1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ THU TRANG
PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TRONG HOẠT ĐỘNG
CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI, THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN
CÔNG THƢƠNG VIỆT NAM - CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2013
2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
TRẦN THỊ THU TRANG
PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TRONG HOẠT ĐỘNG
CHO VAY CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI, THỰC TIỄN
ÁP DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN
CÔNG THƢƠNG VIỆT NAM - CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuyến
HÀ NỘI - 2013
4
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO
ĐẢM VÀ PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG
THƢƠNG MẠI
6
1.1.
Những vấn đề lý luận về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt
động cho vay của ngân hàng thƣơng mại
6
1.1.1.
Giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thƣơng mại
6
1.1.2.
Mối quan hệ giữa giao dịch bảo đảm với hoạt động cho vay
của ngân hàng thƣơng mại
16
1.1.3.
Bản chất của việc xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho
vay của ngân hàng thƣơng mại
18
1.1.4.
Các nguyên tắc và phƣơng thức xử lý tài sản bảo đảm trong
hoạt động cho vay của ngân hàng thƣơng mại
22
1.1.5.
Hậu quả pháp lý của việc xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt
động cho vay của ngân hàng thƣơng mại
29
1.2.
Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay
30
5
của ngân hàng thƣơng mại
1.2.1.
Các quy định về tài sản bảo đảm
30
1.2.2.
Các quy định về thời điểm, trình tự và thủ tục xử lý tài sản
bảo đảm tiền vay
39
1.2.3.
Các quy định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan
trong xử lý tài sản bảo đảm
44
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN
BẢO ĐẢM TẠI NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN
CÔNG THƢƠNG VIỆT NAM - CHI NHÁNH ĐỐNG ĐA
VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
50
2.1.
Thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tại Chi
nhánh Ngân hàng công thƣơng Đống Đa
50
2.1.1.
Các quy định nội bộ của Ngân hàng thƣơng mại cổ phần
Công thƣơng Việt Nam về hoạt động cho vay có bảo đảm và
xử lý tài sản bảo đảm tiền vay
51
2.1.2.
Thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay tại
Ngân hàng thƣơng mại cổ phần Công thƣơng Việt Nam - Chi
nhánh Đống Đa
63
2.1.3.
Nhận xét, đánh giá về thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm tiền vay
của Vietinbank Đống Đa
82
2.2.
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của
Vietinbank Đống Đa
92
2.2.1.
Các giải pháp về xây dựng chính sách pháp luật
92
2.2.2.
Các giải pháp về thực thi pháp luật
98
KẾT LUẬN
105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
106
6
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS
: Bộ luật Dân sự
NHTM
: Ngân hàng thƣơng mại
TMCP
: Thƣơng mại cổ phần
TCTD
: Tổ chức tín dụng
7
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Cơ cấu nợ tại Vietinbank Đống Đa qua các năm
65
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Số hiệu
biểu đồ
Tên biểu đồ
Trang
2.1
Mẫu biểu tổng dƣ nợ cho vay có bảo đảm bằng tài sản
64
8
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Nhìn lại hơn 20 năm chuyển đổi mô hình quản lý kinh tế từ quản lý
tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa, chúng ta thấy tự hào rằng Việt Nam đã bƣớc đi đúng hƣớng và tiến các
bƣớc dài trong công cuộc xây dựng nền kinh tế nƣớc nhà. Trong sự nghiệp
phát triển chung đó có sự đóng góp không nhỏ của hệ thống ngân hàng
thƣơng mại (NHTM), không phải ngẫu nhiên mà hệ thống ngân hàng thƣơng
mại đƣợc ví nhƣ xƣơng sống của nền kinh tế.
Trong hoạt động ngân hàng thì hoạt động cho vay luôn là một trong
những hoạt động cơ bản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và
phát triển của mỗi ngân hàng. Khác biệt với đối tƣợng kinh doanh của các ngành
nghề khác, đối tƣợng kinh doanh của các NHTM là kinh doanh tiền tệ nên
mức độ rủi ro trong kinh doanh là rất lớn, đặc biệt trong những năm trở lại
đây hoạt động của NHTM nói chung đã bộc lộ nhiều tồn tại, yếu kém do chất
lƣợng tín dụng thấp, nợ quá hạn cao… đặc biệt là trong lĩnh vực xử lý tài sản
bảo đảm tiền vay. Để tránh rủi ro xảy ra trong hoạt động cho vay, ngoài việc
phải thẩm định thật kỹ các phƣơng án vay vốn thì vấn đề tài sản bảo đảm luôn
đƣợc các ngân hàng chú ý. Mặc dù tài sản bảo đảm không phải là mục đích
của ngân hàng khi ra quyết định cho vay nhƣng nó có thể hạn chế đƣợc phần nào
rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng cũng nhƣ giúp cho ngƣời
vay có ý thức trả nợ hơn đối với khoản tín dụng mà ngân hàng cung cấp. Khi
khách hàng không trả đƣợc nợ thì những tài sản bảo đảm này chính là nguồn
trả nợ thứ hai của khách hàng. Trong trƣờng hợp đó, muốn thu hồi đƣợc nợ
đầy đủ nhất thì ngân hàng phải thực hiện tốt công tác xử lý tài sản bảo đảm.
Ngân hàng Thƣơng mại cổ phần (TMCP) Công thƣơng Việt Nam (sau
đây gọi tắt là Vietinbank) là một trong những NHTM quốc doanh lớn nhất Việt
9
Nam, với hệ thống mạng lƣới trải rộng toàn quốc với 150 Sở Giao dịch , chi
nhánh và trên 1000 phòng giao dịch / Quỹ tiết kiệm; có quan hệ đại lý với trên
850 ngân hàng va
̀
đi
̣
nh chế tài chính lớn trên toàn thế giới. Vietinbank ngày
càng khẳng định đƣợc vị trí ngân hàng hàng đầu - giữ vai trò quan trọng, trụ
cột của ngành Ngân hàng Việt Nam, định hƣớng cho các NHTM khác.
