Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam hiện nay. ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 102 trang )



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



NGUYỄN THẾ CƯỜNG




THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH
TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH XĂNG DẦU
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY



Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 50


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Nguyên Khánh





HÀ NỘI - 2012



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THOẢ THUẬN HẠN
CHẾ CẠNH TRANH VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH
TRANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH XĂNG DẦU 9
1.1. Bản chất pháp lý của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 9
1.1.1. Nguồn gốc của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 9
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh 13
1.2. Nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với các thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu 20
1.2.1. Điều kiện gia nhập thị trường kinh doanh xăng dầu 20
12.2. Thị trường liên quan trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu 23
1.2.3. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong kinh doanh xăng dầu - Nhận
dạng và các hình thức thể hiện 28
1.2.4. Nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh trong lĩnh vực xăng dầu 32
1.3. Nguyên tắc và nội dung cơ bản của pháp luật về các thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh trong lĩnh vực xăng dầu 36
1.3.1. Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật 36
1.3.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
trong lĩnh vực xăng dầu 37
1.4. Kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật quốc tế đối với các thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực xăng dầu 39
1.4.1. Pháp luật Mỹ 39

1.4.2. Pháp luật Cộng hòa Liên bang Đức 41
1.4.3. Pháp luật Cộng hòa Pháp 42


1.4.4. Pháp luật Nhật Bản 43
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 45
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ CẠNH
TRANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH XĂNG DẦU VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG LĨNH
VỰC KINH DOANH XĂNG DẦU Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 47
2.1. Thực trạng pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh
vực kinh doanh xăng dầu 47
2.1.1. Các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm 47
2.1.2. Hậu quả pháp lý đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm 51
2.1.3. Tố tụng cạnh tranh 55
2.1.4. Quy định về phân phối xăng dầu 61
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh trong lĩnh
vực kinh doanh xăng dầu ở Việt nam hiện nay 62
2.2.1. Trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước 62
2.2.2. Tính độc lập và chuyên nghiệp của cơ quan quản lý cạnh tranh 63
2.2.3. Cơ chế điều hành giá xăng dầu ảnh hưởng tiêu cực đến cạnh tranh
trong kinh doanh xăng dầu 65
2.2.4. Tính minh bạch và nhất quán của chính sách 69
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 70
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ THOẢ THUẬN HẠN CHẾ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC
KINH DOANH XĂNG DẦU Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 72
3.1. Phương hướng hoàn thiện 72
3.1.1. Hiệu lực thấp của văn bản về kinh doanh xăng dầu 72
3.1.2. Thiếu công khai, minh bạch trong hoạt động kinh doanh 75

3.1.3. Tổ chức hệ thống kinh doanh xăng dầu 76


3.1.4. Cơ chế điều hành, quản lý nhà nước 78
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở nước ta hiện nay 81
3.2.1. Hoàn thiện văn bản pháp luật về kinh doanh xăng dầu 81
3.2.2. Xây dựng cơ chế kiểm soát giá xăng dầu 84
3.2.3. Tăng cường kiểm tra, giám sát 87
3.2.4. Biện pháp ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi tham nhũng 87
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 88
KẾT LUẬN 90
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 93





1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của Đề tài
Từ khi Đảng và Nhà nước ta khởi xướng, lãnh đạo thực hiện việc chuyển
đổi và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ
động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, nền kinh tế Việt Nam đã đạt
được những thành tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên, khi chuyển đổi nền kinh tế
sang vận hành theo cơ chế thị trường, Việt Nam phải thừa nhận những quy
luật, thuộc tính vốn có và nguyên tắc hoạt động của nó. Trong đó, cạnh tranh
là một quy luật, là thuộc tính của kinh tế thị trường. Xét ở mặt tích cực, cạnh
tranh là động lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Song ở phương diện khác,

chính bản thân tự do cạnh tranh cũng là yếu tố đưa đến những hậu quả tiêu
cực về kinh tế, đặc biệt là khi cơ chế pháp luật để điều tiết sự tự do đó còn
chưa được chặt chẽ thì tất yếu sẽ dẫn tới các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh và hạn chế cạnh tranh xuất hiện. Các hành vi này nảy sinh do các chủ
thể cạnh tranh nhận thấy có thể đem lại lợi nhuận lớn trong kinh doanh, thậm
chí là siêu lợi nhuận do có thể khống chế, loại bỏ đối thủ, vi phạm quyền lợi
của khách hàng Do vậy, các hành vi đó vẫn tiếp tục tồn tại và phát triển.
Cũng giống với các hiện tượng hạn chế cạnh tranh khác, thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh là hiện tượng tất yếu trong đời sống kinh tế thị trường ở nước
ta. Trên phương diện kinh tế, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là bước đầu tiên
của giới doanh nhân trong quá trình tích lũy và tập trung tư bản - yêu cầu tập
trung hóa và thống nhất hành động trên thương trường. Từ yêu cầu phát triển thị
trường, quy trình này mang tính tất yếu và cần được khuyến khích trong những
điều kiện nhất định. Những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nhằm thúc đẩy tiến bộ
khoa học kỹ thuật, công nghệ, áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng,
định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm, thống nhất các điều kiện kinh


