Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Vai trò của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1009.24 KB, 87 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




LÊ TUẤN ANH



VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT
YÊU CẦU PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Hà Nội - 2013

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT


LÊ TUẤN ANH




VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT
YÊU CẦU PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP

Chuyên ngành : LUẬT KINH TẾ
Mã ngành : 60 38 50


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Viết Tý




Hà Nội - 2013
MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU
1

Chƣơng 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁ SẢN VÀ VAI TRÒ
CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT YÊU CẦU PHÁ SẢN
6
1.1.
Khái quát về phá sản doanh nghiệp
6

1.1.1.
Phá sản doanh nghiệp - Thủ tục tố tụng toà án đặc biệt
6
1.1.2.
Các chủ thể tham gia quan hệ tố tụng
10
1.1.3
Các giai đoạn của giải quyết phá sản
15
1.2.
Khái quát về vai trò của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá
sản doanh nghiệp
18
1.2.1.
Vai trò trung tâm của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản
doanh nghiệp
18
1.2.2.
Những yếu tố ảnh hưởng đến việc xác định vai trò của Tòa án
trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
24
1.2.3.
Vai trò của Tòa án trong giải quyết phá sản theo quy định pháp
luật một số nước trên thế giới
29

Chƣơng 2. VAI TRÒ CỤ THỂ CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI
QUYẾT YÊU CẦU PHÁ SẢN THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT PHÁ
SẢN Ở VIỆT NAM
35

2.1.
Vai trò của Tòa án trong các giai đoạn giải quyết yêu cầu phá sản
doanh nghiệp
35
2.1.1.
Vai trò của Tòa án trong giai đoạn thụ lý đơn yêu cầu và mở
35
thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
2.1.2.
Vai trò của Tòa án trong giai đoạn phục hồi hoạt động sản xuất
kinh doanh
39
2.1.3.
Vai trò của Tòa án trong giai đoạn thanh lý tài sản, các khoản nợ
42
2.1.4.
Vai trò của Tòa án trong giai đoạn tuyên bố doanh nghiệp phá sản
46
2.2.
Thực tiễn hoạt động của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá
sản doanh nghiệp ở Việt Nam
50
2.2.1.
Tình hình thụ lý, giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh
nghiệp tại Tòa án nhân dân trong thời gian qua
50
2.2.2.
Một số khó khăn, vướng mắc trong quá trình giải quyết yêu cầu
phá sản doanh nghiệp của Toà án
52


Chƣơng 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ
CỦA TÒA ÁN TRONG GIẢI QUYẾT YÊU CẦU PHÁ SẢN
DOANH NGHIỆP
67
3.1.
Giải pháp sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về phá sản
doanh nghiệp
67
3.2.
Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ ngành Tòa án
72
3.3.
Tăng cường tuyên truyền nâng cao hiểu biết cũng như ý thức
pháp luật cho đội ngũ doanh nhân
75

KẾT LUẬN
79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
80


1
MỞ ĐẦU

1. Ý nghĩa của đề tài
Phá sản là một hiện tượng tất yếu trong nền kinh tế thị trường, nó là
hiện tượng kinh tế - xã hội tồn tại khách quan. Về thực chất doanh nghiệp

cũng chỉ là thực thể xã hội, doanh nghiệp cũng có quá trình sinh ra phát triển
và diệt vong. Điều đó hoàn toàn phù hợp với quy luật sinh tồn của các sự vật
và hiện tượng. Nền kinh tế thị trường với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, nhiều loại hình doanh nghiệp cùng song song tồn tại và đều tự
chủ về tài chính, bình đẳng và tự do trong khuôn khổ pháp luật. Trong nền
kinh tế này, lợi nhuận luôn là mục đích tối cao mà mọi doanh nghiệp đều
hướng tới, là cơ sở tồn tại cho mỗi doanh nghiệp đồng thời cũng là động lực
cơ bản thúc đẩy họ lao vào quá trình cạnh tranh nhằm tối đa hóa lợi nhuận.
Do vậy, cạnh tranh là một quy luật khách quan, dưới sự tác động của quy luật
cạnh tranh, một số doanh nghiệp đã hoạt động có hiệu quả, có nhiều đóng góp
cho sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, đóng góp cho ngân sách, tạo
công ăn việc làm cho người lao động. Ngược lại, một số doanh nghiệp khác
do quản lý kém hoặc do những nguyên nhân khác nhau đã dần yếu đi, sản
xuất kinh doanh đình đốn, nợ nần chồng chất, đi tới chỗ mất khả năng chi trả
các nghĩa vụ tài chính của mình và thực chất đã lâm vào tình trạng phá sản.
Như vậy, hiện tượng phá sản có những mặt tích cực, tuy nhiên hậu quả
tiêu cực mà hiện tượng này đem lại là nhiều hơn. Việc doanh nghiệp khi lâm
vào tình trạng phá sản sẽ phương hại đến lợi ích của chủ nợ, con nợ và có tác
động xấu đến sự phát triển của nền kinh tế - xã hội. Vì vậy, việc giải quyết
phá sản cần được tiến hành nhanh chóng, kịp thời nhằm hạn chế tối đa những
hậu quả tiêu cực và khai thác những mặt tích cực của nó. Quá trình giải quyết
đó có sự tham gia của nhiều chủ thể, mỗi chủ thể đóng một vị trí, vai trò khác
nhau. Trong đó, Tòa án là chủ thể đóng vai trò hết sức quan trọng. Do đó,