Là Chi nhánh cấp 1, có bề dày lịch sử trên 20 năm - Ngân hàng TMCP
Công thƣơng Việt Nam - Chi nhánh Đống Đa (sau đây gọi tắt là Vietinbank
Đống Đa) là một trong những con chim đầu đàn, là Chi nhánh có nhiều đóng
góp vào sự phát triển của Vietinbank nói riêng và của nền kinh tế nƣớc nhà nói
chung. Tỷ lệ nợ xấu của Vietinbank Đống Đa trong những năm trở lại đây có xu
hƣớng giảm nhờ vào những định hƣớng tín dụng đúng đắn của Ban lãnh đạo
cũng nhƣ tinh thần quyết tâm của toàn thể cán bộ công nhân viên chi nhánh;
công tác thu hồi nợ, trong đó có xử lý tài sản bảo đảm ngày càng đạt đƣợc hiệu
quả cao. Tuy nhiên nhƣ đã nói ở trên, do đặc thù của hoạt động kinh doanh tiền
tệ là hoạt động luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, vì vậy Vietinbank Đống Đa cũng nhƣ
các NHTM khác luôn phải đối mặt với những khó khăn, bất cập trong quá
trình xử lý Tài sản bảo đảm để thu hồi nợ nhƣ: khó có thể xử lý tài sản bảo
đảm là quyền sử dụng đất khi bên thế chấp không tự nguyện bàn giao tài sản;
thời gian thực hiện việc xử lý tài sản bảo đảm kéo dài; khó khăn trong việc xử
lý đối với các tài sản thế chấp là quyền đòi nợ, tài sản hình thành từ vốn vay
Xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn trong vấn đề xử lý tài sản bảo đảm
tiền vay của Vietinbank Đống Đa, tôi đã quyết định chọn đề tài: "Pháp luật
về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của các ngân hàng
thương mại và thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Công
thương Việt Nam - Chi nhánh Đống Đa" làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, hệ thống pháp luật ngân hàng nói chung và
hoạt động ngân hàng nói riêng đã và đang là đề tài thu hút đƣợc nhiều tác giả
10
trong và ngoài nƣớc nghiên cứu, trong đó đáng chú ý nhất là các công trình
nghiên cứu về tài sản bảo đảm cũng nhƣ xử lý tài sản bảo đảm tiền vay. Mặc
dù đề tài xử lý tài sản bảo đảm không phải là đề tài mới và trƣớc tác giả cũng
có một số công trình nghiên cứu về đề tài này nhƣ:
- Đề tài "Những vấn đề lý luận và thực tiễn pháp lý về xử lý tài sản
bảo đảm trong hoạt động ngân hàng", Luận văn thạc sĩ Luật học, của Lê Thị
Thùy Dƣơng;
- Đề tài: "Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay trong quan hệ vay
vốn ngân hàng, lý luận và thực tiễn", Khóa luận tốt nghiệp, của Vũ Châu Hạnh.
- "Thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm tiền vay trong hệ thống Ngân hàng
thương mại cổ phần Công thương Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học, của
Vũ Lê Quỳnh Ngân.
Các công trình nghiên cứu này tuy có nghiên cứu về xử lý tài sản bảo
đảm nhƣng chủ yếu đi sâu phân tích vào các vấn đề lý luận về xử lý tài sản
bảo đảm, chƣa đánh giá đúng thực trạng tài sản bảo đảm hiện nay tại các
NHTM cũng nhƣ áp dụng pháp luật của các NHTM trong việc xử lý tài sản
bảo đảm. Không những thế, trong những năm gần đây, tỷ lệ nợ xấu tại các
NHTM tăng mạnh, việc nâng cáo hơn nữa hiệu quả xử lý tài sản bảo đảm, áp
dụng pháp luật trong vấn đề xử lý tài sản bảo đảm nhằm hạn chế rủi ro cho
các NHTM vẫn luôn là đề tài có tính áp dụng cao. Trong khuôn khổ của một
công trình khoa học pháp lý ở cấp độ thạc sĩ, việc nghiên cứu các vấn đề lý
luận về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của NHTM và thực tiễn áp dụng tại
Vietinbank Đống Đa không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa
thực tiễn áp dụng thiết thực tại đơn vị nơi tác giả công tác.
3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Luận văn có mục đích nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản về xử lý
tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của NHTM. Trên cơ sở đó tiến hành
11
phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về bảo đảm
tiền vay trong hoạt động xử lý tài sản bảo đảm tại Vietinbank Đống Đa và đƣa
ra các đề xuất, kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt
động xử lý tài sản bảo đảm tại Vietinbank Đống Đa.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Luận văn làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về xử lý tài sản bảo đảm tiền
vay cụ thể: Khái niệm, đặc điểm, chủ thể tham gia xử lý tài sản bảo đảm tiền
vay, thực tế áp dụng pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tiền vay của các NHTM.
Đặc biệt luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý tài sản bảo
đảm tiền vay tại Vietinbank Đống Đa. Đây là công trình nghiên cứu đề cập
đến thực tiễn áp dụng pháp luật tại một chi nhánh ngân hàng do vậy kết quả
nghiên cứu luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của không chỉ
các NHTM nói chung trong vấn đề xử lý tài sản bảo đảm mà còn có ý nghĩa
đối với công tác xử lý tài sản bảo đảm của Vietinbank Đống Đa nói riêng.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài luận văn
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là các quy định pháp luật về tài
sản, xử lý tài sản bảo đảm và giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của
NHTM, trên cơ sở đó đƣa ra các kết luận và đánh giá mang tính khoa học về
các vấn đề pháp lý liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn đƣợc xác định bởi các nội dung
chính sau:
(i) Những vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật trong việc xử
lý tài sản bảo đảm tiền vay của các NHTM.
(ii) Thực tiễn áp dụng tại Vietinbank Đống Đa; Một số kiến nghị, giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm và nâng cao hiệu
quả xử lý tài sản bảo đảm tại Vietinbank Đống Đa.
