Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Hợp đồng học nghề theo Luật dạy nghề ở Việt Nam Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (720.16 KB, 93 trang )

MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG HỌC NGHỀ
6
1.1.
Quan niệm về học nghề
6
1.1.1.
Khái niệm học nghề
6
1.1.2.
Sự cần thiết phải học nghề trong lĩnh vực giải quyết việc
làm hiện nay
7
1.1.3.


Phân loại học nghề
11
1.1.3.1.
Phân loại theo trình độ nghề
11
1.1.3.2.
Phân loại theo cách thức tổ chức dạy và học nghề
13
1.1.3.3.
Phân loại theo mục tiêu của người học
13
1.2.
Quan niệm về hợp đồng học nghề
14
1.2.1.
Khái niệm hợp đồng học nghề
14
1.2.2.
Phân loại hợp đồng học nghề
17
1.2.3.
Nội dung hợp đồng học nghề
19
1.3.
Lịch sử hình thành và phát triển của chế định học nghề
trong pháp luật lao động Việt Nam
22
1.3.1.
Giai đoạn 1945-1954
22

1.3.2.
Giai đoạn 1955-1985
23
1.3.3.
Giai đoạn 1986-1994
25
1.3.4.
Giai đoạn 1995 đến nay
27


29
Chương 2: HỢP ĐỒNG HỌC NGHỀ THEO LUẬT DẠY NGHỀ VÀ
THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM
2.1.
Giao kết hợp đồng học nghề
29
2.1.1.
Chủ thể giao kết hợp đồng học nghề
29
2.1.1.1.
Người học nghề
29
2.1.1.2.
Cơ sở dạy nghề
31
2.1.2.
Nguyên tắc giao kết hợp đồng học nghề
33
2.1.2.1.

Nguyên tắc tự do, tự nguyện
33
2.1.2.2.
Nguyên tắc bình đẳng
34
2.1.2.3.
Nguyên tắc không trái pháp luật
35
2.1.3.
Hình thức hợp đồng học nghề
35
2.1.4.
Trình tự giao kết hợp đồng học nghề
37
2.1.4.1.
Một trong các bên sẽ đưa ra lời đề nghị giao kết hợp đồng
37
2.1.4.2.
Hai bên thỏa thuận nội dung và các vấn đề liên quan đến
hợp đồng học nghề
38
2.1.4.3.
Hai bên hoàn thiện và giao kết hợp đồng
39
2.2.
Chấm dứt hợp đồng học nghề
39
2.2.1.
Chấm dứt hợp đồng học nghề do ý chí hai bên
40

2.2.2.
Đơn phương chấm dứt hợp đồng học nghề
40
2.2.3.
Hậu quả pháp lý của chấm dứt hợp đồng học nghề
40
2.3.
Thực hiện hợp đồng học nghề
42
2.3.1.
Trong doanh nghiệp nhà nước
42
2.3.2.
Trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
44
2.3.3.
Trong doanh nghiệp vừa và nhỏ
45
2.4.
Giải quyết tranh chấp về hợp đồng học nghề
48


53
Chương 3: HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP
ĐỒNG HỌC NGHỀ Ở VIỆT NAM
3.1.
Một số nhận xét về thực trạng áp dụng hợp đồng học nghề
53
3.1.1.

Về ưu điểm
53
3.1.2.
Về hạn chế
60
3.2.
Phương hướng hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng
học nghề
70
3.2.1.
Đảm bảo quyền và lợi ích các bên trong quan hệ hợp đồng
học nghề
70
3.2.2.
Đảm bảo phù hợp với nhu cầu đào tạo nghề ở Việt Nam
71
3.2.3.
Hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng học nghề phải
đặt trong giải pháp tổng thể với việc hoàn thiện pháp luật về
lao động và pháp luật về dạy nghề ở Việt Nam
73
3.3.
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
học nghề ở Việt Nam
75
3.3.1.
Về các quy định của pháp luật
75
3.3.2.
Về quá trình tổ chức và thực hiện

79

KẾT LUẬN
87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
89














MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi cần phải có
một cơ cấu lao động hợp lý. Trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đào
tạo nghề luôn được coi là vấn đề then chốt nhằm tạo ra đội ngũ lao động có
trình độ chuyên môn, có kỹ năng phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6 (Khóa IX) về giáo
dục và đào tạo đã chỉ rõ: "Phải đặc biệt nâng cao chất lượng dạy nghề; gắn

đào tạo với nhu cầu sử dụng; mở rộng đào tạo kỹ thuật viên, nhân viên nghiệp
vụ có kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp ở trình độ trung cấp trên nền học vấn
trung học phổ thông hoặc trung học cơ sở" [16]. Quan điểm này thể hiện rõ
tinh thần xác định lao động kỹ thuật là lực lượng xung kích trong tiến trình xây
dựng và phát triển một đất nước công nghiệp ở nước ta. Theo đó, nhiều cơ sở
dạy nghề được thành lập để đào tạo ra những lao động có trình độ chuyên môn
kỹ thuật, công nhân lành nghề cung cấp cho thị trường lao động hiện nay.
Quan hệ dạy và học nghề giữa cơ sở dạy nghề và người học nghề có
thể được hình thành bằng một trong hai con đường: tuyển sinh theo chỉ tiêu
Nhà nước giao hoặc giao kết hợp đồng học nghề. Đối với các doanh nghiệp
có nhu cầu đào tạo nghề thì quan hệ học nghề được thiết lập và duy trì bằng
hình thức hợp đồng học nghề. Hợp đồng học nghề là hình thức pháp lý thiết
lập và duy trì quan hệ học nghề theo quy định của pháp luật. Trong hệ thống
pháp luật lao động, hợp đồng học nghề là chế định không thể thiếu trong quá
trình xây dựng, ban hành pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ lao động.
Bộ luật Lao động năm 1994 ra đời đánh dấu sự phát triển của pháp luật lao
động và lần đầu tiên chế định về học nghề được quy định thành một chương
riêng thể hiện vai trò của việc dạy và học nghề đối với việc cung cấp nguồn
nhân lực cho thị trường lao động nước ta. Tuy nhiên, để tạo điều kiện cho
quản lý hình thức dạy và học nghề đa dạng hiện nay, Quốc hội đã ban hành
Luật Dạy nghề có hiệu lực bắt đầu từ ngày 01/06/2007. Theo đó, quan hệ
giữa người dạy và người học nghề trong hợp đồng học nghề cũng bắt đầu
được điều chỉnh theo Luật Dạy nghề năm 2006. Sau một thời gian thực hiện
pháp luật hợp đồng học nghề, bên cạnh những ưu điểm như: đảm bảo quyền
tự do lựa chọn nghề nghiệp, hình thức học nghề, nơi học nghề của người học
nghề, đảm bảo quyền và lợi ích các bên trong quan hệ học nghề góp phần
giải quyết việc làm cho xã hội thì pháp luật về dạy nghề nói chung và hợp
đồng học nghề nói riêng đã bộc lộ một số bất hợp lý, chưa đáp ứng được
những yêu cầu của quan hệ học nghề trong bối cảnh kinh tế hiện nay. Bất
cập lớn nhất của chúng ta là chưa đảm bảo chặt chẽ quyền lợi của người học