2
việc nắm bắt, hiểu biết đầy đủ về pháp luật phá sản mà đặc biệt là vai trò của
Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp là cần thiết và cấp
bách. Xuất phát từ bản chất và vai trò như vậy, đã phát sinh nhu cầu khách
quan cần tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các quy định của pháp luật về phá sản
nói chung cũng như vai trò của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh

nghiệp nói riêng.
Từ những lý do trên, tôi đã chọn nghiên cứu Đề tài: "Vai trò của Tòa
án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp" làm luận văn tốt nghiệp
Thạc sĩ của mình, với mục đích góp phần hoàn thiện lý luận pháp luật về vấn
đề này đồng thời góp phần giải quyết một số vấn đề thực tiễn đang đặt ra.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Từ khi được ban hành đến nay, Luật phá sản đã được tìm hiểu, nghiên
cứu dưới rất nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu
trước đây thường mới chỉ đề cập, bàn luận đến một số khía cạnh nhất định
liên quan đến pháp luật phá sản như: các vấn đề pháp lý cơ bản về phá sản
hoặc nghiên cứu các thủ tục cụ thể về quản lý tài sản của doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản, về phục hồi doanh nghiệp, xử lý nợ của doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản v.v
Trong số các công trình nghiên cứu về pháp luật phá sản ở nước ta sau
khi Luật Phá sản năm 2004 ban hành, có thể kể đến một số công trình nghiên
cứu như sau:
- Công trình nghiên cứu “Pháp luật phá sản của Việt Nam” của PGS.TS
Dương Đăng Huệ, Nhà xuất bản tư pháp, năm 2005;
- Luận án tiến sĩ “Hoàn thiện các quy định liên quan đến quản lý và
thanh lý tài sản phá sản” của Nguyễn Thị Hồng Vân, được bảo vệ thành công
tại khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội năm 2008;
- Luận văn thạc sĩ Luật học của Trần Thị Thu Trang với đề tài “Hoàn
thiện pháp luật về thủ tục phá sản doanh nghiệp ở Việt Nam trong giai đoạn

3
hiện nay”, được bảo vệ thành công tại khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội
năm 2009;
- Công trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Thực trạng pháp luật về phá
sản và hoàn thiện môi trường pháp luật kinh doanh tại Việt Nam” của Bộ Tư
pháp bảo vệ năm 2009

Ngoài ra, còn có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu đăng trên các tạp
chí, các báo cáo chuyên đề, hội thảo chuyên đề về phá sản và pháp luật về phá
sản chẳng hạn như các bài viết: “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước - dưới
góc nhìn phát triển kinh tế - xã hội bền vững’’ của PGS.TS Tô Huy Rứa; “Luật
phá sản còn nhiều bất cập khi áp dụng vào thực tiễn” của Thái Nguyên Toàn,
Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam; Đặc san chuyên đề về Luật phá sản
của Tạp chí Tòa án nhân dân, tháng 8 -2004; Báo cáo rà soát, đánh gia thực tiễn
thi hành Luật phá sản năm 2004, Bộ Tư pháp, năm 2008; Chuyên đề khoa học
xét xử “Tìm hiểu pháp luật phá sản - Tập 1” của Viện khoa học xét xử Tòa án
nhân dân tối cao, Nhà xuất bản tư pháp năm 2010 v.v
Như vậy, có thể thấy hiện nay chưa có một công trình nào nghiên cứu
một cách có hệ thống và sâu sắc về vai trò của Toà án - một chủ thể quan
trọng trong hệ thống chủ thể tham gia quan hệ tố tụng đặc biệt này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực
tiễn các quy định pháp luật về vai trò của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá
sản doanh nghiệp được quy định trong pháp luật phá sản ở Việt Nam. Từ đó
đưa ra một số đề xuất cho việc thực thi, kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng
cao vai trò của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp và hoàn
thiện pháp luật phá sản ở Việt Nam. Với mục đích đó, luận văn có những
nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề mang tính lý luận về thủ tục phá sản và vai trò
của Tòa án trong thủ tục này theo quy định của pháp luật phá sản;

4
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về vai trò của Tòa án cũng
như thực tiễn hoạt động của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản doanh
nghiệp theo pháp luật hiện hành ở Việt Nam;
- Kiến nghị, định hướng và giải pháp nhằm sửa đổi, bổ sung hoàn thiện
Luật phá sản và nâng cao vai trò của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản

doanh nghiệp ở Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Luật phá sản có nội dung đa dạng, phức tạp, đề cập đến rất nhiều vấn
đề, nhiều quan hệ tố tụng khác nhau. Đề tài: Vai trò của Tòa án trong giải
quyết yêu cầu phá sản - Là đề tài hẹp, do đó phạm vi nghiên cứu của luận
văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến vị trí, vai
trò của Tòa án trong giải quyết phá sản, còn về phương diện luật thực định
chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định về vai trò của tòa án và vấn đề
thực thi các quy định đó trên thực tế mà không nghiên cứu các mối quan hệ
tố tụng khác.
5. Phƣơng pháp tiếp cận vấn đề
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin về kinh tế, quản lý nói
chung và về pháp luật nói riêng để giải quyết những vấn đề lý luận trên cơ sở
điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Bên cạnh đó, Luận văn cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể
như: Phương pháp phân tích, tổng hợp mang lại cho luận văn một cái nhìn
tổng quát về vấn đề nghiên cứu và làm cho luận văn có chiều sâu, có sự kết
hợp giữa lý luận và thực tiễn.
Ngoài ra, phương pháp lịch sử, so sánh được sử dụng song hành trong
quá trình nghiên cứu và chỉ khi đặt quy định của pháp luật hiện hành về vai trò
của Tòa án trong giải quyết phá sản doanh nghiệp trong mối liên hệ với quy
định pháp luật của một số nước, pháp luật Việt Nam thời kỳ trước đó và với cả

5
thực tiễn về vấn đề vai trò của Tòa án trong giải quyết phá sản doanh nghiệp ta
mới thấy được những tiến bộ cũng như hạn chế của pháp luật Việt Nam hiện
hành khi quy định về vấn đề này.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận

văn có kết cấu như sau:
Chương 1. Một số vấn đề chung về phá sản và vai trò của Tòa án trong
giải quyết yêu cầu phá sản;
Chương 2. Vai trò cụ thể của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản
theo quy định pháp luật Phá sản ở Việt Nam;
Chương 3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao vai trò của Tòa án trong
giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp.







