Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Vai trò của tòa án trong giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.13 MB, 77 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THỊ THÚY

vai trß cña tßa ¸n
trong gi¶i quyÕt tranh chÊp hîp ®ång tÝn dông

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

VŨ THỊ THÚY

vai trß cña tßa ¸n
trong gi¶i quyÕt tranh chÊp hîp ®ång tÝn dông
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN HIỀN PHƢƠNG

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Vũ Thị Thúy


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA
ÁN TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
TÍN DỤNG .......................................................................................... 5
1.1.

Khái quát về tranh chấp hợp đồng tín dụng ................................... 5

1.1.1. Khái niệm hợp đồng tín dụng ............................................................... 5
1.1.2. Khái niệm tranh chấp hợp đồng tín dụng ............................................. 7

1.1.3. Các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng và vai
trò của Tòa án ..................................................................................... 12
1.2.

Khái quát chung về vai trò của Tòa án .......................................... 23

1.3.

Vai trò của Tòa án trong giải quyết tranh chấp hợp đồng
tín dụng ............................................................................................. 25

1.3.1.

Vai trò của Tòa án trong giai đoạn thụ lý vụ án và chuẩn bị xét xử........ 25

1.3.2. Vai trò của Tòa án trong giai đoạn xét xử vụ án ................................ 31
1.3.3. Vai trò của Tòa án trong giai đoạn thi hành án .................................. 34
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 36
Chƣơng 2: THỰC TIỄN THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN
TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG ..... 37
2.1.

Thực tiễn thực hiện vai trò của Tòa án trong giai đoạn thụ lý
vụ án và chuẩn bị xét xử .................................................................. 37


2.2.

Thực tiễn thực hiện vai trò của Tòa án trong giai đoạn xét
xử vụ án ............................................................................................ 43


2.3.

Thực tiễn thực hiện vai trò của Tòa án trong giai đoạn thi
hành án .............................................................................................. 50

Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 54
Chƣơng 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN
TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG ..... 55
3.1.

Một số giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật hiện hành về
giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Tòa án .................... 55

3.1.1. Sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về áp dụng thủ tục
rút gọn đối với giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Tòa án.... 55
3.1.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về chứng minh và chứng cứ ............. 58
3.2.

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng tại Tòa án ............... 61

3.2.1. Nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm phán............................................ 61
3.2.2. Nâng cao năng lực của cán bộ tín dụng ngân hàng ............................ 65
3.2.3. Nâng cao ý thức pháp luật của các doanh nghiệp và người dân ........ 66
KẾT LUẬN .................................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 69


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS:

Bộ luật Dân sự

BLTTDS:

Bộ luật Tố tụng dân sự

HĐTD:

Hợp đồng tín dụng

NHNN:

Ngân hàng Nhà nước

NHTM:

Ngân hàng thương mại

NHTMCP:

Ngân hàng thương mại cổ phần

TAND:

Tòa án nhân dân

TANDTC:


Tòa án nhân dân tối cao

TCTD:

Tổ chức tín dụng


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, nước ta đang trong giai đoạn phát triển kinh tế nên các giao
dịch hàng hóa, tiền tệ trong xã hội diễn ra hàng ngày rất đa dạng, phong phú
đặc biệt trong các tổ chức tín dụng - nơi cung cấp vốn chủ yếu cho nền kinh
tế. Để bảo đảm an toàn về mặt pháp lý, các bên trong giao dịch chọn hình
thức giao dịch thông qua hợp đồng tín dụng để ghi nhận sự thỏa thuận giữa
các bên, là cơ sở để pháp luật bảo vệ quyền lợi của các bên khi có tranh chấp.
Trong thực tiễn ta nhận thấy HĐTD ngân hàng có nhiều vấn đề phức tạp và
chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro nên rất dễ dẫn đến tranh chấp của các bên trong
hợp đồng. Khi lợi ích giữa các bên không đạt được, không thể cùng nhau thoả
thuận thì thông thường bên bị ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp sẽ
làm thủ tục khởi kiện ra toà án để được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình. Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng
của Tòa án đóng vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và đặc biệt là góp
phần đưa đất nước phát triển đi lên như mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta đề
ra. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường hiện nay các giao dịch dân sự, đặc
biệt là các giao dịch thông qua HĐTD ngân hàng diễn ra ngày càng nhiều trên
phạm vi rộng, gây khó khăn cho việc giải quyết các tranh chấp này ở Tòa án.
Trước tình hình đó cần phải hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật liên quan đến
việc giải quyết tranh chấp HĐTD và nâng cao vai trò của Tòa án trong việc
giải quyết loại tranh chấp này. Do đó, việc nghiên cứu về vai trò của Tòa án

trong giải quyết tranh chấp HĐTD dưới cả góc độ lý luận và thực tiễn để có
một nhận thức toàn diện về cơ chế giải quyết loại tranh chấp này tại Tòa án là
rất cần thiết. Vì vậy, em đã lựa chọn đề tài “Vai trò của Tòa án trong giải
quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
1


