Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Những vấn đề pháp lý trong giai đoạn tiền công ty theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 109 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT







NGUYỄN THỊ THUÝ HẰNG








NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ TRONG GIAI ĐOẠN
TIỀN CÔNG TY THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM








LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC











Hà Nội – 2013



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT








NGUYỄN THỊ THUÝ HẰNG





NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ TRONG GIAI ĐOẠN

TIỀN CÔNG TY THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM




Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Ngô Huy Cương




Hà nội – 2013

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu 3
5. Phương pháp nghiên cứu 4
6. Ý nghĩa của đề tài 5

7. Bố cục luận văn 5
Chương 1: LÝ LUẬN TỔNG QUÁT VỀ GIAI ĐOẠN TIỀN CÔNG TY 6
1.1. Khái niệm, bản chất và đặc điểm pháp lý của giai đoạn tiền công ty 6
1.1.1. Khái niệm và bản chất pháp lý của công ty 6
1.1.2. Khái niệm và bản chất pháp lý của giai đoạn tiền công ty 11
1.1.3. Các đặc điểm pháp lý của giai đoạn tiền công ty 14
1.2. Các giao dịch tiền công ty 20
1.2.1. Phân loại các giao dịch tiền công ty 20
1.2.2. Các giao dịch tiền công ty cổ phần 21
1.2.3. Các giao dịch tiền công ty khác 23
1.3. Pháp luật điều tiết các giao dịch tiền công ty 25
1.3.1. Pháp luật điều tiết các giao dịch tiền công ty 25
1.3.2. Pháp luật về thủ tục thành lập công ty 27
1.3.3. Pháp luật về giải quyết tranh chấp tiền công ty 28
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIAI
ĐOẠN TIỀN CÔNG TY 31
2.1. Thực trạng xây dựng pháp luật công ty ở Việt Nam 31
2.2. Thực trạng điều chỉnh pháp luật về giai đoạn tiền công ty ở Việt Nam 32
2.3. Các quy định pháp luật về giai đoạn tiền công ty 35
2.3.1. Các giao dịch tiền công ty 35
2.3.2. Điều kiện đối với giao dịch tiền công ty 53
2.3.3. Hệ quả pháp lý của giao dịch tiền công ty 58
2.3.4. Vấn đề chủ thể trong giai đoạn tiền công ty 60
2.4. Giao dịch tiền công ty vô hiệu 63
2.5. Nguyên nhân vô hiệu và việc xử lý giao dịch tiền công ty vô hiệu 70
2.6 Một số tranh chấp tiền công ty 73
Chương 3: KIẾN NGHỊ KHUNG PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN GIAI
ĐOẠN TIỀN CÔNG TY 78
3.1. Quan niệm về khung pháp luật liên quan đến giai đoạn tiền công ty 78
3.2. Lập pháp 79

3.3. Hành pháp 88
3.4. Tư pháp 92
KẾT LUẬN 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO Error! Bookmark not defined.



1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Công ty” là một trong những chủ thể quan trọng của luật kinh tế và
cũng là chủ thể được quan tâm hàng đầu trong đời sống kinh tế - xã hội. Do
đó, bất cứ người học luật lẫn người làm ăn kinh doanh nào cũng có nhu cầu
tìm hiểu pháp luật về các công ty. Đây là một xu hướng chung và thiết yếu
trong xã hội hiện đại.
Cần nhận thức rằng, hiểu về “công ty” không chỉ bó hẹp trong phạm vi
từ lúc công ty chính thức hoạt động đến khi chấm dứt số phận pháp lý bằng
các thủ tục như giải thể, phá sản… mà cũng cần một cái nhìn toàn diện và
thấu suốt về thời kỳ tiền công ty - bước đệm không thể thiếu cho việc thành
lập công ty và tạo nên địa vị pháp lý cần thiết cho công ty sau này.
Hiện nay, các vấn đề cơ bản của giai đoạn tiền công ty đã được quy định
khá cụ thể trong pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới, các công trình
nghiên cứu có tính chất độc lập, chuyên sâu hay tổng quát về vấn đề này cũng
tồn tại không ít. Thế nhưng, thực tế ở Việt Nam, “tiền công ty” dường như
vẫn chưa có được sự quan tâm cần thiết từ phía nhà làm luật và cả các chủ thể
có mong muốn kinh doanh. Điều luật sơ sài, thậm chí là thiếu vắng đã khiến
cho giai đoạn này trở nên “lu mờ” khi tìm hiểu về công ty nói chung và luật
công ty nói riêng.
Thực trạng trên có lẽ xuất phát từ quan điểm cho rằng, tiền công ty là
quan trọng nhưng không phải là tất cả đối với công ty, cũng không ảnh hưởng

rõ nét đến sự tồn tại và phát triển của công ty. Tuy nhiên, nếu giai đoạn này
không được chuẩn bị chu đáo thì liệu công ty có đứng vững trên thương
trường? Nếu các vấn đề về tiền công ty không được xem xét một cách hợp lý
thì một số tranh chấp sau này của công ty có tìm được cách giải quyết thoả
đáng? Đáng nói hơn, không có tiền công ty thì công ty có thể ra đời được

2
không? Và rất nhiều những câu hỏi khác được đặt ra để làm rõ vai trò của giai
đoạn này trong quá trình hình thành và phát triển của công ty cũng như những
quy định pháp luật điều chỉnh giai đoạn này.
Những năm gần đây, pháp luật về công ty thường xuyên được sửa đổi,
thậm chí có những vấn đề buộc phải thay đổi tận gốc do quan niệm sai lầm
của một số nhà làm luật. Số lượng công ty trên thực tế phát triển nhanh chóng,
kéo theo đó là vô vàn tranh chấp cần giải quyết ngay từ khâu thành lập. Thế
nhưng, với những nhận thức chưa đầy đủ, quy phạm pháp luật sơ sài, việc xét
xử tranh chấp đối với các vấn đề tiền công ty như hợp đồng thành lập công ty,
hợp đồng giữa sáng lập viên với bên thứ ba…. dường như chưa hiệu quả.
Xuất phát từ thực tiễn như vậy, tác giả chọn đề tài “Những vấn đề pháp
lý trong giai đoạn tiền công ty theo pháp luật Việt Nam” làm đề tài nghiên
cứu. Đây không phải là một vấn đề hoàn toàn mới theo pháp luật Việt Nam
nhưng lại chưa được quan tâm và có sự điều chỉnh cần thiết cả về mặt lý luận
lẫn thực tiễn. Đề tài này về cơ bản cũng không trùng lặp với những công trình
nghiên cứu đã có trong giới luật học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan
Nhìn chung, pháp luật về công ty được sự quan tâm rộng rãi không chỉ
trong giới luật học mà cả trong đời sống thường nhật. Do đó, các công trình
nghiên cứu hay sách báo tham khảo về chế định này được viết khá nhiều như
Giáo trình Luật kinh tế - Khoa Luật, Đại học Quốc Gia Hà Nội; Giáo trình
Luật kinh tế - Đại học Luật Hà Nội; Một số vấn đề về công ty và hoàn thiện
pháp luật về công ty ở Việt Nam hiện nay - Nguyễn Thị Thu Vân;…

