lƣu giữ, công bố rộng
rãi. Nhờ đó, rủi ro pháp lý trong giao dịch sẽ giảm thiểu, nhất là trong trƣờng
hợp tài sản bảo đảm vẫn do Bên bảo đảm chiếm giữ, khai thác.


23
Công khai thông tin về giao dịch bảo đảm là mục tiêu quan trọng hàng
đầu của hệ thống giao dịch bảo đảm hiện đại, vì nhờ đó sẽ giúp các NHTM
đánh giá và phòng ngừa rủi ro. Thông tin đƣợc cung cấp giúp nhận biết đƣợc
sự tồn tại các quyền của bên nhận bảo đảm đối với tài sản bảo đảm, đặc biệt
trƣờng hợp động sản là đối tƣợng của giao dịch và ngƣời cần biết ở đây chính
là ngƣời có ý định xác lập giao dịch đối với tài sản bảo đảm (ví dụ: ngƣời
mua, ngƣời thuê, ngƣời nhận bảo đảm tiếp theo ). Hệ thống đăng ký giao
dịch bảo đảm sẽ giúp các tổ chức, cá nhân đạt đƣợc mục đích đó thông qua
những thông tin đƣợc cung cấp công khai theo yêu cầu.
Thứ tư: Đối với nền kinh tế - xã hội
Nền kinh tế - xã hội phát triển đòi hỏi hệ thống đăng ký giao dịch bảo
đảm phải thực sự hiện đại, khoa học. Khi giao dịch bảo đảm đƣợc đăng ký
chính xác, thuận lợi với chi phí đăng ký hợp lý thì chi phí giao dịch (gồm chi
phí về thời gian, công sức, tiền của ) trong xã hội sẽ ở mức thấp, nhờ đó, tính
cạnh tranh của nền kinh tế sẽ tăng cao. Mặt khác, nếu giao dịch bảo đảm đƣợc
đăng ký và công khai hóa, thì sẽ hạn chế đƣợc những tranh chấp phát sinh
trong cuộc sống do các tổ chức, cá nhân dễ dàng tiếp cận với thông tin về tình
trạng pháp lý của tài sản bảo đảm trƣớc khi ký kết, thực hiện các giao dịch có

liên quan đến tài sản đó. Bên cạnh đó, thông qua hệ thống đăng ký giao dịch
bảo đảm, Nhà nƣớc sẽ có đƣợc những thông tin cần thiết phục vụ cho quá
trình hoạch định các chính sách mang tính vĩ mô, đặc biệt liên quan trực tiếp
đến chính sách bảo đảm an toàn tín dụng. Hệ thống đăng ký giao dịch bảo
đảm đƣợc vận hành hiệu quả sẽ khuyến khích hoạt động cho vay phục vụ nhu
cầu vốn trong xã hội, nhờ đó nguồn vốn trong xã hội sẽ đƣợc luân chuyển liên
tục, khắc phục tình trạng khan hiếm vốn và sự mất cân đối về nhu cầu vốn
giữa các thành phần kinh tế.
1.1.2.2. Ý nghĩa của việc đăng ký giao dịch bảo đảm
Một là, thông qua hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm, Nhà nƣớc sẽ
có đƣợc những thông tin cần thiết phục vụ cho quá trình hoạch định các chính


24
sách mang tính chất vĩ mô, đặc biệt liên quan trực tiếp đến chính sách bảo
đảm an toàn tín dụng, quyết định cấp tín dụng của các NHTM. Ngoài ra, hoạt
động có hiệu quả của hệ thống đăng ký giao dịch bảo đảm sẽ giúp giảm thiểu
đƣợc những tranh chấp phát sinh trong đó chủ yếu là tranh chấp giữa các
NHTM và Bên bảo đảm đƣợc nhanh hơn. Từ đó, giúp cho Nhà nƣớc quản lý
xã hội đƣợc tốt hơn, tạo điều kiện cho kinh tế - xã hội phát triển;
Hai là, hoạt động đăng ký giao dịch bảo đảm còn nhằm tạo ra hệ
thống các thông tin về giao dịch bảo đảm (đƣợc gọi là Hệ thống dữ liệu quốc
gia các giao dịch bảo đảm) để cung cấp công khai các giao dịch bảo đảm và
thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản cho mọi tổ chức, cá nhân có nhu
cầu tìm hiểu, qua đó giúp họ có thông tin chính xác, tin cậy, tránh đƣợc các
rủi ro trƣớc khi quyết định xác lập các giao dịch dân sự, kinh tế, đặc biệt là
các giao dịch tín dụng của NHTM. Kết quả tìm hiểu thông tin về tài sản bảo
đảm sẽ giúp các NHTM đƣa ra quyết định phù hợp và có lợi cho mình nhất.
Cơ chế tìm hiểu thông tin sẽ nhƣ một biện pháp phòng ngừa rủi ro để các
ngân hàng bảo vệ quyền, lợi ích của mình, tránh trƣờng hợp bị lừa hoặc bị