6
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁ SẢN VÀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN
TRONG GIẢI QUYẾT YÊU CẦU PHÁ SẢN

1.1 Khái quát về phá sản doanh nghiệp
1.1.1. Phá sản doanh nghiệp - Thủ tục tố tụng toà án đặc biệt
● Khái niệm thủ tục giải quyết phá sản
Thủ tục giải quyết phá sản là thủ tục tư pháp vì nó do Tòa án với tư
cách là cơ quan tư pháp tiến hành. Trong thủ tục phá sản khi các chủ nợ thực
hiện quyền đòi nợ của mình nhưng yêu cầu đó không được đáp ứng từ phía
con nợ thì xuất hiện một số xung đột về lợi ích tài sản giữ chủ nợ và con nợ.
Xung đột này là xung đột về mặt tài sản, liên quan đến việc thực hiện các
nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ hợp đồng hoặc một sự kiện pháp lý nào đó. Sự
xung đột mà thực chất là sự không chấp hành hoặc chấp hành không đầy đủ
nghĩa vụ của một bên đương nhiên ảnh hưởng đến lợi ích của bên đối tác. Để

có thể bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình, chủ nợ buộc phải yêu cầu Tòa án mở
thủ tục phá sản đối với con nợ với mục đích thu hồi nợ. Khi có yêu cầu mở
thủ tục phá sản, Tòa án phải xem xét yêu cầu đó có chính đáng hay không.
Nếu xác định con nợ đã mất khả năng thanh toán thì tùy từng trường hợp cụ
thể Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật để ra quyết định áp dụng thủ tục
phù hợp là thủ tục phục hồi hoặc thủ tục thanh toán hay thủ tục tuyên bố con
nợ bị phá sản. Tại hội nghị chủ nợ các bên có thể chấp nhận hoặc không chấp
nhận kế hoạch tổ chức lại hoạt động kinh doanh của con nợ thì đó cũng là một
hình thức hòa giải để giải quyết xung đột pháp lý giữa các bên. Như vậy, xét
về mặt đối tượng của hoạt động thì thủ tục giải quyết phá sản cũng là một thủ
tục tư pháp vì đối tượng của nó là các quan hệ pháp lý phát sinh giữa bên có
quyền và bên có nghĩa vụ, giữa một bên là chủ nợ và bên kia là con nợ. Tóm
lại, xét về bản chất thì thủ tục phá giải quyết phá sản là một thủ tục tư pháp

7
đặc biệt, do Tòa án tiến hành nhằm giúp chủ nợ và con nợ giải quyết các tranh
chấp có tính chất tài sản giữa họ với nhau [13, tr.96-97].
● Cấu trúc của thủ tục giải quyết phá sản
Một trong những dấu hiệu đặc biệt chính là cấu trúc đặc thù của thủ tục
giải quyết phá sản. Nếu như tố tụng hình sự, tố tụng dân sự là một quá trình
hoạt động của Tòa án và những người tham gia tố tụng, hình thành từ những
giai đoạn nối tiếp nhau, giai đoạn trước là nên tảng cho giai đoạn sau, giai
đoạn sau kiểm tra tính hợp pháp, khắc phục những thiếu sót của giai đoạn
trước thì thủ tục phá sản là một quá trình hoạt động có cấu trúc hoàn toàn
khác. Trong thủ tục giải quyết phá sản, nhiệm vụ của các thủ tục cấu thành có
tính độc lập với nhau rất lớn. Thực hiện nhiệm vụ của thủ tục này không phải
lúc nào cũng là tiền đề để thực hiện nhiệm vụ của thủ tục kia. Ví dụ như
nhiệm vụ của thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác
hẳn với nhiệm vụ của thủ tục thanh lý tài sản và thực hiện nhiệm vụ của thủ
tục phục hồi không phải là tiền đề cho thủ tục thanh lý tài sản mà có thể loại

trừ sự cần thiết của chính thủ tục thanh lý tài sản doanh nghiệp
Theo Điều 5 Luật phá sản năm 2004 thì thủ tục giải quyết phá sản là
một thủ tục lớn bao gồm nhiều thủ tục cấu thành và giữa những thủ tục cấu
thành đó có mối liên hệ với nhau theo những nguyên tắc khác nhau [19, Điều
5]. Tính thứ tự, nối tiếp nhau không phải là yếu tố bắt buộc giữa các thủ tục
cấu thành. Những quy định về mối quan hệ đặc thù giữa các thủ tục cấu thành
trong thủ tục giải quyết phá sản là bước phát triển về lý luận của Luật Phá sản
năm 2004 so với Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993. Điều này cho phép
Tòa án giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản một cách linh hoạt tùy thuộc vào
những trường hợp cụ thể (được quy định tại Điều 86, 87 và Điều 79, 80 Luật
Phá sản năm 2004).
● Đặc điểm của thủ tục giải quyết phá sản
Khác với thủ tục giải quyết một vụ kiện dân sự (tố tụng dân sự) hay thủ
tục giải quyết một vụ kiện kinh tế (tố tụng kinh tế), thủ tục giải quyết một vụ

8
phá sản (tố tụng phá sản) được coi là một loại tố tụng tư pháp đặc biệt. Thủ tục
này bao gồm thủ tục phục hồi, thủ tục thanh lý và thủ tục tuyên bố phá sản.
Tính chất đặc biệt của thủ tục phá sản được thể hiện ở những điểm sau đây:
Thứ nhất, thủ tục giải quyết phá sản là một thủ tục đòi nợ tập thể
Trong thủ giải quyết phá sản việc đòi nợ được tiến hành tập thể. Các
chủ nợ không thể tự mình đòi nợ riêng lẻ mà phải tập hợp lại thành một chủ
thể pháp lý duy nhất gọi là hội nghị chủ nợ. Hội nghị chủ nợ sẽ đại diện cho
tất cả các chủ nợ để tham gia vào việc giải quyết phá sản. Nếu tài sản của con
nợ không đủ để thanh toán tất cả các khoản nợ thì các chủ nợ được thanh toán
theo tỷ lệ giữa khoản nợ mà doanh nghiệp phá sản còn thiếu với số tài sản còn
lại của doanh nghiệp.
Thứ hai, thủ tục giải quyết phá sản là thủ tục đòi nợ được tiến hành như
một biện pháp cuối cùng của quá trình đòi nợ
Nếu như thủ tục đòi nợ thông thường có thể được tiến hành bất cứ lúc