Riêng những đề tài có liên quan trực tiếp hay gián tiếp về giai đoạn tiền
công ty cũng không ít. Có thể kể đến một số công trình như: “Luật Thương
mại Việt Nam dẫn giải” của nhóm tác giả Lê Tài Triển (chủ biên), Nguyễn
Vạng Thọ và Nguyễn Tân; “Hợp đồng thành lập công ty ở Việt Nam” - Luận

3
án tiến sĩ luật học của Ngô Huy Cương; “Công ty vô hiệu” - Luận văn thạc sĩ
luật học của Nguyễn Hồng Minh;…
Tuy vậy, chưa có một đề tài nghiên cứu chuyên sâu và tổng quát về vấn
đề tiền công ty theo pháp luật Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Thông qua việc tìm hiểu các quy định của pháp luật Việt Nam, có sự so
sánh, đối chiếu với pháp luật nước ngoài, luận văn hướng tới mục đích nghiên
cứu một cách có hệ thống và đầy đủ các quy định trong lĩnh vực tiền công ty.
Từ đây có thể tìm kiếm và phát hiện những tiến bộ, thiếu sót của pháp luật
Việt nam, làm định hướng để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện khung pháp
luật về vấn đề này. Bên cạnh đó, luận văn cũng chỉ ra vị trí quan trọng của
tiền công ty trong tổng thể chung của công ty và pháp luật về công ty.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận chung về công ty, đặc biệt là giai đoạn tiền
công ty. Xác định “tiền công ty” là vấn đề trung tâm của luận văn, cần đào
sâu tìm hiểu một cách đúng đắn và toàn diện.
- Nghiên cứu các vấn đề pháp lý đặc thù của tiền công ty, trong đó tập
trung vào vấn đề mang tính bản chất của giai đoạn này là các giao dịch (hợp
đồng) tiền công ty. Vấn đề về sáng lập viên cũng được đề cập ít nhiều với tư
cách là một trong những nội dung cơ bản của giai đoạn tiền công ty, tuy
nhiên, không phải là vấn đề mấu chốt trong phạm vi nghiên cứu của đề tài.
- Phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về tiền công ty.
- Kiến nghị một số định hướng xây dựng khung pháp luật về tiền công ty.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu

Chế định pháp luật về công ty là một chế định rộng, liên quan đến nhiều
yếu tố pháp lý lẫn thực tiễn như: các loại hình công ty, các học thuyết pháp lý
về bản chất công ty, thành lập, hoạt động, giải thể hoặc phá sản công ty…

4
Luận văn không có tham vọng nghiên cứu toàn bộ chế định này mà chỉ tập trung
vào giai đoạn tiền công ty để làm rõ các vấn đề có tính nguyên tắc cần thiết cho
việc xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực này.
Sự phân biệt giữa tiền công ty và công ty bắt đầu có tư cách pháp nhân
một cách cụ thể là vấn đề cần thiết về mặt lý luận lẫn thực tiễn. Luận văn chỉ
giới hạn phạm vi nghiên cứu ở giai đoạn tiền công ty, do đó sẽ không đi sâu
vào các vấn đề của công ty khi đã được công khái hoá và chính thức hoạt
động. Theo đó, các vấn đề pháp lý chỉ đặt trong giới hạn trước khi công ty
chính thức được thành lập. Tuy nhiên, để đảm bảo tính toàn diện của vấn đề,
một số tình huống phát sinh sau giai đoạn tiền công ty nhưng là hệ quả của
giai đoạn này (chẳng hạn hợp đồng thành lập công ty vô hiệu dẫn đến công ty
vô hiệu) cũng sẽ được xem xét một cách thấu đáo, có sự liên hệ với các quy
phạm pháp luật cả trước, trong và sau giai đoạn tiền công ty.
Luận văn cũng không dàn trải quy định pháp luật của nhiều quốc gia trên
thế giới mà chỉ đi sâu phân tích và giải quyết các quy định của pháp luật Việt
Nam. Luật pháp quốc tế chỉ mang ý nghĩa định hướng và là nền tảng pháp lý
thiết yếu cho việc tìm hiểu các quy định của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên,
luận văn sẽ có sự so sánh ở mức độ nhất định nhằm đánh giá các quy định của
pháp luật Việt Nam, từ đó đưa ra những giải pháp thích hợp cho một khung
pháp luật chặt chẽ và đúng đắn về vấn đề này.
5. Phương pháp nghiên cứu
Là một đề tài thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, luận văn được nghiên cứu
chủ yếu dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, dựa vào các văn bản pháp luật của
Việt Nam và thế giới về công ty và tiền công ty, các sách, báo, bài viết tham

khảo có liên quan…

5
Trên cơ sở đó, ngoài phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mac – Lênin, tác giả còn sử dụng phương pháp phân
tích, tổng hợp, so sánh để làm rõ vấn đề.
6. Ý nghĩa của đề tài
Hiện nay, ở nước ta các quy định pháp lý điều chỉnh vấn đề tiền công ty
còn rất thiếu vắng, có chăng chỉ là những quy định rời rạc và có phần thiếu
sót, chưa thể hiện được cái nhìn tổng quan và thấu đáo về vấn đề này.
Luận văn kế thừa những công trình nghiên cứu đã có về các vấn đề liên
quan nhưng vẫn phần nào thể hiện được tính mới của đề tài. Đặc biệt trong
bối cảnh chưa có một công trình nào trùng lặp hoàn toàn về mặt ý tưởng và
cách thể hiện, đề tài mang ý nghĩa lý luận cho việc xây dựng những quy phạm
pháp luật đầy đủ và toàn diện hơn, làm cơ sở lý luận cho việc áp dụng trong
thực tiễn thành lập và giải quyết tranh chấp về công ty. Những phân tích và
kiến nghị của đề tài hy vọng sẽ có ý nghĩa thiết thực trong quá trình xây dựng
và hoàn thiện pháp luật công ty của Việt Nam, phù hợp với luật pháp quốc tề
và đáp ứng nhu cầu thời đại.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, bố cục luận văn được chia làm ba (03)
chương:
Chương 1: Lý luận tổng quát về giai đoạn tiền công ty
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về giai đoạn tiền công ty
Chương 3: Kiến nghị khung pháp luật liên quan đến giai đoạn tiền công ty