nhầm lẫn mà nhận bảo đảm bằng tài sản đã đƣợc sử dụng để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ khác, tài sản bị hạn chế quyền sở hữu hoặc không thuộc quyền
sở hữu của ngƣời thế chấp, cầm cố,…
Ba là, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong giao dịch
bảo đảm, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho thị trƣờng tín dụng không
những phát triển nhanh, mà còn phát triển trong thế ổn định đồng thời tạo
điều kiện thuận lợi cho hoạt động xét xử của Tòa án đối với các tranh chấp về
giao dịch bảo đảm.
Nhƣ vậy, đăng ký giao dịch bảo đảm ra đời góp phần mở rộng nhiều
quyền cho các NHTM - Bên nhận bảo đảm trong hoạt động cho vay vốn, góp
phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong giao dịch bảo đảm, tạo
sự an toàn pháp lý cho các giao dịch tín dụng giữa Ngân hàng và Bên vay vốn.


25
1.2.2.3. Giá trị pháp lý của đăng ký giao dịch bảo đảm
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 323 BLDS: Trường hợp giao dịch
bảo đảm được đăng ký theo quy định của pháp luật thì giao dịch bảo đảm đó
có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, kể từ thời điểm đăng ký" [33] và "việc
đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp
pháp luật có quy định" [33].
Nhƣ vậy, về nguyên tắc, đăng ký giao dịch bảo đảm làm phát sinh
hiệu lực pháp lý đối với ngƣời thứ ba. Và "Người thứ ba" ở đây đƣợc hiểu là
bất kỳ tổ chức, cá nhân nào khác ngoài các bên tham gia giao dịch bảo đảm
bằng tài sản. Theo đó, pháp luật hiện hành cũng quy định thời điểm đăng ký
giao dịch bảo đảm không bị thay đổi trong trƣờng hợp thay đổi các bên tham
gia giao dịch bảo đảm, thay đổi hình thức của giao dịch bảo đảm,…Với ý
nghĩa này, pháp luật Việt Nam thừa nhận giá trị pháp lý của việc đăng ký giao
dịch bảo đảm ở những nội dung chủ yếu sau:
Một là, giao dịch bảo đảm đƣợc giao kết hợp pháp và có giá trị pháp

lý đối với ngƣời thứ ba (thông qua cơ chế đăng ký giao dịch bảo đảm) thì tài
sản bảo đảm trong các giao dịch đó sẽ không bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ
khác của Bên bảo đảm, trừ trƣờng hợp pháp luật có quy định khác (Điều 4
khoản 4 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP) kể từ thời điểm đăng ký. Quy định
này đòi hỏi bên nhận bảo đảm cần có ý thức trong việc sử dụng cơ chế đăng
ký trong thời gian sớm nhất để bảo vệ quyền lợi của mình;
Hai là, xác định thứ tự ƣu tiên thanh toán với các chủ nợ có bảo đảm
khác trong trƣờng hợp xử lý tài sản bảo đảm để thanh toán nghĩa vụ. Nghĩa là
kể từ thời điểm đó, chủ nợ có bảo đảm sẽ có quyền lợi đƣợc pháp luật bảo vệ
nhằm đối kháng với các chủ nợ khác có liên quan đến tài sản bảo đảm. Chủ
thể nào đăng ký trƣớc sẽ đƣợc ƣu tiên thanh toán nợ trƣớc khi xử lý tài sản
bảo đảm. Đơn yêu cầu đăng ký giao dịch bảo đảm đã đƣợc đăng ký sẽ có giá
trị chứng cứ tại Tòa án khi vụ việc cần phải đƣa ra giải quyết tranh chấp. Và

×