nào thì thủ tục phá sản chỉ được áp dụng khi doanh nghiệp mắc nợ đã lâm vào
tình trạng phá sản. Thủ tục phá sản chỉ xuất hiện như một giải pháp cuối cùng
mà các chủ nợ phải sử dụng để đòi nợ khi mà các phương thức đòi nợ thông
thường khác đã không có hiệu quả.
Thứ ba, hậu quả của thủ tục giải quyết phá sản thường là sự chấm dứt
hoạt động của một thương nhân
Trong thủ tục phá sản, Tòa án thường phải đưa ra những quyết định
pháp lý đặc biệt như quyết định áp dụng thủ tục thanh lý để từ đó bán toàn bộ
tài sản của doanh nghiệp thanh toán cho các chủ nợ. Như vậy, hậu quả của thủ
tục giải quyết phá sản thường là sự chấm dứt hoạt động của một doanh
nghiệp. Đặc điểm này khác với tố tụng dân sự hoặc kinh tế bởi vì trong tố
tụng dân sự hoặc kinh tế, sau khi bản án của Tòa án có hiện lực pháp luật thì
con nợ có nghĩa vụ phải chấp hành, nhưng sau khi trả nợ xong thì con nợ vẫn
tồn tại và hoạt động một cách bình thường.

9
Thứ tư, thủ tục giải quyết phá sản không chỉ là thủ tục đòi nợ mà còn là
một thủ tục có khả năng giúp con nợ phục hồi hoạt động của doanh nghiệp
Trong thủ tục phá sản, con nợ được Toà án tạo điều kiện tối đa cho việc
phục hồi hoạt động kinh doanh. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng bởi việc
một doanh nghiệp bị phá sản sẽ không chỉ gây ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích của riêng bản thân chủ doanh nghiệp mà còn ảnh hưởng đến nền kinh tế -
xã hội, khiến người lao động bị mất việc làm Đối với chủ nợ, trong trường
hợp con nợ gặp khó khăn, việc thanh lý ngay con nợ để nhận nợ không phải
bao giờ cũng là giải pháp tối ưu cho họ vì không phải doanh nghiệp nào lâm
vào tình trạng phá sản cũng còn đủ tài sản để thanh toán hết các món nợ của
mình. Vì vậy, pháp luật cho phép con nợ được chủ động xây dựng phương án
hòa giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình.
Thứ năm, thủ tục giải quyết phá sản - một thủ tục pháp lý có tính chất
tổng hợp

Thủ tục giải quyết phá sản là một thủ tục pháp lý rất phức tạp. Tính
phức tạp đó được thể hiện ở chỗ, khi giải quyết việc phá sản, Tòa án phải thụ
lý và giải quyết nhiều công việc, nhiều mối quan hệ khác nhau về tính chất
như giải quyết các vấn đề doanh nghiệp có mất khả năng thanh toán nợ hay
không, giải quyết việc phục hồi hoạt động của doanh nghiệp, việc quản lý tài
sản của doanh nghiệp con nợ.
Thứ sáu, thủ tục giải quyết phá sản bao gồm các thủ tục tồn tại độc lập
với nhau, mặc dù giữa các thủ tục có mối quan hệ nhất định với nhau nhưng
không làm tiền đề cho nhau
Trong thủ tục giải quyết phá sản, nhiệm vụ của các thủ tục cấu thành có
tính độc lập với nhau. Việc thực hiện nhiệm vụ của thủ tục này không phải lúc
nào cũng là tiền đề để thực hiện nhiệm vụ của thủ tục khác. Tuy nhiên giữa
các thủ tục lại có mối quan hệ nhất định với nhau. Và điều này cho phép Tòa

10
án giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản một cách linh hoạt tùy vào các trường
hợp khác nhau.
1.1.2. Các chủ thể tham gia quan hệ tố tụng
Như phần trên đã phân tích, thủ tục phá sản là một thủ tục đòi nợ đặc
biệt, không chỉ xét về quy mô, về tính chất mà còn cả về thành phần chủ thể
tham gia. Để giải quyết xong một vụ phá sản, ít nhất phải có sự tham gia của
các chủ thể như: Toà án, hội nghị chủ nợ, thiết chế (tổ chức, cá nhân) quản lý
tài sản của con nợ và con nợ. Do có nhiều chủ thể tham gia như vậy nên Luật
Phá sản nước nào cũng phải dành một phần lớn các quy phạm pháp luật để
xây dựng cho chúng những địa vị pháp lý nhất định, phù hợp với vai trò, vị
trí, chức năng của chúng trong thủ tục phá sản. Nói cách khác, Nhà nước phải
bằng pháp luật mà quy định rõ các chủ thể đó được làm gì, phải làm gì, mối
quan hệ giữa họ với nhau ra sao để tránh tình trạng dẫm đạp, chồng chéo, mâu
thuẫn hoặc bỏ sót công việc.
Như vậy là, trong thủ tục phá sản, có sự tham gia của nhiều chủ thể

khác nhau, trong đó, có 4 chủ thể quan trọng là: Toà án, con nợ, chủ nợ, người
quản lý tài sản [11].
● Địa vị pháp lý của Toà án
Pháp luật ở các nước trên thế giới đều quy định Toà án là cơ quan duy
nhất có thẩm quyền giải quyết vụ phá sản. Tuy nhiên, điều kiện kinh tế - xã
hội, truyền thống lập pháp cũng như nguyên tắc xây dựng bộ máy nhà nước
của mỗi nước là có sự khác nhau nên việc phá sản có thể được phân công giải
quyết tại các Toà án khác nhau. Ở hầu hết các nước Châu Âu lục địa, Toà án
đó có tên là Toà Thương mại với nhiệm vụ giải quyết nhiều công việc liên quan
đến thương nhân như tranh chấp thương mại và giải quyết phá sản, trong khi
đó, ở một số nước như Mỹ, Thuỵ Điển, Nam Tư lại hình thành Toà án phá
sản riêng để chuyên trách một công việc duy nhất là giải quyết các vụ phá sản.