nghề khi giao kết hợp đồng học nghề với doanh nghiệp, quy định của pháp
luật chưa đầy đủ để giải quyết triệt để các vấn đề tranh chấp trong hợp đồng
học nghề. Do vậy, việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về hợp đồng học
nghề, thực trạng quy định và thực hiện pháp luật hợp đồng học nghề thông
qua đó tìm ra những định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về học
nghề nói chung và hợp đồng học nghề nói riêng là một nhu cầu cần thiết và
có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ những điều trình bày trên, học viên đã chọn đề tài "Hợp
đồng học nghề theo Luật Dạy nghề ở Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Có thể nói "Hợp đồng học nghề" là một vấn đề đã được các nhà khoa
học luật quan tâm nghiên cứu. Thời gian qua, đã có một số công trình nghiên
cứu về vấn đề này ở các góc độ khác nhau. Đề tài: Chế độ dạy và học nghề
theo pháp luật lao động Việt Nam, luận văn thạc sĩ luật học của Đào Thị
Mộng Điệp, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội (2002), tác giả đã nghiên cứu
các quy định của pháp luật Việt Nam về quan hệ dạy và học theo quy định
của pháp luật Việt Nam, tuy nhiên tác giả lại không đề cập nhiều về vấn đề
hợp đồng học nghề; hay đề tài Đào tạo nâng cao trình độ nghề nghiệp cho
người lao động theo hợp đồng học nghề, khóa luận tốt nghiệp của Chu Bá
Hữu, Trường Đại học Luật Hà Nội (1997), hợp đồng học nghề được tác giả
nghiên cứu theo Bộ luật Lao động cũ năm 1994 vì thời điểm này Luật Dạy
nghề chưa ra đời. Học nghề - cơ hội việc làm mới cho người lao động, khóa
luận tốt nghiệp của Ninh Thị Hồng Thoa, Trường Đại học Luật Hà Nội (2003)
hay Đào tạo nghề - thực trạng và một số kiến nghị, khóa luận tốt nghiệp của
Lê Thị Thanh Nhàn, Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), ở hai đề tài này,
nội dung hợp đồng học nghề được tác giả nêu ra có tính chất gợi mở mà chưa
đi sâu nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện hợp đồng học nghề cả về lý luận
và thực tiễn. Ngoài ra còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí như Hội
nhập kinh tế quốc tế và vai trò của pháp luật lao động về học nghề trong việc

nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam của tác giả
Đào Thị Hằng, Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, số 6, 2003
hay Tuổi trẻ Việt Nam với việc học nghề và lập nghiệp của tác giả Tòng Thị
Phóng đăng trên tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 3, 2010 mới chỉ đề cập
đến ý nghĩa, vai trò của học nghề chứ chưa đi sâu phân tích về nội dung, hình
thức, các loại hợp đồng học nghề.
Tóm lại, cho đến nay, dường như chưa có một công trình khoa học
nào nghiên cứu một cách toàn diện, chuyên sâu, đầy đủ và có hệ thống về hợp
đồng học nghề theo pháp luật về dạy nghề. Các công trình nghiên cứu trên
hoặc chủ yếu tập trung vào những mảng khác nhau của quan hệ học nghề
hoặc nghiên cứu hợp đồng học nghề theo pháp luật cũ. Do vậy, các công trình
nghiên cứu trên so với đề tài của luận văn này là hoàn toàn không có sự trùng
lắp về mặt nội dung. Luận văn đi vào tìm hiểu, tổng hợp một số vấn đề mới
với hi vọng đóng góp một góc nhìn khái quát hơn cho việc nghiên cứu, xây
dựng và ban hành pháp luật liên quan tới hợp đồng học nghề.
3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật về hợp
đồng học nghề cũng như sự cần thiết của việc ban hành các quy định về hợp
đồng học nghề. Trên cơ sở đó, luận văn đi sâu phân tích các quy định về hợp
đồng học nghề và thực tế thực hiện trong các cơ sở dạy nghề ở Việt Nam.
Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu, luận văn còn đưa ra một số giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng học nghề và nâng cao hiệu quả
áp dụng, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của nghiên cứu
Để đạt được các mục đích nghiên cứu trên, luận văn làm rõ những vấn
đề sau:
Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản của pháp
luật về hợp đồng học nghề cũng như sự cần thiết của việc ban hành các quy

định pháp luật về hợp đồng học nghề.
Thứ hai, phân tích và đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về
hợp đồng học nghề và việc thực thi trên thực tế; đánh giá những kết quả cũng
như sự bất cập và nguyên nhân của sự bất cập, hạn chế đó.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp
đồng học nghề và nâng cao hiệu quả áp dụng chúng trong thực tiễn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn đặt mục tiêu nghiên cứu hướng vào
tìm hiểu các quy định pháp luật về hợp đồng học nghề ở Việt Nam
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định về
hợp đồng học nghề theo pháp luật hiện hành.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, những quan
điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng,
phát triển đất nước, cải cách hành chính xây dựng Nhà nước pháp quyền và
cải cách tư pháp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, việc nghiên cứu
đề tài còn được thực hiện bằng các phương pháp nghiên cứu khoa học như
phân tích, so sánh, tổng hợp, thống kê …
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về hợp đồng học nghề.
Chương 2: Hợp đồng học nghề theo Luật dạy nghề và thực trạng áp
dụng ở Việt Nam.
Chương 3: Hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng học nghề ở
Việt Nam.





Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG HỌC NGHỀ

1.1. QUAN NIỆM VỀ HỌC NGHỀ
1.1.1. Khái niệm học nghề
Con người sinh ra đều có các nhu cầu về ăn, mặc, ở. Để thỏa mãn các
nhu cầu bản thân, con người tiến hành các hoạt động lao động nhằm tạo ra
của cải vật chất. Tuy nhiên, mỗi người có cách lao động kiếm sống khác nhau
và trước khi tiến hành tạo ra của cải vật chất con người đều phải trải qua giai
đoạn tiền lao động là học nghề.
Học nghề có thể hiểu là quá trình tích lũy kiến thức, kỹ năng nghề
nghiệp của con người để giải quyết nhu cầu quan trọng và chủ yếu là việc
làm. Theo nghĩa này, học nghề được thực hiện bằng nhiều hình thức như học
tập, rèn luyện, giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng… hay là cả quá trình tự học của
con người. Song, pháp luật luật lao động Việt Nam không điều chỉnh các
quan hệ xã hội về học nghề theo nghĩa trên.
Không giống như những hình thức học tập khác, theo nghĩa hẹp, học
nghề được hiểu là hình thức học thông qua làm việc có hướng dẫn để người
học đạt được sự thành thạo nhất định về nghề nghiệp. Quá trình này diễn ra
các hoạt động làm quen, học tập, tích lũy, rèn luyện… của người học nhằm
nắm bắt kỹ năng thực hành một nghề nhất định, thành thạo về chuyên môn
nghề. Quá trình học nghề có thể diễn ra trong khoảng thời gian ngắn hoặc dài
tùy thuộc yêu cầu của nghề được đào tạo cũng như khả năng của người học và
người dạy. Có thể phân biệt quan hệ học nghề do pháp luật lao động điều
chỉnh với các quan hệ khác trong lĩnh vực học tập không do pháp luật lao
động điều chỉnh, đó là quan hệ học nghề bao giờ cũng phát sinh trên cơ sở
hợp đồng học nghề. Các quy định của pháp luật về dạy nghề trong Luật Dạy
nghề hay Bộ luật Lao động đều hướng tới việc thiết lập và điều chỉnh quan hệ
dạy - học giữa cơ sở dạy nghề và người học nghề thông qua hợp đồng học nghề.

Học nghề là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới quan hệ lao động, thường
đan xen với quan hệ lao động hay phát sinh trước để tạo điều kiện cho quan
hệ lao động hình thành. Do đó, pháp luật lao động điều chỉnh quan hệ học
nghề trong phạm vi liên quan đến quan hệ lao động xác định.
Dưới góc độ pháp luật lao động, học nghề là chế định của
luật lao động, bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà
nước ban hành, quy định về quyền học nghề; điều kiện của người
học nghề; quyền dạy nghề, điều kiện của người dạy nghề; hợp đồng
học nghề và những vấn đề liên quan tới hợp đồng học nghề; quan
hệ dạy và học nghề giữa hai bên; chính sách áp dụng đối với cơ sở
dạy nghề; vấn đề giải quyết việc làm cho người học nghề trong một
số trường hợp cụ thể [52, tr. 189-190].
1.1.2. Sự cần thiết phải học nghề trong lĩnh vực giải quyết việc làm
hiện nay
Đối với mỗi quốc gia, chính sách việc làm và giải quyết việc làm là bộ
phận có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống các chính sách xã hội nói
riêng và trong tổng thể chính sách phát triển kinh tế nói chung. Để đánh giá
trình độ phát triển kinh tế của một quốc gia, người ta thường căn cứ vào các
chỉ số như chỉ số tăng trưởng GDP (chỉ số tăng trưởng tổng sản phẩm quốc
nội), HDI (chỉ số phát triển con người), chỉ số lạm phát, chỉ số thất nghiệp. Vì
vậy, giải quyết tốt vấn đề việc làm sẽ hạn chế được số lượng lao động thất
nghiệp, kiểm soát được thất nghiệp.
Để giải quyết việc làm cho người lao động, Nhà nước có thể sử dụng
nhiều biện pháp khác nhau. Có những biện pháp nhằm trực tiếp giải quyết
việc làm cho người lao động nhưng có những biện pháp chỉ mang tính chất hỗ
trợ cho việc giải quyết việc làm. Dạy và học nghề là một trong những biện
pháp giải quyết việc làm cho người lao động thất nghiệp hiện nay. Bởi lẽ,
muốn có việc làm, người lao động cần hội tụ đủ hai điều kiện chủ yếu, đó là
sức khỏe và trình độ nghề. Sức khỏe là yếu tố đầu tiên mà bất kỳ người lao
động nào cũng cần có khi tham gia thực hiện công việc nhất định. Nhưng có

thể thấy rằng hiếm có công việc nào thuần túy chỉ cần sức mạnh của cơ bắp
mà không cần đến tri thức, trí tuệ của con người. Kỹ năng, kiến thức nghề
nghiệp là yếu tố không thể thiếu đối với nhu cầu công việc hiện nay. Khi
tuyển dụng lao động, người sử dụng lao động mong muốn tuyển được những
người lao động vừa có sức khỏe để đảm nhận công việc nhưng đồng thời cũng
phải có tay nghề với trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao. Do đó, có trình độ
nghề là điều kiện tiên quyết để người lao động có thể nhanh chóng tìm được
việc làm và có chỗ làm ổn định. Nếu như sức khỏe có được nhờ di truyền, ăn
uống, rèn luyện thân thể… thì ngược lại, trình độ tay nghề của người lao động
chỉ có thể có được bằng con đường học tập, rèn luyện và tích lũy kiến thức về
nghề nghiệp đó. Học nghề là con đường đúng đắn và tích cực giúp người lao
động có những kiến thức cần thiết về nghề nghiệp, đáp ứng cả nhu cầu khách
quan và chủ quan khi gia nhập thị trường lao động. Sự cần thiết phải học nghề
trong vấn đề giải quyết việc làm hiện nay thể hiện ở những khía cạnh sau:
Về kinh tế, vai trò của học nghề đối với nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực để đáp ứng nhu cầu việc làm được thể hiện thông qua chính nhu cầu
phát triển của nền kinh tế. Nhu cầu của nền kinh tế công nghiệp đòi hỏi phải
phát triển đội ngũ lao động có kiến thức, có kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả
năng làm chủ được các phương tiện, máy móc, làm chủ được công nghệ. Quá
trình công nghiệp hóa dài hay ngắn, ngoài các yếu tố về cơ chế, chính sách và
thể chế còn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực của đội ngũ lao động kỹ thuật
này. Đây có thể nói là nhu cầu khách quan của nền kinh tế, đòi hỏi Nhà nước
phải đầu tư cho đào tạo nghề.
Trong mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh tế, quy mô và cơ cấu giáo
dục- đào tạo nghề tương ứng với quy mô và cơ cấu nhân lực kỹ thuật khác
nhau. Nếu như ở thời kỳ phát triển thấp, cơ cấu giáo dục - đào tạo theo trật tự
ưu tiên sẽ là giáo dục phổ thông- giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học
(tương ứng cơ cấu nhân lực sẽ là lao động phổ thông- công nhân kỹ thuật bậc
thấp và bậc trung- lao động kỹ thuật bậc cao và lao động quản lý); thì ở thời
kỳ nền kinh tế phát triển cao (nhất là trong nền kinh tế tri thức), cơ cấu trên sẽ

