Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Pháp luật về tố tụng cạnh tranh đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam. Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 102 trang )



1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




CHU THỊ GIANG





PHÁP LUẬT VỀ TỐ TỤNG CẠNH TRANH ĐỐI VỚI
CÁC HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
Ở VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC








HÀ NỘI - 2012




2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



CHU THỊ GIANG




PHÁP LUẬT VỀ TỐ TỤNG CẠNH TRANH ĐỐI VỚI
CÁC HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TSKH Đào Trí Úc



HÀ NỘI - 2012



3




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu,
ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ
tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được ai công
bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Chu Thị Giang






4
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


Danh mục các sơ đồ


MỞ ĐẦU
1

CHƢƠNG 1: CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA TỐ TỤNG CẠNH TRANH ĐỐI
VỚI CÁC HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH
MẠNH
5

1.1.
Khái niệm pháp lý về hành vi cạnh tranh không lành mạnh
5
1.1.1.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của
pháp luật Việt Nam
6
1.1.2.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của
pháp luật một số nước trên thế giới
13
1.2.
Nguồn của pháp luật tố tụng cạnh tranh đối với các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh
17
1.2.1.
Pháp luật tố tụng cạnh tranh của Việt Nam
17
1.2.2.
Pháp luật tố tụng cạnh tranh một số nước trên thế giới
19
1.3.
Tố tụng cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh không lành
mạnh
22
1.3.1.
Khái niệm tố tụng cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh
không lành mạnh
22
1.3.2.

Các nguyên tắc tố tụng cạnh tranh
22
1.3.3.
Thành phần tham gia tố tụng cạnh tranh
24


5
1.3.3.1.
Cơ quan tiến hành tố tụng cạnh tranh
24
1.3.3.2.
Người tham gia tố tụng cạnh tranh
27
1.3.4.
Các giai đoạn tố tụng cạnh tranh
29
1.3.4.1.
Thụ lý hồ sơ khiếu nại
29
1.3.4.2.
Điều tra sơ bộ
30
1.3.4.3.
Điều tra chính thức
30
1.3.4.4.
Thời hạn, thời hiệu
31
1.4.

Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh và hậu quả pháp lý
33

Chƣơng 2: những bất cập trong tố tụng cạnh tranh đối với hành vi
cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam
37
2.1.
Những bất cập trong các quy định pháp luật
37
2.1.1.
Quy phạm pháp luật nội dung
37
2.1.2.
Xung đột thẩm quyền
42
2.1.3.
Cơ quan quản lý cạnh tranh
43
2.1.4.
Vấn đề tranh tụng
46
2.1.5.
Chứng cứ
48
2.2.
Những bất cập trong các quy định về trình tự và thủ tục tố
tụng cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
52
2.2.1.
Thụ lý hồ sơ khiếu nại

52
2.2.2.
Điều tra sơ bộ
53
2.2.3.
Điều tra chính thức
55
2.2.4.
Điều tra bổ sung
57
2.2.5.
Quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh
57
2.2.6.
Trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ quá trình điều tra
58
2.2.7.
Vấn đề bồi thường thiệt hại
59


6
2.3.
Những bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng
cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
64
2.3.1.
Cục quản lý cạnh tranh
64
2.3.2.

Hợp tác của cơ quan điều tiết ngành, tổ chức và doanh
nghiệp trong quá trình điều tra
69
2.3.3.
Nhận thức của doanh nghiệp, tổ chức ngành nghề về pháp
luật cạnh tranh
70

Chƣơng 3: phƣơng hƣớng và các giảI pháp nâng cao hiệu quả của
pháp luật tố tụng cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh
không lành mạnh ở Việt Nam
73
3.1.
Bảo đảm tính hệ thống của pháp luật tố tụng cạnh tranh đối
với hành vi cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam
73
3.2.
Hoàn thiện năng lực thể chế và khả năng thực thi pháp luật
cạnh tranh của Cơ quan quản lý cạnh tranh Việt Nam
79
3.3.
Bảo đảm tính phù hợp của pháp luật tố tụng cạnh tranh của
Việt Nam với pháp luật tố tụng cạnh tranh thế giới
85
3.4.
Nâng cao nhận thức cộng đồng về tố tụng cạnh tranh đối
với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
86

KếT LUậN

89

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
90



7


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Thống kê số vụ việc cạnh tranh không lành mạnh Cục
quản lý cạnh tranh tiếp nhận năm 2006 - 2011
66
2.2
Thống kê số vụ việc cạnh tranh không lành mạnh năm
2006 - 2011
66



DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ

Số hiệu

sơ đồ
Tên sơ đồ
Trang
1.1
Cơ cấu quản lý của Cục quản lý cạnh tranh
26
1.2
Trình tự, thủ tục tố tụng cạnh tranh đối với hành vi cạnh
tranh không lành mạnh
35