6
Chương 1
LÝ LUẬN TỔNG QUÁT VỀ GIAI ĐOẠN TIỀN CÔNG TY

1.1. Khái niệm, bản chất và đặc điểm pháp lý của giai đoạn tiền công ty
1.1.1. Khái niệm và bản chất pháp lý của công ty
Công ty là một định chế quan trọng trong thời buổi cạnh tranh toàn cầu,
không chỉ tác động đến đời sống kinh tế - xã hội mà còn là vấn đề được quan
tâm đặc biệt trong khoa học pháp lý. Có rất nhiều lý thuyết lý giải cho sự xuất
hiện của công ty. Tuy nhiên, dưới giác độ kinh tế và luật pháp, có quan điểm
chung cho rằng “công ty xuất hiện bởi vì đó chính là “công cụ” giúp các nhà
đầu tư giảm thiểu được rủi ro và chi phí giao dịch trong thực hiện hoạt động
kinh doanh” [3]. Ngày nay, công ty được xem là loại hình doanh nghiệp phổ
biến và được ưa chuộng nhất trong hầu hết các quốc gia trên thế giới.
1.1.1.1 Khái niệm công ty
Công ty xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ XIX ở châu Âu. Tuỳ từng
cách tiếp cận, khái niệm công ty cũng được nhìn nhận khác nhau.
Nhìn từ góc độ kinh tế, công ty là một tổ chức kinh tế được thành lập
nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận và lấy hoạt động kinh doanh làm ngành
nghề chính. Nó chỉ mang tính chất như một vỏ bọc hình thức để hợp pháp hoá
các giao dịch, chi phí và hoạt động kinh doanh của thành viên công ty, “là
một cái áo khoác để thực hiện ý tưởng kinh doanh” [25, tr. 250].
Dưới góc độ kinh tế luật, Ronald Coase – nhà kinh tế học nổi tiếng đã có
một khái niệm trở thành kinh điển về doanh nghiệp. Coase phát biểu: “doanh
nghiệp là một sự thể hiện cao cấp của hợp đồng giữa các thành viên của
doanh nghiệp đó”, và rằng – “các thành viên cần phải tập hợp lại với nhau để
chung vốn, chung sức cạnh tranh” [23, tr.152]. Khi doanh nghiệp được thành
lập, chi phí giao dịch giữa các thành viên cũng như giữa các doanh nghiệp với
nhau cũng sẽ giảm, từ đây sức cạnh tranh tăng lên. Như vậy, chi phí giao dịch

7
chính là vấn đề cốt lõi về mặt kinh tế của khái niệm doanh nghiệp nói chung
và công ty nói riêng. Vấn đề “tư cách pháp nhân” của công ty hầu như không
được quan tâm đúng mức.

Nhìn từ góc độ pháp lý, công ty là một chủ thể pháp luật, được tạo nên
bởi một sự kiện pháp lý, có nghề nghiệp kinh doanh và hoạt động với tư cách
một chủ thể độc lập. Theo đó, công ty được xác lập bằng thủ tục thành lập và
đăng ký kinh doanh, có năng lực chủ thể để tham gia các quan hệ pháp luật và
có quyền tự chủ trong các hoạt động kinh doanh.
Luật pháp của nhiều nước trên thế giới cũng đưa ra những định nghĩa về
công ty. Bộ luật Dân sự Cộng hoà Pháp định nghĩa” Công ty là một hợp đồng
mà thông qua đó hai hay nhiều người thỏa thuận với nhau sử dụng tài sản hay
khả năng của mình vào một hoạt động chung nhằm chia lợi nhuận thu được
qua hoạt động đó”. Luật của bang Georgia - Mỹ lại đưa ra khái niệm “Một
công ty là một pháp nhân được tạo ra bởi luật định nhằm một mục đích chung
nào đó nhưng có thời hạn về thời gian tồn tại, về quyền hạn, về nghĩa vụ và
các hoạt động được ấn định trong điều lệ”. Bộ luật Thương mại Thái Lan thì
quy định “Hợp đồng thành lập công ty hay công ty là hợp đồng, theo đó hai
hay nhiều cá nhân thoả thuận cùng nhau thực hiện công việc chung, trên
nguyên tắc cùng chia sẻ lợi nhuận có được từ công việc đó”. Với pháp luật
Cộng hoà liên bang Đức, công ty được hiểu “là sự liên kết của hai hay nhiều
cá nhân hoặc pháp nhân bằng một sự kiện pháp lý nhằm tiến hành các hoạt
động để đạt một mục tiêu chung nào đó”.
Ở Việt Nam, khái niệm công ty cũng được quan tâm và đưa ra từ thời
Pháp thuộc. Điều 1452 Bộ luật Trung phần 1936 định nghĩa “Công ty là một
khế ước do hai hay nhiều người thoả thuận cùng xuất tài sản, góp lại, chung
nhau để lấy lợi chia nhau”. Khái niệm này ghi nhận rõ nét quan điểm xem
công ty là một hợp đồng.

8
Đến Luật Công ty 1990, khái niệm về công ty được nêu tại điều 2 “Công
ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần, gọi chung là công ty, là doanh
nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng
chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ

của công ty trong phạm vi phần vốn góp của mình góp vào công ty”. Có thể
thấy ở giai đoạn này, luật công ty của Việt Nam chỉ nhìn nhận hai loại hình
chủ yếu được gọi là công ty đó là công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ
phần, trong khi hợp danh là một loại hình công ty đã tồn tại lâu đời và được
ghi nhận ở hầu khắp các quốc gia lại chưa được đề cập đến. Đây có thể xem là
một điểm thiếu sót của các nhà làm luật, dẫn đến khái niệm về công ty bị bó
hẹp trong phạm vi các loại hình.
Hiện nay, khái niệm “công ty” không còn được đề cập trong các văn bản
luật như Luật doanh nghiệp hay Luật Thương mại. Các nhà làm luật xem xét
công ty là một loại hình doanh nghiệp và chỉ đưa ra khái niệm tổng quát về
doanh nghiệp. Theo đó, “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài
sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh” [19, điều 4].
Định nghĩa này cho thấy chỉ những chủ thể kinh doanh thoả mãn những điều
kiện trên mới có tư cách doanh nghiệp. Công ty là một loại hình doanh nghiệp
đáp ứng đầy đủ những điều kiện trên, và còn có những đặc điểm đặc thù: (i) là
pháp nhân, (ii) tách biệt và là chủ thể pháp lý độc lập với chủ sở hữu, (iii)
trách nhiệm hữu hạn của chủ sở hữu công ty, cổ phần hay phần vón góp là
chuyển nhượng được, (v) quản lý tập trung và thống nhất [3, tr.6].
1.1.1.2 Bản chất pháp lý của công ty
Xét về bản chất pháp lý của công ty, hiện có nhiều quan điểm khác nhau.
Tuy nhiên, cần nhìn nhận công ty với tư cách một chủ thể pháp lý, là “người”