2
doanh, giao hàng, thanh toán… về nguyên tắc cần phải được khuyến khích và
ủng hộ vì nó đem lại lợi ích chung cho toàn xã hội. Tuy nhiên, nếu không được
giám sát, cảnh báo kịp thời từ phía Nhà nước, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh sẽ
có xu hướng bóp méo hoặc thủ tiêu cạnh tranh và qua đó đã làm phương hại đến
lợi ích chung của toàn xã hội.
Xăng, dầu là mặt hàng có tầm ảnh hưởng quan trọng đặc biệt trong nền
kinh tế quốc dân. Giá cả của nó ảnh hưởng đến nhiều mặt kinh tế xã hội. Việc
kinh doanh xăng dầu hiện nay ở Việt Nam được quy định tại Nghị định số
84/2009/NĐ-CP của Chính phủ về kinh doanh xăng dầu. Nghị định số
84/2009/NĐ-CP chính là căn cứ pháp lý để quản lý kinh doanh xăng dầu tại
Việt Nam, Nghị định thể hiện một bước tiến mới khi khẳng định rõ kinh

doanh xăng dầu tại Việt Nam chuyển hoàn toàn sang cơ chế thị trường nhưng
vẫn có sự quản lý của nhà nước, đồng thời công khai công thức tính toán giá
cơ sở để hình thành giá bán lẻ xăng dầu trong nước. Nghị định số
84/2009/NĐ-CP quy định thương nhân đầu mối được quyền quyết định giá
bán lẻ xăng dầu tại các cửa hàng xăng dầu thuộc hệ thống phân phối của
thương nhân, theo những nguyên tắc và trình tự được xác định tại Nghị định;
thương nhân cũng có trách nhiệm tham gia bình ổn giá theo quy định của
pháp luật và được bù đắp những chi phí hợp lý khi tham gia bình ổn giá.
Về thực hiện cơ chế thị trường, Nghị định số 84/2009/NĐ-CP cho phép
doanh nghiệp các thành phần được tham gia kinh doanh xuất nhập xăng dầu
(thay vì chỉ có doanh nghiệp nhà nước như trước đây), kinh doanh nhiêu liệu
bay nhằm tạo tiền đề cho môi trường kinh doanh xăng dầu ngày càng mang
tính cạnh tranh hơn; mở rộng quyền kinh doanh cho doanh nghiệp trong các
hoạt động xuất nhập khẩu xăng dầu (xuất khẩu sản phẩm, nguyên liệu xăng
dầu nhập khẩu và sản xuất trong nước; tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu, gia
công xuất khẩu xăng dầu); cho phép áp dụng các công cụ phòng vệ giá phù


3
hợp với thông lệ quốc tế để mua bán xăng dầu với các đối tác nước ngoài; quy
định về sử dụng biển hiệu, lô gô trong hệ thống phân phối phù hợp với pháp
luật về Sở hữu trí tuệ và đặc biệt là làm rõ nguyên tắc, căn cứ, điều kiện,
quy trình, biên độ điều chỉnh làm cơ sở như đã nêu ở trên để doanh nghiệp tự
quyết định giá bán xăng dầu trong nước.
Về quản lý Nhà nước, Nghị định số 84/2009/NĐ-CP đã làm rõ ở các nội
dung và phân cấp quản lý về quy hoạch phát triển hệ thống kinh doanh xăng
dầu, trong đó có quy hoạch cửa hàng xăng dầu gắn với công tác đấu tranh
chống buôn lậu xăng dầu qua biên giới; quy định về nhập khẩu và sản xuất
xăng dầu phục vụ cho nhu cầu sử dụng của nền kinh tế; về tổ chức hệ thống
phân phối; về dự trữ lưu thông và đặc biệt là công khai minh bạch công thức

tính giá, phương thức điều hành, quản lý quá trình thực hiện điều chỉnh giá
bán xăng dầu của doanh nghiệp, góp phần thực hiện chức năng giám sát của
xã hội.
Tuy nhiên, sau 3 năm thực hiện Nghị định số 84/2009/NĐ-CP, việc điều
hành giá bán các mặt hàng xăng vẫn do Nhà nước quy định trên cơ sở đề nghị
của các doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng này; hệ lụy của quy định đăng ký,
giá bán trong nước thường không bắt kịp giá thị trường; gây bất ổn thị trường
do đầu cơ trước thông tin tăng giá. Theo “Báo cáo kết quả cạnh tranh trong 10
lĩnh vực của nền kinh tế” do Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công thương công
bố, xăng dầu là một trong những lĩnh vực có hiện tượng thỏa thuận ngầm
nhằm hạn chế cạnh tranh, đầu cơ, nâng giá, lũng đoạn thị trường.
Việc kinh doanh xăng dầu chưa hoạt động theo cơ chế thị trường, có
hiện tượng thỏa thuận hạn chế cạnh tranh để ấn định giá bán làm dư luận bức
xúc, ảnh hưởng đến nền kinh tế và tình hình sản xuất, kinh doanh. Việc áp
dụng Luật Cạnh tranh và kiểm soát các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong
lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở nước ta chưa hiệu quả.


4
Xuất phát từ những vấn đề mang tính chất cấp thiết nêu trên, Học viên
đã lựa chọn đề tài "Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh
doanh xăng dầu ở Việt Nam hiện nay" để làm luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến Đề tài
Ở Việt Nam, trong lĩnh vực pháp luật cạnh tranh đã có một số công trình
bước đầu nghiên cứu về cạnh tranh, về các hành vi cạnh tranh không lành mạnh,
về độc quyền và kiểm soát độc quyền như: “Chuyên đề về cạnh tranh, chống
cạnh tranh bất hợp pháp và kiểm soát độc quyền” của Viện Nghiên cứu khoa
học pháp lý, Bộ Tư pháp năm 1996; “Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh tranh
trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường ở Việt Nam” của PGS.TS.
Nguyễn Như Phát - ThS. Bùi Nguyên Khánh, Nhà xuất bản Công an nhân dân