là giáo dục đại học- giáo dục nghề nghiệp và giáo dục phổ thông (tương ứng
cơ cấu nhân lực sẽ là lao động kỹ thuật bậc cao và lao động quản lý- công
nhân kỹ thuật bậc trung và bậc thấp- lao động phổ thông). Như vậy giáo dục -
đào tạo nghề lại là động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
Mặt khác, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, cùng với quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự phát triển của khoa học kỹ thuật, khả
năng cạnh tranh việc làm của người lao động ngày càng cao đã đẩy vấn đề
học nghề lên tầm quan trọng mới. Để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh
tế, một trong những giải pháp quan trọng, có tính chất quyết định là phải nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực. Muốn vậy phải nâng cao thể lực, trí lực, phẩm
chất tâm lý, tác phong công nghiệp, tính kỷ luật, chấp hành luật pháp cho đội
ngũ lao động và thay đổi cơ cấu dạy nghề theo yêu cầu của thị trường hiện
nay. Đào tạo nghề là một phần quan trọng trong hệ thống giáo dục có nhiệm
vụ đào tạo nguồn nhân lực có tay nghề kỹ thuật phục vụ sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước trong từng giai đoạn phát triển. Trước đây, do
quan niệm đào tạo nghề chỉ là vấn đề giáo dục và đào tạo, chưa thấy được sự
cần thiết phải gắn học nghề với vấn đề giải quyết việc làm nên nhiệm vụ quản
lý nhà nước về dạy và học nghề thuộc Bộ giáo dục và đào tạo. Hiện nay,
nhiệm vụ này được chuyển giao cho Bộ lao động thương binh và xã hội nhằm
thực hiện sự gắn kết đào tạo nghề với nhu cầu giải quyết việc làm cho thị
trường lao động hiện nay. Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước, các bộ,
ngành và địa phương đã quan tâm đẩy mạnh công tác dạy và học nghề nhằm
đáp ứng yêu cầu nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ IX định hướng phát triển kinh tế đất
nước về lao động và việc làm đã kết luận:
Thực hiện tốt các chính sách về lao động, việc làm, tiền
lương, thu nhập nhằm khuyến khích và phát huy cao nhất năng lực
của người lao động. Bảo đảm quan hệ lao động hài hòa, cải thiện
môi trường và điều kiện lao động. Đẩy mạnh dạy nghề và tạo việc

làm. Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động đưa người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. Hỗ trợ học nghề và tạo
việc làm cho các đối tượng chính sách, người nghèo, lao động nông
thôn và vùng đô thị hóa [15].
Quan điểm này thể hiện rõ tinh thần chính sách lao động, giải quyết
việc làm, gắn việc dạy và học nghề để tạo việc làm cho người lao động.
Về xã hội, học nghề tạo ra sự "tranh đua" xã hội và trong bối cảnh
cạnh tranh gay gắt trên thị trường lao động, những người học vấn thấp, kỹ
năng, tay nghề thấp hoặc không có nghề khó có thể cạnh tranh được so với
những người có trình độ, có kỹ năng nghề cao. Khi đó, họ sẽ trở thành nhóm
người "yếu thế", phải làm những việc thu nhập thấp, thậm chí không kiếm
được việc làm, trở thành người thất nghiệp dài hạn và nhận trợ cấp xã hội.
Nhưng dù sao, những trợ cấp đó chỉ mang tính tức thời, giúp họ "cầm cự"
được trong cuộc sống thường nhật, tạo cơ hội cho họ quay trở lại thị trường
lao động. Nhưng nếu những người này không tự tạo cho họ năng lực, nâng
cao "vốn nhân lực" của mình thì sớm hay muộn, họ cũng lại bị "bật" ra khỏi
thị trường lao động. Muốn thoát khỏi vòng luẩn quẩn này, buộc những người
đó, bằng cách này hay cách khác phải nâng cao "vốn nhân lực" của mình và
cách hiệu quả nhất là đầu tư vào giáo dục, đào tạo nghề. Học nghề chính là cơ
hội để người lao động tham gia vào quan hệ lao động, giải quyết vấn đề thất
nghiệp trong xã hội.
1.1.3. Phân loại học nghề
1.1.3.1. Phân loại theo trình độ nghề
Theo trình độ nghề, học nghề được chia thành ba cấp độ: sơ cấp, trung
cấp và cao đẳng.
Học nghề theo trình độ sơ cấp diễn ra trong khoảng thời gian từ ba
tháng đến dưới một năm nhằm trang bị cho người học kỹ năng thực hành của
một nghề đơn giản hoặc năng lực thực hành một số công việc của một nghề,
đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức tổ chức kỉ luật, tác phong công
nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho người học tìm kiếm việc làm, tự tạo việc

làm hoặc có điều kiện học lên trình độ cao hơn. Nội dung dạy nghề trình độ
sơ cấp tập trung vào năng lực thực hành nghề, phù hợp với thực tiễn và sự
phát triển của khoa học, công nghệ. Phương pháp dạy nghề trình độ sơ cấp
chú trọng rèn luyện kỹ năng thực hành nghề và phát huy tính tích cực, tự giác
của người học hơn là dạy các kiến thức xã hội xung quanh nội dung nghề đó.
Các cơ sở dạy nghề trình độ sơ cấp bao gồm: trung tâm dạy nghề, trường
trung cấp nghề, trường cao đẳng nghề có đăng ký dạy nghề trình độ sơ cấp,
doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất kinh doanh, dịch vụ khác, trường
trung cấp chuyên nghiệp, trường cao đẳng, trường đại học, cơ sở giáo dục
khác có đăng ký dạy nghề trình độ sơ cấp. Sau khi học xong, người học nghề
sơ cấp được cấp chứng chỉ sơ cấp nghề theo quy định của pháp luật.
Học nghề theo trình độ trung cấp diễn ra trong khoảng thời gian từ
một đến hai năm tùy theo nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung
học phổ thông, từ ba năm đến bốn năm tùy theo nghề đào tạo đối với người có
bằng tốt nghiệp trung học cơ sở. Học nghề trình độ trung cấp có thể trang bị
cho người học kiến thức chuyên môn và năng lực thực hành các công việc của
một nghề, có khả năng làm việc độc lập và ứng dụng kỹ thuật, công nghệ vào
công việc, có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỷ luật, tác phong công
nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho người học tìm kiếm việc làm, tự tạo việc
làm hoặc có điều kiện học lên trình độ cao hơn.
Yêu cầu đối với nội dung dạy nghề trình độ trung cấp là phải tập trung
vào năng lực thực hành các công việc của một nghề, nâng cao trình độ học
vấn theo yêu cầu đào tạo, đảm bảo tính hệ thống, cơ bản, phù hợp với thực
tiễn và sự phát triển của khoa học, công nghệ. Phương pháp dạy nghề trình độ
trung cấp phải kết hợp rèn luyện năng lực thực hành nghề với trang bị kiến
thức chuyên môn và phát huy tính tích cực, tự giác, khả năng làm việc độc lập
của người học nghề. Cơ sở dạy nghề trình độ trung cấp bao gồm: trường trung
cấp nghề, trường cao đẳng nghề có đăng ký dạy nghề trình độ trung cấp,
trường trung cấp chuyên nghiệp, trường cao đẳng, trường đại học có đăng ký
dạy nghề trình độ trung cấp. Khi kết thúc khóa học, người học nghề được cấp