9
do pháp luật tạo ra. “Luật pháp đã trao cho công ty quyền năng giống như một
cá nhân thực hiện các công việc kinh doanh cho chính mình” [3,tr.7]
Các nước theo truyền thống Civil Law (Họ pháp luật La Mã - Đức) xem
bản chất pháp lý của công ty là hợp đồng. Trong khi các nước Common Law
(Họ pháp luật Anh Mỹ), điển hình là Hoa Kỳ, phát triển rất nhiều học thuyết
khác nhau về bản chất pháp lý của công ty. Có thể kể ra một số học thuyết

như sau: Học thuyết hư cấu hay thực thể nhân tạo – xem công ty là một pháp
nhân hay một thực thể nhân tạo được thiết lập bởi nhà chức trách; học thuyết
thừa nhận hay học thuyết nhượng quyền – xem sự tồn tại của công ty bởi sự
nhượng bộ của nhà nước; học thuyết hiện thực – xem nhân tính của công ty là
sự thừa nhận các lợi ích nhóm như một hiện tượng thực tế đã tồn tại; học
thuyết doanh nghiệp - nhấn mạnh tới doanh nghiệp thương mại cơ bản, không
nhấn mạnh tới thực thể - sự liên kết của những thực thể cấu thành; học thuyết
biểu tượng – xem công ty là một biểu tượng cho sự liên kết của những cá
nhân tạo thành công ty có nhân tính nhóm; học thuyết mối liên hệ hợp đồng –
xem công ty là một giả tưởng pháp lý bao gồm một mạng lưới các quan hệ
giữa các cá nhân; học thuyết hợp đồng - công ty là hợp đồng.
Các học thuyết khác nhau về bản chất của công ty đã góp phần cho việc
giải thích khái niệm hiện đại về công ty nhưng mỗi học thuyết chỉ chiếm một
vị trí nhất định trong việc giải thích này và không bao trùm toàn bộ[8]
Thực tiễn cho thấy, học thuyết hợp đồng được sử dụng rộng rãi ở các
nước để xử lý các mối quan hệ pháp lý giữa các thành viên trong công ty với
nhau và giữa thành viên với công ty. “Việc xem công ty là một hợp đồng là
một quan niệm nghiêng về tính chất pháp lý của công ty” [8]. Quan điểm này
cũng được xem xét trên nguyên tắc thừa nhận những nội dung hạt nhân của
học thuyết tự do ý chí, theo đó, “cơ sở phát sinh nghĩa vụ của mọi hành vi
pháp lý (trong đó có thành lập công ty) là tự do ý chí của chủ thể” [21, tr.29].

10
Tuy nhiên, quan điểm này lại trở nên bất lực trong việc giải thích bản chất của
công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, bởi không ai lại tự đi lập hội và
ký hợp đồng với chính bản thân mình. Lúc này, chúng ta lại cần viện dẫn đến
quan điểm về bản chất công ty của các nước theo truyền thống Common law.
Theo đó, công ty đơn giản là một pháp nhân hay một thực thể nhân tạo được
thiết lập bởi nhà chức trách. Khi được thành lập theo đúng các thủ tục luật
định, công ty tồn tại độc lập với người lập ra nó, bất kể số lượng thành viên là

bao nhiêu. Công ty, trong án lệ của Mỹ, theo lời của Chánh án Toà án Tối cao
John Marshall “là một thứ được người ta tạo ra, không thấy được, không sờ
được, và chỉ tồn tại theo những quy định của luật pháp. Thuần tuý là một sản
phẩm của luật pháp. Nó chỉ mang những tính chất mà văn bản lập nên nó đặt
vào nó, hoặc được nêu một cách rõ ràng, hoặc vì có liên quan đến sự tồn tại
của chính nó. Những tính chất đó đã được tính toán kỹ để giúp nó đạt mục
tiêu mà vì đó nó được lập ra. Một trong số những tính chất quan trọng nhất
của nó là tính bất tử, và - nếu có thể nói được – tính con người; một tính chất
mà nhờ đó sự kế tục vĩnh cửu của nhiều người được coi như nhau, và do đó có
thể hành động như một con người”.
Ở Việt Nam hiện nay, hầu hết các luật gia coi công ty là một chủ thể
kinh doanh, nghĩa là một “định chế”. Khái niệm định chế được hiểu là “tổng
thể các quy tắc pháp lý có tính cách bắt buộc đối với một nhóm người theo
mục đích xác định; quyền lợi riêng phụ thuộc vào mục đích xã hội theo đuổi”
[2, tr.16]. Điều này thể hiện rõ nét trong các định nghĩa về công ty tại Luật
Công ty 1990 và định nghĩa chung về doanh nghiệp trong Luật Doanh nghiệp
1995 và Luật Doanh nghiệp 2005.
Tuy nhiên, trong các Bộ luật dân sự của các chế độ cũ ở Việt Nam lại có
một chương riêng về khế ước lập hội, đồng thời trong khái niệm về công ty
cũng xác định rõ bản chất pháp lý của công ty hay thương hội là hợp đồng.