năm 2001; “Cạnh tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay”
sách tham khảo của PGS.TS. Nguyễn Như Phát và PGS.TS.Trần Đình Hảo năm
2001; “Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc
quyền kinh doanh” của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) năm
2002; “Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh
ở Việt Nam” sách tham khảo của TS. Đặng Vũ Huân năm 2004; “Tìm hiểu về
Luật Cạnh tranh” của Trần Minh Sơn năm 2005; “Bình luận khoa học Luật
Cạnh tranh” của TS. Lê Hoàng Oanh năm 2005; “Phân tích và luận giải các quy
định của Luật Cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí
độc quyền để hạn chế cạnh tranh” của PGS.TS. Nguyễn Như Phát và ThS.
Nguyễn Ngọc Sơn,… Các công trình này cũng chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu
các quy định của pháp luật cạnh tranh nói chung, về cạnh tranh không lành mạnh
và chống hạn chế cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam nói riêng.
Sau khi Luật Cạnh tranh ra đời, một số công trình nghiên cứu đã đề cập đến
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, theo đó những ví dụ, kinh nghiệm điều tra xử lý
các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh của một số nước trên thế giới cũng được đề
cập. Có thể kể đến một số công trình tiêu biểu như “Hành vi hạn chế cạnh tranh -


5
Một số vụ việc điển hình của Châu Âu” - tài liệu tham khảo thuộc khuôn khổ
Dự án hỗ trợ thương mại đa biên (MULTRAP) và Bộ Công Thương Việt
Nam phối hợp thực hiện. Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công Thương đã chủ
trì xây dựng Báo cáo đánh giá cạnh tranh trong 10 lĩnh vực, trong đó có kinh
doanh xăng dầu. Một số chuyên gia, báo chí cũng có bài viết nghiên cứu đề
cập đến thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh xăng dầu ở
một số góc độ nhất định nhưng chưa có công trình nào đề cập một cách toàn
diện và chi tiết về vấn đề này. Cho đến nay, đây là đề tài thạc sĩ đầu tiên
nghiên cứu về vấn đề thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh
doanh xăng dầu ở Việt Nam.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
* Mục đích của Luận văn này là làm sáng tỏ những vấn đề chung về thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh và pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong
lĩnh vực kinh doanh xăng dầu; phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu và thực tiễn áp
dụng pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu
ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh
xăng dầu ở Việt Nam trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Với mục đích nghiên cứu trên, luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu cụ
thể sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và
pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu.
Để thực hiện được nhiệm vụ này, luận văn đã nghiên cứu bản chất pháp lý
của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, trong đó tìm hiểu nguồn gốc của thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh, khái niệm và các đặc điểm pháp lý của các thỏa


6
thuận hạn chế cạnh tranh; tìm hiểu nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với
các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu;
nguyên tắc và nội dung cơ bản của pháp luật về các thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh trong lĩnh vực xăng dầu; nghiên cứu kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật
quốc tế đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực xăng dầu.
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu và thực tiễn áp dụng pháp luật về chống
hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam hiện nay.
Để thực hiện nhiệm vụ này, Luận văn đã phân tích thực trạng của pháp luật về
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nói chung để từ đó rút ra những ra những bất

cập trong việc thực hiện quy định pháp luật liên quan trong lĩnh vực kinh
doanh xăng dầu.
- Đưa ra một số phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về
thoả thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở nước ta
hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Hoạt động kinh doanh xăng dầu bao gồm các hoạt động: xuất khẩu
(xăng dầu, nguyên liệu sản xuất trong nước và xăng dầu, nguyên liệu có
nguồn gốc nhập khẩu), nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, chuyển khẩu, gia công
xuất khẩu xăng dầu, nguyên liệu; sản xuất và pha chế xăng dầu; phân phối
xăng dầu tại thị trường trong nước; dịch vụ cho thuê kho, cảng, tiếp nhận, bảo
quản và vận chuyển xăng dầu. Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực
kinh doanh xăng dầu ở nước ta chủ yếu xảy ra ở lĩnh vực phân phối xăng dầu
tại thị trường trong nước. Đây cũng chính là lý do Luận văn tập trung nghiên
cứu hoạt động kinh doanh xăng dầu trong giai đoạn phân phối.
5. Phương pháp nghiên cứu của Luận văn
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở vận dụng những quan điểm của chủ


7
nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật, đường lối, quan điểm, định hướng
của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường trong
bối cảnh hội nhập.
Bên cạnh đó, Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu như
thống kê, tổng hợp, so sánh, phân tích,… nhằm phục vụ cho nhiệm vụ và
mục đích nghiên cứu của đề tài.
6. Những đóng góp mới về khoa học của Luận văn
Kết quả của việc nghiên cứu đề tài: "Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở Việt Nam hiện nay" có thể đem lại
những điểm mới sau đây:

Thứ nhất: Luận văn tập trung phân tích và xác định nhu cầu điều chỉnh
bằng pháp luật đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh
doanh xăng dầu.
Thứ hai: Luận văn nhận dạng và đánh giá các hình thức thể hiện thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở nước ta hiện nay.
Thứ ba: Luận văn nghiên cứu và chỉ ra thị trường liên quan trong lĩnh
vực kinh doanh xăng dầu để làm cơ sở xác định hành vi thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu.
Thứ tư: Luận văn đánh giá thực trạng pháp luật về thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh để từ đó rút ra những bất cập trong thực hiện pháp luật về thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu.
Thứ năm: Luận văn mạnh dạn đề xuất một số phương hướng và giải
pháp hoàn thiện pháp luật về thoả thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực
kinh doanh xăng dầu ở nước ta hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Kết quả đạt được của Luận văn góp phần làm sáng tỏ phương diện lý luận
trong khoa học pháp lý của các thoả thuận hạn chế cạnh tranh áp dụng trong


8
lĩnh vực kinh doanh xăng dầu. Những nhận định về thực trạng thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh xăng dầu và một số giải pháp hoàn
thiện pháp luật có thể để các cơ quan chức năng trong phạm vi, thẩm quyền của
mình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực quản lý hoạt động
kinh doanh xăng dầu.
Bên cạnh đó, Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích không chỉ với cán
bộ giảng dạy, sinh viên mà còn đối với các cán bộ đang làm công tác hoạch định
chính sách và xây dựng pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam.
8. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn

được kết cấu bởi 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về thoả thuận hạn chế cạnh
tranh và pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh
xăng dầu.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong
lĩnh vực kinh doanh xăng dầu và thực tiễn áp dụng pháp luật về chống hạn
chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở Việt nam hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thoả
thuận hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu ở nước ta hiện nay.