8
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Điều 57 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
quy định: "Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật"
[22].
Điểm 1 Điều 4 Luật Cạnh tranh năm 2004 cũng quy định: "Doanh nghiệp
được tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Nhà nước bảo hộ quyền
cạnh tranh hợp pháp trong kinh doanh" [25].
Sản xuất hàng hóa, hoạt động kinh tế là hoạt động cơ bản để duy trì
đời sống vật chất của xã hội; cạnh tranh là một quy luật kinh tế của sản xuất
hàng hóa, nhu cầu tất yếu của hoạt động kinh tế. Việt Nam đang tiến lên xây
dựng nền kinh tế thị trường trong bối cảnh văn hoá pháp lý và văn hoá cạnh
tranh của doanh nghiệp Việt Nam còn nhiều hạn chế. Nền kinh tế Việt Nam
phát triển chưa cao lại tạo dung môi cho những hành vi cạnh tranh không lành
mạnh phát triển. Môi trường kinh doanh của Việt Nam chưa thực sự tạo ra sự

cạnh tranh, trong khi đó, hành vi cạnh tranh không lành mạnh lại không hiếm
gặp. Pháp luật cạnh tranh đã có nhưng chưa thực sự được biết đến và vận
dụng rộng rãi. Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn chưa hoàn thiện,
gây khó khăn cho việc giải thích và áp dụng. Tố tụng cạnh tranh - "bộ máy"
để đưa các chế định nội dung về cạnh tranh vào thực tiễn, theo đó, đòi hỏi
phải phù hợp và hiệu quả với đa dạng các đối tượng. Trong bối cảnh pháp luật
cạnh tranh còn mới mẻ, tố tụng cạnh tranh ít được quan tâm, nghiên cứu,
chúng tôi lựa chọn đề tài "Pháp luật về tố tụng cạnh tranh đối với các hành
vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam" với mục đích nghiên cứu một
cách hệ thống trên phương diện lý luận và thực tiễn về pháp luật tố tụng cạnh
tranh đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam; qua đó, xuất
phát từ hiện thực khách quan, thực trạng văn hóa xã hội, văn hóa kinh doanh


9
và đặc biệt là văn hóa pháp lý Việt Nam, trên cơ sở tiếp thu những thành tựu
của pháp luật cạnh tranh một số nước trên thế giới, kiến nghị hoàn thiện pháp
luật tố tụng cạnh tranh, đưa pháp luật cạnh tranh thực sự trở thành công cụ
bảo vệ doanh nghiệp và phát triển nền kinh tế một cách bền vững.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến luận văn
Trước yêu cầu của tình hình thực tế, pháp luật cạnh tranh và vấn đề đưa
pháp luật cạnh tranh vào cuộc sống được đề cập dưới nhiều dạng thức, trong
nhiều lĩnh vực. Ngày 03/12/2004, Luật Cạnh tranh được Quốc hội thông qua,
Cục Quản lý cạnh tranh được thành lập (cổng thông tin: www.qlct.gov.vn) đã
tiến hành nhiều hoạt động nghiên cứu, trao đổi trong nước cũng như quốc tế
về vấn đề cạnh tranh.
Pháp luật đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng được các
chuyên gia, nhà nghiên cứu, luật gia quan tâm, nghiên cứu. Năm 2008, Lê
Anh Tuấn bảo vệ thành công luận án tiến sĩ kinh tế với đề tài "Pháp luật về
chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam" đã làm rõ đặc điểm, tính chất

chung, cơ cấu của pháp luật cạnh tranh không lành mạnh, về mô hình pháp
luật chống cạnh tranh không lành mạnh, từ đó kiến nghị cơ chế để thực thi có
hiệu quả pháp luật cạnh tranh. Tiến sĩ Bùi Nguyên Khánh với những nghiên
cứu hoàn thiện pháp luật cạnh tranh trong bối cảnh hội nhập trên cơ sở mối
tương quan với pháp luật cạnh tranh của một số nước như Đức, Mỹ, các nước
ASEAN: "Những thách thức pháp lý đặt ra đối với việc thực thi nhiệm vụ,
quyền hạn của cơ quan quản lý cạnh tranh ở nước ta hiện nay", Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 9, 2004; "Hiện đại hóa pháp luật cạnh tranh không lành
mạnh của Cộng hòa Liên bang Đức trên nền tảng của quá trình hài hòa hóa
pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh của Liên Minh Châu Âu", Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, số 11, 2004 Những nghiên cứu, đóng góp đã góp
phần hoàn thiện các chế định về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, song


10
vấn đề tố tụng cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh dường
như ít được quan tâm.
3. Mục đích nghiên cứu
Thông qua đề tài: "Pháp luật tố tụng cạnh tranh đối với hành vi
cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam", luận văn mục đích trước hết là
hệ thống một cách cơ bản về tố tụng cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh
không lành mạnh tại các lĩnh vực kinh tế theo quy định của pháp luật Việt
Nam. Bên cạnh đó, trên cơ sở nghiên cứu, đề ra một số giải pháp kiến nghị
nhằm hoàn thiện và nâng cao tính hiệu quả của pháp luật tố tụng cạnh tranh
đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật tố tụng cạnh tranh đối
với hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam và những vấn đề pháp lý
phát sinh trong tố tụng: Thành phần tham gia tố tụng cạnh tranh, các giai đoạn
của tố tụng cạnh tranh, vấn đề áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, thời hạn,

thời hiệu, chứng cứ.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những quy định pháp luật Việt
Nam về tố tụng cạnh tranh, quy định tố tụng cạnh tranh của một số nước trên
thế giới, những phát sinh trong thực tiễn khi tham gia quá trình tố tụng, thực
trạng và xu hướng cạnh tranh ở Việt Nam.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản được quy định
trong pháp luật Việt Nam về tố tụng cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh
không lành mạnh một cách có hệ thống: Các nguyên tắc tố tụng, thành phần
tham gia, trình tự, thủ tục tố tụng cạnh tranh và những vấn đề phát sinh trong
tố tụng cạnh tranh. Trên cơ sở lý luận về tố tụng, thực tiễn thi hành pháp luật