11
Có thể nói mỗi cách tiếp cận đều có cái lý và mặt tích cực riêng. Bản
thân người viết nghiêng về quan điểm coi bản chất của công ty là hợp đồng.
Chính việc xác định bản chất hợp đồng của công ty đã mang lại nhiều tiện ích
cho việc nghiên cứu công ty, giải quyết được nhiều vấn đề tranh chấp trong và
ngoài công ty. “Quy tắc hoạt động và điều hành trong luật công ty cũng mượn
kỹ thuật của hợp đồng và có thể được giải thích bằng luật về hợp đồng. Các
vấn đề như sự thoả thuận, năng lực, đối tượng đều là điều kiện về sự hữu hiệu
của hợp đồng mà công ty phải đảm bảo thoả mãn trong quá trình hình thành

và phát triển” [21]. Bản chất hợp đồng của công ty cũng mang tới nhiều hệ
luận quan trọng mà một trong số chúng là mối quan hệ giữa công ty với các
vấn đề tự do ý chí, tự do khế ước, tự do kinh doanh, và tự do lập hội. Đây
cũng chính là cơ sở triết học của công ty, và cũng là cơ sở để thiết lập hệ
thống pháp luật về công ty [8].
1.1.2. Khái niệm và bản chất pháp lý của giai đoạn tiền công ty
1.1.2.1 Khái niệm giai đoạn tiền công ty
Chặng đường hình thành và phát triển của công ty luôn trải qua những
giai đoạn khác nhau. Một số nhà nghiên cứu cho rằng tiến trình của con
đường kinh doanh được chia làm bảy giai đoạn, bao gồm: Giai đoạn “gieo
hạt”, khởi động, phát triển, ổn định, mở rộng, suy thoái và cuối cùng là tan rã.
Trong đó, “gieo hạt” là giai đoạn mà việc kinh doanh chỉ tồn tại trong suy
nghĩ, chỉ là “ý tưởng, ý đồ kinh doanh”. Đây là giai đoạn chuẩn bị “khai sinh”
doanh nghiệp mới, và hầu hết các công ty trong giai đoạn này sẽ cần vượt qua
những thử thách nhất định là chấp nhận thị trường và theo đuổi một thời cơ
thích hợp riêng biệt. Trong khoa học pháp lý, giai đoạn này chính là giai đoạn
“tiền công ty”.
Ở giai đoạn này, các cá nhân, tổ chức sẽ tiến hành những hoạt động cần
thiết để “khai sinh” công ty như thực hiện góp vốn, ký các hợp đồng thành

12
lập, hợp đồng thuê nhà để làm trụ sở hay nhà xưởng của công ty sau này,
Do lúc này việc kinh doanh chỉ nằm trong “ý tưởng”, và công ty cũng chưa
được hình thành trên thực tế, nên các sáng lập viên sẽ là người thực hiện
những giao dịch nói trên. Các giao dịch này dù được thể hiện và ký kết dưới
những hình thức nào thì cũng đều hướng đến mục địch tạo ra một thực thể
pháp lý được gọi là “công ty” để tiếp quản và thực hiện những ý đồ kinh
doanh của các thành viên sáng lập.
Đây là mắt xích đầu tiên và khá quan trọng trong quá trình tạo ra công
ty, bởi nếu giai đoạn này không được chuẩn bị chu đáo và hợp lý thì việc

thành lập công ty sẽ gặp phải không ít trở ngại. Thực tế cho thấy, “gieo hạt”
không thành công hoặc không đúng cách thì quá trình “khởi động” hầu như
không thể bắt đầu, hoặc giả công ty vẫn được thành lập hợp pháp thì việc
“phát triển”, “mở rộng”… cũng khó lòng đi theo ý muốn chủ quan của sáng
lập viên cũng như quy luật khách quan của đời sống kinh tế.
Như vậy, tiền công ty chính là giai đoạn với các giao dịch hay thoả thuận
trước đăng ký kinh doanh của công ty.
Theo pháp luật Hoa Kỳ, thoả thuận tiền công ty là một hợp đồng
giữa các cổ đông dự kiến nhằm tạo lập một hoạt động kinh doanh dưới hình
thức một công ty cụ thể. Nó có thể là một biên bản tóm tắt những điểm chính
của sự thoả thuận miệng hay một văn bản chính thức hoàn chỉnh mô tả chi
tiết sự thoả thuận về mọi vấn đề giữa các cổ đông, thuê mướn nhân viên, vốn
hoặc bất kỳ vấn đề nào khác mà là đối tượng của thoả thuận sơ bộ. Sau khi
công ty được thành lập xong, nếu muốn thoả thuận tiền công ty tiếp tục có
hiệu lực phải thông qua một thủ tục tuyên bố đặc biệt .Tuy nhiên, những vấn
đề đặc biệt về hợp đồng tiền công ty trong pháp luật Hoa Kỳ chỉ áp dụng cho
các công ty chứ không áp dụng cho hợp danh, nên không thể trở thành cách

13
tiếp cận chung cho các loại hình công ty theo quan niệm của Việt Nam và các
nước trên thế giới [9, tr.14,15].
Kiến thức trên là một nguồn tham khảo quý giá để đánh giá đúng quan
điểm và bản chất pháp lý của giai đoạn này.
1.1.2.2 Bản chất pháp lý giai đoạn tiền công ty
Về bản chất pháp lý, giai đoạn tiền công ty thực chất chính là giao dịch
lập hội, bao gồm tổng thể các loại hợp đồng phục vụ cho việc thành lập công
ty. Có thể nói quan điểm xem công ty là hợp đồng ít nhiều xuất phát từ việc
đánh giá bản chất pháp lý của giai đoạn tiền công ty chính là hợp đồng. Theo
đó, đây là giai đoạn của những hợp đồng và thoả thuận, vốn được đề cập chủ
yếu trong các văn bản pháp luật của thế giới dưới hình thức hợp đồng thành

lập công ty. Các bộ luật cổ của Việt Nam như Bộ Dân luật Bắc Kỳ 1931, Bộ
Dân luật Trung Kỳ 1936 hay Bộ luật dân sự Sài Gòn 1972 đều giành một
chương riêng đề cập đến vấn đề “khế ước lập hội”, chính là hợp đồng cơ bản
trong giai đoạn tiền công ty. Đáng tiếc Luật Doanh nghiệp hiện hành của Việt
Nam lại chưa có sự điều chỉnh thích đáng về vấn đề này khi chỉ quy định một
điều luật ít ỏi về Hợp đồng trước đăng ký kinh doanh, và cũng chưa có hướng
dẫn cụ thể cho việc áp dụng. Ở giai đoạn này, các chủ thể có chung mục tiêu
kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận sẽ cùng nhau thực hiện mục tiêu đó trên cơ sở
tự do, tự nguyện thoả thuận thành lập công ty và ghi nhận sự thoả thuận đó
dưới một hình thức pháp lý là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý song phương
hay đa phương [21].
Lẽ dĩ nhiên, hợp đồng thành lập công ty không phải là tất cả của giai đoạn
tiền công ty. Còn rất nhiều những hợp đồng và thoả thuận khác được thương
lượng, ký kết trong giai đoạn này. Vấn đề cốt lõi khi xác định bản chất pháp lý của
tiền công ty chính là nguyên tắc tự nguyện thoả thuận với hình thức thể hiện là các
hợp đồng tiền sáng lập. Nội dung và mục đích của các hợp đồng này đã tạo nên vị