12
Trên cơ sở nghiên cứu các nội dung trên, luận văn có nhiệm vụ đƣa ra
các kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động
cho vay của các NHTM trong đó có Vietinbank Đống Đa.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn kết hợp sử dụng các phƣơng pháp cụ thể nhƣ: Phƣơng pháp
phân tích, giải thích, khái quát hóa, diễn dịch và quy nạp; phƣơng pháp thống
kê, khảo sát, đánh giá, so sánh, đối chiếu tổng hợp
Các phƣơng pháp này đƣợc sử dụng phối hợp hoặc xen kẽ để giải
quyết những vấn đề cơ bản mà đề tài đặt ra, cụ thể là:
- Các phƣơng pháp phân tích, giải thích, khái quát hóa, diễn dịch và
quy nạp đƣợc sử dụng chủ yếu để giải quyết các vấn đề lý luận và một số vấn
đề thực tiễn của luận văn.
- Các phƣơng pháp thống kê, khảo sát, đánh giá, so sánh đối chiếu
đƣợc sử dụng chủ yếu để đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng
pháp luật trong xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại Vietinbank Đống Đa, cũng
nhƣ đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý tài sản bảo đảm tiền vay tại
ngân hàng này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chƣơng:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về xử lý tài sản bảo đảm và pháp luật
về xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho vay của ngân hàng thƣơng mại.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm tại
Ngân hàng ngân hàng thƣơng mại Công thƣơng Việt Nam - Chi nhánh Đống
Đa và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả xử lý
tài sản bảo đảm tiền vay.
13
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM
VÀ PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TRONG HOẠT ĐỘNG
CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM TRONG
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƢƠNG MẠI
1.1.1. Giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của ngân hàng
thƣơng mại
1.1.1.1. Khái niệm giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của
ngân hàng thương mại
Giao dịch bảo đảm là một chế định ra đời khá sớm ở nhiều quốc gia
có hệ thống pháp luật phát triển trên thế giới, sự ra đời này đã tạo ra đƣợc một
hành lang pháp lý tƣơng đối an toàn cho hoạt động tín dụng nói riêng và sự
phát triển của nền kinh tế nói chung; góp phần không nhỏ vào sự ổn định của
các quan hệ dân sự, kinh tế, góp phần hạn chế tối đa các tranh chấp phát sinh
từ việc không thực hiện hoặc có thực hiện nhƣng không đúng nghĩa vụ dân sự
của bên có nghĩa vụ. Mục tiêu mà các giao dịch bảo đảm hƣớng tới chính là
nhằm bảo vệ một cách tốt nhất các quyền và lợi ích của các bên tham gia giao
dịch bảo đảm, đặc biệt là quyền lợi của bên có quyền trong giao dịch này. Áp
dụng biện pháp bảo đảm, bên có quyền không chỉ có quyền theo hợp đồng
buộc bên có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ, mà còn có quyền xử lý tài sản mà
bên có nghĩa vụ dùng để bảo đảm.
Chúng ta cũng biết rằng, hoạt động tín dụng là hoạt động tiềm ẩn nhiều
rủi ro, bất kỳ thay đổi, biến động dù chủ quan hay khách quan nào cùng có
khả năng làm ảnh hƣởng đến sự phát triển an toàn trong hoạt động tín dụng, là
nguyên nhân tiềm ẩn dẫn đến việc khách hàng vi phạm các cam kết đã ký với
14
tổ chức tín dụng (TCTD). Do vậy việc bảo đảm tối đa quyền của TCTD (chủ
nợ) đối với các khoản tín dụng đã cấp luôn là vấn đề đƣợc các TCTD quan
tâm. Trong lịch sử kinh doanh của các ngân hàng, cho vay có bảo đảm bằng
tài sản luôn đƣợc xem là hình thức cho vay phổ biến nhất. Một mặt nó giúp
cho các ngân hàng hạn chế đƣợc phần nào rủi ro tín dụng - góp phần đƣa các
ngân hàng phát triển an toàn và bền vững, mặt khác đây là biện pháp giúp
khách hàng có ý thức hơn trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng.
Theo pháp luật của các nƣớc theo hệ thống án lệ (common law), tiêu
biểu là Mỹ và Canada, khái niệm giao dịch bảo đảm đƣợc hiểu là toàn bộ các
giao dịch, không phụ thuộc vào hình thức và tên gọi, có mục đích tạo lập một
quyền lợi đƣợc bảo đảm đối với tài sản riêng hoặc tài sản cố định, bao gồm:
hàng hóa, giấy tờ có giá hoặc các tài sản vô hình khác; là giao dịch đƣợc thiết
lập thông qua một thỏa thuận thuận bảo đảm (là thỏa thuận nhằm xác lập một
lợi ích bảo đảm của chủ nợ đối với bên bảo đảm). Nhƣ vậy, giao dịch bảo
đảm theo khái niệm trong luật án lệ không bị giới hạn về loại hình của giao
dịch và đƣợc xác định căn cứ vào mục đích thiết lập giao dịch. Do đó, các
giao dịch bảo đảm không chỉ gồm những biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ theo luật dân sự truyền thống mà còn bao gồm các giao dịch khác nhƣ:
Bảo lƣu quyền sở hữu trong mua trả chậm, trả dần, chuyển nhƣợng quyền đòi
nợ, quyền cầm giữ, thuê tài sản [33, tr. 254].
Ở các nƣớc theo trƣờng phái pháp luật thành văn, tiêu biểu là Cộng
hòa Pháp, Cộng hòa Liên bang Đức, Nhật Bản không có khái niệm giao dịch
bảo đảm nhƣ nêu trên, mà giao dịch bảo đảm đƣợc hiểu là các biện pháp bảo
đảm cụ thể nhƣ: Cầm cố, thế chấp, bảo lãnh, bảo lƣu quyền sở hữu trong mua
trả chậm, trả dần, quyền cầm giữ tài sản [33, tr. 255].
Ở Việt Nam, giao dịch bảo đảm nói chung đã hình thành từ rất sớm.