11
tố tụng cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam
trong những năm vừa qua, đồng thời, tiếp thu những điểm phù hợp của pháp
luật tố tụng cạnh tranh một số nước trên thế giới, luận văn đã bước đầu nêu
lên những bất cập, từ đó, đề ra một số phương hướng và các giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật tố tụng cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh không lành
mạnh của Việt Nam.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, luận văn đã sử dụng phương pháp luận duy vật
biện chứng, phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, phương pháp so
sánh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở pháp lý của tố tụng cạnh tranh đối với hành vi cạnh
tranh không lành mạnh.
Chương 2: Những bất cập trong tố tụng cạnh tranh đối với hành vi

cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp nâng cao hiệu quả của
pháp luật tố tụng cạnh tranh đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh ở Việt
Nam.



12
Chƣơng 1
CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA TỐ TỤNG CẠNH TRANH
ĐỐI VỚI CÁC HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH

1.1. KHÁI NIỆM PHÁP LÝ VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG
LÀNH MẠNH
"Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội" và Hiến pháp năm 1992 xác định: Đưa nền kinh tế nước ta phát triển
thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó, nền kinh tế
Việt Nam đã chuyển mình, từng bước được thị trường hoá, cơ chế quản lý nền
kinh tế bằng mệnh lệnh hành chính giảm dần, các thành phần kinh tế ngoài
quốc doanh và tập thể được thừa nhận, bắt đầu được tạo điều kiện hoạt động.
Việt Nam đã có quan hệ kinh tế với 224 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới,
đã ký hơn 350 hiệp định hợp tác phát triển song phương, 87 hiệp định thương
mại, 51 hiệp định thúc đẩy và bảo hộ đầu tư, 40 hiệp định chống đánh thuế
hai lần, 81 thoả thuận về đối xử tối huệ quốc. Năm 2007, Việt Nam gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), chấp nhận các đòi hỏi về tự do hoá
thương mại. Kinh tế phát triển, quyền lợi của các nhóm người trong xã hội
trỗi dậy, đan xen và ràng buộc lẫn nhau kìm hãm mọi quá trình cải cách trong
nền kinh tế; tham ô, tham nhũng bóp méo mọi quan hệ của đời sống kinh tế
xã hội.
Cạnh tranh kinh tế là một quy luật kinh tế của sản xuất hàng hoá, là

một nhu cầu tất yếu của hoạt động kinh tế trong cơ chế thị trường, nhằm mục
đích chiếm lĩnh thị phần, tiêu thụ được nhiều sản phẩm hàng hoá để đạt được
lợi nhuận cao nhất. Cạnh tranh là "sự nỗ lực hoặc hành vi của hai hay nhiều
thương nhân nhằm tranh giành những lợi ích giống nhau từ chủ thể thứ ba"; là
"sự ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh giành cùng
một loại tài nguyên hoặc cùng một loại khách hàng về phía mình". Cạnh tranh


13
góp phần đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng; điều phối các hoạt động kinh
doanh trên thị trường; đảm bảo cho việc sử dụng các nguồn lực kinh tế có
hiệu quả; thúc đẩy việc ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật trong kinh
doanh; kích thích sự sáng tạo, là nguồn gốc của sự đổi mới liên tục trong đời
sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, ngay trong giai đoạn đầu của kỷ nguyên công
nghiệp, doanh nghiệp thường xuyên phải cạnh tranh khốc liệt trong tình
huống đối đầu để duy trì sự phát triển và gia tăng lợi nhuận. Cạnh tranh không
lành mạnh theo đó hình thành, ngày càng phát triển dẫn đến tình huống "cùng
thua" (lose - lose) và sự sụt giảm mức lợi nhuận ở khắp mọi nơi. Pháp luật về
cạnh tranh ra đời nhằm quản lý và đảm bảo một nền kinh tế phát triển bền
vững.
1.1.1. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của
pháp luật Việt Nam
Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004 của Việt Nam quy định:
"Cạnh tranh không lành mạnh là hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong
quá trình kinh doanh trái với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh
doanh, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng" [25].
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh được cấu thành từ các yếu tố:
Chủ thể thực hiện hành vi: Doanh nghiệp là tổ chức, cá nhân kinh
doanh bao gồm cả doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công

ích, doanh nghiệp hoạt động trong ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước
và doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Việt Nam.
Khách thể của hành vi: Lợi ích của nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp
của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng.
Mặt khách quan: Hành vi trong quá trình kinh doanh trái với các
chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh. Đạo đức kinh doanh trên cơ
sở của hệ giá trị và chuẩn mực đạo đức xã hội chung là một dạng đạo đức