14
thế và tầm quan trọng của giai đoạn này, chính chúng đã giúp tiền công ty trở
thành mối quan tâm không chỉ của sáng lập viên và các bên liên quan mà còn
là một nội dung cần có sự điều chỉnh từ phía luật pháp.
1.1.3. Các đặc điểm pháp lý của giai đoạn tiền công ty
Tiền công ty là giai đoạn quan trọng nhưng chưa thực sự được ghi nhận
cụ thể trong pháp luật, đặc biệt là pháp luật Việt Nam. Việc đưa ra các đặc
điểm pháp lý đòi hỏi phải có sự tìm hiểu kỹ càng và đặt trong mối liên hệ tổng
quát với các quy định về công ty và các khía cạnh khác nhau của nó. Có thể
chỉ ra một số đặc điểm có tác động mạnh mẽ đến sự tồn tại và hợp pháp của
giai đoạn này như sau:
Thứ nhất, đặc điểm về chủ thể:
Ở giai đoạn này, vấn đề sáng lập viên là một trong những mối quan tâm

hàng đầu. “Sáng lập viên được xem là người có sáng kiến muốn lập công ty,
đứng ra kết hợp hội viên, kêu gọi góp vốn, thu thập tiền vốn và làm những thể
lệ cần thiết cho công ty được thành lập” [53, tr.889]
Hầu như tất cả những vấn đề tiền công ty đều liên quan đến người sáng
lập. Họ chính là người trực tiếp thực hiện các vấn đề ở giai đoạn này như phát
hiện cơ hội kinh doanh, tập hợp nguồn lực, tài sản cần thiết, thiết lập các thoả
thuận, hợp đồng phục vụ cho việc thành lập công ty. Ngay cả những vấn đề
về bồi thường cho người thứ ba ký kết thoả thuận tiền công ty cũng là một nội
dung có mối liên hệ chặt chẽ với người sáng lập.
Là người làm những công việc thực tế liên quan đến quá trình thành lập
công ty, các sáng lập viên thông thường sẽ nắm những vị trí quan trọng trong
công ty khi nó được thành lập. Ở thời kỳ tiền công ty, sáng lập viên nắm giữ
mối quan hệ uỷ thác với công ty chưa tồn tại và các thành viên hay cổ đông
tương lai của nó. Điều này có nghĩa sáng lập viên phải hành động vì lợi ích tốt
nhất của công ty mới và các thành viên / cổ đông. [63, p.629]

15
Nắm giữ vai trò quan trọng trong giai đoạn này, sáng lập viên phải trung
thực, công bằng và công khai đầy đủ tất cả thông tin về bất cứ hợp đồng nào
đã được ký kết cho việc thành lập công ty.
Thứ hai, công ty là phức hợp của nhiều hợp đồng, và tiền công ty chính
là giai đoạn thoả thuận và ký kết các loại hợp đồng này.
Trong suốt quá trình tìm kiếm cơ hội kinh doanh và thúc đẩy tiến trình
khai sinh doanh nghiệp, các sáng lập viên có thể thực hiện các hợp đồng
nhằm tạo ra công ty như hợp đồng thành lập công ty, hợp đồng giữa sáng lập
viên với bên thứ ba để chuẩn bị thành lập công ty (thuê văn phòng, thuê nhân
công…) và vô số hợp đồng khác tuỳ từng loại hình, quy mô và nhu cầu của
công ty. Những hợp đồng này đều được tiến hành trong giai đoạn tiền công
ty, một mặt để lấy thông tin khai báo trong hồ sơ doanh nghiệp khi đăng ký
kinh doanh, mặt khác, quan trọng hơn, sẽ là nền tảng cơ bản cho hoạt động

của các công ty sau này.
Người ta coi giai đoạn này là phức hợp của nhiều hợp đồng bởi lẽ các
hợp đồng này không tồn tại độc lập hay chỉ có hiệu lực đối với các bên tham
gia hợp đồng, mà chúng luôn ràng buộc và chi phối lẫn nhau, cùng hướng tới
mục đích thành lập công ty và nếu công ty được chính thức ra đời thì công ty
sẽ tiếp quản những quyền lợi và nghĩa vụ được ký kết trong hợp đồng.
Thứ ba, giai đoạn tiền công ty không phải là việc giao kết các hợp đồng
đơn thuần mà là quá trình góp phần tạo ra một thực thể kinh doanh, hay nói
cách khác là tạo ra một pháp nhân.
Như đã phân tích, các hợp đồng trong giai đoạn này không chỉ có ý
nghĩa đơn thuần là các hợp đồng độc lập, quy định quyền lợi, trách nhiệm của
các bên giao kết, mà bản chất và mục đích của chúng là tạo ra công ty - thực
thể kinh doanh đóng vai trò là một chủ thể độc lập có khả năng tạo ra những
mối quan hệ làm ăn sinh lợi sau này. Thực thể này chính là một pháp nhân với

16
đầy đủ quyền năng và trách nhiệm có thể tiếp quản và phát huy tối đa lợi ích
từ những nội dung được soạn thảo và ký kết trong những hợp đồng kể trên.
Hiện nay, luật pháp của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thừa nhận
tư cách pháp nhân của công ty. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều quan niệm khác
nhau về “pháp nhân”, trong đó có hai học thuyết nổi bật là học thuyết giả
tưởng và học thuyết thực tại. Học thuyết giả tưởng cho rằng pháp nhân chỉ là
một chủ thể giả tưởng, không có ý chí và chỉ được công nhận bởi pháp luật,
phụ thuộc vào nhà làm luật. Trong khi đó học thuyết thực tại lại coi pháp
nhân là những thực tại không kém gì thể nhân, chúng là chủ thể của các
quyền, có một ý chí tập thể, được thừa nhận và có quy tắc về đời sống pháp
lý. Trải qua nhiều sự tranh cãi và những cách tiếp cận khác nhau, học thuyết
thực tại đã có sự thắng thế so với học thuyết giả tưởng.
Black’s Law Dictionary định nghĩa” Pháp nhân là một thực thể, khác
hơn một tự nhiên nhân, mà có đời sống đầy đủ trong sự dự liệu pháp lý rằng