bằng tốt nghiệp trung cấp nghề.
Học nghề theo trình độ cao đẳng diễn ra trong khoảng thời gian từ hai
năm đến ba năm tùy theo nghề đào tạo đối với người có bằng tốt nghiệp trung
học phổ thông, từ một đến hai năm tùy theo nghề đào tạo đối với người có
bằng tốt nghiệp trung cấp nghề cùng ngành nghề đào tạo. Mục tiêu của học
nghề trình độ cao đẳng là trang bị kiến thức chuyên môn và năng lực thực
hành các công việc của một nghề, có khả năng làm việc độc lập và tổ chức
làm việc theo nhóm, có khả năng sáng tạo, ứng dụng kỹ thuật, công nghệ vào
công việc, giải quyết được các tình huống phức tạp trong thực tế, có đạo đức,
lương tâm nghề nghiệp, ý thức kỉ luật, tác phong công nghiệp, tạo điều kiện
thuận lợi cho người học tìm kiếm việc làm, tự tạo việc làm hoặc có điều kiện
học lên trình độ cao hơn. Nội dung dạy nghề trình độ cao đẳng tập trung vào
năng lực thực hành các công việc của một nghề, nâng cao kiến thức chuyên
môn theo yêu cầu đào tạo của nghề, bảo đảm tính hệ thống, cơ bản, hiện đại,
phù hợp với thực tiễn và đáp ứng sự phát triển của khoa học, công nghệ.
Phương pháp dạy nghề trình độ cao đẳng phải kết hợp rèn luyện năng lực thực
hành nghề với trang bị kiến thức chuyên môn và phát huy tính tích cực, tự
giác, năng động, khả năng tổ chức làm việc theo nhóm. Cơ sở dạy nghề trình
độ cao đẳng bao gồm: trường cao đẳng nghề, trường cao đẳng, trường đại học
có đăng ký dạy nghề trình độ cao đẳng. Sau khi kết thúc khóa học, người học
nghề được cấp bằng tốt nghiệp cao đẳng nghề theo quy định của pháp luật.
1.1.3.2. Phân loại theo cách thức tổ chức dạy và học nghề
Theo cách phân loại này, học nghề được chia thành: học nghề được tổ
chức thành lớp học và học nghề theo hình thức kèm cặp tại doanh nghiệp.
Học nghề được tổ chức thành lớp học thường thấy ở các cơ sở chuyên
dạy nghề (trường, trung tâm dạy nghề) với số lượng người học nhiều, được
chia thành thành từng lớp học những loại nghề khác nhau. Với cách tổ chức
này, quy mô đào tạo nghề thường được phân chia thành hai phần tương đối rõ
ràng là lý thuyết và thực hành. Chính vì vậy, đây là cách thuận tiện giúp
người học có được các kỹ năng, kiến thức cơ bản và cần thiết của nghề mà

người đó theo học. Kết thúc khóa học, người học sẽ được cấp bằng hoặc
chứng chỉ nghề theo quy định của Nhà nước.
Học nghề kèm cặp tại doanh nghiệp thường được tổ chức ở các cơ sở
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với số lượng người học ít. Đây thực
chất là quá trình vừa học vừa làm của người lao động. Người học chủ yếu
thực hành nghề nhiều hơn học lý thuyết. Trong trường hợp này, giáo viên dạy
nghề là người đang trực tiếp làm việc tại doanh nghiệp. Họ sẽ hướng dẫn
người học các kỹ năng cần thiết để người học có thể thực hành nghề trên máy
móc, thiết bị ngay trong doanh nghiệp. Trong quá trình học, người học nghề
có thể làm ra sản phẩm và được doanh nghiệp trả công. Người học nghề theo
hình thức này sẽ không được cấp chứng chỉ nghề sau khi học. Tuy nhiên, kết
thúc thời gian học, người học có thể được doanh nghiệp nhận vào làm thông
qua hợp đồng lao động.
1.1.3.3. Phân loại theo mục tiêu của người học
Căn cứ vào mục tiêu của người học, có hai loại: học nghề để tự tạo
việc làm và học nghề để tham gia quan hệ lao động.
Học nghề để tự tạo việc làm nghĩa là sau khi hoàn thành xong khóa
học, với kiến thức và kỹ năng nghề được trang bị thì người học có thể độc lập
tự mình thực hành nghề để tạo việc làm và có thu nhập nuôi bản thân và gia
đình. Người học có thể tham dự khóa học nghề ngắn hạn hoặc dài hạn ở bất
kỳ cơ sở dạy nghề nào mà pháp luật cho phép để có thể trang bị cho mình
kiến thức của một nghề nhất định.
Ngược lại, sau khi kết thúc khóa học nghề, rất nhiều người học nghề
đã lựa chọn tìm kiếm việc làm bằng cách tham gia quan hệ lao động với một
cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trong và ngoài nước. Đây là hình thức học
nghề để tham gia quan hệ lao động. Với cách phân loại này, quan hệ học nghề
được xem như quan hệ tiền lao động bởi chỉ khi học nghề xong, người học
mới có thể tham gia quan hệ lao động với chủ sử dụng lao động.
Nhìn chung, học nghề để tự tạo việc làm hay tham gia quan hệ lao
động là mục đích riêng của mỗi người trước khi tham gia khóa học tùy thuộc