Những quy định về các biện pháp bảo đảm thi hành nghĩa vụ trong giao lƣu dân
sự và thƣơng mại, đặc biệt là các biện pháp bảo đảm bằng tài sản đều đƣợc Bộ
15
luật dân sự (BLDS) Bắc Kỳ 1936, Trung Kỳ 1939, Nam Kỳ 1910; BLDS, Bộ
luật thƣơng mại của Việt nam Cộng hòa quy định. Đặc biệt là kể từ khi nƣớc ta
chuyển đổi nền kinh tế sang kinh tế thị trƣờng thì việc bảo đảm thi hành nghĩa
vụ dân sự (mà chủ yếu là sự bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ tiền vay ngân hàng)
ngày càng trở lên cấp bách và thiết thực. BLDS ban hành năm 1995 quy định
7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, gồm có: Cầm cố tài sản, thế
chấp tài sản, đặt cọc, kỹ quỹ, ký cƣợc, bảo lãnh và phạt vi phạm. Quy định chi tiết
và hƣớng dẫn thi hành các quy định về giao dịch bảo đảm trong BLDS năm
1995 có các văn bản: Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19/11/1999 về giao
dịch bảo đảm, Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền
vay của các TCTD (sau đây gọi tắt là Nghị định 178/1999/NĐ-CP), Nghị định số
85/2002/NĐ-CP ngày 25/10/2002 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 178/1999/NĐ-CP.
"Giao dịch bảo đảm" đƣợc hiểu là hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo
lãnh bằng tài sản theo đó bên bảo đảm cam kết với bên nhận bảo đảm về việc
dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự [3], theo quy định quy
định này thì giao dịch bảo đảm đƣợc hiểu là hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo
lãnh bằng tài sản, theo đó bên bảo đảm cam kết với bên nhận bảo đảm về việc
dùng tài sản để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự. Theo cách hiểu này
thì khái niệm giao dịch bảo đảm của Việt Nam sẽ có nội hàm hẹp hơn nhiều
so với các khái niệm giao dịch bảo đảm mà các nƣớc theo hệ thống pháp luật
án lệ đã đƣa ra. Trên nền tảng của BLDS năm 1995 và có sự điều chỉnh, khắc
phục một số nội dung về giao dịch bảo đảm cho phù hợp với tình hình phát
triển kinh tế, BLDS năm 2005 ra đời, có hiệu lực từ ngày 01/01/2006 đã có
quy định mới về giao dịch bảo đảm. Theo đó, các biện pháp bảo đảm tuy vẫn
đƣợc quy định thành 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, gồm:
cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cƣợc, ký quỹ, bảo lãnh và tín chấp
nhƣng đƣợc quy định cụ thể hơn, khắc phục đƣợc phần nào các vƣớng mắc
mà các văn bản pháp luật ban hành trƣớc chƣa giải quyết. Đây cũng đƣợc
16
xem là điểm tiến bộ của BLDS năm 2005 so với BLDS năm 1995 về giao
dịch bảo đảm. Điều 323 BLDS năm 2005 đƣa ra khái niệm giao dịch bảo đảm
với những nét khái quát, không chỉ là liệt kê các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ đƣợc đề cập đến trong BLDS năm 1995 đã mở rộng phạm vi đăng ký
và yêu cầu cung cấp thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản bảo đảm. Nghị
định số 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 quy định về bảo đảm tiền vay của
các TCTD ra đời đã ghi nhận cụ thể quyền lựa chọn, quyết định việc cho vay có
bảo đảm bằng tài sản, cho vay không có bảo đảm của các TCTD. Các quy định
này đã phần nào đảm bảo những an toàn nhất định cho chính ngƣời đi vay và
cho Ngân hàng. Song việc chỉ quy định về bảo đảm tiền vay trong việc cấp tín
dụng dƣới hình thức cho vay của các TCTD đối với khách hàng theo quy định
của Luật các TCTD là chƣa đủ, đây cũng là nguyên nhân nhiều khoản nợ
chƣa thể xử lý đƣợc, khả năng thu hồi khó, gây rủi ro cho các ngân hàng cho
vay. Sự ra đời của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao
dịch bảo đảm (sau đây gọi tắt là Nghị định số 163/2006/NĐ-CP) đã phần nào
khắc phục đƣợc các hạn chế của Nghị định 178/1999/NĐ-CP, với việc mở
rộng phạm vi điều chỉnh và các biện pháp bảo đảm nhƣ quy định tại BLDS
(bằng việc bổ sung thêm ba biện pháp bảo đảm là đặt cọc, ký quỹ, ký cƣợc)
thì không những đã mở rộng thêm quyền lựa chọn cho các TCTD, khách hàng
trong việc áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay mà còn tạo hành lang pháp
lý cho việc xử lý các giao dịch bảo đảm. Tùy từng trƣờng hợp cụ thể mà
TCTD và khách hàng có thể thỏa thuận hoặc áp dụng các biện pháp bảo đảm
phù hợp, mở ra các cơ hội thuận lợi cho cả hai phía trong quá trình vay vốn
ngân hàng trên cơ sở có bảo đảm bằng tài sản.
Nhƣ vậy, có thể định nghĩa giao dịch bảo đảm là sự thỏa thuận giữa
bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm, theo đó bên bảo đảm cam kết dùng tài sản
hoặc/và uy tín của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của chính mình hoặc
của bên thứ ba đối với bên nhận bảo đảm.
17
1.1.1.2. Đặc trưng của giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay
của ngân hàng thương mại
Về bản chất, giao dịch bảo đảm thực chất là một loại hình cụ thể của
giao dịch dân sự, vì vậy, nó cũng có những đặc điểm chung, những thuộc tính
cơ bản nhƣ các giao dịch dân sự khác. Tuy nhiên, bên cạnh đó giao dịch bảo
đảm còn thể hiện các đặc trƣng nhƣ sau:
Thứ nhất, giao dịch bảo đảm có mục đích hạn chế quyền chiếm hữu,
sử dụng, định đoạt của chủ tài sản đối với tài sản, đồng thời tạo ra quyền ƣu
tiên cho bên nhận bảo đảm trong việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Từ
thời điểm giao dịch bảo đảm có hiệu lực, bên nhận bảo đảm sẽ có quyền ƣu
tiên hơn so với các chủ nợ khác của bên bảo đảm trong việc thu hồi nợ từ tiền
bán tài sản. Đây cũng chính là đặc điểm lớn nhất để phân biệt giữa quyền của
chủ nợ có bảo đảm với quyền của chủ nợ không có đảm bảo trong quá trình
chiếm hữu, quản lý và xử lý tài sản để thu hồi nợ.