14
nghề nghiệp có tính đặc thù của hoạt động kinh doanh với các nguyên tắc và
chuẩn mực:
Tính trung thực: Không dùng các thủ đoạn gian dối, xảo trá để kiếm
lời, trung thực trong chấp hành luật pháp; không thực hiện những dịch vụ có
hại cho thuần phong mỹ tục; trung thực trong giao tiếp với bạn hàng và người
tiêu dùng; không làm hàng giả, khuyến mại giả, quảng cáo sai sự thật, sử
dụng trái phép những nhãn hiệu nổi tiếng, vi phạm bản quyền, bán phá giá
theo lối ăn cướp; tôn trọng con người; tôn trọng cộng sự và dưới quyền; tôn
trọng khách hàng, đối thủ cạnh tranh,… Tùy từng ngành, nghề, theo khu vực
địa lý, khái niệm đạo đức kinh doanh lại có những nét đặc thù.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của Luật Cạnh
tranh năm 2004 bao gồm:
Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
Xâm phạm bí mật kinh doanh;
Ép buộc trong kinh doanh;
Gièm pha doanh nghiệp khác;
Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;
Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
Phân biệt đối xử của hiệp hội;

Bán hàng đa cấp bất chính.
Và các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo tiêu chí xác định của
khoản 4 Điều 3 của Luật Cạnh tranh do Chính phủ quy định.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh cũng được xác định qua các quy
định pháp luật của các lĩnh vực chuyên ngành như: Pháp lệnh Giá năm 2002,


15
Pháp lệnh Quảng cáo năm 2001, Luật sở hữu trí tuệ sửa đổi bổ sung năm
2009, Luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010, Luật các tổ chức tín
dụng năm 2010,… Hành vi cạnh tranh không lành mạnh tại mỗi lĩnh vực kinh
tế mang dấu hiệu, đặc điểm nguyên tắc của hành vi cạnh tranh không lành
mạnh nói chung. Tuy nhiên, đối với mỗi lĩnh vực kinh tế, hành vi cạnh tranh
không lành mạnh có những đặc thù.
Theo Pháp lệnh Giá năm 2002
Để xây dựng nền kinh tế thị trường, nhà nước phải tôn trọng và thừa
nhận quyền định giá của doanh nghiệp đồng thời tạo lập môi trường cạnh
tranh về giá ổn định, trật tự và loại trừ những biểu hiện không lành mạnh.
Pháp lệnh Giá do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày 26/4/2002 có
hiệu lực ngày 01/7/2002; Nghị định số 170/2003/NĐ-CP ngày 25/12/2003 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Giá; Thông tư
số 15/2004/TT-BTC ngày 09/3/2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện
Nghị định số 170/2003/NĐ-CP, bên cạnh các quy định về các biện pháp quản
lý giá, ổn định trật tự giá, các hành vi vi phạm pháp luật về giá được chú
trọng, hành vi mang bản chất của hành vi cạnh tranh không lành mạnh được
quy định gồm:
Hành vi bán phá giá. Hành vi bán phá giá là hành vi bán hàng hóa,
dịch vụ với giá quá thấp so với giá thông thường trên thị trường Việt Nam để
chiếm lĩnh thị trường, hạn chế cạnh tranh đúng pháp luật, gây thiệt hại đến lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh khác và lợi ích của nhà

nước. Hành vi này chỉ có thể được thực hiện bởi chủ thể kinh doanh. Trong
cơ chế thị trường, việc tự do hình thành và xác định giá cả hàng hóa, dịch vụ
là quyền của chủ thể kinh doanh. Tuy nhiên, mọi hoạt động vật chất đều có
những quy luật nhất định, giá cả được hình thành dưới sự thúc đẩy của nhu
cầu, lợi nhuận và sự điều tiết của quy luật giá trị, quy luật cung, cầu trên thị
trường. Những hành vi bán hàng dưới hoặc bằng mức chi phí sản xuất đều


16
được coi là những toan tính phi kinh tế bởi doanh nghiệp thực hiện hành vi đã
chấp nhận hy sinh lợi nhuận, thậm chí là lỗ để chỉ nhằm chiếm lĩnh vi trí độc
quyền trên thị trường sản phẩm bằng cách loại bỏ các đối thủ cạnh tranh - phá
giá độc quyền; hoặc, mở rộng thị trường nhằm làm suy yếu đối thủ cạnh
tranh, qua đó mở rộng thị phần của mình - hành vi phá giá nhằm mở rộng thị
trường. Hành vi bán phá giá thực chất là hành vi lạm dụng ưu thế tài chính
của bên bán phá giá, dẫn đến thiệt hại trực tiếp cho bên bị cạnh tranh, cho
ngành hàng và cho người tiêu dùng.
Bịa đặt, loan tin không có căn cứ về việc tăng giá hoặc hạ giá gây thiệt
hại đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh khác, của
người tiêu dùng và lợi ích của nhà nước. Đây là hành vi mang bản chất gian
dối bằng những thông tin không có thật về giá cả hàng hóa, dịch vụ trên thị
trường gây rối hoạt động của doanh nghiệp, hoạt động tiêu dùng của người
tiêu dùng, ảnh hưởng đến hoạt động của nền kinh tế. Doanh nghiệp tạo ra
thông tin gian dối hoặc chỉ loan truyền thông tin gian dối do người khác tạo ra
đều vi phạm hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực giá.
Định giá sai để lừa dối người tiêu dùng hoặc tổ chức, cá nhân hợp tác
sản xuất, kinh doanh với mình; Tăng hoặc giảm giá giả tạo bằng cách thay đổi
số lượng, chất lượng, địa điểm giao nhận hàng hóa, dịch vụ. Đây cũng là hành
vi mang bản chất gian dối, chủ thể kinh doanh giảm giá nhưng không tôn
trọng nguyên tắc của việc giảm giá, không cung cấp thông tin về việc đồng