vào điều kiện, khả năng, sở thích của mỗi người… Tuy nhiên, cách phân loại
này cũng chỉ mang tính chất tương đối vì đôi lúc mục đích của người học
nghề không phải lúc nào cũng rõ ràng là học nghề để tự tạo việc làm hay tham
gia quan hệ lao động mà nhiều khi mục đích này có thể chuyển đổi lẫn nhau
tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể.
1.2. QUAN NIỆM VỀ HỢP ĐỒNG HỌC NGHỀ
1.2.1. Khái niệm hợp đồng học nghề
Hợp đồng học nghề là hình thức pháp lý thiết lập và duy trì quan hệ
dạy và học nghề theo quy định của pháp luật lao động. Nó là cơ sở pháp lý
làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ học nghề. Ở mỗi
quốc gia khác nhau, khái niệm hợp đồng học nghề được hiểu theo các cách
khác nhau. Pháp luật Singapore coi hợp đồng học nghề là hợp đồng dịch vụ.
"Hợp đồng dịch vụ" là thỏa thuận nào dù là thỏa thuận
miệng hay thỏa thuận bằng văn bản, được diễn đạt hay được ngầm
hiểu bởi một người đồng ý thuê một người khác như người lao động
làm thuê và người đó đồng ý phục vụ người sử dụng lao động như
một người lao động. Hợp đồng dịch vụ bao gồm cả hợp đồng hay
thỏa thuận học nghề [3, Điều 2].
Theo quy định trên, pháp luật Singapore đã đồng nhất khái niệm hợp
đồng học nghề với hợp đồng lao động và gọi chung là hợp đồng dịch vụ. Còn
đối với pháp luật Hàn Quốc và Nhật Bản, hợp đồng học nghề chính là sự thỏa
thuận về quyền và nghĩa vụ giữa hai chủ thể khi người lao động tham gia vào
hoạt động đào tạo phát triển kỹ năng nghề. Tại Việt Nam, hợp đồng học nghề
được coi là một loại hợp đồng nên mang bản chất của một hợp đồng thông
thường. Nội dung cơ bản của một hợp đồng học nghề bao gồm: Tên nghề học,
kỹ năng nghề đạt được, nơi học và nơi thực tập, thời gian hoàn thành khóa
học, mức học phí và phương thức thanh toán học phí, trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của mỗi bên khi vi phạm hợp đồng.
Bộ luật Lao động 1994, sửa đổi năm 2002, 2006, 2007 chưa đưa ra
khái niệm cụ thể về hợp đồng học nghề, trong đó Điều 24 chỉ ghi nhận "Việc

học nghề phải có hợp đồng học nghề bằng văn bản hoặc bằng miệng giữa
người học nghề với người dạy nghề hoặc đại diện cơ sở dạy nghề" [33]. Quy
định này chỉ xác định được hình thức của hợp đồng học nghề và các bên trong
hợp đồng học nghề mà chưa nêu được bản chất của hợp đồng học nghề. Luật
Dạy nghề năm 2006 ra đời dành hẳn một chương riêng với những điều khoản
quy định về hợp đồng học nghề. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 35 Luật Dạy
nghề năm 2006, "hợp đồng học nghề là sự thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ
giữa người đứng đầu cơ sở dạy nghề với người học nghề" [38]. Từ định nghĩa
trên dễ nhận thấy, hợp đồng học nghề chính là bản "giao kèo" để ghi nhận
quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham gia quan hệ học nghề.
Lần đầu tiên khái niệm hợp đồng học nghề được quy định cụ thể, rõ
ràng trong một văn bản pháp luật có giá trị cao nhất về luật chuyên ngành.
Đây là cơ sở pháp lý ràng buộc trách nhiệm pháp lý giữa các bên dạy và học
nghề, đồng thời cũng là căn cứ để giải quyết các tranh chấp, bất đồng trong
quan hệ học nghề. Nó thể hiện bản chất thỏa thuận giữa các chủ thể tham gia
quan hệ học nghề, ràng buộc trách nhiệm hai bên không chỉ trong quá trình
học nghề mà cả khi người học nghề tham gia quan hệ việc làm nếu trong hợp
đồng học nghề ghi cơ sở dạy nghề cam kết bảo đảm việc làm cho người học
nghề sau khi học xong.
Hợp đồng học nghề là một dạng đặc biệt của hợp đồng lao động, cho
nên nó có tính chất của hợp đồng lao động là sự tự do, tự nguyện, bình đẳng
của các chủ thể trong quan hệ, lại vừa mang đặc điểm riêng so với những thỏa
thuận trong hợp đồng lao động thông thường. Những đặc điểm đó là:
Thứ nhất, đối tượng của hợp đồng học nghề là việc dạy và học nghề.
Nếu như đối tượng của hợp đồng lao động là việc làm có trả công thì
đối tượng của hợp đồng học nghề là công việc dạy và học kiến thức và kỹ
năng một nghề nào đó. Khi tham gia quan hệ dạy - học nghề, người học nghề
mong muốn có được kỹ năng một nghề nhất định để có thể thể tự tạo việc làm
hoặc đi làm thuê. Để đạt được sự thành thạo một nghề nhất định, người học
nghề phải trải qua quá trình học tập, tích lũy, rèn luyện kiến thức về chuyên

môn. Đối với cơ sở dạy nghề, công việc mà họ phải thực hiện khi giao kết
hợp đồng học nghề là đào tạo cho người học những kiến thức, kỹ năng thực
hành cần thiết của nghề. Do đó, nội dung đầu tiên của hợp đồng học nghề là
tên nghề học và đây cũng chính là mục tiêu công việc mà các chủ thể tham
gia quan hệ học nghề hướng tới.
Thứ hai, hợp đồng học nghề mang tính chất song vụ.
Các bên tham gia trong quan hệ hợp đồng học nghề đều có quyền và
nghĩa vụ đối với nhau. Người học nghề có quyền được học tập, rèn luyện
nhưng cũng có nghĩa vụ phải làm việc cho doanh nghiệp trong một thời gian
nhất định ghi trong hợp đồng học nghề. Cơ sở dạy nghề có quyền thu phí dạy
nghề song có nghĩa vụ đào tạo nghề cho học viên, đối với doanh nghiệp mở
cơ sở dạy nghề còn có nghĩa vụ "trả công cho người học nghề khi họ trực tiếp
hoặc tham gia làm ra sản phẩm" [38, Khoản 2 Điều 36]. Do vậy, khi một bên
chủ thể đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình thì có quyền yêu cầu chủ
thể kia thực hiện các nghĩa vụ tương ứng.
Thứ ba, trách nhiệm của hai bên trong hợp đồng học nghề
Hợp đồng học nghề không những ràng buộc trách nhiệm của cả hai
bên trong quan hệ học nghề, trong quá trình học mà có thể cả khi người học
tham gia vào quan hệ lao động (trong trường hợp hợp đồng học nghề ghi cơ
sở dạy nghề cam kết đảm bảo việc làm cho người học hoặc khi người lao
động được đào tạo nghề trong cơ sở dạy nghề của doanh nghiệp).
Nếu hai bên đã cam kết vấn đề việc làm trong hợp đồng học nghề, bên
nào không thực hiện sẽ phải bồi thường theo mức thỏa thuận ghi trong hợp
đồng. Quy định như vậy nhằm đảm bảo cho quan hệ cung cầu về việc làm
được cân đối, xác định rõ những nghề cần đào tạo để tiết kiệm trong đào tạo
và giúp người học nghề có thể kiếm sống bằng chính nghề mình đã được học.
Thứ tư, về trách nhiệm hợp bồi thường do vi phạm hợp đồng học nghề.
Trong quan hệ học nghề, nếu chủ thể nào vi phạm nghĩa vụ hợp đồng
thì phải có trách nhiệm bồi thường. Nếu bên người học nghề là vị thành niên
vi phạm thì cha mẹ hoặc người đại diện hợp pháp phải đứng ra bồi thường.