nó có thể thực hiện chức năng một cách hợp pháp, có thể bị kiện hoặc thưa
kiện và có thể quyết định thông qua các đại lý như trong trường hợp các công
ty”.Toà án của Pháp thì giải thích khái niệm pháp nhân qua một bản án của
Phòng dân sự ngày 08/01/1954 rằng: “Nhân tính không phải là một sự sáng
tạo của luật lệ. Mỗi một đoàn thể có một sự phát biểu tập thể để bảo toàn
những lợi ích hợp pháp, đáng được pháp luật công nhận và bảo vệ, đều có tư
cách pháp nhân”.
Công ty là một thực thể có đầy đủ đặc điểm để có tư cách pháp nhân
theo quy định của pháp luật. Giai đoạn tiền công ty, do đó, là sự ký kết, thoả
thuận các loại hợp đồng và giao dịch để tạo nên pháp nhân đó.
Một vấn đề nữa cũng rất quan trọng khi đề cập đến đặc điểm của giai
đoạn này là sự cần thiết phải phân biệt giữa tiền công ty và công ty bắt đầu có
tư cách pháp nhân một cách cụ thể.

17
Giai đoạn tiền công ty chỉ là giai đoạn chuẩn bị để hình thành công ty, tất
cả các giao dịch, hợp đồng được ký kết đều trên danh nghĩa cá nhân của sáng
lập viên, chưa có sự ràng buộc pháp lý đối với công ty bởi thực tế thực thể
này chưa hề tồn tại. Trong khi đó, ngay khi công ty bắt đầu có tư cách pháp
nhân, các giao dịch sẽ được thực hiện dưới danh nghĩa công ty. Do đó, không
thể có sự đánh đồng hay nhầm lẫn giữa hai giai đoạn này.
Những hợp đồng trong giai đoạn này cũng chỉ có ý nghĩa thực sự và lâu
dài khi công ty được thành lập chính thức. Trường hợp công ty không được
thành lập vì bất cứ lý do gì thì những hợp đồng này cũng chấm dứt hiệu lực
của nó và người chịu trách nhiệm trực tiếp là sáng lập viên giao kết chứ
không phải là công ty.
Công ty không bị ràng buộc bởi bất cứ hợp đồng nào của người
sáng lập trừ phi nó chấp nhận những hợp đồng này. Việc chấp nhận xuất hiện
một cách rõ ràng nếu người điều hành thông qua quyết định đồng ý để bị
ràng buộc bởi hợp đồng đó. Việc chấp nhận cũng có thể xuất hiện ngấm

ngầm nếu công ty chấp nhận những lợi ích của hợp đồng hoặc làm bất cứ sự
thanh toán nào được yêu cầu bởi hợp đồng.
Thậm chí sau khi tiếp nhận hợp đồng từ phía công ty, người sáng
lập vẫn tiềm tàng trách nhiệm đối với hợp đồng tiền thành lập. Một cách để
những sáng lập viên thoát khỏi trách nhiệm tiềm tàng này là khiến công ty và
bên thứ ba đồng ý giải phóng họ khỏi nghĩa vụ. Thoả thuận giải phóng này
được gọi là chuyển nhượng trái quyền. Hoặc cũng có thể trong tất cả những
hợp đồng đã thương lượng cho công ty chưa ra đời có bao gồm một điều
khoản giải phóng tự động cho sáng lâp viên. Dễ dàng hơn, điều khoản giải
thoát sẽ coi công ty như một bên của hợp đồng. [72, p8]
Như vậy, việc phân định rõ giữa tiền công ty và công ty bắt đầu có tư
cách pháp nhân sẽ góp phần giải quyết hữu hiệu các vấn đề cơ bản cũng như

18
những vướng mắc và tranh chấp có thể phát sinh ở hai giai đoạn này. Rõ ràng,
luôn có một khoảng thời gian đáng kể sẽ trôi qua từ lúc thông qua kế hoạch
thành lập và khi hoàn thành việc thành lập đó. Hai giai đoạn kể trên không chỉ
khác nhau về mặt thời gian mà quan trọng hơn là sự phân tách về mặt quyền
lợi, trách nhiệm và địa vị pháp lý.
Đặc điểm tiếp theo, các công việc chủ yếu trong giai đoạn này có thể
được chia làm ba nhóm chính:
Yêu cầu trợ giúp: sáng lập viên có thể tìm đến luật sư để tìm kiếm sự hỗ
trợ về mặt luật pháp trong các giao dịch và thủ tục thành lập công ty, hay kế
toán, kỹ sư, nhân viên ngân hàng… để được trợ giúp về mặt kỹ thuật liên
quan đến từng lĩnh vực ngành nghề mà công ty dự định kinh doanh hoặc
những nhu cầu cần thiết trong quá trình thành lập và hoạt động của công ty
sau này.
Chuẩn bị cơ sở vật chất kỹ thuật: bằng các hình thức như kêu gọi tài trợ,
thuê hoặc mua tài sản, góp vốn bằng các tài sản sở hữu công nghiệp…
Chuẩn bị nhân sự: tìm kiếm các chuyên gia, người quản lý, người làm

công… để thực hiện các công việc không chỉ khi công ty đã đi vào hoạt động
mà có thể sẽ là cần thiết trong một vài trường hợp nhất định ở giai đoạn tiền
công ty.
Cuối cùng, công ty có thể được thành lập và tồn tại mà không chịu ảnh
hưởng bởi những vấn đề tiền công ty.
Thành lập công ty gồm hai giai đoạn cơ bản là giai đoạn tiền công ty và
giai đoạn đăng ký kinh doanh. Thực tế, vấn đề đăng ký kinh doanh thường
được coi trọng hơn trong thành lập công ty, bởi đây chính là giai đoạn chủ
chốt để ghi danh công ty với những thủ tục cần thiết nhằm chính thức công
khai công ty trong hệ thống doanh nghiệp cũng như trên thị trường kinh
doanh. Trong hồ sơ đăng ký kinh doanh của nhiều loại hình công ty hiện nay

19
hầu như chỉ yêu cầu chủ doanh nghiệp tự kê khai các thông tin có liên quan
đến giai đoạn này mà không đòi hỏi phải có các hợp đồng tiền công ty kèm
theo như một bằng chứng hay một sự ràng buộc pháp lý. Các nhà chức trách,
do đó, không cần quan tâm những hoạt động và vướng mắc trong thời kỳ tiền
công ty, chỉ cần hồ sơ đăng ký kinh doanh hợp lệ, bên yêu cầu thực hiện đúng
quy trình thủ tục thì họ sẽ cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp trong
thời hạn luật định. Lúc này, công ty được thành lập một cách hợp pháp, có tư
cách pháp nhân và được quyền tham gia vào các giao dịch mà không có bất
cứ trở ngại nào.
Phân tích trên cho thấy giai đoạn tiền công ty thực tế không phải là vấn
đề quyết định cho việc thành lập công ty về mặt pháp lý.
Tuy nhiên, nếu không đảm bảo điều kiện về sáng lập viên và/hoặc các
giao dịch trong giai đoạn này vô hiệu do có sự vi phạm nghiêm trọng các quy
tắc pháp luật có tính bắt buộc hoặc cấm đoán dưới nhiều hình thức khác nhau
hoặc không phù hợp với ý chí thực và sự tự nguyện của một hoặc các bên
giao kết thì cũng ảnh hưởng không nhỏ đến công ty, thậm chí khiến công ty
vô hiệu.