Thực tiễn cho thấy, để xử lý quyền lợi một cách hợp lý và công bằng
cho các bên nhận bảo đảm trong trƣờng hợp một tài sản đƣợc bảo đảm cho
nhiều chủ nợ khác nhau, pháp luật các nƣớc đều quy định thủ tục đăng ký
giao dịch bảo đảm và việc xác định tứ tự ƣu tiên trả nợ từ tiền bán tài sản bảo
đảm sẽ căn cứ vào thứ tự đăng ký giao dịch bảo đảm. Theo thứ tự này, giao
dịch bảo đảm đƣợc đăng ký trƣớc sẽ có hiệu lực ƣu tiên hơn giao dịch bảo
đảm đăng ký sau; giao dịch bảo đảm đã đăng ký có hiệu lực ƣu tiên hơn giao
dịch bảo đảm chƣa đăng ký. Không những thế, giao dịch bảo đảm đã đăng ký
còn có giá trị ƣu tiên so với các giao dịch dân sự khác liên quan đến tài sản
bảo đảm, ví dụ nhƣ trong trƣờng hợp tài sản bảo đảm bị đem bán, cho thuê…
Đối với các giao dịch bảo đảm đƣợc giao kết hợp pháp và đã đƣợc đăng ký thì
tài sản bảo đảm sẽ không bị kê biên để thực hiện nghĩa vụ khác của bên nợ,
trừ khi bên nợ không còn tài sản nào khác. Đƣơng nhiên, cần lƣu ý rằng việc
thiết lập một giao dịch bảo đảm giữa chủ nợ và chủ tài sản không làm cản trở
18
đến việc chủ nợ đƣợc quyền yêu cầu con nợ tiếp tục thực hiện nghĩa vụ bằng
các tài sản khác - tài sản không đƣợc đem ra đảm bảo nếu tài sản đƣợc bảo
đảm trƣớc đó không đủ để thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ. Trong trƣờng hợp
này, thực chất bên chủ nợ đóng vai trò là chủ nợ không có tài sản bảo đảm.
Thứ hai, giao dịch bảo đảm tuy có mục đích chính là thiết lập cơ chế
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phát sinh từ một giao dịch khác nhƣng
giữa hai giao dịch này (giao dịch bảo đảm và giao dịch có nghĩa vụ đƣợc bảo
đảm) có mối liên quan mật thiết với nhau và hoàn toàn độc lập với nhau về
phƣơng diện hiệu lực. Điều đó cho thấy rằng giao dịch bảo đảm không thể
xem nhƣ là giao dịch phụ và giao dịch đƣợc bảo đảm cũng không thể xem
nhƣ là giao dịch chính, do đó mối quan hệ giữa hai giao dịch này cũng không
thể coi là mối quan hệ giữa hợp đồng chính và hợp đồng phụ.
Thứ ba, đối tƣợng của giao dịch bảo đảm luôn luôn là một tài sản hoặc
khối tài sản cụ thể có thể trị giá đƣợc bằng tiền hoặc uy tín của bên thứ ba.
Đối với tài sản đƣợc đem ra cầm cố hoặc thế chấp thì nhất thiết các bên phải
xác định rõ tài sản thế chấp/cầm cố là tài sản gì, ƣớc định giá trị là bao nhiêu.
Đối với giao dịch về bảo lãnh thì về nguyên tắc mọi tài sản thuộc quyền sở
hữu hợp pháp của bên Bảo lãnh đều có thể trở thành tài sản bảo đảm để bảo
đảm cho nghĩa vụ trả nợ của bên vay với bên ngân hàng. Các tài sản bảo đảm
này nói chung đều phải đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật nhƣ: Tài
sản này phải thuộc sở hữu hợp pháp của bên vay/bên bảo lãnh; đƣợc phép
giao dịch; không bị kê biên phát mại để bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ khác.
Trƣờng hợp bên thứ ba (ví dụ ngân hàng) thực hiện bảo lãnh ngân hàng thì
đối tƣợng của giao dịch bảo đảm ở đây là uy tín và khả năng tài chính của
ngân hàng bảo lãnh.
Thứ tư, giao dịch bảo đảm tuy có giá trị thiết lập quyền ƣu tiên cho
bên nhận bảo đảm trong việc theo đuổi và phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi
nợ cho mình nhƣng về nguyên tắc thì bên nhận bảo đảm chỉ có thể xử lý tài
19
sản bảo đảm khi nghĩa vụ đƣợc bảo đảm đã không đƣợc bên có nghĩa vụ thực
hiện đúng thời hạn. Việc xử lý tài sản bảo đảm sẽ đƣợc thực hiện theo phƣơng
thức do các bên đã thỏa thuận trƣớc đó, hoặc theo quy định của pháp luật.
Thứ năm, chủ thể tham gia giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay
của NHTM bao giờ cũng có bên nhận bảo đảm là NHTM, còn bên kia (bên
bảo đảm) là các tổ chức, cá nhân cam kết bảo đảm nghĩa vụ trả nợ tiền vay
của bên vay đối với NHTM theo hợp đồng tín dụng.
Phạm vi bảo đảm là một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của bên đƣợc bảo
đảm đối với bên nhận bảo đảm. Cụ thể, đối với bảo đảm tiền vay thì đó là một
phần hoặc toàn bộ giá trị khoản vay, lãi suất trong hạn, quá hạn, phí
1.1.1.3. Các loại giao dịch bảo đảm chủ yếu được xác lập trong hoạt
động cho vay của ngân hàng thương mại
Bộ luật Dân sự năm 2005 ghi nhận 7 biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự gồm có: Cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký quỹ, ký cƣợc, bảo lãnh
và tín chấp. Tất cả các biện pháp này dù đƣợc thể hiện dƣới hình thức nào
cũng đều hƣớng đến một mục đích chung nhất là đảm bảo sự ổn định và phát
triển bình thƣờng của các quan hệ tài sản, bảo đảm an toàn pháp lý cho các
chủ thể trong quan hệ dân sự nói chung cũng nhƣ trong quan hệ tín dụng nói
riêng. Thực tiễn giao dịch bảo đảm trong hoạt động cho vay của các TCTD
cho thấy, biện pháp cầm cố, thế chấp, bảo lãnh là các biện pháp đƣợc các
TCTD sử dụng phổ biến và thƣờng xuyên nhất. Vì thế, trong khuôn khổ luận
văn này tác giả chỉ tập trung vào việc phân tích ba biện pháp chính là cầm cố,
thế chấp, bảo lãnh vay vốn ngân hàng.