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giải quyết tranh chấp HĐTD là vấn đề không chỉ nhận được sự quan
tâm của giới kinh doanh mà còn là vấn đề quan tâm của các nhà khoa học
pháp lý nhằm tạo dựng một cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD
một cách hiệu quả, góp phần tạo ra một môi trường thuận lợi, thúc đẩy cho
hoạt động tài chính ngân hàng phát triển lành mạnh. Chính vì vậy đã có nhiều
công trình nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau về những vấn đề liên quan đến
giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD. Đến nay đã có không ít các công
trình và bài nghiên cứu về lĩnh vực này. Từ năm 2002 tại trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh đã có khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Pháp luật giải
quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD ngân hàng” của tác giả Nguyễn Cao
Cường. Năm 2003 có “Pháp luật giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD
ngân hàng – Thực trạng và giải pháp” của Nguyễn Kiều Anh Thư, hai công
trình này được viết vào thời điểm trước năm 2004 khi Luật ngân hàng nhà
nước Việt Nam và Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 chưa có sự sửa đổi, bổ
sung. Gần đây nhất là là khóa luận tốt nghiệp của tác giả Nguyễn Thị Kim
Thoa, “Tranh chấp HĐTD ngân hàng – nguyên nhân và giải pháp qua thực
tiễn giải quyết tại Tòa án” năm 2008. Tại trường Đại học Luật Hà Nội cũng
có một số khóa luận tốt nghiệp như “Giải quyết tranh chấp HĐTD tại Tòa án
ở Việt Nam” của Lê Thúy Hằng năm 2003 hay “Giải quyết tranh chấp HĐTD
tại Tòa án – Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Thị Thu Hằng
năm 2008… Ngoài ra còn rất nhiều công trình nghiên cứu, báo cáo khoa học
và bài viết của các tác giả khác liên quan đến vấn đề này. Tuy nhiên các công

trình này chỉ dừng lại ở mức độ nghiên cứu về giải quyết những tranh chấp
phát sinh từ HĐTD nói chung, chưa làm nổi bật được vai trò quan trọng của
Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp HĐTD ở Việt Nam.
Như vậy, cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào tập trung

2


sâu sắc và trực tiếp đến vai trò của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp
HĐTD. Vì vậy, luận văn tốt nghiệp này về cơ bản là mới, chưa được nghiên
cứu tổng thể, toàn diện. Đề tài được thực hiện trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc
và kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình đi trước.
3. Nội dung và phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn bao gồm những vấn đề lý luận về vai
trò của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp HĐTD và thực tiễn về việc
thực hiện vai trò của Tòa án trong lĩnh vực này.
Nội dung của luận văn đề cập tới các vấn đề:
- Lý luận cơ bản về tranh chấp tranh chấp HĐTD và vai trò của Tòa án
trong việc giải quyết. Với nội dung này, luận văn xác định mục đích nghiên
cứu kiến thức cơ bản và làm sâu sắc hơn những vấn đề chung về vai trò của
Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp HĐTD;
- Thực tiễn thực hiện vai trò của Tòa án trong giải quyết tranh chấp
HĐTD, nêu lên những thành công và hạn chế đồng thời cũng chỉ rõ nguyên
nhân của những hạn chế còn tồn tại để làm cơ sở cho việc đề xuất các giải
pháp nâng cao vai trò của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp HĐTD;
- Đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Tòa án
trong giải quyết tranh chấp HĐTD. Những đề xuất được đưa ra trên cơ sở đáp
ứng yêu cầu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả việc thực hiện vai trò
của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp HĐTD.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận văn được sử dụng phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng
phương pháp lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch để phục
vụ cho hoạt động nghiên cứu theo từng nội dung của đề tài.

3


5. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng
Luận văn đã nghiên cứu kiến thức cơ bản và làm sâu sắc hơn những
vấn đề chung về vai trò của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp HĐTD.
Đồng thời, luận văn đã khắc họa được bức tranh thực tiễn về việc thực hiện
vai trò của Tòa án trong giải quyết tranh chấp HĐTD với những điểm thành
công và hạn chế, đặc biệt là đã chỉ ra được nguyên nhân của những hạn chế
còn tồn tại để làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao vai trò
của Tòa án trong việc giải quyết tranh chấp HĐTD. Những đề xuất được nêu
ra trên cơ sở đáp ứng yêu cầu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả việc
thực hiện vai trò của Tòa án trong giải quyết tranh chấp HĐTD nên có giá trị
khoa học cao, có thể tham khảo trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
6. Bố cục của luận văn gồm
Lời mở đầu.
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về vai trò của Tòa án trong giải
quyết tranh chấp HĐTD.
Chương 2: Thực tiễn thực hiện vai trò của Tòa án trong giải quyết
tranh chấp HĐTD ở Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị nâng cao vai trò của Tòa án trong giải
quyết tranh chấp HĐTD ở Việt Nam.
Phần kết luận.

4



Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ VAI TRÒ CỦA TÒA ÁN TRONG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG
1.1. Khái quát về tranh chấp hợp đồng tín dụng
Dưới góc độ khoa học pháp lý và thực tiễn cho thấy phải có HĐTD mới
có tranh chấp phát sinh từ HĐTD. Vì thế, trước hết cần xem xét một cách khái
quát về bản chất HĐTD để làm rõ những vấn đề về tranh chấp HĐTD.
1.1.1. Khái niệm hợp đồng tín dụng
Quan hệ cho vay được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lý
là HĐTD. HĐTD có bản chất pháp lý chung của hợp đồng dân sự - được quy
định tại Điều 388 Bộ luật dân sự 2005: "Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi quyền, nghĩa vụ dân sự” [15].
Luật các tổ chức tín dụng năm 1997, Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của Luật các tổ chức tín dụng năm 2004, năm 2010 không đưa ra định nghĩa
về HĐTD song từ định nghĩa về hợp đồng dân sự và căn cứ vào bản chất hoạt
động cho vay của các tổ chức tín dụng có thể hiểu về HĐTD như sau:
HĐTD ngân hàng là sự thỏa thuận bằng văn bản giữa ngân hàng (bên
cho vay) với tổ chức, cá nhân có đủ những điều kiện do luật định (bên vay).
Căn cứ vào hợp đồng, ngân hàng chuyển giao một số tiền cho bên vay sử
dụng trong một thời hạn nhất định, với điều kiện hoàn trả cả gốc và lãi.
Theo quy định tại Điều 17 Quyết định 1627/2011/QĐ-NHNN ngày 31
tháng 12 năm 2001 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước về việc ban hành quy
chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng thì HĐTD ngân hàng
“phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay, phương thức cho
vay, số vốn vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo
đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thoả thuận” [24].