9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THOẢ THUẬN HẠN CHẾ
CẠNH TRANH VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỎA THUẬN HẠN CHẾ
CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC KINH DOANH XĂNG DẦU

1.1. Bản chất pháp lý của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
1.1.1. Nguồn gốc của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh (cartel) là một trong những hình thức
biểu hiện của hạn chế cạnh tranh, có thể gây nguy hại đến động lực phát triển
kinh tế của xã hội và vi phạm tới lợi ích chính đáng của người tiêu dùng. Do

đó, pháp luật của các quốc gia có nền kinh tế thị trường đều trừng phạt
nghiêm khắc các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Những tiền đề để
xuất hiện cạnh tranh cũng là những tiền đề để những thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh tồn tại. Trước đây, trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hoá tập trung, sự can
thiệp của Nhà nước vào các hoạt động kinh tế là một trong những lý do không
cho cạnh tranh tồn tại, điều đó cũng đồng nghĩa với việc không cần có thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh.
Nền kinh tế thị trường là môi trường của cạnh tranh, với sự ghi nhận
quyền tự do kinh doanh, nguyên tắc tự do thương mại là điểm tựa, là môi
trường của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Không thể phủ nhận rằng cạnh
tranh với các hiệu ứng tích cực của nó đối với nền kinh tế, khiến các quốc gia
đã và đang phát triển luôn luôn khuyến khích cạnh tranh. Trong quan hệ cạnh
tranh thì việc thành công hay thất bại luôn luôn là kết quả mà các đối thủ
tham gia đều nhận thấy, mặc dù trước khi tham gia họ không chắc chắn.
Chính từ yếu tố không muốn phải chịu rủi ro về phía mình, các đối thủ trong
quan hệ cạnh tranh có thể có sự thoả thuận, hay nói cách khác đây chính là
nguồn gốc của sự tự do khế ước và sự thoả thuận về điều kiện kinh doanh của
các đối thủ cạnh tranh, để mục tiêu đều là những người thắng cuộc. Để đạt


10
được điều này đòi hỏi họ phải có sự hợp tác, phải có sự thoả thuận.
Mọi vấn đề trong xã hội, từ lớn đến nhỏ đều dựa trên nền tảng khế ước,
Nhà nước chỉ can thiệp vào sự thoả thuận, sự tự do khế ước chừng nào sự tự
do đó xâm phạm các lợi ích công cộng hoặc xâm phạm tới các quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác.
Xét cho cùng, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được thực hiện giữa các
doanh nghiệp nên nó phải được hình thành trên nền tảng của nguyên tắc tự do
khế ước. Các doanh nghiệp có quyền tự do thể hiện ý chí của mình trong việc
lựa chọn đối tác để thiết lập quan hệ, liên kết, hợp tác và đồng thời các doanh

nghiệp cũng có quyền tự do lựa chọn nội dung thỏa thuận. Tuy nhiên sự “tự
do” của các doanh nghiệp chỉ được coi là hợp pháp khi sự thể hiện ý chí đó
phù hợp với ý chí của Nhà nước, phù hợp với lợi ích chung của cộng đồng.
Mặc dù khái niệm “cạnh tranh” và “khế ước” (thoả thuận) có những nội
dung khác biệt song chúng có liên quan mật thiết khi được sử dụng để đánh
giá về cạnh trạnh. Trước sức ép của cạnh tranh, các doanh nghiệp buộc phải
tiến lên bằng sự nỗ lực cố gắng của bản thân, thậm chí có trường hợp còn vận
dụng cả các biện pháp cạnh tranh bất hợp pháp để loại bỏ đối thủ hoặc chí ít
cũng là để chiếm ưu thế trước đối thủ trên một phương diện nào đó. Khi loại
bỏ được cạnh tranh thông qua thỏa thuận, các doanh nghiệp tham gia có thể
thu được lợi nhuận lớn mà không cần phải cải thiện năng lực cung ứng hàng
hóa, dịch vụ của mình.
Mặc dù nguyên tắc tự do khế ước được pháp luật thừa nhận là một
nguyên tắc cơ bản trong việc xác lập các quyền, nghĩa vụ giữa các chủ thể
bằng hợp đồng, nhưng sự tự do đó luôn luôn phải trong một khuôn khổ, một
giới hạn. Do đó, những thoả thuận giữa các doanh nghiệp với mục đích là
những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thì có thể sẽ bị vô hiệu theo quy định
của pháp luật.


11
Do sự tác động của các quy luật kinh tế cũng như nhu cầu trong hoạt
động sản xuất kinh doanh mà sự liên kết giữa các doanh nghiệp theo các tiêu
chí về ngành nghề, theo khu vực, theo chu trình phân phối… là một tất yếu.
Chính từ nhu cầu liên kết này giữa các doanh nghiệp mà xuất hiện các thỏa
thuận giữa các doanh nghiệp theo các tiêu chí kể trên, thậm chí cả những liên
kết giữa các doanh nghiệp không cùng chung lĩnh vực, địa bàn hoạt động.
Như vậy, quyền tự do lập hội cũng là một trong những tiền đề để ra đời và
ảnh hưởng tới thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, hiệp hội.
Việc các doanh nghiệp cùng ngành nghề liên kết lại với nhau dưới hình thức