Cầm cố tài sản là giao dịch bảo đảm theo đó một ngƣời thỏa thuận
giao tài sản của mình cho ngƣời khác cầm giữ, quản lý để đảm bảo thực hiện
các nghĩa vụ tài sản của mình hoặc của ngƣời thứ ba đối với ngƣời nhận cầm
cố. Trong pháp luật thực định Việt Nam, khái niệm cầm cố đã đƣợc pháp luật
quy định tƣơng đối khác nhau trong những giai đoạn khác nhau.
20
Chẳng hạn, theo Điều 329 BLDS năm 1995 thì:
Cầm cố tài sản là việc bên có nghĩa vụ giao tài sản là động
sản thuộc sở hữu của mình cho bên có quyền để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự, nếu tài sản cầm cố có đăng ký quyền sở hữu thì
các bên có thể thỏa thuận bên cầm cố vẫn giữa tài sản cầm cố hoặc
giao cho ngƣời thứ ba giữ [28].
Với quy định này thì tài sản cầm cố đƣợc hiểu phải là động sản, bên
cầm cố có thể giữ tài sản cầm cố hoặc chuyển giao cho bên nhận cầm cố.
Cho đến khi BLDS năm 2005 ra đời thì khái niệm cầm cố đã có những
thay đổi cơ bản và trở về đúng với bản chất của cầm cố, theo đó "cầm cố tài
sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở
hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận cầm cố) để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự" [31]. Theo định nghĩa này thì đối tƣợng của cầm cố có
thể là động sản hoặc là bất động sản và giao dịch cầm cố luôn gắn liền với việc
chuyển giao tài sản từ bên cầm cố cho bên nhận cầm cố. Việc quy định nhƣ
vậy là phù hợp với thông lệ quốc tế và tiêu chí để phân biệt giữa cầm cố với
thế chấp chính là sự chuyển giao tài sản hay không chuyển giao tài sản cho bên
nhận bảo đảm, chứ không phải dựa vào tiêu chí là động sản hay bất động sản.
Có thể nhận thấy, với quy định nhƣ trên, khái niệm cầm cố trong
BLDS Việt Nam năm 2005 có nhiều nét tƣơng đồng với khái niệm cầm cố
trong pháp luật một số nƣớc và tƣơng tự nhƣ các quy định chung về cầm cố
trong BLDS của Nhật Bản: "Cầm cố là một quyền bảo đảm bằng tài sản,
trong đó chủ nợ tiếp nhận từ ngƣời mắc nợ hoặc ngƣời thứ ba một vật nhất
định và cầm giữ vật đó cho đến khi nghĩa vụ đƣợc thực hiện, nhằm bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ và bằng cách đó gián tiếp ép buộc ngƣời mắc nợ phải thực
hiện nghĩa vụ" [33, tr. 286].
Về mặt hình thức, việc cầm cố tài sản bắt buộc phải đƣợc lập thành
văn bản (gọi là hợp đồng cầm cố) và hợp đồng này về nguyên tắc chỉ có hiệu
21
lực kể từ thời điểm bên cầm cố chuyển giao tài sản cầm cố cho bên nhận cầm
cố hoặc cho bên thứ ba do hai bên lựa chọn. Ƣu điểm của biện pháp cầm cố là
thủ tục nhanh gọn hơn so với các hình thức khác, bên có nghĩa vụ sẽ tiếp cận
đƣợc nguồn vốn ngân hàng nhanh hơn, đồng thời ngân hàng không phải mất
nhiều thời gian để tiến hành thẩm định dự án, phƣơng án kinh doanh của
khách hàng, thời gian giao dịch sẽ rút ngắn lại, do đó tƣơng đối phù hợp với
lợi ích của khách hàng.
Thế chấp tài sản là giao dịch bảo đảm theo đó một bên dùng tài sản để
bảo đảm cho việc thực hiện một nghĩa vụ nhƣng không chuyển giao tài sản
thế chấp cho bên nhận thế chấp. Giống nhƣ tình trạng đối với cầm cố tài sản,
khái niệm thế chấp trong BLDS năm 1995 cũng có những điểm khác biệt so
với khái niệm thế chấp trong BLDS năm 2005. Cụ thể là: theo quy định của
BLDS năm 1995 thì "thế chấp tài sản là việc bên có nghĩa vụ dùng tài sản là
bất động sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với
bên có quyền" [28]. Còn theo quy định của BLDS 2005 thì "thế chấp tài sản là
việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình
để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên
nhận thế chấp) và không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp" [31].
Với khái niệm nhƣ trên thì về mặt nội dung, thế chấp là một biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản, đƣợc hình thành không kèm theo
điều kiện phải chuyển giao tài sản thế chấp từ bên thế chấp sang cho bên nhận
thế chấp, tuy nhiên bên thế chấp vẫn phải chuyển giao các giấy tờ chứng minh
quyền sở hữu đối với tài sản thế chấp (nếu có).
Bảo lãnh là giao dịch bảo đảm theo đó một ngƣời (gọi là bên bảo lãnh)
cam kết với bên có quyền rằng sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ
nếu đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà ngƣời này không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ đối với bên có quyền. Nhƣ vậy, theo khái niệm này ta
có thể hiểu thực chất bảo lãnh là một loại hợp đồng cụ thể mà đối tƣợng trƣớc
22
hết của nó là sự cam kết bằng uy tín để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ, yếu tố tài
sản chỉ xuất hiện mang tính chất kèm theo uy tín, do đó thực chất bảo lãnh có
cả đặc tính của loại "bảo đảm đối nhân" và "bảo đảm đối vật". Điều này có
nghĩa là khi nhận bảo lãnh, ngƣời nhận bảo lãnh cũng rất quan tâm đến cả
nhân thân ngƣời bảo lãnh, ví dụ: uy tín, độ tin cậy, tƣ cách. Đồng thời, với sự
đánh giá này ngƣời nhận bảo lãnh cũng rất quan tâm đến khả năng tài sản của
ngƣời bảo lãnh, vì trong trƣờng hợp nghĩa vụ tài sản không đƣợc ngƣời bảo
lãnh thực hiện, thực hiện không đúng thì ngƣời nhận bảo lãnh có quyền phát
mãi các tài sản của ngƣời bảo lãnh để thu nợ cho mình [33, tr. 201-202].