11
Khi có đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với con nợ, Toà án chỉ định
Thẩm phán thay mặt Nhà nước giải quyết các vấn đề liên quan đến vụ phá
sản. Trong quá trình giải quyết vụ phá sản, Thẩm phán giữ vai trò trung tâm,
là chủ thể có vai trò quyết định trong việc giải quyết các vấn đề pháp lý cơ
bản. Các quyết định của Thẩm phán về các vấn đề này đều có tính chất bắt
buộc đối với các chủ thể có liên quan.
Tuy nhiên, theo pháp luật phá sản của nhiều nước trên thế giới như
Đức, Pháp, Nhật Bản, Anh, CHLB Nga… vai trò của Thẩm phán lại rất hạn
chế. Thẩm phán không có nhiệm vụ giám sát, kiểm tra hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp, lại càng không có trách nhiệm chủ trì việc tổ chức lại hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sau khi đã ra quyết định mở thủ
tục phá sản đối với nó. Một chủ thể pháp lý đặc biệt được gọi là quản tài viên
(người quản lý tài sản), được Toà án bổ nhiệm trên cơ sở giới thiệu của chủ
doanh nghiệp hoặc chủ nợ có trách nhiệm thay chủ doanh nghiệp tiến hành
việc tổ chức lại doanh nghiệp. Trong trường hợp này, Toà án chỉ đóng vai trò
là chủ thể thực hiện việc giám sát quá trình giải quyết phá sản nhằm bảo đảm

cho các bên phải tuân thủ đúng pháp luật.
Tóm lại, vai trò của Toà án trong thủ tục phá sản được quy định ở
các nước là không giống nhau. Tuy nhiên, nhìn chung, có thể thấy một
điểm chung, mang tính phổ biến, đó là là Toà án có vai trò rất lớn trong
việc giải quyết các vấn đề pháp lý nhưng lại có vai trò rất khiêm tốn trong
việc giải quyết các vấn đề có tính chất kinh tế phát sinh trong quá trình giải
quyết phá sản.
● Địa vi pháp lý của con nợ
Hơn ai hết, con nợ là người hiểu được tình hình sản xuất, kinh doanh
cũng như thực trạng tài chính của mình. Nhằm bảo vệ trước hết là lợi ích của
chủ nợ nên Luật Phá sản của nhiều nước (Cộng hòa liên bang Nga ) đã đưa
ra quy định, theo đó, con nợ có nghĩa vụ phải nộp đơn lên Toà án để xin mở

12
thủ tục phá sản khi phát hiện được rằng mình đã lâm vào tình trạng mất khả
năng thanh toán. Theo đó, nghĩa vụ của con nợ trong việc làm đơn ra Toà án
để yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với chính mình đã được pháp luật các nước
này ghi nhận một cách chính thức. Ngoài ra, để bảo đảm tính thực thi của
nghĩa vụ này thì Luật Phá sản đã đưa ra những quy định cụ thể, theo đó, nếu
không thực hiện nghĩa vụ của mình thì người có lỗi sẽ phải gánh chịu một số
chế tài nhất định, kể cả chế tài hình sự.
Trong khi đó, pháp luật phá sản của một số nước có xu hướng bảo vệ
con nợ như Thuỵ Điển, Pháp, Bỉ, Lúc xăm bua và các nước từng là thuộc địa
của Pháp… thì lại quy định rằng việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản là
quyền chứ không phải là nghĩa vụ của họ. Việc con nợ nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản được coi là cơ hội để con nợ giải thoát mình khỏi tình trạng
khó khăn về tài chính, vì vậy, việc nộp đơn hay không là tuỳ thuộc vào ý chí
của con nợ, Nhà nước không nên buộc họ phải làm.
Theo pháp luật phá sản của một số nước, sau khi bị mở thủ tục phá sản,
con nợ vẫn có quyền hoạt động kinh doanh bình thường nhưng phải chịu một

số hạn chế nhất định về quyền đối với tài sản cũng như về quyền trong hoạt
động điều hành doanh nghiệp. Nhiều nước như Đức, Nhật, Latvia… đã quy
định rằng, sau khi mở thủ tục phá sản thì con nợ bị tước quyền định đoạt tài
sản trong một số trường hợp và nếu bị cấm mà con nợ vẫn định đoạt thì
những hành vi định đoạt tài sản này bị pháp luật coi là vô hiệu
● Địa vị pháp lý của chủ nợ
Như phần trên đó nói, mục đích đầu tiên, cơ bản và quan trọng nhất của
thủ tục phá sản là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Nếu
các chủ nợ có thể đòi được các món nợ của mình bằng con đường tố tụng
thông thường thì không cần phải có thủ tục phá sản, không có việc giải quyết
phá sản. Nói cách khác, thủ tục phá sản là con đường cuối cùng mà các chủ
nợ bắt buộc phải đi nếu như muốn đòi được các món nợ của mình. Chính vì

13
lợi ích của chủ nợ được đề cao như vậy nên pháp luật phá sản nước nào cũng
dành cho chủ nợ một địa vị pháp lý rất đặc biệt. Như phần trên đã phân tích,
thủ tục phá sản là một thủ tục đòi nợ tập thể. Điều đó có nghĩa là, trong thủ
tục phá sản, mặc dù có nhiều chủ nợ tham gia nhưng từng người trong số họ
không được xé lẻ để đòi nợ riêng cho mình mà tất cả họ phải được tập hợp lại
thành một chủ thể pháp lý duy nhất để tham gia thủ tục phá sản. Chủ thể đó
được pháp luật các nước gọi là Hội nghị chủ nợ. Luật các nước đều có quy
định Hội nghị chủ nợ là cơ quan đại diện cao nhất cho ý chí của các chủ nợ,
có quyền quyết định những vấn đề quan trọng nhất liên quan đến lợi ích của
chủ nợ. Vì vậy, Hội nghị chủ nợ mới là chủ thể có quyền thông qua hay
không thông qua kế hoạch phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh
nghiệp do con nợ hoặc chủ thể khác được pháp luật quy định soạn thảo. Nếu
Hội nghị chủ nợ không thông qua kế hoạch này thì coi như con nợ đã hết khả
năng được phục hồi, cho dù họ có quyết tâm đến mấy.
Về cơ bản, địa vị pháp lý của các chủ nợ trong pháp luật phá sản các
nước không có sự khác biệt lớn. Các chủ nợ đều có quyền nộp đơn yêu cầu