thời giảm chất lượng hàng hóa, dịch vụ nhằm tạo cho mình lợi thế cạnh tranh
trong giao dịch, gây thiệt hại trực tiếp cho người tiêu dùng hoặc tổ chức, cá
nhân hợp tác sản xuất kinh doanh với mình.
Lợi dụng thiên tai, địch họa và diễn biến bất thường khác để đầu cơ
tăng giá, ép giá - hành vi vi phạm đạo đức kinh doanh. Khi xảy ra thiên tai, địch
họa, nhu cầu tiêu dùng, nền kinh tế bị ảnh hưởng một cách trực tiếp và nhanh
chóng nhất. Cầu lớn và nguồn cung hạn chế khiến cho giá cả có chiều hướng


17
tăng cao là diễn biến tất yếu. Tuy nhiên, việc đầu cơ, tăng giá, ép giá sẽ xâm
phạm đến quyền, lợi ích của người tiêu dùng, xâm hại, làm trầm trọng đến trật
tự kinh tế xã hội, ảnh hưởng không tốt đến khả năng kiểm soát của nhà nước.
Theo Pháp lệnh Quảng cáo năm 2001
Pháp lệnh Quảng cáo do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày
16/11/2001 đã quy định các hành vi quảng cáo vi phạm pháp luật có các biểu
hiện cạnh tranh không lành mạnh, gồm:
Quảng cáo gian dối: Quảng cáo không đúng chất lượng hàng hóa, dịch
vụ; không đúng cơ sở sản xuất, kinh doanh; không đúng địa chỉ sản xuất, kinh
doanh dịch vụ.
Quảng cáo nói xấu, xúc phạm danh dự, uy tín, xâm phạm đến quyền,
lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác.
Quảng cáo so sánh với cơ sở sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
của người khác.
Quảng cáo gây nhầm lẫn với cơ sở sản xuất, kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ của người khác.
Quảng cáo dùng danh nghĩa, hình ảnh của tổ chức, cá nhân khác để
quảng cáo mà không được sự chấp thuận của tổ chức, cá nhân đó.
Quảng cáo hàng hóa, sản phẩm chưa được phép lưu thông, dịch vụ
chưa được phép thực hiện tại thời điểm quảng cáo.

Quảng cáo hàng hóa, dịch vụ mà pháp luật cấm kinh doanh hoặc cấm
quảng cáo.
Theo Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung năm 2009
Sở hữu công nghiệp là một lợi thế trong thương mại, đặc biệt trong môi
trường kinh tế hiện đại, sở hữu công nghiệp ngày càng chiếm vị trí quyết định
tạo lợi thế cạnh tranh trong thương mại. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh


18
xuất hiện ở mọi lĩnh vực sở hữu công nghiệp, nó mang những đặc tính chung
của hành vi cạnh tranh không lành mạnh và những biểu hiện riêng biệt của
lĩnh vực sở hữu trí tuệ với khách thể là quyền sở hữu công nghiệp; chủ thể có
thể là người không nắm giữ quyền sở hữu trí tuệ hoặc có thể do chính chủ thể
kinh doanh nắm giữ quyền sở hữu trí tuệ, với tính độc quyền cản trở hoạt
động thương mại do xuất hiện mâu thuẫn giữa một bên là độc quyền cá nhân
và một bên là nguyên tắc tự do cạnh tranh, nhu cầu của xã hội trong việc sử
dụng đối tượng sở hữu công nghiệp cho phát triển. Các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ có thể liệt kê, gồm những hành
vi dưới đây:
Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về chủ thể kinh doanh, hoạt
động kinh doanh, nguồn gốc thương mại của hàng hóa, dịch vụ.
Sử dụng chỉ dẫn thương mại gây nhầm lẫn về xuất xứ, cách sản xuất,
tính năng, chất lượng, số lượng hoặc đặc điểm khác của hàng hóa, dịch vụ; về
điều kiện cung cấp hàng hóa, dịch vụ.
Sử dụng nhãn hiệu được bảo hộ tại một nước là thành viên của điều
ước quốc tế có quy định cấm người đại diện hoặc đại lý của chủ sở hữu nhãn
hiệu sử dụng nhãn hiệu đó mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
cũng là thành viên, nếu người sử dụng là người đại diện hoặc đại lý của chủ
sở hữu nhãn hiệu và việc sử dụng đó không được sự đồng ý của chủ sở hữu
nhãn hiệu và không có lý do chính đáng.