Hội là hoàn toàn phù hợp với quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, hoạt động của bất kỳ một hiệp hội
nào cũng phải được tiến hành trong khuôn khổ của Hiến pháp, pháp luật và
đặc biệt là không được ảnh hưởng tới lợi ích của những hội khác, những
người khác. Trong trường hợp này, nếu các doanh nghiệp liên kết với nhau
nhằm thiết lập các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thì sự liên kết đó là những
liên kết bất hợp pháp.
Về nguyên tắc, với mục tiêu nhằm loại bỏ, thủ tiêu sức ép cạnh tranh nên
các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh sẽ bị coi là vô hiệu và chủ thể thực
hiện hành vi nói trên sẽ phải gánh chịu những hậu quả pháp lý bất lợi nhất
định. Tuy nhiên, trước các mục tiêu của chính sách cạnh tranh, việc áp dụng
pháp luật đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cần phải thực hiện một
cách thận trọng, đặc biệt khi lợi ích của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh lớn hơn
so với hậu quả của nó mang lại cho thị trường. Theo đó, các tiêu chí thuộc
“lợi ích công” sau đây có thể được vận dụng để thực hiện miễn trừ việc áp
dụng pháp luật đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh:
- Lợi ích của thị trường như: tăng cường sức cạnh tranh của các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước


12
trên thị trường quốc tế.
- Lợi ích của chính doanh nghiệp đó như: hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô
hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
- Lợi ích của người tiêu dùng như: việc áp dụng thống nhất các tiêu
chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm; thống nhất các
điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan đến giá và
các yếu tố của giá.
Qua đó, cho thấy lợi ích công chính là tiêu chuẩn xác định tính hợp pháp
của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Một số quốc gia đưa ra tiêu chuẩn để

xác định những giới hạn đối với phạm vi áp dụng quy định cấm thoả thuận
phản cạnh tranh, theo đó “giới hạn” được thừa nhận ở một số quốc gia thuộc
Liên minh Châu Âu, Cộng hoà Pháp thừa nhận: có thể coi là thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh được chấp nhận nếu sự thoả thuận đó không gây ra hoặc có thể
xâm hại đến cạnh tranh nhưng ở dưới ngưỡng cho phép.
Qua những phân tích về mối quan hệ giữa quyền tự do kinh doanh và
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể nhận định rằng: các chủ thể, các doanh
nghiệp khi tham gia vào thị trường có quyền tự do lựa chọn các doanh nghiệp
khác để hợp tác, liên kết thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Tuy nhiên nội dung liên kết, hợp tác đó phải đảm bảo không ảnh
hưởng tới lợi ích công cộng, lợi ích của các doanh nghiệp khác và lợi ích của
người tiêu dùng. Do đó, khi các thỏa thuận liên kết xâm hại đến các lợi ích kể
trên thì sẽ bị coi là hành vi trái pháp luật và thỏa thuận đó sẽ bị xem là vô hiệu.
Qua các phân tích trên cho thấy, nếu như cạnh tranh là cần thiết cho hoạt
động của thị trường thì các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là công cụ của các
doanh nghiệp nhằm thủ tiêu cạnh tranh trên thị trường. Thông thường hệ quả
của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là tạo ra những nhóm độc quyền hoặc
gần như độc quyền nhằm nâng giá hàng hóa, giảm sản lượng sản phẩm để


13
thu lợi nhuận độc quyền. Qua đó, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đã bóp
méo sự công bằng trong phân bổ nguồn lực của nền kinh tế, làm giảm phúc
lợi xã hội, làm giảm năng suất lao động, trì hoãn tốc độ cải thiện công nghệ…
Mặt khác, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh còn loại bỏ trực tiếp cơ hội tham
gia cạnh tranh của các doanh nghiệp tiềm năng, các doanh nghiệp đứng ngoài
sự thoả thuận.
Về bản chất, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp được
coi là một loại hợp đồng với những hình thức thể hiện đa dạng: thỏa thuận
khung, nghị quyết, biên bản ghi nhớ, hoặc ngầm định thông qua việc thống

nhất hành động. Tuy nhiên, loại hợp đồng này có mục đích và nội dung vi
phạm điều cấm của pháp luật do đi ngược lại lợi ích của cạnh tranh - yếu tố
mà pháp luật khuyến khích. Vì vậy, các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cần
phải được kiểm soát, chế ước bởi pháp luật thông qua một hệ thống các chế
tài đa dạng và linh hoạt.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm pháp lý của các thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh
1.1.2.1. Khái niệm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Trong kinh tế học, hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được nhìn
nhận là sự thống nhất hành động của nhiều doanh nghiệp nhằm giảm bớt hoặc
loại bỏ sức ép của cạnh tranh hoặc hạn chế khả năng hành động một cách độc
lập giữa các đối thủ cạnh tranh. Từ điển Chính sách thương mại quốc tế định
nghĩa “Cartel” là một thỏa thuận chính thức hoặc không chính thức để đạt
được kết quả có lợi cho các mặt hàng có liên quan nhưng có thể có hại cho
các bên khác.
Khoản 1 Điều 81 Hiệp ước Rome nghiêm cấm mọi thỏa thuận giữa các
doanh nghiệp, mọi quyết định của hiệp hội doanh nghiệp và mọi hành động
phối hợp có khả năng ảnh hưởng đến trao đổi thương mại giữa các quốc gia