Giao dịch thành lập công ty vô hiệu có nghĩa là giao dịch không tồn tại
hoặc không có giá trị pháp lý hoặc không có giá trị bắt buộc đối với các bên
giao kết. Việc huỷ bỏ giao dịch thành lập công ty do vô hiệu sẽ khiến công ty
cũng có thể bị tuyên vô hiệu trong một vài trường hợp nhất định, đặc biệt là
khi giao dịch đó vô hiệu tuyệt đối. Giao dịch vô hiệu tuyệt đối nghĩa là mục
đích của nó là bất hợp pháp, và một công ty được thành lập dựa trên giao dịch
đó cũng sẽ có mục đích bất hợp pháp, bị tuyên bố là vô hiệu tuyệt đối và Toà
án sẽ không ấn định một thời hạn cho công ty để sửa chữa sự vô hiệu đó.
Tóm lại, về mặt luật pháp, những vấn đề tiền công ty có thể không ảnh
hưởng trực tiếp đến việc thành lập và tồn tại của công ty khi khai báo với các

20
cơ quan có thẩm quyền. Thế nhưng, trong nhiều trường hợp, nếu có những vi
phạm nghiêm trọng trong giai đoạn này, công ty có thể bị coi là vô hiệu như
phân tích ở phần trên.
1.2. Các giao dịch tiền công ty
1.2.1. Phân loại các giao dịch tiền công ty
Giai đoạn tiền công ty chính là phức hợp của các hợp đồng phục vụ cho
việc thành lập công ty. Do đó, các giao dịch tiền công ty cũng chính là các
hợp đồng. Tuỳ từng cách tiếp cận và tiêu chí riêng mà người ta phân loại giao
dịch tiền công ty theo những cách khác nhau.
1.2.1.1. Phân loại theo loại hình công ty
Mỗi hệ thống pháp luật khác nhau có những cách phân loại loại hình
công ty khác nhau. Việc phân loại có thể dựa trên nhiều tiêu chí như tư cách
pháp nhân, chế độ trách nhiệm, mối quan hệ giữa các thành viên của công ty
và việc huy động vốn [8]. Các hình thức công ty hiện đang tồn tại trên thế
giới có thể kể đến như: công ty hợp danh, công ty hợp vốn đơn giản, công ty
cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn (nhiều thành viên và một thành viên),
công ty hợp vốn cổ phần, công ty công – tư hợp doanh, và cả một loại hình
công ty chỉ tồn tại trên thực tế mà không đăng ký là công ty dự phần.

Như vậy, giao dịch tiền công ty cũng tương ứng với từng loại hình trên,
bao gồm giao dịch tiền công ty cổ phần, giao dịch tiền công ty hợp danh, giao
dịch tiền công ty trách nhiệm hữu hạn, giao dịch tiền công ty hợp vốn đơn
giản, giao dịch tiền công ty hợp vốn cổ phần …Với mỗi loại hình công ty, các
giao dịch tiền công ty cũng có sự khác nhau nhất định thể hiện tính chất và
đặc trưng của loại hình đó.
Luận văn chỉ tập trung khai thác và phân tích giao dịch tiền công ty đối
với những loại hình công ty phổ biến và được điều chỉnh rõ nét trong pháp
luật Việt Nam hiện hành.

21
1.2.1.2. Phân loại theo tính chất và đặc điểm của các loại giao dịch
Các giao dịch trong giai đoạn này mặc dù cùng chung mục đích là thành
lập công ty, nhưng mỗi loại giao dịch lại thể hiện những tính chất và đặc điểm
khác nhau. Có thể phân loại các giao dịch này bao gồm:
Giao dịch lập hội: Đây là loại giao dịch điển hình và hầu như không thể
thiếu trong thời kỳ tiền công ty. Trừ loại hình công ty khá đặc biệt là công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên, còn lại các loại hình công ty khác đều có
thực hiện loại giao dịch này. Nó được thể hiện dưới hình thức hợp đồng thành
lập công ty hay còn gọi là khế ước lập hội. Hợp đồng này được các sáng lập
viên ký kết với nhau, trong đó nêu lên các nội dung về tên gọi của công ty,
vấn đề góp vốn và quản lý nội bộ công ty. Hợp đồng này cũng bao gồm
những quyền và nghĩa vụ của từng bên trong quá trình chuẩn bị thành lập
công ty cho đến khi bắt đầu tiến hành đăng ký kinh doanh và ở giai đoạn công
ty mới thành lập, xử lý trường hợp công ty không thể thành lập được, thậm
chí cả những vấn đề mà điều lệ mẫu của cơ quan cấp phép không quy định
như các thoả thuận chuyển nhượng vốn, vấn đề bảo mật thông tin giữa các
nhà đầu tư, những cam kết riêng lẻ khác…
Giao dịch hỗ trợ cho việc thành lập công ty: Đây là loại giao dịch không
trực tiếp ghi nhận những quyền lợi và trách nhiệm cho việc khai sinh công ty mà chỉ

mang tính chất bổ trợ, nghĩa là thực hiện các hoạt động hành lang, vận động và
chuẩn bị cho quá trình thành lập công ty, cũng như tạo cơ sở cho hoạt động của
công ty sau này. Thông thường loại giao dịch này được thể hiện dưới hình thức các
hợp đồng giữa sáng lập viên với bên thứ ba. Đó có thể là hợp đồng thuê dịch vụ
thành lập công ty, thuê nhà xưởng, thuê văn phòng, thuê nhân công…
1.2.2. Các giao dịch tiền công ty cổ phần
Công ty cổ phần là một trong những loại hình tổ chức kinh doanh phổ
biến nhất hiện nay. Ra đời và phát triển gắn liền với sự hình thành của thị

×