mở thủ tục phá sản; có quyền quyết định về việc con nợ được áp dụng thủ tục
phục hồi hay thủ tục thanh lý; kiến nghị Toà án áp dụng các biện pháp cần
thiết để bảo toàn tài sản của con nợ… Tóm lại, trong quá trình giải quyết vụ
việc phá sản, các chủ nợ đều được tham gia vào hầu hết các giai đoạn từ khởi
kiện đến thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp và có vai trò rất
lớn trong việc giải quyết nhiều vấn đề quan trọng phát sinh từ quá trình giải
quyết một vụ việc phá sản cụ thể.
● Địa vị pháp lý của người quản lý tài sản (Tổ quản lý, thanh lý tài sản)
Khi lâm vào tình trạng phá sản thì con nợ thường có những hành vi như
cất giấu, tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh trách nhiệm trả nợ. Do đó cần có sự
kiểm tra, giám sát của một thiết chế (cơ quan, tổ chức hay một nhóm người
nào đó) có thẩm quyền thì khối tài sản này mới được bảo toàn và lợi ích của

14
các chủ nợ mới không bị xâm phạm. Vì vậy, việc quản lý tài sản của doanh
nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản là một trong những vấn đề cơ bản mà
pháp luật phá sản của các nước đều rất quan tâm giải quyết. Trước hết, Nhà
nước phải thành lập ra một thiết chế nào đó và sau đó là phải quy định cho nó
một địa vị pháp lý nhất định. Pháp luật phá sản các nước gọi tên của thiết chế
này một cách rất khác nhau nhưng xét về vị trí mà nói thì đây là một chủ thể
rất quan trọng trong tố tụng phá sản của bất cứ quốc gia nào.
Nhìn chung, trong pháp luật phá sản các nước thì thiết chế này thường
được gọi là nhân viên quản lý tài sản (Trustee). Tuy nhiên, do điều kiện kinh
tế - xã hội của các nước là khác nhau nên việc quy định về cơ cấu tổ chức
cũng như vị trí, vai trò của các thiết chế này cũng có sự khác nhau. Đa số các
nước có nền kinh tế phát triển như Đức, Úc, Pháp, Nhật Bản đều yêu cầu
phải có một nhân viên do Toà án bổ nhiệm để thực hiện chức năng quản lý tài
sản của con nợ lâm vào tình trạng phá sản và giao cho nhân viên này một
thẩm quyền khá rộng rãi trong quá trình giải quyết phá sản. Theo đó, người
quản lý tài sản không chỉ có quyền giám sát, kiểm tra hoạt động của con nợ

sau khi mở thủ tục phá sản mà con có các quyền như triệu tập và chủ trì Hội
nghị chủ nợ, quyết quyết định huỷ bỏ hay công nhận các giao dịch pháp lý mà
con nợ đã thực hiện…
Ở các nước đang phát triển thì vai trò của thiết chế quản lý tài sản
của con nợ được quy định khiêm tốn hơn. Về cơ bản, ở các nước này, việc
quản lý tài sản của con nợ được giao cho một nhóm người được gọi là Tổ
quản lý tài sản do Toà án ra quyết định thành lập. Tổ quản lý tài sản này
hoạt động dưới sự kiểm tra, giám sát của Thẩm phán, chịu trách nhiệm
trước Thẩm phán về việc thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ của mình. Tổ
quản lý tài sản có quyền giám sát, kiểm tra việc quản lý tài sản cả về mặt
hiện vật cũng như trên sổ sách của doanh nghiệp và về cơ bản có chức năng
như một công cụ của Toà án, giúp Toà án trong việc giải quyết các vấn đề

15
phát sinh liên quan đến việc xác định tài sản, bán đấu giá tài sản và phân
chia tài sản của con nợ…
1.1.3. Các giai đoạn của giải quyết phá sản
Việc phá sản doanh nghiệp tại Việt Nam được quy định trong Luật phá
sản năm 2004 và các văn bản hướng dẫn liên quan. Doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản là doanh nghiệp không có khả năng thanh toán các khoản
nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu. Theo đó, thủ tục phá sản được áp dụng đối
với doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản gồm các bước: (i) Nộp đơn yêu
cầu và mở thủ tục phá sản; (ii) Phục hồi hoạt động kinh doanh; (iii) Thanh lý
tài sản, các khoản nợ; (iv) Tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản. Thủ tục này có
thể khái quát như sau:
● Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
Chủ nợ có bảo đảm một phần hay không được bảo đảm, người đại diện
của người lao động hoặc đại diện công đoàn, cổ đông hoặc nhóm cổ đông của
công ty cổ phần, thành viên hợp danh của công ty hợp danh, chủ doanh
nghiệp, người đại diện hợp pháp của doanh nghiệp trong một số trường hợp

do pháp luật quy định có quyền nộp đơn yêu cầu Tòa án mở thủ tục phá sản
doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào trình trạng phá sản.
● Cơ quan có thẩm quyền giải quyết thủ tục phá sản
Toà án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền tiến hành thủ tục phá sản
đối với doanh nghiệp đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh
cấp huyện đó, Toà án nhân dân cấp tỉnh xử lý các vụ việc liên quan đến các
đối tượng còn lại. Việc tiến hành thủ tục phá sản tại Toà án nhân dân cấp
huyện do một Thẩm phán phụ trách, tại Toà án nhân dân cấp tỉnh do một
Thẩm phán hoặc Tổ Thẩm phán gồm có ba Thẩm phán phụ trách.
● Thụ lý đơn và Thủ tục Tòa án
Trong thời hạn ba mươi (30) ngày sau khi thụ lý đơn, Tòa án sẽ xem
xét đưa ra Quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản sau khi xem xét tất
cả các căn cứ chứng minh doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.