5



Về chủ thể, bên cho vay trong HĐTD luôn là TCTD. Bên vay là các tổ
chức, cá nhân đáp ứng các điều kiện vay vốn theo quy định của pháp luật và
quy chế cho vay của TCTD.
Về hình thức, sự thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng với tổ chức, cá nhân
có đủ điều kiện luật định phải được thể hiện bằng hình thức pháp lý là văn
bản. Việc tồn tại HĐTD bằng lời nói là không khả thi bởi tầm quan trọng của
việc giao kết, thực hiện và giải quyết tranh chấp phát sinh từ HĐTD. Với
HĐTD bằng văn bản, các bên có thể thực hiện hợp đồng trong sự đảm bảo an
toàn pháp lý và khi có tranh chấp xảy ra, HĐTD sẽ là căn cứ xác thực nhất để
các cơ quan tài phán giải quyết tranh chấp.
Trên thực tế, mẫu hợp đồng mà các ngân hàng đưa ra không phải là hợp
đồng mẫu theo quy định của BLDS, mà chỉ là bản thảo để thuận tiện trong
quá trình đàm phán ký kết hợp đồng. Bên vay hoàn toàn có thể thỏa thuận với
ngân hàng thay đổi bất kỳ nội dung nào. Tuy nhiên, trên thực tế thì bên vay
thường phải chấp nhận những điều khoản thiên về ràng buộc chặt chẽ đối với
bên vay và có lợi cho ngân hàng.
So với hợp đồng thương mại, hợp đồng tín dụng thường có điểm khác
là thường rất nhiều văn bản có các yếu tố như một hợp đồng như đơn đề nghị
vay vốn, hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ… Chẳng hạn trong đơn đề nghị
vay vốn có nhiều nội dung cơ bản của hợp đồng tín dụng như số tiền vay, mục
đích vay, thời hạn vay, lãi suất vay và cam kết của bên vay. Trường hợp ngân
hàng ký chấp thuận những nội dung đó, thì hoàn toàn có thể thay thế cho một
bản hợp đồng tín dụng.
Về nội dung, bên cho vay đồng ý cho bên vay được sử dụng một số tiền
trong thời hạn nhất định, với điều kiện có hoàn trả cả gốc và lãi được các bên
thỏa thuận phù hợp với quy định của pháp luật và được ghi rõ trong hợp đồng.
Việc ký kết và thực hiện HĐTD ngân hàng giữa các bên phải dựa trên


6


nguyên tắc: Tự nguyện, cùng có lợi, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, trực tiếp
chịu trách nhiệm về tài sản và không trái với pháp luật.
1.1.2. Khái niệm tranh chấp hợp đồng tín dụng
Trong khoa học pháp lý, tranh chấp được hiểu là những mâu thuẫn, bất
đồng về quyền và nghĩa vụ giữa các bên phát sinh trong quá trình thực hiện
giao dịch. Trên cơ sở đó, có thể hiểu tranh chấp phát sinh từ HĐTD là tình
trạng pháp lý trong quan hệ HĐTD, mà ở đó các bên thể hiện sự xung đột,
hay bất đồng ý chí với nhau về những quyền và nghĩa vụ phát sinh từ HĐTD.
Một HĐTD chỉ được coi là tranh chấp khi sự xung đột, bất đồng về phương
diện quyền lợi giữa các bên đã được thể hiện ra bên ngoài (mặt khách quan)
thông qua những bằng chứng cụ thể và có thể xác định được. Có thể hiểu khái
quát: Tranh chấp HĐTD ngân hàng là những mâu thuẫn phát sinh từ quyền
và nghĩa vụ trong HĐTD ngân hàng giữa bên cho vay (ngân hàng) và bên vay
(khách hàng). Đó là những tranh chấp về lãi suất, nợ gốc, nợ lãi, việc giải
ngân, xử lý tài sản đảm bảo…
Về bản chất, cũng như bất kỳ một tranh chấp thuộc lĩnh vực khác, tranh
chấp HĐTD là sự phản ánh những mâu thuẫn, bất đồng của các chủ thể trong
việc thực hiện quyền, nghĩa vụ theo HĐTD, hay nói cách khác, chỉ khi có sự
vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng của một bên hoặc cả hai bên thì tranh chấp
mới phát sinh. Ở đây, bên cạnh thuật ngữ “tranh chấp HĐTD” còn xuất hiện
thuật ngữ “vi phạm HĐTD”. Hai thuật ngữ này có sự khác biệt về mặt nội
dung nhưng lại có mối quan hệ thống nhất và phụ thuộc lẫn nhau.
“Vi phạm HĐTD” có thể được hiểu là hành vi bất hợp pháp của một
hoặc cả hai bên giao kết không thực hiện hoặc thực hiện không đúng những
điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng. “Tranh chấp HĐTD” có thể hiểu là
tình trạng pháp lý phát sinh do một bên hoặc cả hai bên đã có hành vi vi phạm
hợp đồng. Như vậy, trong mối liên hệ giữa hành vi vi phạm hợp đồng với