14
thành viên và có mục đích hoặc hệ quả phản cạnh tranh.
Luật Cạnh tranh Việt Nam không đưa ra khái niệm mà sử dụng phương
pháp liệt kê các thỏa thuận bị coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, bao gồm:
thỏa thuận ấn định hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; thỏa
thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch
vụ; thỏa thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất mua bán,
hàng hóa, dịch vụ; thỏa thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế
đầu tư; thỏa thuận áp đặt cho các doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp
đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp thuận các

nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng; thỏa thuận
ngăn cản, kìm hãm không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc
phát triển kinh doanh; thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp
không phải là các bên của thỏa thuận; thông đồng để một hoặc các bên của
thỏa thuận thắng thầu trong việc cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Tuy
nhiên, theo cách tiếp cận của khoản 3 Điều 3 Luật Cạnh tranh, thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh có thể được hiểu là thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều doanh
nghiệp nhằm mục đích làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường [32].
Việc không đưa ra khái niệm mà chỉ liệt kê các thỏa thuận cụ thể đã
không gây nên những tranh luận cần thiết về hình thức và bản chất pháp lý
của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Theo đó, chỉ những thỏa thuận được liệt kê
tại Điều 8 Luật Cạnh tranh mới bị coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Trên
thực tế, thỏa thuận giữa các doanh nghiệp diễn ra ở nhiều công đoạn khác
nhau của quá trình sản xuất, phân phối. Do đó, có nhiều dạng biểu hiện khác
nhau của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh: thỏa thuận giữa người bán với nhau
(ví dụ: thỏa thuận ấn định giá, thỏa thuận phân chia thị trường); thỏa thuận
giữa những người mua; thỏa thuận trong đấu thầu.
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh có thể diễn ra giữa các doanh nghiệp


15
thuộc những khâu khác nhau của quá trình kinh doanh, bao gồm:
- Thỏa thuận theo chiều ngang: là những thỏa thuận giữa các chủ thể
kinh doanh trong cùng ngành hàng và cùng khâu của quá trình kinh doanh (ví
dụ: giữa những người bán buôn với nhau, giữa những người bán lẻ với nhau)
để khống chế giá, phân chia thị trường,… hoặc sự thoả thuận phối hợp hành
động nào đó trong một thời gian nhất định để cản trở cạnh tranh từ doanh
nghiệp khác.
- Thỏa thuận theo chiều dọc: là thỏa thuận giữa những doanh nghiệp ở
các công đoạn sản xuất khác nhau. Thoả thuận có thể được thực hiện ở 3 hình

thức như định giá, thương lượng giá và các thoả thuận license. Tuỳ theo từng
mục tiêu, mức độ, các thoả thuận này có tác động khác nhau, thậm chí một số
thoả thuận hoàn toàn có ý nghĩa tích cực cho nền kinh tế và cho xã hội [60].
1.1.2.2. Đặc điểm pháp lý của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Trong thực tiễn phát triển của thị trường, nội dung các hành vi thỏa
thuận cũng rất đa dạng, không thể dự liệu một cách tuyệt đối, đều mang tính
tương đối và luôn được bổ sung cùng với sự sáng tạo của người kinh doanh.
Các thỏa thuận có thể hướng đến sự thống nhất về giá cả hàng hóa, dịch vụ;
có thể là sự thống nhất trong việc phân chia thị trường, phân chia khách hàng,
trong chiến lược marketing; thống nhất trong hành động để tiêu diệt đối thủ
hoặc phát triển khoa học kỹ thuật,
Như vậy, dựa vào khái niệm mà kinh tế học đưa ra và những thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh được quy định trong Luật Cạnh tranh, có thể nhìn nhận và
phân tích chúng có 3 đặc trưng sau đây:
Thứ nhất: về chủ thể - thỏa thuận hạn chế cạnh tranh diễn ra giữa các
doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh của nhau.
Để xác định dấu hiệu này phải chứng minh được những điểm sau:
- Các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận cùng trên thị trường liên quan.


16
- Các doanh nghiệp phải hoạt động độc lập với nhau, không phải là
những người liên quan của nhau theo pháp luật doanh nghiệp, không cùng
trong một tập đoàn kinh doanh, không cùng là thành viên của tổng công ty.
Những hành động thống nhất của tổng công ty, của một tập đoàn kinh tế hoặc
của các công ty mẹ, con không được pháp luật cạnh tranh coi là thỏa thuận
bởi thực chất các tập đoàn kinh tế nói trên cho dù bao gồm nhiều thành viên
cũng chỉ là một chủ thể thống nhất [46].
Thứ hai: về hình thức - thỏa thuận thống nhất cùng hành động giữa các
doanh nghiệp có thể công khai hoặc không công khai.

Để xác định các hành động của một nhóm doanh nghiệp độc lập là thỏa
thuận, cơ quan có thẩm quyền phải có đủ bằng chứng kết luận rằng giữa họ đã
tồn tại một hợp đồng, bản ghi nhớ, các cuộc gặp mặt cho thấy đã có thỏa
thuận công khai hoặc ngầm đồng ý về giá, về hạn chế sản lượng, phân chia thị
trường. Một khi chưa có sự thống nhất cùng hành động giữa các doanh nghiệp
tham gia thì chưa thể kết luận có sự tồn tại của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh phải được hình thành từ sự thống
nhất ý chí của các doanh nghiệp tham gia về việc thực hiện một hành vi hạn
chế cạnh tranh. Hình thức pháp lý của sự thống nhất ý chí không ảnh hưởng
đến việc định danh thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Do đó, chỉ cần hội đủ hai
điều kiện là có sự thống nhất ý chí và các doanh nghiệp đã cùng thống nhất
thực hiện một hành vi hạn chế cạnh tranh là có thể kết luận đã có thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh cho dù thỏa thuận đó bằng văn bản hay lời nói, thỏa thuận
công khai hay thỏa thuận ngầm định thông qua việc thống nhất hành động can
thiệp cùng một hướng vào thị trường.
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm cả các quyết định tập thể của
các doanh nghiệp nên các quyết định của Hiệp hội ngành nghề, của các tổ
chức nghề nghiệp để các tổ chức, cá nhân kinh doanh là thành viên thực hiện


17
các hành vi hạn chế cạnh tranh cũng là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Cần phân biệt sự thống nhất ý chí và thống nhất về mục đích. Việc xác
định một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, chỉ cần chứng minh rằng các doanh
nghiệp tham gia đã có sự thống nhất ý chí mà không nhất thiết phải có cùng
mục đích. Khi không thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh, các doanh nghiệp
có thể cùng hoặc không cùng theo đuổi một mục đích. Các doanh nghiệp có
thể có những mục đích khác nhau khi cùng thực hiện hành vi hạn chế cạnh
tranh nào đó. Vì vậy, nếu dùng mục đích để chứng minh về thỏa thuận có thể
làm giảm khả năng điều chỉnh của pháp luật.