16
Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, căn cứ vào quy định cụ thể
của Luật này, Thẩm phán quyết định áp dụng một trong hai thủ tục phục hồi
hoạt động kinh doanh và thanh lý tài sản, các khoản nợ hoặc quyết định
chuyển từ áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh sang áp dụng thủ
tục thanh lý tài sản, các khoản nợ hoặc tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản.
Trong thời hạn bảy (07) ngày kể từ ngày ra quyết định mở thủ tục phá
sản, Tòa án sẽ thông báo quyết định mở thủ tục phá sản đến doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản và thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản để quản lý,
thanh lý tài sản của doanh nghiệp đó.
● Tổ quản lý, thanh lý tài sản
Tổ quản lý, thanh lý tài sản được lập để quản lý, giám sát việc sử dụng
tài sản của doanh nghiệp sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản doanh
nghiệp và chịu trách nhiệm trước thẩm phán về việc thực hiện quyền và nghĩa
vụ của mình.
● Các hoạt động kinh doanh được cho phép trong quá trình phá sản

Trong quá trình phá sản doanh nghiệp, mọi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp vẫn được tiến hành bình thường nhưng phải chịu sự giám sát,
kiểm tra của thẩm phán và tổ quản lý tài sản. Có một số hoạt động theo quy
định của Luật Phá sản bị cấm và một số hoạt động khác chỉ được phép thực
hiện sau khi có sự đồng ý bằng văn bản của Thẩm phán.
● Hội nghị chủ nợ và phục hồi hoạt động kinh doanh
Hội nghị chủ nợ được Thẩm phán triệu tập và chủ trì để thông qua các
vấn đề về kiểm kê tài sản, phê duyệt phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh, phương án thanh lý tài sản và các vấn đề khác liên quan.
Thẩm phán ra quyết định áp dụng phục hồi hoạt động kinh doanh khi
được Hội nghị chủ nợ lần thứ nhất thông qua phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh. Thời hạn để doanh nghiệp thực hiện phương án phục hồi hoạt
động kinh doanh là 03 năm.

17
Khi doanh nghiệp đã hoàn thành xong phương án phục hồi kinh doanh,
Thẩm phán ra quyết định đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh và
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được coi không còn lâm vào tình
trạng phá sản.
● Thanh lý tài sản
Trong những trường hợp sau, Thẩm phán ra quyết định thanh lý tài sản
của doanh nghiệp bị yêu cầu mở thủ tục phá sản:
- Doanh nghiệp đã được áp dụng các biện pháp phục hồi kinh doanh
nhưng vẫn không phục hồi được và không thanh toán được nợ đến hạn khi
chủ nợ có yêu cầu;
- Hội nghị chủ nợ không thành do chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp
pháp của doanh nghiệp không tham gia Hội nghị chủ nợ hoặc không có đủ số
chủ nợ tham gia Hội nghị chủ nợ;
- Hội nghị chủ nợ ra nghị quyết thông qua giải pháp dự kiến phục hồi
hoạt động kinh doanh nhưng doanh nghiệp không xây dựng phương án phục

hồi hoạt động kinh doanh hoặc thực hiện không đúng phương án phục hồi
hoạt động kinh doanh.
Sau khi đã thanh toán các khoản nợ có bảo đảm bằng tài sản thế chấp
hoặc cầm cố, việc phân chia, thanh lý các tài sản còn lại của doanh nghiệp phá
sản sẽ thực hiện theo quyết định của Thẩm phán theo thứ tự ưu tiên: Chi phí
cho việc giải quyết phá sản doanh nghiệp; Lương, trợ cấp, bảo hiểm xã hội
của người lao động của doanh nghiệp; Các khoản nợ không có bảo đảm phải
trả cho các chủ nợ trong danh sách chủ nợ theo nguyên tắc luật định.
● Tuyên bố phá sản doanh nghiệp
Sau khi phương án phân chia tài sản đã được thực hiện xong, Thẩm
phán sẽ ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp đồng thời với việc ra
quyết định đình chỉ thủ tục thanh lý tài sản.

18
1.2. Khái quát về vai trò của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá
sản doanh nghiệp
1.2.1. Vai trò trung tâm của Tòa án trong giải quyết yêu cầu phá sản
doanh nghiệp
Theo quy định của Luật Phá sản năm 2004 về vị trí, vai trò, chức năng,
nhiệm vụ của các chủ thể tham gia giải quyết phá sản cho thấy, Tòa án có vị
trí trung tâm và giữ vai trò quyết định trong mọi giai đoạn của tố tụng phá sản
ở Việt Nam. Chỉ Tòa án mới là cơ quan duy nhất có thẩm quyền ra quyết định
tuyên bố phá sản doanh nghiệp và doanh nghiệp bị coi là phá sản về mặt pháp
lý khi và chỉ khi có quyết định tuyên bố phá sản của cơ quan Tòa án có thẩm
quyền. Việc trao cho Tòa án một vai trò to lớn như vậy là một nét đặc thù cơ
bản của Luật Phá sản doanh nghiệp nước ta so với Luật Phá sản doanh nghiệp
của nhiều nước trên thế giới. Điều này được quy định bởi các đặc điểm của
nền kinh tế và xã hội nước ta. Hiện tượng phá sản ở nước ta diễn ra gay gắt,
trong khi đó, giải quyết phá sản lại là một quá trình hết sức phức tạp kéo dài.
Pháp luật về phá sản có nhiệm vụ bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ nợ, cho

các doanh nghiệp bị mắc nợ, cho người lao động, đảm bảo trật tự an toàn xã
hội và góp phần có hiệu quả vào việc cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân. Chính
vì vậy, việc trao nhiều quyền hạn cho Tòa án trong việc giải quyết phá sản kể
từ khi thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp cho tới khi giải
quyết xong mối quan hệ tài sản giữa chủ nợ và doanh nghiệp phá sản là phù
hợp với tình hình kinh tế, xã hội, văn hóa của nước ta.
Vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Tòa án theo Luật phá sản
năm 2004 và Nghị quyết số 03/2005/NQ-HĐTP ngày 28/4/2005 của Hội
đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật
phá sản, gồm:
● Thụ lý và ra quyết định mở hoặc không mở thủ tục phá sản (Điều
22,28).