7


tranh chấp hợp đồng thì vi phạm HĐTD được coi là nguyên nhân dẫn đến
tranh chấp HĐTD. Theo đó, tranh chấp HĐTD thường bao gồm ba yếu tố: (1)
Có quan hệ HĐTD tồn tại giữa các bên tranh chấp; (2) Có sự vi phạm của một
bên làm ảnh hưởng tới lợi ích của bên kia; (3) Có sự mâu thuẫn, xung đột, bất
đồng quan điểm, lợi ích giữa các bên về sự vi phạm hoặc xử lý hậu quả phát
sinh từ sự vi phạm.
Trên thực tế, hầu hết các tranh chấp HĐTD phát sinh đều có nguyên
nhân từ các hành vi vi phạm HĐTD như bên đi vay vi phạm nghĩa vụ trả nợ
cho tổ chức tín dụng dẫn đến tranh chấp, tổ chức tín dụng không giải ngân
theo đúng kế hoạch trong hợp đồng gây thiệt hại cho khách hàng… Tuy
nhiên, nếu khẳng định tất cả tranh chấp đều phát sinh từ hành vi vi phạm hợp
đồng thì sẽ không đầy đủ và thiếu chính xác vì tranh chấp HĐTD còn có thể
xuất phát từ một dạng vi phạm khác, đó là những vi phạm liên quan đến các
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng theo quy định của pháp luật và các bên
hoàn toàn có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu để
khôi phục lại trình trạng ban đầu. Mặc khác, nhiều khi mâu thuẫn, bất đồng
xảy ra do các bên còn có quan điểm trái ngược nhau về cùng một vấn đề.
Điển hình của loại tranh chấp này là hai bên hiểu không thống nhất về điều
khoản cụ thể nào đó trong hợp đồng và tranh chấp này chỉ đơn thuần là tranh
chấp liên quan đến vấn đề giải thích hợp đồng.
Nguyên nhân gây ra tranh chấp HĐTD rất đa dạng, song có thể khái
quát với những nguyên nhân từ phía bên vay, bên cho vay và cả những hạn
chế của quy định pháp luật.
Về nguyên nhân từ phía bên cho vay: Thông thường phía ngân hàng vi
phạm nghĩa vụ giải ngân cho khách hàng như quy định trong hợp đồng. Các
tổ chức tín dụng không tuân thủ chế độ tín dụng và điều kiện cho vay. Đôi khi

ngân hàng cho vay mà không tiến hành quy trình thẩm định theo nguyên tắc

8


phân tích tín dụng, điều mà các định chế tài chính quốc tế luôn cảnh báo là:
Tính cách người vay, năng lực trả nợ, dòng tiền mặt, tài sản thế chấp, các điều
kiện môi trường, sự kiểm soát mà ngân hàng lại dựa vào nhận định của các
nhân viên của mình. Trên thực tế, khi tiến hành thẩm định bên cho vay không
thể kiểm tra được bên vay có thông qua một tổ chức tín dụng đen nào hay
không. Ở Việt Nam, ngân hàng chưa có chính sách hợp lý và quy trình cho
vay hiệu quả, cơ chế phân tích và quản lý rủi ro còn hạn chế. Việc đánh giá
biện pháp bảo đảm tiền vay còn hạn chế, chưa phân tích, đánh giá các điều
kiện về biện pháp bảo đảm tiền vay. Tổ chức tín dụng đánh giá về biện pháp
bảo đảm tiền vay còn dựa vào tài liệu do bên vay xuất trình mà chưa có sự
kiểm tra thực tiễn.Trình độ thẩm định của nhân viên ngân hàng còn chưa cao,
nên có những sai xót và thiếu chặt chẽ - kết quả thẩm định chưa đạt yêu cầu.
Mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng còn hạn chế. Trong thực tế
bên ngân hàng không nắm rõ ràng các thông tin chính xác về khách hàng,
không biết chính xác là khách hàng vay vốn và có sử dụng vốn vay đúng mục
đích trong hợp đồng hay không. Một số nhân viên ngân hàng còn thiếu phẩm
chất đạo đức cũng như thiếu năng lực nên trong việc cho vay có đảm bảo
nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản thế chấp mà bên vay vẫn được giữ cả giấy tờ gốc
chứng minh tài sản thế chấp của mình. Điều này dẫn đến có thể bên vay lại
đem bán tài sản đã thế chấp ở ngân hàng cho người thứ ba. Lúc này ngân
hàng và người thứ ba có sự tranh chấp về quyền tài sản – tài sản đã được thế
chấp bằng danh nghĩa ở ngân hàng.
Do đó để đảm bảo an toàn tín dụng các ngân hàng cần tuân thủ nghiêm
túc quy trình, điều kiện cho vay, các quy định của pháp luật liên quan, cần
nâng cao hơn nữa đội ngũ nhân viên ngân hàng, xây dựng và nâng cao hệ

thống thông tin tín dụng, có biện pháp để kiểm tra, giám sát hữu hiệu các hoạt
động của bên vay theo những cam kết trong hợp đồng.

9


Về nguyên nhân từ phía bên vay:
Bên vay không đảm bảo nghĩa vụ hoặc thực hiện không đầy đủ những
nghĩa vụ của mình. Thông thường do hai nguyên nhân: nguyên nhân khách
quan và chủ quan.
Nguyên nhân khách quan: là những nguyên nhân tác động ngoài ý chí,
tầm kiểm soát của khách hàng như: do sự thay đổi của chính sách quản lý
kinh tế, do thiên tai, hoả hoạn, điều chỉnh quy hoạch, do thị trường biến động,
quan hệ cung cầu hàng hoá thay đổi… làm cho hoạt động của bên vay không
thực hiện như kế hoạch đề ra.
Nguyên nhân chủ quan: Cá nhân vay vốn không nắm được thông tin
cần thiết về kế hoạch đầu tư, sản xuất khi vay vốn dẫn đến tình trạng vay vốn
về đầu tư không có hiệu quả. Có thể là do vốn tự có tham gia sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp không đáp ứng nhu cầu, năng lực điều hành còn hạn
chế, thiếu thông tin thị trường và thông tin về các đối tác, bạn hàng làm ảnh
hưởng tới quá trình sản xuất, công nghệ chưa được cải thiện nên sản phẩm tạo
ra chưa có tính cạnh tranh cao, hiệu quả kinh doanh kém, hậu quả là doanh
nghiệp thua lỗ lâm vào tình trạng phá sản. Cũng có trường hợp do bên vay cố
tình đưa ra những thông tin sai sự thật ngay từ khi vay vốn nên khi về đầu tư
hay sử dụng vào mục đích của mình không có hiệu quả.
Nguyên nhân nữa là do bên vay còn thiếu hiểu biết về pháp luật, trình
độ hiểu biết của bên vay còn hạn chế về những kiến thức pháp luật liên quan.
Có trường hợp bên vay ký hợp đồng trong khi bản thân không hiểu rõ về pháp
luật nên khả năng xảy ra những bất lợi cho mình là rất lớn. Đơn cử như
trường hợp của bà Phan Ngọc Dung ở Quận 8, thành phố Hồ Chí Minh, năm