Đăng ký, chiếm giữ quyền sử dụng hoặc sử dụng tên miền trùng hoặc
tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu, tên thương mại được bảo hộ của người
khác hoặc chỉ dẫn địa lý mà mình không có quyền sử dụng nhằm mục đích
chiếm giữ tên miền, lợi dụng hoặc làm thiệt hại đến uy tín, danh tiếng của
nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý tương tự.
Theo Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010


19
Trong lĩnh vực ngân hàng, tại Điều 16, Luật Các tổ chức tín dụng năm
2010 quy định những hành vi cạnh tranh không lành mạnh bao gồm:
Khuyến mại bất hợp pháp. Cung cấp các thông tin dễ gây hiểu lầm (dưới
bất kỳ hình thức nào) có hại cho các tổ chức tín dụng và khách hàng khác như:
Hành vi sử dụng các tên gọi, logo, chỉ dẫn địa lý gây nhầm lẫn với các tổ chức
tín dụng nước ngoài, khiến cho khách hàng tưởng nhầm dịch vụ đó do tổ chức
tín dụng uy tín hoặc nổi tiếng cung cấp; hành vi cung cấp thông tin sai sự thật về
các chiến lược trong tương lai với các đối tác nước ngoài như: Đối tác nước
ngoài mua cổ phần, ký kết hợp đồng hợp tác cung cấp dịch vụ khiến cho khách
hàng lầm tưởng vào khả năng tài chính, khả năng kinh doanh của tổ chức tín
dụng.
Xâm phạm bí mật kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Bí mật kinh
doanh của các tổ chức tín dụng là bí mật liên quan đến hoạt động kinh doanh
của các tổ chức tín dụng như: Thông tin liên quan đến chiến lược phát triển
của tổ chức tín dụng, các hợp đồng, giao dịch, tình hình tài chính (trừ những
bí mật mà theo quy định pháp luật phải công khai), bí mật liên quan đến tài
khoản của khách hàng. Các hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh của các tổ
chức tín dụng có thể bao gồm: Tiếp cận thông tin, phá hệ thống bảo mật của
tổ chức tín dung nhằm chiếm đoạt những thông tin bảo mật của tổ chức tín
dụng; tiết lộ những thông tin thuộc bí mật kinh doanh của tổ chức tín dụng mà
không được phép; lừa gạt, mua chuộc, lợi dụng lòng tin của nhân viên bảo

mật của tổ chức tín dụng cạnh tranh nhằm thu thập thông tin thuộc bí mật
kinh doanh của tổ chức tín dụng này; tiếp cận thông tin, thu thập thông tin
thuộc bí mật kinh doanh của tổ chức tín dụng khi tổ chức tín dụng này đang
làm các thủ tục hành chính nhà nước (ví dụ: Đăng ký thêm loại hình dịch vụ
ngân hàng), hoặc dùng các biện pháp thâm nhập hệ thống thông tin bảo mật
của cơ quan nhà nước để chiếm đoạt thông tin về tổ chức tín dụng khác nhằm
mục đích phục vụ hoạt động kinh doanh của mình.


20
Đầu cơ dẫn đến lũng đoạn tỷ giá ngoại tệ, vàng và thị trường tiền tệ.
Trên cơ sở các dấu hiệu cấu thành của hành vi cạnh tranh không lành mạnh
theo Luật Cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các tổ chức tín
dụng còn có thể kể đến như: ép buộc khách hàng trong kinh doanh; gièm pha
tổ chức tín dụng khác, gây rối hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng
khác; quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh; lạm dụng cơ chế lãi suất
trong cạnh tranh (ví dụ: Các tổ chức tín dụng đưa ra mức lãi suất huy động
tiền gửi trong dân cư ở mức chấp nhận lỗ để giành thị phần, hoặc Ngân hàng
nhà nước đã có chỉ thị về hạn chế cho vay đầu tư chứng khoán nhưng một số
ngân hàng vẫn chưa tuân thủ nghiêm túc hoặc vẫn tìm cách lách quy định
này); phân biệt đối xử của hiệp hội.
Hành vi cạnh tranh không lành mạnh có các dạng thức vô cùng đa
dạng lại được nhân lên cùng với bội số của các lĩnh vực, ngành nghề, đã tạo
nên một tập hợp đông đảo. Dựa vào các căn cứ khác nhau, có thể phân chia
các hành vi cạnh tranh không lành mạnh thành các nhóm khác nhau. Căn cứ
vào đối tượng điều tra để xác định có hay không có hành vi cạnh tranh không
lành mạnh, luận văn đề xuất phân chia hành vi cạnh tranh không lành mạnh
theo hai nhóm:
Nhóm thứ nhất: Đối tượng điều tra là các thực thể hiện hữu, thông qua
việc phân tích các yếu tố cấu thành nên thực thể, từ đó xác định có hay không

sự tồn tại của hành vi cạnh tranh không lành mạnh, gồm các hành vi: Chỉ dẫn
gây nhầm lẫn, Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, Khuyến mại
nhằm cạnh tranh không lành mạnh, Bán hàng đa cấp bất chính.
Nhóm thứ hai: Đối tượng điều tra là các hành vi đã được thực hiện,
đòi hỏi việc thu thập chứng cứ để khẳng định chủ thể bị điều tra có hay không
đã thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh như: Xâm phạm bí mật kinh
doanh, ép buộc trong kinh doanh, Gièm pha doanh nghiệp khác, Gây rối hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp khác, Phân biệt đối xử của hiệp hội.