19
Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền thụ lý và quyết định mở hay
không mở thủ tục phá sản. Sau khi nhận được đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản, Tòa án có quyền yêu cầu người nộp đơn, Doanh nghiệp lâm vào tình
trạnh phá sản cung cấp thêm giấy tờ, tài liệu làm cơ sở cho việc thụ lý cũng
như quyết định mở thủ tục phá sản (Điều 22,23). Trong trường hợp thụ lý đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản thì Tòa án có thể triệu tập phiên họp với sự tham
gia của người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, chủ doanh nghiệp hoặc đại
diện hợp pháp của doanh nghiệp bị yêu cầu mở thủ tục phá sản, cá nhân, tổ
chức liên quan để xem xét, kiểm tra căn cứ chứng minh doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản. Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản khi có căn cứ
chứng minh doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Ngược lại, nếu không
có căn cứ chứng minh doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì Tòa án sẽ
ra quyết định không mở thủ tục phá sản (Điều 28).
● Quyết định thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản khi mở thủ tục phá
sản (Điều 9).
Trong trường hợp quyết định mở thủ tục phá sản, Thẩm phán ra quyết

định thành lập Tổ quản lý, thanh lý tài sản để làm nhiệm vụ quản lý, thanh lý
tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
● Quyết định việc áp dụng các thủ tục phục hồi (Điều 68), thủ tục thanh
lý (Điều 78, 79, 80) hoặc tuyên bố doanh nghiệp bị phá sản (Điều 86, 87).
So với Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993, Luật Phá sản năm 2004
đã quy định cho Tòa án, mà cụ thể là Thẩm phán, một quyền hạn lớn hơn
trong việc giải quyết phá sản khi quy định nhiều loại thủ tục khác nhau (Điều
5), bao gồm: Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh; Thủ tục thanh lý tài sản;
Thủ tục tuyên bố phá sản.
Trường hợp những doanh nghiệp không có khả năng phục hồi hoặc
không xây dựng được phương án phục hồi. Thẩm phán sẽ áp dụng ngay thủ
tục thanh lý tài sản (Điều 78, 80), thậm chí nếu xác định tài sản còn lại của

20
doanh nghiệp không đủ để thanh toán chi phí phá sản thì Thẩm phán có thể
tuyên bố doanh nghiệp đó phá sản ngay (Điều 87). Thẩm phán ra quyết định
áp dụng thủ tục phục hồi được căn cứ trên cơ sở Nghị quyết của Hội nghị chủ
nợ đồng ý với các giải pháp tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh, kế
hoạch thanh toán nợ cho các chủ nợ mà doanh nghiệp đề xuất. Trong quá
trình áp dụng thủ tục phục hồi, nếu doanh nghiệp thực hiện không đúng hoặc
không thực hiện được phương án phục hồi hoạt động kinh doanh thì Thẩm
phán cũng có thể quyết định chuyển từ thủ tục phục hồi sang áp dụng thủ tục
thanh lý tài sản (Điều 80).
● Giám sát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sau khi có quyết
định mở thủ tục phá sản (Điều 30).
Sau khi có quyết định mở thủ tục phá sản, mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp vẫn được tiến hành bình thường nhưng phải chịu sự
giám sát, kiểm tra của Thẩm phán và Tổ quản lý, thanh lý tài sản. Vai trò
giám sát, kiểm tra của Tòa án đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
được thể hiện ở các quy định sau:

- Trong trường hợp xét thấy người quản lý của doanh nghiệp không có
khả năng điều hành hoặc nếu tiếp tục điều hành hoạt động kinh doanh sẽ
không có lợi cho việc bảo toàn tài sản của doanh nghiệp thì Thẩm phán có thể
quyết định của người khác làm người quản lý, điều hành doanh nghiệp theo
yêu cầu của Hội nghị chủ nợ (khoản 2 Điều 30);
- Giám sát ngăn ngừa doanh nghiệp thực hiện các hành vi cất giấu, tẩu
tán tài sản hoặc thực hiện các hành vi làm thiệt hại lợi ích chung của các chủ
nợ như: thanh toán nợ không có bảo đảm, từ bở hoặc giảm bớt quyền đòi nợ,
chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm bằng tài sản của
doanh nghiệp (Điều 31);
- Các giao dịch của doanh nghiệp về cầm cố, thế chấp, chuyển nhượng,
bán, tặng, cho, cho thuê tài sản; nhận tài sản từ một hợp đồng chuyển nhượng;

21
chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lục; vay tiền; bán, chuyển đổi cổ
phần hoặc chuyển quyền sở hữu tài sản; thanh toán các khoản nợ mới phát
sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và trả lương cho người lao
động trong doanh nghiệp phải được sự đồng ý bằng văn bản của Thẩm phán
trước khi thực hiện (Điều 31).
● Quyết định áp dụng các biện pháp cần thiết nhằm bảo toàn tài sản
của Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Hoàn thiện cơ chế bảo toàn tài sản của doanh nghiệp, Luật Phá sản năm
2004 trao cho Thẩm phán một số quyền hạn sau đây:
- Tuyên bố vô hiệu các giao dịch mà doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản đã thực hiện trong khoảng thời gian ba tháng trước ngày Tòa án thụ lý
đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo yêu cầu của chủ nợ không có bảo đảm,
Tổ quản lý, thanh lý tài sản (Điều 43,44);
- Quyết định đình chỉ thực hiện hợp đồng đang có hiệu lực nếu xét thấy
việc đình chỉ thực hiện hợp đồng đó có lợi hơn cho doanh nghiệp theo yêu
cầu của chủ nợ, doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, Tổ trưởng Tổ quản

lý, thanh lý tài sản (Điều 45);
- Quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo toàn tài
sản của doanh nghiệp theo các đề nghị của Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài
sản (Điều 55).
● Giải quyết các vụ án bị đình chỉ liên quan đến doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản (Điều 58).
Theo quy định của Luật Phá sản năm 2004, kể từ ngày thụ lý đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản thì việc giải quyết vụ án đòi doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản thực hiện nghĩa vụ về tài sản sẽ bị tạm đình chỉ. Trong
trường hợp Tòa án ra quyết định mở thủ tục phá sản, việc giải quyết các vụ án
có liên quan đến nghĩa vụ tài sản mà doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
là một bên đương sự trong vụ án đó sẽ bị đình chỉ và giao cho Tòa án đang

×