2004 bà thế chấp ngôi nhà của mình để vay vốn Ngân hàng đầu tư và phát triển
chi nhánh Tân Tạo số tiền hai trăm bốn mươi triệu Đồng để đầu tư cho cơ sở
may gia công. Nhưng sau đó do không có hiểu biết về những quy định của

10


pháp luật bà Dung đã ký hợp đồng bán nhà để đảm bảo cho khoản vay mới.
Hiện tại, khoản tín dụng mới không vay được, khoản tín dụng trước thì chưa có
khả năng thanh toán và bên vay còn phải đối mặt với nguy cơ mất nhà do chủ
nợ đang khởi kiện ra toà yêu cầu thực hiện hợp đồng bán nhà trên [27]. Trong
tình huống trên, nếu bà Dung có kiến thức về pháp luật nhất là pháp luật ngân
hàng thì sẽ không dẫn đến ký hợp đồng bán nhà để đảm bảo cho khoản vay.
Hiện nay, sự hiểu biết những quy định pháp luật của một bộ phận người dân
còn nhiều hạn chế, sự hạn chế đó không chỉ gây tổn thất cho chính người vay
mà còn ảnh hưởng tới quyền lợi của ngân hàng và đặc biệt là những hệ lụy về
mặt xã hội.
Nguyên nhân từ quy định của pháp luật: Xã hội luôn thay đổi theo
nhiều chiều hướng khác nhau, các mối quan hệ xã hội cũng đổi mới không
ngừng kéo theo các giao dịch trong xã hội cũng có thêm nhiều yếu tố phức tạp
và đa dạng hơn. Trái lại, trên thực tế pháp luật nước ta chưa đáp ứng được
nhu cầu của xã hội, pháp luật chưa thể dự kiến và điều chỉnh được các mối
quan hệ xã hội sắp diễn ra. Một điều đáng lưu ý là sự hiểu biết về pháp luật
của các bên trong hợp đồng còn chưa rõ ràng, mâu thuẫn với nhau về lợi ích
giữa các bên dẫn đến nảy sinh tranh chấp. Pháp luật nước ta quy định bên cho
vay bắt buộc phải đưa ra các căn cứ pháp lý hay những lý do chính đáng nếu
muốn từ chối khách hàng, vấn đề này chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể. Nên
bên cho vay cho rằng cho vay là quyền của mình còn bên đi vay thì có quan
điểm ngược lại, điều đó dễ dẫn đến mâu thuẫn.
Những HĐTD ngân hàng theo mẫu do ngân hàng đưa ra đa phần là rất

chặt chẽ cả về hình thức và nội dung. Thông thường những hợp đồng theo
mẫu này gắn liền với lợi ích của ngân hàng.
Các quy định của pháp luật còn chưa thống nhất, chồng chéo lẫn nhau
đặc biệt là các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm. Hiện nay, hành lang pháp lý

11


cho hoạt động giao dịch bảo đảm chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng bộ và nhiều
quy định không thể thực hiện được trên thực tế. Việc đăng ký giao dịch bảo
đảm thực hiện phân tán ở nhiều cơ quan khác nhau tạo kẽ hở trong quản lý.
Theo Nghị định số 163/2006/NĐ-CP và Nghị định 11/2012/NĐ-CP sửa đổi
nghị định 163/2006/NĐ-CP [3] của Chính phủ về đăng ký giao dịch bảo đảm,
cho phép các tổ chức tín dụng được lựa chọn hình thức xử lý đa dạng như bán
tài sản thế chấp, nhận các khoản tiền và tài sản từ người thứ ba trong trường
hợp thế chấp quyền đòi nợ, phương thức khác do các bên thoả thuận. Trường
hợp các bên không thoả thuận được phương thức xử lý tài sản là quyền sử
dụng đất, tài sản gắn liền với đất thì các tài sản này được đem bán đấu giá
nhưng để thực hiện được các bên lại phải ký hợp đồng uỷ quyền tại đơn vị
bán đấu giá có thẩm quyền. Điều này thường không thực hiện được do bên
thế chấp không đồng ý và khi đó các tổ chức cho vay không có cơ chế nào để
bảo vệ được quyền lợi của mình.
1.1.3. Các phương thức giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng và
vai trò của Tòa án
Ở đâu có hoạt động kinh doanh thương mại thì ở đó có khả năng phát
sinh tranh chấp. Tranh chấp là hệ quả tất yếu xảy ra trong hoạt động kinh
doanh nói chung và hoạt động cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng nói riêng,
vì vậy giải quyết các tranh chấp phát sinh được coi là tự thân của các quan hệ
kinh tế. Ở góc độ khái quát chung, giải quyết tranh chấp trong kinh doanh
chính là việc lựa chọn các hình thức, biện pháp thích hợp để giải toả các mâu

thuẫn, bất đồng, xung đột lợi ích giữa các bên, tạo lập lại sự cân bằng về mặt
lợi ích mà các bên có thể chấp nhận được. Trên thế giới cũng như ở Việt
Nam, tồn tại bốn phương thức giải quyết tranh chấp thương mại phổ biến bao
gồm thương lượng, hòa giải, trọng tài thương mại và Tòa án.
Về phương thức thương lượng: Thương lượng là phương thức giải