Với nhiệm vụ bảo vệ cạnh tranh, pháp luật về thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh chỉ cần phán đoán các thỏa thuận gây ra hoặc có khả năng gây ra hậu
quả phản cạnh tranh trên thị trường. Do đó, nếu có sự thống nhất ý chí và sự
thống nhất ý chí đó gây ra hậu quả phản cạnh tranh là có thể xử lý những
người tham gia thỏa thuận cho dù mục đích tham gia của họ khác nhau.
Trong việc định danh một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, cơ quan có
thẩm quyền không chỉ kiểm tra có sự tồn tại thực sự của một thỏa thuận hay
sự thống nhất ý chí, mà còn phải khẳng định được rằng thỏa thuận đó chắc
chắn xuất phát từ ý chí độc lập của các bên và không chịu sự ràng buộc từ bên
ngoài. Việc tồn tại các yếu tố khách quan hoặc chủ quan làm cho các doanh
nghiệp không còn độc lập về ý chí cho dù đã hoặc đang cùng thực hiện một
hành vi phản cạnh tranh cũng không tạo nên một thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh. Trong trường hợp này, pháp luật cạnh tranh đã sử dụng khái niệm
khiếm khuyết của sự thỏa thuận ý chí trong pháp luật hợp đồng để kết luận về
sự tồn tại của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Thông thường, các doanh nghiệp
không độc lập về ý chí nếu thuộc một trong những trường hợp: các bên đang
chịu sự ràng buộc của một văn bản luật, dưới luật nên đã thực hiện hành vi
gây ra hậu quả làm hạn chế cạnh tranh (ví dụ: có quyết định của Chính phủ


18
buộc các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu buộc phải giảm giá bán nhằm ổn
định thị trường). Trong trường hợp này, cho dù mức giá bán được đặt ra đã
tạo nên rào cản cho việc gia nhập thị trường của các doanh nghiệp tiềm năng
thì các doanh nghiệp tham gia vào việc ấn định giá không vi phạm Luật Cạnh
tranh; các doanh nghiệp trong cùng một tập đoàn hoặc có quan hệ kiểm soát
lẫn nhau, quan hệ trong nội bộ tập đoàn hoặc quyền kiểm soát của một doanh
nghiệp đối với các doanh nghiệp khác có thể làm cho các doanh nghiệp thành
viên hoặc các doanh nghiệp bị kiểm soát không thực sự độc lập về ý chí khi
thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh. Vì thế, pháp luật cạnh tranh của các

nước đều ghi nhận nguyên tắc “không thể có thỏa thuận phản cạnh tranh giữa
hai doanh nghiệp trong đó doanh nghiệp này kiểm soát doanh nghiệp kia hoặc
giữa những doanh nghiệp cùng đặt dưới sự kiểm soát chung của một doanh
nghiệp thứ ba hoặc giữa các doanh nghiệp hợp thành một thể kinh tế”.
Tuy nhiên, nguyên tắc này không được áp dụng một cách cứng nhắc mà
cần có những phân tích và đánh giá thực tế trong từng vụ việc cụ thể. Theo
đó, trong những trường hợp trên, cơ quan có thẩm quyền cần đánh giá tác
động của các yếu tố tác động đến ý chí của các doanh nghiệp. Nếu các doanh
nghiệp tham gia không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải thực hiện
hành vi hạn chế cạnh tranh thì kết luận họ không độc lập về ý chí. Ngược lại,
nếu có một văn bản luật hoặc dưới luật hoặc quan hệ kiểm soát, quan hệ tập
đoàn đã buộc các doanh nghiệp phải thực hiện một hành vi gây ra hậu quả hạn
chế cạnh tranh thì hành vi tập thể của các doanh nghiệp đó không cấu thành
nên thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Cơ quan có thẩm quyền dễ dàng tìm ra
được những bằng chứng về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh đối với các thỏa
thuận công khai, song tìm kiếm bằng chứng không đơn giản đối với các thỏa
thuận ngầm. Trong thực tế, để đối phó với pháp luật cạnh tranh, các doanh
nghiệp thường ngầm thiết lập nên các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc


19
thâu tóm bằng chứng về thỏa thuận. Dấu hiệu đầu tiên đặt ra nghi vấn về các
thỏa thuận ngầm là các doanh nghiệp đã có sự phối hợp cùng thực hiện một
hành vi hạn chế cạnh tranh (hành động song song). Tuy nhiên, để kết luận
hành vi phối hợp là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh còn cần thêm những bằng
chứng về sự thống nhất ý chí [46].
Thứ ba: về nội dung - thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thường tập trung
vào các yếu tố cơ bản của quan hệ thị trường mà các doanh nghiệp đang
cạnh tranh nhau như: giá, thị trường, trình độ kỹ thuật, công nghệ, điều kiện
ký kết hợp đồng và nội dung của hợp đồng.