Trong lĩnh vực cho vay của ngân hàng, hoạt động nhận bảo lãnh, phát
hành bảo lãnh diễn ra thƣờng xuyên và là một trong các biện pháp bảo đảm
khá phổ biến đƣợc nhiều TCTD thực hiện. Bảo lãnh theo quy định của pháp
luật Việt nam không chỉ là bảo đảm đối nhân mà còn có thể là bảo đảm đối
vật, bởi lẽ ngƣời bảo lãnh cũng có thể phải thế chấp hoặc cầm cố tài sản thuộc
sở hữu của mình để bảo đảm nghĩa vụ thanh toán cho ngƣời có nghĩa vụ với
TCTD (ngƣời đƣợc bảo lãnh). Đây cũng là điều khác biệt lớn nhất giữa bảo
lãnh bằng tài sản với các biện pháp cầm cố, thế chấp, bởi theo quy định của
BLDS thì cầm cố, thế chấp bắt buộc phải có tài sản đƣa vào để thực hiện giao
dịch, còn đối với bảo lãnh không phải khi nào cũng phải có tài sản đƣa vào là
điều kiện để thực hiện giao dịch. Ngoài ra, nhằm tránh tình trạng trốn tránh
trong việc thực hiện nghĩa vụ, Điều 369 BLDS năm 2005 quy định về xử lý
tài sản của bên bảo lãnh: "Trong trƣờng hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ
thay cho bên đƣợc bảo lãnh, mà bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải đƣa tài sản thuộc sở hữu của mình
để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh" [31]. Nhƣ vậy, việc bảo đảm tiền vay
của TCTD bằng bảo lãnh chỉ đƣợc thực hiện khi đến hạn mà ngƣời có nghĩa
vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ với bên có
quyền, đồng thời khi đó bên có quyền mới có thể đề nghị bên bảo lãnh thực
hiện các cam kết đã ký với bên đƣợc bảo lãnh.
23
Tóm lại, có thể thấy rằng, các giao dịch bảo đảm xuất hiện từ nhu cầu
thực tế, có vai trò thúc đẩy giao lƣu dân sự - thƣơng mại phát triển có trật tự,
góp phần hạn chế tranh chấp, bảo đảm một cách tốt nhất quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên khi tham gia giao dịch. Điều này thể hiện rõ nét nhất trong
lĩnh vực ngân hàng, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi nền kinh tế lâm vào
tình trạng khó khăn chung, các doanh nghiệp trong các ngành kinh tế đang
chao đảo, nợ xấu tăng mạnh thì giao dịch bảo đảm là một công cụ hữu hiệu để
các ngân hàng hạn chế những rủi ro tín dụng đồng thời nâng cao trách nhiệm
của các bên khi tham gia quan hệ tín dụng.
1.1.2. Mối quan hệ giữa giao dịch bảo đảm với hoạt động cho vay
của ngân hàng thƣơng mại
Nói đến hoạt động kinh doanh của NHTM là nói đến hoạt động cho
vay - với tƣ cách là một loại hình nghiệp vụ tín dụng chủ yếu và thông dụng
của NHTM. Đây đƣợc xem là hoạt động cơ bản và quan trọng nhất trong các
hoạt động của các TCTD nói chung và các NHTM nói riêng, là hoạt động
mang tính truyền thống không chỉ đối với các NHTM ở Việt Nam mà còn của
hầu hết các NHTM trên thế giới, đồng thời cũng là hoạt động đem lại nguồn
lợi nhuận chủ yếu cho các NHTM.
Theo pháp luật ngân hàng Việt Nam, cho vay là một hình thức cấp tín
dụng, theo đó TCTD giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng và mục
đích nhất định theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Để có thể có đƣợc
nguồn tín dụng cấp cho khách hàng vay, các NHTM buộc phải thực hiện
nghiệp vụ huy động vốn (đây thực chất là hoạt động vay để cho vay), sau đó
thực hiện việc cho vay ra thị trƣờng trên cơ sở số vốn đã huy động đƣợc cùng
với lãi phát sinh. Do đối tƣợng kinh doanh là "tiền" nên hoạt động cho vay
luôn là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro. Sự rủi ro này có thể xuất phát từ chính
bản thân đối tƣợng sử dụng tiền vay, từ môi trƣờng kinh doanh, chính sách xã
hội mà còn từ chính nguồn vốn vay. Nếu nhƣ các hoạt động kinh doanh khác,
24
tiền chỉ đƣợc coi là thƣớc đo giá trị, là phƣơng tiện thanh toán thì trong hoạt
động cho vay, tiền trở thành hàng hóa. Thời gian cho vay càng dài thì rủi ro
càng lớn, những bất trắc, biến động ảnh hƣởng đến khả năng thu hồi nguồn
tín dụng càng cao.
Dƣới góc độ kinh tế, cho vay là quan hệ kinh tế đƣợc thiết lập bình
đẳng, thỏa thuận giữa ngƣời cho vay và ngƣời đi vay nhằm sử dụng tiền vay
hoặc tài sản nhàn rỗi theo nguyên tắc có hoàn trả.
Dƣới góc độ pháp lý, cho vay là một hình thức cấp tín dụng thông qua
hợp đồng tín dụng, theo đó TCTD giao cho khách hàng sử dụng một khoản
tiền nhất định theo nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Hợp đồng tín dụng có
những điểm khác biệt so với các loại hợp đồng khác đƣợc xác lập trong các
nghiệp vụ cấp tín dụng khác của NHTM nhƣ nghiệp vụ bảo lãnh, nghiệp vụ
chiết khấu giấy tờ có giá, nghiệp vụ cho thuê tài chính hay nghiệp vụ bao
thanh toán.