12


quyết tranh chấp thông qua việc các bên tranh chấp cùng nhau bàn bạc, tự dàn
xếp, tháo gỡ những bất đồng phát sinh để loại bỏ tranh chấp mà không cần có
sự trợ giúp hay phán quyết của bất kì bên thứ ba nào. Phương pháp thương
lượng được biết đến bởi một số đặc điểm cơ bản:
Thứ nhất là phương thức giải quyết tranh chấp này được thực hiện bởi
cơ chế tự giải quyết thông qua việc các bên tranh chấp gặp nhau bàn bạc, thỏa
thuận để tự giải quyết những bất đồng phát sinh mà không cần có sự hiện diện
của bên thứ ba để trợ giúp hay phán quyết.
Thứ hai là quá trình thương lượng giữa các bên cũng không chịu sự
ràng buộc của bất kì nguyên tắc pháp lí hay những quy định mang tính khuôn
mẫu nào của pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp. Pháp luật của Việt
Nam mới chỉ dừng lại ở việc ghi nhận thương lượng là một phương thức giải
quyết tranh chấp thương mại mà không có bất kì quy định nào chi phối đến cơ
chế giải quyết tranh chấp thương mại bằng thương lượng.
Thứ ba là việc thực thi kết quả thương lượng hoàn toàn phụ thuộc
vào sự tự nguyện của mỗi bên tranh chấp mà không có bất kì cơ chế pháp lí
nào đảm bảo việc thực thi đối với thỏa thuận của các bên trong quá trình
thương lượng.
Quá trình thương lượng để giải quyết tranh chấp có thể được thực hiện
bằng nhiều cách thức: thương lượng trực tiếp, thương lượng gián tiếp và kết
hợp thương lượng trực tiếp với thương lượng gián tiếp. Thương lượng trực

tiếp là cách thức mà các bên tranh chấp trực tiếp gặp nhau bàn bạc, trao đổi và
đề xuất ý kiến của mỗi bên nhằm tìm kiếm giải pháp loại trừ tranh chấp.
Thương lượng gián tiếp là cách thức các bên tranh chấp gửi cho nhau tài liệu
giao dịch thể hiện quan điểm và yêu cầu của mình nhằm tìm kiếm giải pháp
loại trừ tranh chấp.
Ưu điểm nổi bật nhất của phương pháp thương lượng chính là sự thuận

13


tiện, đơn giản, nhanh chóng, tính linh hoạt, hiệu quả và ít tốn kém. Mặt khác
thương lượng còn bảo vệ được uy tín cho các bên tranh chấp cũng như bí mật
kinh doanh của các nhà kinh doanh. Các nhà kinh doanh hơn ai hết tự biết bảo
vệ quyền lợi của bản thân mình, hiểu rõ những bất đồng và nguyên nhân
phát sinh tranh chấp nên quá trình đàm phán thương lượng để hiểu và
thông cảm với nhau hơn để có thể thỏa thuận được các giải pháp tối ưu
theo đúng nguyện vọng của mỗi bên mà không phải một cơ quan tài phán
nào cũng có thể làm được. Bởi vậy, một khi thương lượng thành công, các
bên vừa loại bỏ được những bất đồng đã phát sinh mà mức độ phương hại
đến mối quan hệ kinh doanh giữa các bên cũng thấp, tăng cường sự hiểu
biết và hợp tác trong tương lai.
Tuy nhiên, phương pháp thương lượng còn tồn tại một số hạn chế như
sự thành công của thương lượng phụ thuộc rất lớn vào sự hiểu biết và thái độ
thiện chí, hợp tác của các bên tranh chấp. Nếu không kết quả giải quyết tranh
chấp thường rất mong manh và có thể rơi vào bế tắc. Ngoài ra, kết quả thương
lượng lại không được đảm bảo bằng cơ chế pháp lí mang tính bắt buộc. Do
vậy, dù các bên có đạt được thỏa thuận để giải quyết vụ tranh chấp thì việc
thực thi kết quả thương lượng cũng phụ thuộc rất nhiều vào sự tự nguyện của
bên phải thi hành. Nếu một bên không tự nguyện thi hành thì kết quả thương
lượng cũng chỉ tồn tại trên giấy mà không có một cơ chế pháp lí trực tiếp nào

bắt buộc thi hành đối với kết quả thương lượng của các bên.
Về phương thức hòa giải: Hòa giải là phương thức giải quyết tranh
chấp với sự tham gia của bên thứ ba làm trung gian hòa giải để hỗ trợ,
thuyết phục các bên tranh chấp tìm kiếm các giải pháp nhằm loại trừ tranh
chấp đã phát sinh.
Hòa giải được thực hiện dưới các hình thức: hòa giải ngoài thủ tục tố
tụng và hòa giải trong thủ tục tố tụng. Hòa giải ngoài thủ tục tố tụng là việc