Khi những nội dung của thỏa thuận được hình thành và thực hiện thì các
yếu tố nói trên sẽ trở thành tiêu chuẩn thống nhất không có cạnh tranh trên thị
trường giữa những người tham gia thỏa thuận. Nói cách khác, nội dung của
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là các doanh nghiệp không thống nhất thực
hiện cùng một hành vi hạn chế cạnh tranh. Dựa vào hành vi, Điều 8 Luật
Cạnh tranh đã liệt kê những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh cụ thể. Chỉ khi
thuộc một trong những trường hợp quy định tại Điều 8, thỏa thuận của các
doanh nghiệp mới bị coi là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Một thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh có thể được xác định khi chúng đã hoặc chưa được thực hiện.
Nói cách khác, việc các doanh nghiệp tham gia đã thực hiện hạn chế cạnh
tranh đã thỏa thuận hay chưa thỏa thuận không quan trọng trong việc định
danh thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Có những trường hợp cơ quan có thẩm
quyền phát hiện ra thỏa thuận sau khi các doanh nghiệp thực hiện hành vi và
gây hậu quả cho thị trường, song cũng có trường hợp các doanh nghiệp chỉ
vừa thống nhất sẽ thực hiện một hành vi hạn chế cạnh tranh và bị phát hiện.
Tất cả những trường hợp nêu trên đều cấu thành nên thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Như vậy, chỉ cần có đủ hai điều kiện sau đây:
- Có bằng chứng về sự thống nhất ý chí giữa các doanh nghiệp.


20
- Các doanh nghiệp thỏa thuận cùng nhau thực hiện hành vi hạn chế
tranh là có thể kết luận về sự tồn tại của một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Thứ tư: hậu quả của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, dấu hiệu chung cho
cả ba loại hành vi hạn chế cạnh tranh là làm giảm, sai lệch và cản trở cạnh
tranh trên thị trường.
Sự thống nhất ý chí đã liên kết các doanh nghiệp độc lập với nhau nhằm
tạo nên sức mạnh chung trong quan hệ khách hàng hoặc trong quan hệ cạnh
tranh với những doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận. Vì vậy, hậu quả
đầu tiên của thỏa thuận gây ra cho thị trường là xóa bỏ cạnh tranh giữa các

doanh nghiệp tham gia. Khi nội dung thỏa thuận được hình thành, tạo ra
những tiêu chuẩn chung về giá, về kỹ thuật, về công nghệ, về điều kiện giao
kết hợp đồng, các doanh nghiệp đang từ đối thủ cạnh tranh của nhau sẽ
không còn cạnh tranh với nhau nữa. Bằng sức mạnh chung (nếu sự liên kết
tạo nên sức mạnh thị trường) và bằng việc thực hiện hành vi hạn chế cạnh
tranh, các doanh nghiệp tham gia có thể gây thiệt hại cho khách hàng khi đặt
ra các điều kiện giao dịch bất lợi cho họ hoặc gây thiệt hại cho các doanh
nghiệp không tham gia thỏa thuận [46].
1.2. Nhu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với các thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh trong lĩnh vực kinh doanh xăng dầu
1.2.1. Điều kiện gia nhập thị trường kinh doanh xăng dầu
Ngày 15/9/2009 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 84/2009/NĐ-CP
về kinh doanh xăng dầu. Theo đó, kinh doanh xăng dầu bao gồm các hoạt
động: xuất khẩu (xăng dầu, nguyên liệu sản xuất trong nước và xăng dầu,
nguyên liệu có nguồn gốc nhập khẩu), nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, chuyển
khẩu, gia công xuất khẩu xăng dầu, nguyên liệu; sản xuất và pha chế xăng
dầu; phân phối xăng dầu tại thị trường trong nước; dịch vụ cho thuê kho,
cảng, tiếp nhận, bảo quản và vận chuyển xăng dầu. Văn bản này cũng quy


21
định các điều kiện cụ thể để được kinh doanh xăng dầu. Theo đó:
* Điều kiện kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu:
Để được kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu, phải đáp ứng điều
kiện sau:
- Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật, trong Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh có đăng ký kinh doanh xăng dầu;
- Có cầu cảng chuyên dụng nằm trong hệ thống cảng quốc tế của Việt
Nam, bảo đảm tiếp nhận được tầu chở xăng dầu nhập khẩu hoặc phương tiện vận
tải xăng dầu khác có trọng tải tối thiểu bảy ngàn tấn (7.000T), thuộc sở hữu

doanh nghiệp hoặc đồng sở hữu hoặc thuê dài hạn từ năm (05) năm trở lên;
- Có kho tiếp nhận xăng dầu nhập khẩu dung tích tối thiểu mười lăm
ngàn mét khối (15.000 m
3
) để trực tiếp nhận xăng dầu từ tầu chở dầu và
phương tiện vận tải xăng dầu khác, thuộc sở hữu doanh nghiệp hoặc đồng sở
hữu hoặc thuê sử dụng dài hạn từ năm (05) năm trở lên;
- Có phương tiện vận tải xăng dầu chuyên dụng thuộc sở hữu doanh
nghiệp hoặc đồng sở hữu hoặc thuê sử dụng dài hạn từ năm (05) năm trở lên
để bảo đảm cung ứng xăng dầu cho hệ thống phân phối của mình;
- Có hệ thống phân phối xăng dầu của mình: tối thiểu mười (10) cửa
hàng bán lẻ thuộc sở hữu hoặc đồng sở hữu và hệ thống đại lý tối thiểu bốn
mươi (40) đại lý bán lẻ xăng dầu;
- Thương nhân kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu nhiên liệu bay không
bắt buộc phải có hệ thống phân phối theo quy định nhưng phải có phương tiện
tra nạp nhiên liệu bay thuộc sở hữu hoặc đồng sở hữu của thương nhân [11].
* Điều kiện sản xuất xăng dầu:
Để được phép sản xuất xăng dầu, phải đáp ứng đủ các điều kiện sau:
- Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật, trong Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh có đăng ký kinh doanh xăng dầu;

×