21
Với mỗi nhóm hành vi cạnh tranh không lành mạnh, có thể sẽ có
những nghiên cứu phù hợp với từng hoạt động tố tụng.
1.1.2. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định của
pháp luật một số nƣớc trên thế giới
Theo Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp
Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp được ký kết ngày
20/3/1883 tại Paris, được xem xét tại Brussels năm 1900, tại Washington năm
1911, tại La Hay năm 1925, tại Luân Đôn năm 1934, tại Lisbon năm 1958, tại
Stockholm năm 1967 và được sửa đổi năm 1979. Tính đến năm 2011, đã có
167 nước là thành viên của Công ước. Công ước Paris áp dụng cho sở hữu
công nghiệp theo nghĩa bao gồm: Sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công
nghiệp, mẫu hữu ích, chỉ dẫn thương mại, chỉ dẫn địa lý (chỉ dẫn nguồn gốc,
tên gọi xuất xứ) và chống cạnh tranh không lành mạnh. Các quy định của
Công ước Paris đề cập đến 4 vấn đề lớn:
Nguyên tắc đối xử quốc gia.
Quyền ưu tiên.
Một số nguyên tắc chung đối với hệ thống bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp mà các nước thành viên phải tuân thủ.
Các quy định về hành chính phục vụ cho việc thi hành Công ước.

Theo đó, cạnh tranh không lành mạnh được quy định tại Điều 10bis là
bất cứ hành động nào trái với tập quán trung thực trong công nghiệp và
thương mại, cụ thể:
Tất cả những hành động có khả năng gây nhầm lẫn dưới bất cứ hình
thức nào đối với cơ sở, hàng hoá, hoặc hoạt động sản xuất, kinh doanh của
người cạnh tranh;


22
Những khẳng định sai lệch trong hoạt động thương mại có khả năng
gây mất uy tín đối với cơ sở, hàng hoá, hoặc hoạt động sản xuất, kinh doanh
của người cạnh tranh;
Những chỉ dẫn hoặc khẳng định mà việc sử dụng chúng trong hoạt
động thương mại có thể gây nhầm lẫn cho công chúng về bản chất, quá trình
sản xuất, tính chất, tính thích hợp để sử dụng hoặc số lượng hàng hoá.
Theo pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh của các nước Châu Á
Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh của các nước Châu á như Nhật
Bản, Hàn Quốc và Đài Loan có sự tồn tại song song hai hệ thống quy định về
cạnh tranh không lành mạnh: Hệ thống gắn liền với pháp luật về sở hữu trí tuệ
và hệ thống nằm trong khuôn khổ pháp luật cạnh tranh.
Tại Nhật Bản, bên cạnh Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh năm
1993 được sửa đổi, bổ sung lần cuối vào tháng 6 năm 2005 quy định về hành
vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn, xâm phạm bí mật kinh doanh, quảng cáo gian dối,
gièm pha doanh nghiệp khác, xâm phạm tên miền Ủy ban Thương mại lành
mạnh. Quy định về các hành vi thương mại không lành mạnh cũng ngăn cấm
một loạt các hành vi mang tính chất hạn chế cạnh tranh ở mức độ thấp như:
Phân biệt đối xử, từ chối giao dịch, bán kèm hàng hóa, giao dịch loại trừ, mua
hàng với giá thấp bất hợp lý, bán hàng với giá cao bất hợp lý, lạm dụng vị thế
giao dịch và can thiệp vào hoạt động của doanh nghiệp khác.
Theo pháp luật Hàn Quốc, hành vi cạnh tranh được điều chỉnh bởi hai

đạo luật: Luật Chống cạnh tranh không lành mạnh và bảo vệ bí mật thương
mại năm 1961 được sửa đổi, bổ sung lần cuối tháng 2 năm 2001 và tại
Chương V của Luật Điều chỉnh độc quyền và thương mại lành mạnh năm
1980 được sửa đổi, bổ sung lần cuối năm 2004. Luật Cạnh tranh Hàn Quốc
kết cấu gồm 14 chương có nhiều điểm tương đồng so với Luật Cạnh tranh của
Việt Nam. Theo đó các hành vi cạnh tranh không lành mạnh bao gồm:


23
Từ chối một cách bất hợp lý hoặc phân biệt đối xử trong giao dịch với
một đối tác nhất định.
Loại bỏ một cách bất hợp lý các đối thủ cạnh tranh.
Xúi giục hoặc ép buộc một cách bất hợp lý khách hàng của các đối thủ
cạnh tranh phải giao dịch với mình.
Lợi dụng một cách bất hợp lý vị trí mặc cả của mình trong khi giao
dịch với các đối tác khác.
Giao dịch với những đối tác khác theo các điều kiện sẽ hạn chế hoặc
gây cản trở cho những hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác.
Theo pháp luật cạnh tranh của các quốc gia có nền kinh tế chuyển đổi
Các quốc gia chuyển đổi từ hệ thống tập trung bao cấp sang cơ chế thị
trường, pháp luật cạnh tranh đảm bảo sự hài hòa giữa doanh nghiệp và cơ
quan quản lý cạnh tranh, giữa quy phạm pháp luật và trình độ kinh tế - xã hội.
Luật về cạnh tranh và hạn chế hành vi độc quyền trên thị trường hàng hóa của
nước Nga năm 1991 được sửa đổi, bổ sung lần cuối năm 2005 quy định các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh gồm: Thông tin gian dối, sai lệch hoặc
bóp méo có thể gây thiệt hại hoặc mất uy tín cho doanh nghiệp khác; các hành
vi gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng, các hành vi xâm phạm đến quyền sở
hữu trí tuệ hoặc bí mật kinh doanh của doanh nghiệp khác. Trung Quốc có
đạo luật riêng về cạnh tranh không lành mạnh năm 1993 quy định khá chi tiết
các dạng hành vi gây nhầm lẫn, xâm phạm bí mật kinh doanh, quảng cáo gian

dối, một số hành vi hạn chế cạnh tranh như bán hàng dưới giá thành, áp đặt
điều kiện bất hợp lý, đấu thầu thông đồng, được coi là những hành vi cạnh
tranh không lành mạnh.
Theo pháp luật cạnh tranh Thái Lan
Luật Cạnh tranh thương mại Thái Lan năm Phật lịch 2542 (năm
1999), điều chỉnh về hoạt động cạnh tranh trong thương mại. Trên cơ sở các


24
quy định về chống độc quyền, Luật gồm 08 chương quy định về Uỷ ban cạnh
tranh thương mại, Văn phòng Ủy ban thương mại, đồng thời, cụ thể hoá các
hành vi độc quyền, quy định trình thực thủ tục tố tụng áp dụng đối với hành vi
độc quyền. Theo đó, Luật không phân loại rõ rệt hai nhóm hành vi: Hành vi
hạn chế cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, một số
hành vi độc quyền có mang ít nhiều biểu hiện của hành vi cạnh tranh không
lành mạnh:
Điều 28 cấm đối với thương nhân có hành vi thông qua quan hệ với
thương nhân nước ngoài làm mất đi cơ hội mua hàng hoá dịch vụ của người
dân có nhu cầu trực tiếp từ thương nhân nước ngoài.
Điều 29 cấm thương nhân tiến hành các hành vi gây thiệt hại, cản trở
hoặc hạn chế đối với hoạt động của những thương nhân khác, ngăn chặn
những thương nhân khác hoạt động kinh doanh hoặc buộc thương nhân khác
phải kết thúc hoạt động kinh doanh của mình.
Điều 53, thông qua việc quy định chế tài đối với các hành vi độc
quyền đã quy định cấm thương nhân có hành vi tiết lộ những thông tin, số liệu
liên quan đến thương nhân hoặc hoạt động của thương nhân, mà những thông
tin này thường không được phép lộ. Chế tài được áp dụng đối với chủ thể tiết
lộ thông tin và chủ thể tiếp nhận thông tin bị tiết lộ mà tiết lộ thông tin đó
theo cách có thể gây thiệt hại cho người khác.
Như vậy, các hành vi có tính chất độc quyền theo quan niệm của Thái

Lan có nhiều điểm tương đồng với một số hành vi cạnh tranh không lành
mạnh theo pháp luật Việt Nam như: Hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp
pháp của người tiêu dùng, hành vi xâm phạm bí mật trong kinh doanh, hành
vi gièm pha, gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác.


25
1.2. NGUỒN CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG CẠNH TRANH ĐỐI VỚI CÁC
HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH
1.2.1. Pháp luật tố tụng cạnh tranh của Việt Nam
Luật Cạnh tranh năm 2004
Luật Cạnh tranh dành Chương IV và Chương V đề cập đến vấn đề tố
tụng đối với các vụ việc cạnh tranh nói chung và vụ việc cạnh tranh không
lành mạnh nói riêng. Chương IV quy định về cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ và
quyền hạn của Cơ quan quản lý cạnh tranh. Chương V đi sâu điều chỉnh trình
tự, thủ tục tố tụng đối với các vụ việc cạnh tranh với các nội dung cơ bản:
Mục 1 đề cập đến các nguyên tắc, ngôn ngữ, phí xử lý vụ việc cạnh
tranh và khiếu nại vụ việc cạnh tranh.
Mục 2 quy định trình tự, thủ tục điều tra, xử lý và các vấn đề pháp lý
có thể phát sinh trong quá trình điều tra, xử lý vụ việc cạnh tranh.
Mục 5 quy định rõ hiệu lực của quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.
Mục 7 quy định việc giải quyết khiếu nại đối với các quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh chưa có hiệu lực pháp luật.
Luật tố tụng hành chính năm 2010
Khoản 1 Điều 115 Luật Cạnh tranh quy định:
Trường hợp không nhất trí với quyết định khiếu nại về quyết
định xử lý vụ việc cạnh tranh, các bên liên quan có quyền khởi kiện
vụ án hành chính đối với một phần hoặc toàn bộ nội dung của quyết
định giải quyết khiếu nại ra Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương [25].

Khoản 4 Điều 28 Luật tố tụng hành chính năm 2010 của Việt Nam
quy định rõ: "Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án" [31]. Việc giải

×