14


hòa giải được các bên tiến hành trước khi đưa đơn khởi kiện ra Tòa án hoặc
trọng tài. Hòa giải trong thủ tục tố tụng là hoạt động được tiến hành tại Tòa
án, tại cơ quan trọng tài khi các cơ quan này giải quyết tranh chấp theo đơn
kiện của một bên. Khác với hòa giải ngoài thủ tục tố tụng, hòa giải trong thủ
tục tố tụng được tiến hành dưới sự trợ giúp của Tòa án hoặc trọng tài. Khi các
bên hòa giải được với nhau, Tòa án hoặc trọng tài sẽ ra quyết định công nhận
sự thỏa thuận của đương sự và quyết định này có giá trị cưỡng chế thi hành
đối với các bên.
Ở Việt Nam, qua các thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội, việc thương
lượng, hòa giải nhằm giải quyết các tranh chấp phát sinh nhất là các tranh
chấp thương mại luôn được coi trọng. Khi tranh chấp phát sinh các bên có thể
tự thương lượng, hòa giải với nhau. Nếu thương lượng, hòa giải không thành
mới đưa ra Tòa án hoặc trọng tài. Và ngay cả khi giải quyết tranh chấp tại
trọng tài hoặc Tòa án, các bên vẫn có thể tiến hành hòa giải với nhau. Phương
thức hòa giải được thể hiện qua một số đặc điểm cơ bản:
Thứ nhất là việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải đã có
sự hiện diện của bên thứ ba làm trung gian để trợ giúp các bên tìm kiếm giải
pháp tối ưu nhằm loại trừ tranh chấp. Điểm khác biệt cơ bản giữa hòa giải và
thương lượng là trong hòa giải có sự xuất hiện của bên thứ ba tham gia vào

quá trình giải quyết tranh chấp còn thương lượng là sự tự giải quyết tranh
chấp giữa các bên mà không có sự xuất hiện của người thứ ba. Mặc dù với vai
trò là người hòa giải nhưng bên thứ ba không có quyền quyết định hay áp đặt
bất cứ vấn đề gì nhằm ràng buộc các bên tranh chấp, mà họ chỉ đóng vai trò là
trung gian đưa ra những hướng dẫn và trợ giúp nhất định để tạo cơ sở cho các
bên trong tranh chấp thương mại đạt được sự thống nhất ý chí và đưa ra quyết
định cuối cùng.
Thứ hai là quá trình hòa giải các bên tranh chấp cũng không chịu sự chi

15


phối bởi các quy định có tính khuôn mẫu, bắt buộc của pháp luật về thủ tục
hòa giải. Cũng giống như thương lượng, pháp luật hiện hành của nước ta
không có quy định nào ràng buộc, chi phối đến cơ chế hòa giải ngoài các quy
định có tính chất ghi nhận thương lượng, hòa giải là những phương thức giải
quyết tranh chấp được các bên tranh chấp ưu tiên lựa chọn để giải quyết tranh
chấp phát sinh.
Thứ ba là kết quả hòa giải thành được thực thi cũng hoàn toàn phụ
thuộc vào ý chí tự nguyện của các bên tranh chấp mà không có bất kỳ cơ chế
nào bảo đảm thi hành những cam kết của các bên trong quá trình hòa giải.
Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải cũng có nhiều ưu điểm
như phương thức thương lượng, bởi tính đơn giản, thuận tiện, nhanh chóng,
linh hoạt, hiệu quả và ít tốn kém. Bên cạnh những ưu điểm chung, hòa giải
còn có những ưu điểm vượt trội như: Hòa giải có sự tham gia của người thứ
ba trong quá trình giải quyết tranh chấp mà bản thân thương lượng không thể
có được. Bằng sự hiểu biết cũng như sự tín nhiệm của mình, người hòa giải sẽ
biết cách làm cho ý chí của các bên dễ gặp nhau trong quá trình đàm phán để
loại trừ tranh chấp. Các bên hòa giải thành thì không có kẻ thắng người thua
nên không gây ra tình trạng đối đầu giữa các bên và vì vậy khả năng duy trì

được quan hệ hợp tác vốn có giữa các bên. Giải quyết tranh chấp bằng hòa
giải, các bên dễ dàng kiểm soát được việc cung cấp chứng cứ và sử dụng
chứng cứ qua đó giữ được bí quyết kinh doanh và uy tín của các bên. Do xuất
phát từ tinh thần tự nguyện và thiện chí của các bên. Vì vậy khi đạt được
phương án hòa giải, các bên thường nghiêm túc thực hiện.
Bên cạnh những ưu điểm đã trình bày ở trên, việc giải quyết tranh chấp
bằng phương thức hòa giải vẫn còn một số những hạn chế đáng chú ý sau:
Sự thành công của quá trình giải quyết tranh chấp chủ yếu phụ thuộc
vào thái độ thiện chí và hợp tác của các bên tranh chấp. Việc thực thi các kết

16


quả đã đạt được trong quá trình giải quyết tranh chấp phụ thuộc vào sự tự
nguyện thi hành của bên có nghĩa vụ phải thi hành, thỏa thuận hòa giải giữa
các bên không được đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà
nước. Bên tranh chấp không có thiện chí có thể lợi dụng việc hòa giải để trì
hoãn việc phải thực hiện nghĩa vụ. Nhiều trường hợp do muốn tìm mọi cách
mà bên có quyền lợi bị vi phạm mất quyền khởi kiện tại Tòa án hoặc trọng tài
do hết thời hiệu khởi kiện. Ngoài ra, trong quá trình hòa giải các bên phải trao
đổi, cung cấp thông tin với người thứ ba về hoạt động kinh doanh của mỗi
bên liên quan đến vụ tranh chấp nên uy tín cũng như bí quyết kinh doanh của
mỗi bên dễ bị ảnh hưởng hơn so với phương thức thương lượng. Bên cạnh đó,
việc chi phí cho quá trình giải quyết tranh chấp thương mại bằng hòa giải
cũng tốn kém hơn so với thương lượng, bởi một hoặc các bên phải trả khoản
dịch vụ phí cho người thứ ba làm trung gian hòa giải.
Về phương thức trọng tài thương mại: Giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua hoạt động của trọng
tài viên, với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm chấm dứt xung đột trong
quá trình tiến hành các hoạt động thương mại bằng việc đưa ra một phán