Khi bàn về mối quan hệ giữa giao dịch bảo đảm với hoạt động cho
vay (hay nói cách khác là giao dịch cho vay), chúng ta nhận thấy về bản chất
hai giao dịch này có mối quan hệ biện chứng với nhau: giao dịch cho vay là
cơ sở để phát sinh giao dịch bảo đảm tiền vay; ngƣợc lại, giao dịch bảo đảm tiền
vay là công cụ hữu hiệu để bảo đảm cho giao dịch cho vay đƣợc thực hiện.
Tuy nhiên, để làm rõ hơn bản chất mối quan hệ giữa hai loại giao dịch
này, thiết nghĩ cần tiếp cận từ khía cạnh mối quan hệ hiệu lực giữa chúng với
nhau. Cụ thể là: Nếu giao dịch cho vay vô hiệu thì có ảnh hƣởng nhƣ thế nào
đến hiệu lực của giao dịch bảo đảm tiền vay và ngƣợc lại.
Trên thực tế, câu trả lời cho vấn đề nêu trên là khá rõ ràng từ quy
định hiện hành của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm.
Theo quy định tại Điều 15 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo
đảm, nhà làm luật đã xác định rõ mối quan hệ về hiệu lực giữa các giao dịch
này nhƣ sau:
25
- Nếu giao dịch cho vay bị tuyên bố vô hiệu và các bên chƣa thực hiện
giao dịch này thì giao dịch bảo đảm tiền vay sẽ chấm dứt hiệu lực.
- Nếu giao dịch cho vay bị tuyên bố vô hiệu nhƣng các bên đã thực
hiện thì giao dịch bảo đảm tiền vay không chấm dứt hiệu lực và khi đó, giao
dịch bảo đảm này đƣợc coi là bảo đảm cho một nghĩa vụ khác - nghĩa vụ của
khách hàng trong việc hoàn trả số tiền đã đƣợc ngân hàng giải ngân theo hợp
đồng vay đã bị tuyên bố vô hiệu.
- Nếu giao dịch bảo đảm tiền vay bị tuyên bố vô hiệu thì giao dịch cho
vay không vì thế mà bị vô hiệu theo. Khi đó, giao dịch cho vay trở thành hợp
đồng tín dụng không có bảo đảm.
Ngoài ra, mối quan hệ giữa giao dịch bảo đảm tiền vay với hoạt động
cho vay của NHTM còn thể hiện ở chỗ, giao dịch bảo đảm đƣợc xác lập đã
tạo động lực chủ yếu để khuyến khích khách hàng sử dụng tiền vay có hiệu
quả, có ý thức hơn trong việc trả nợ. Khi khách hàng đƣa tài sản bảo đảm vào
ngân hàng để cam kết cho việc sử dụng vốn vay, điều này đòi hỏi ngƣời vay
phải có trách nhiệm hơn trong kinh doanh, bởi có đƣợc nguồn vốn này họ đã
phải đƣa tài sản của họ hoặc của ngƣời thứ ba để bảo đảm cho việc vay vốn
ngân hàng. Mặt khác, giao dịch bảo đảm còn giúp cho việc hạn chế tình trạng
lừa đảo của các đối tƣợng đi vay đối với ngân hàng thông qua việc ký kết và
thực hiện các hợp đồng tín dụng.
1.1.3. Bản chất của việc xử lý tài sản bảo đảm trong hoạt động cho
vay của ngân hàng thƣơng mại
1.1.3.1. Quan niệm về tài sản bảo đảm
Về lý thuyết, tài sản bảo đảm là tài sản mà bên bảo đảm dùng để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm. Tài sản là khái
niệm đƣợc nhắc đến thƣờng xuyên trong cuộc sống hàng ngày của con ngƣời
cũng nhƣ trong các giao dịch dân sự. Theo Điều 163 BLDS năm 2005 thì "Tài
sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản" [31].
26
Trong quan hệ vay vốn, các loại tài sản nêu trên nếu đáp ứng đƣợc
một số điều kiện nhất định thì có thể trở thành tài sản bảo đảm cho việc thực
hiện nghĩa vụ hoàn trả tiền vay đối với NHTM.
Khi dự liệu về các điều kiện cần có để một vật trở thành tài sản bảo đảm
tiền vay, Điều 320 BLDS năm 2005 đã quy định rõ: "Vật dùng để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự là vật hiện có hoặc đƣợc hình thành trong tƣơng lai. Vật
hình thành trong tƣơng lai là động sản, bất động sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm
sau thời điểm nghĩa vụ đƣợc xác lập hoặc giao dịch bảo đảm đƣợc giao kết" [31].
Nhƣ vậy, tài sản bảo đảm có thể là vật nhƣ phƣơng tiện giao thông, kim khí
đá quý, máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu, hàng hóa.
Ngoài ra, tại các Điều 321 và 322 BLDS năm 2005, nhà làm luật cũng
quy định rõ các giấy tờ có giá nhƣ trái phiếu, cổ phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền
gửi, thƣơng phiếu, tín phiếu và các giấy tờ khác trị giá đƣợc bằng tiền hay các
quyền tài sản nhƣ quyền tài sản nhƣ quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả,
quyền sở hữu công nghiệp, quyền đòi nợ, quyền đƣợc nhận bảo hiểm, quyền góp
vốn kinh doanh, quyền khai thác tài nguyên, lợi tức và các quyền phát sinh từ tài
sản cầm cố, các quyền tài sản khác cũng có thể trở thành tài sản đảm bảo, nếu
thỏa mãn các điều kiện về tài sản bảo đảm nói chung theo quy định của pháp luật.
Với cách tiếp cận của Nghị định 163/2006/NĐ-CP, ta có thể thấy rằng:
Tài sản bảo đảm có thể là tài sản hiện có (tức tài sản đã hình thành), nhƣng
cũng có thể bảo gồm các tài sản hình thành trong tƣơng lai và phải đƣợc phép
giao dịch. Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 Nghị định 163/2006/NĐ-CP thì:
Tài sản hình thành trong tƣơng lai là tài sản thuộc sở hữu
của bên bảo đảm sau thời điểm nghĩa vụ đƣợc xác lập hoặc giao
dịch bảo đảm đƣợc giao kết. Tài sản hình thành trong tƣơng lai bao
gồm cả tài sản đã tồn tại vào thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm,
nhƣng sau thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm mới thuộc sở hữu
của bên bảo đảm [4].