quyết buộc các bên tranh chấp phải thực hiện. Tại Luật trọng tài thương
mại năm 2010 cũng quy định: “Trọng tài thương mại là phương thức giải
quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định
của luật này” [17, Điều 3, Khoản 1].
Khác với việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án, trọng tài thương mại là
phương thức giải quyết tranh chấp thương mại không nhân danh quyền lực
nhà nước, trọng tài thương mại được các bên lựa chọn theo thủ tục linh hoạt,
mềm dẻo. Ngoài ra, phương thức giải quyết tranh chấp thương mại này còn
đảm bảo tối đa uy tín cũng như bí mật của các bên tranh chấp, góp phần củng
cố và duy trì mối quan hệ hợp tác lâu dài giữa các bên. Điều này được thể
hiện qua các đặc điểm sau:
17


Trọng tài thương mại là một loại hình tổ chức phi Chính phủ, hoạt động
theo Luật trọng tài năm 2010 và quy chế trọng tài thương mại quốc tế. Nó có
quyền phán quyết như Tòa án và quyết định của trọng tài được cưỡng chế thi
hành. Cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là sự kết hợp giữa hai yếu tố
thỏa thuận và tài phán. Thỏa thuận làm tiền đề cho phán quyết và không thể
có phán quyết thoát ly những yếu tố đã được thỏa thuận. Một trong các
nguyên tắc khi giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại là
phiên họp giải quyết tranh chấp không diễn ra công khai trừ trường hợp các
bên có thỏa thuận khác, nguyên tắc này đã thể hiện được sự tôn trọng tối đa
quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp trong giải quyết tranh chấp.
Phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm không bị kháng cáo,
kháng nghị và có hiệu lực thi hành đối với các bên. Theo quy định tại khoản 5
Điều 61 và Điều 66 Luật trọng tài thương mại năm 2010: Nếu một trong các
bên không thi hành thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án công nhận và cho thi
hành phán quyết trọng tài. Phương thức trọng tài thương mại có sự hỗ trợ của
Tòa án. Sở dĩ cần sự hỗ trợ của Tòa án bởi vì phán quyết của trọng tài không

mang tính quyền lực nhà nước. Do đó, cần phải có một cơ quan nhà nước hỗ
trợ, đó là Tòa án. Theo luật trọng tài năm 2010 của nước ta quy định thì Tòa
án hỗ trợ để đảm bảo thi hành thỏa thuận trọng tài, hỗ trợ cho trọng tài trong
việc chỉ định trọng tài viên, áp dụng các biện pháp khẩn cấp, kiểm tra, giám
sát đối với các quyết định của trọng tài, hủy quyết định trọng tài. Với các đặc
điểm như trên, giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài mang lại lợi ích cho
các bên tranh chấp như:
Thứ nhất là phán quyết của trọng tài thương mại có tính chung thẩm:
Đa số các quyết định trọng tài không bị kháng cáo, chỉ trừ trường hợp một
bên trong tranh chấp yêu cầu và có một trong các căn cứ quy định tại khoản 2
Điều 68 Luật trọng tài năm 2010 thì quyết định trọng tài bị hủy theo quyết
định của Tòa án.
18


Thứ hai là trọng tài thương mại mang tính linh hoạt, đảm bảo tốt hơn
quyền tự định đoạt của các bên. Nghĩa là các bên có quyền tự quyết định chọn
hình thức tổ chức trọng tài cũng như trọng tài viên mà mình ưa thích; có
quyền lựa chọn địa điểm, thời gian sao cho tiện với doanh nghiệp. Như vậy so
với Tòa án, các công việc đó do thẩm phán có thẩm quyền quyết định và
doanh nghiệp phải tuân theo thì hình thức trọng tài thương mại tạo cho các
bên tranh chấp có thể chủ động hơn.
Thứ ba là trọng tài thương mại mang tính bí mật: Các phiên họp giải
quyết tranh chấp của trọng tài không được tổ chức công khai và chỉ có các
bên nhận được quyết định. Đây là một ưu điểm lớn của phương thức trọng tài
khi các tranh chấp liên quan đến các bí kinh doanh.
Thứ tư là giải quyết tranh chấp thương mại bằng phương thức trọng tài
có thế giúp các bên tiết kiệm được thời gian và chi phí hơn so với phương
thức thông qua Tòa án. Trọng tài có thể tiến hành rất nhanh trong vòng vài
tuần hoặc vài tháng nếu các bên mong muốn. Trong hợp đồng với tổ chức

trọng tài, các bên có thể thỏa thuận giới hạn thời gian cần thiết để đưa ra
quyết định trọng tài.
Bên cạnh những lợi ích mang lại cho các bên tranh chấp, phương thức
trọng tại còn tồn tại một số hạn chế như:
Thứ nhất là các trọng tài viên có thể gặp khó khăn trong quá trình điều
tra, xác minh và thu thập chứng cứ và triệu tập nhân chứng vì tuy pháp luật có
ghi nhận các quyền này tại Điều 45, 46 và 47 Luật trọng tài năm 2010 nhưng
quyền của họ chỉ dừng lại ở mức được “yêu cầu” còn việc có cung cấp chứng
cứ hay không phải dựa vào sự tự nguyện và thiện chí của các bên và người
làm chứng.
Thứ hai là trọng tài vụ việc phải phụ thuộc hoàn toàn vào thiện chí của
các bên. Nếu một bên không có thiện chí, quá trình tố tụng sẽ luôn có nguy cơ

19


×