Như vậy, nếu vi phạm các điều khoản trong hợp đồng học nghề, trách nhiệm
bồi thường thuộc về các chủ thể của hợp đồng hoặc người thứ ba theo quy
định của pháp luật.
1.2.2. Phân loại hợp đồng học nghề
Với sự đa dạng về nội dung của hợp đồng và sự phụ thuộc vào cách
tiếp cận vấn đề khác nhau hợp đồng học nghề có thể được phân chia thành
từng loại khác nhau dựa trên những căn cứ, dấu hiệu đặc trưng cụ thể.
Dựa vào hình thức, hợp đồng học nghề được chia thành hai loại: hợp
đồng học nghề bằng văn bản và hợp đồng học nghề bằng lời nói.
Hợp đồng học nghề bằng văn bản là hình thức hợp đồng phổ biến hiện
nay, có thể được sử dụng trong mọi trường hợp, không phân biệt loại hình học
nghề, thời hạn học nghề, chủ thể giao kết hợp đồng. Để nâng cao giá trị pháp
lý của hợp đồng học nghề, pháp luật quy định bắt buộc áp dụng hợp đồng học
nghề trong trường hợp doanh nghiệp tuyển người vào học nghề để làm việc
cho doanh nghiệp và trường hợp học nghề tại cơ sở học nghề có vốn đầu tư
nước ngoài. hợp đồng học nghề bằng văn bản phải được làm thành hai bản
như nhau, mỗi bên giữ một bản. Đây là căn cứ quan trọng để giải quyết mâu
thuẫn, bất đồng khi tranh chấp về hợp đồng học nghề xảy ra.
Hợp đồng học nghề bằng lời nói được sử dụng trong trường hợp
truyền nghề và kèm cặp nghề tại doanh nghiệp. Xét về tính hiệu quả và tính
có căn cứ thì hợp đồng học nghề bằng lời nói có nhiều hạn chế hơn hợp đồng
học nghề bằng văn bản. Do đó, Nhà nước giới hạn phạm vi áp dụng đồng thời
khuyến khích các bên sử dụng hình thức hợp đồng học nghề bằng văn bản.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp học nghề đơn giản, ít xảy ra mâu thuẫn
pháp luật vẫn chấp nhận hình thức hợp đồng học nghề bằng lời nói.
Theo giá trị pháp lý, hợp đồng học nghề được chia thành hai loại: hợp
đồng học nghề hợp pháp và hợp đồng học nghề vô hiệu.
Cách phân loại này nhằm mục đích giúp cơ quan có thẩm quyền giải
quyết tranh chấp khi nghi ngờ giá trị pháp lý của hợp đồng học nghề. Theo
đó, hợp đồng học nghề hợp pháp là loại hợp đồng đáp ứng đầy đủ các điều

kiện luật định về điều kiện chủ thể giao kết, nguyên tắc giao kết, nội dung,
hình thức của hợp đồng… Còn hợp đồng học nghề vô hiệu thì ngược lại với
hợp đồng được coi là hợp pháp. Tuy nhiên, mức độ vô hiệu của hợp đồng học
nghề có hai loại: vô hiệu toàn bộ và vô hiệu từng phần. Hợp đồng học nghề
vô hiệu từng phần là hợp đồng có một hoặc một số nội dung trong hợp đồng
trái với quy định pháp luật. Trong trường hợp này, những nội dung khác của
hợp đồng học nghề không bị ảnh hưởng giá trị pháp lý và những nội dung đó
vẫn có hiệu lực. Ngược lại, hợp đồng học nghề vô hiệu toàn bộ thì tất cả nội
dung trong hợp đồng đều không có giá trị pháp lý. Đó là trường hợp hợp đồng
học nghề có nội dung vi phạm điều cấm của pháp luật như nghề học bị pháp
luật cấm hay chủ thể của hợp đồng không đáp ứng không đáp ứng các điều
kiện luật định, vi phạm nguyên tắc giao kết, hình thức của hợp đồng không
đúng theo quy định pháp luật…
1.2.3. Nội dung hợp đồng học nghề
Hiểu theo nghĩa rộng, nội dung của hợp đồng học nghề bao gồm toàn
bộ những vấn đề phản ánh trong hợp đồng học nghề nhằm tạo lập nên giá trị
pháp lý nó. Với cách nhìn nhận như vậy, nội dung hợp đồng học nghề không
chỉ giới hạn trong phạm vi các điều khoản mà còn là tất cả những vấn đề đảm
bảo cho tính hợp pháp của hợp đồng học nghề. Tuy nhiên, dưới góc độ pháp
lý, khi nói đến nội dung của hợp đồng học nghề người ta thường chủ yếu xem
xét đến các điều khoản tạo thành quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên trong
hợp đồng học nghề. Theo quy định của pháp luật, các bên khi giao kết hợp
đồng học nghề thỏa thuận đầy đủ các nội dung chủ yếu được đặt ra. Tùy thuộc
vào cách thức tổ chức dạy và học nghề trên thực tế của từng loại cơ sở dạy
nghề Nhà nước quy định những nội dung trong hợp đồng học nghề cho phù
hợp. Nội dung chủ yếu của hợp đồng học nghề gồm những điều khoản sau:
- Tên nghề, kỹ năng nghề đạt được;
- Nơi học và nơi thực tập;
- Thời gian hoàn thành khóa học;
- Mức học phí và phương thức thanh toán học phí;

- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của mỗi bên khi vi phạm
hợp đồng [38, Khoản 1 Điều 36 ]
Đây là những điều khoản bắt buộc mà Nhà nước đòi hỏi các bên khi xây
dựng thỏa thuận phải đưa vào hợp đồng học nghề. Những nội dung này có ý
nghĩa thực tế với các bên, thể hiện đầy đủ điều kiện, khả năng thực hiện công
việc cũng như lợi ích mà hai bên hướng tới. Song tính chất của mỗi quan hệ học
nghề khác nhau dựa vào loại nghề học; do đó, ngoài những điều khoản cơ bản
trên, trong một số trường hợp, pháp luật còn cho phép các bên có những thỏa
thuận khác không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Những điều khoản này hình
thành trên cơ sở điều kiện và khả năng mỗi bên, do các bên tự do thương lượng
xác lập. Vì vậy, sự có mặt hay không của những điều khoản bổ sung này không
ảnh hưởng đến tính hợp pháp của hợp đồng học nghề, ví dụ như việc xét thưởng
với những người đạt được học nghề loại giỏi sau thời gian học nghề hay việc ăn
ở của người học nghề… Nhưng nếu hai bên đã thỏa thuận và đưa những điều
khoản này vào hợp đồng thì có giá trị pháp lý ràng buộc trách nhiệm của các bên.
Trường hợp hợp đồng học nghề được giao kết giữa người học nghề và
doanh nghiệp tuyển người vào học nghề để sử dụng thì ngoài những nội dung
chủ yếu như trường hợp học nghề thông thường, Khoản 2 Điều 36 Luật Dạy
nghề quy định hợp đồng học nghề phải có thêm những nội dung sau:
- Cam kết của người học nghề về thời hạn làm việc cho
doanh nghiệp;
- Cam kết của doanh nghiệp về việc giao kết hợp đồng lao
động sau khi học xong;
- Trả công cho người học nghề trực tiếp hoặc tham gia làm
ra sản phẩm cho doanh nghiệp trong thời gian học nghề [38].
Đây là những nội dung nhằm đảm bảo quyền lợi cho cả người học và
doanh nghiệp. Bởi vì, doanh nghiệp tuyển lao động vào học nghề để sau khi
học xong họ phục vụ cho nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong thời gian học, người học nghề được doanh nghiệp tạo điều kiện cần
thiết để hoàn thành khóa học về thời gian học, chỗ ăn ở… thậm chí doanh

nghiệp vẫn trả lương cho người học mặc dù thời gian này họ không trực tiếp
làm việc cho doanh nghiệp. Với mong muốn sau khi đạt được trình độ tay
nghề nhất định, người học sẽ cống hiến những gì đã được học để vận dụng
trong sản xuất kinh doanh và mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp, điều
khoản về thời hạn làm việc của người học cho doanh nghiệp như một sợi dây
ràng buộc giữa hai chủ thể của hợp đồng học nghề. Vì người chủ sử dụng lao
động đã bỏ ra chi phí trước để người học đạt được một trình độ nghề nhất
định thì người học phải trả lại lượng chi phí đó bằng cách thực hành kỹ năng
chuyên môn nghề của mình. Ngược lại, để đảm bảo quyền lợi của người học
nghề có việc làm, doanh nghiệp phải cam kết giao kết hợp đồng lao động cho
người học nghề sau khi đã học xong. Sự ghi nhận điều khoản này vào hợp
đồng học nghề nhằm mục đích cho người học yên tâm làm việc và khuyến
khích họ nâng cao trình độ chuyên môn của mình. Mặt khác, do tính chất của
việc học nghề là kỹ năng thực hành xen kẽ lý thuyết. Trong quá trình thực
hành, người học nghề có thể tự mình trực tiếp hoặc tham gia làm ra sản phẩm
cho doanh nghiệp. Cho nên, người học nghề có tư cách vừa là người học
nhưng đồng thời là người lao động trực tiếp hoặc tham gia tạo ra sản phẩm để
mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Do đó, hao phí sức lao động mà người
học nghề phải tiêu tốn để tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp phải được bù
đắp. Vì vậy, trong thời gian học nghề, thực hành nghề, doanh nghiệp phải trả
công cho người học nếu họ làm ra sản phẩm.
Hình thức kèm cặp nghề tại doanh nghiệp là một trong những hình
thức học nghề được người lao động lựa chọn nhiều hiện nay bởi tính khả thi
có được việc làm của người học sau khi kết thúc khóa học. Người học sẽ là
người lao động chính thức của doanh nghiệp khi họ đạt tới kỹ năng nghề mà
doanh nghiệp yêu cầu. Quá trình học nghề trong trường hợp này mang tính
chất vừa học vừa làm. Sau khi học nghề một thời gian, trong một chừng mực
nhất định, người học có thể làm ra sản phẩm cho doanh nghiệp bằng tay nghề
của mình Để đảm bảo quyền lợi cho người học nghề trong việc bỏ sức lao
động tạo ra lợi nhuận cho doanh nghiệp, ngoài những nội dung chủ yếu thì

hợp đồng học nghề phải quy định rõ thời gian bắt đầu người học được trả
công và mức tiền công trả cho người học theo từng thời gian. Việc trả công
này để bù đắp và tái tạo phần sức lao động của người học, đồng thời mang ý
nghĩa động viên và tạo cho quan hệ dạy và học nghề trở nên gần gũi giữa
doanh nghiệp với người học; song hoạt động tạo ra thu nhập cho doanh
nghiệp cũng đồng thời là quá trình tích lũy kiến thức nghề nghiệp của người
học nên mức lương trả cho người học nghề không nhất thiết phải ngang bằng
với mức trả cho người lao động làm việc chính thức trong đơn vị ở công việc
cùng loại. Mức tiền lương trả cho người học nghề do hai bên thỏa thuận tùy
thuộc vào mức độ làm lợi của người học cho doanh nghiệp "nhưng không
được thấp hơn 70% mức lương cấp bậc của công việc đó" [9].
1.3. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ
ĐỊNH HỌC NGHỀ TRONG PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM
1.3.1. Giai đoạn 1945-1954
Sau Cách mạng Tháng 8, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời.
Trong giai đoạn đầu sau khi giành được độc lập, trên cơ sở kế thừa các luật lệ
hiện hành của chế độ cũ, các văn bản luật nói chung và văn bản pháp luật lao
động nói riêng được ban hành nhằm củng cố chính quyền và thực hiện công
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Những văn bản pháp luật lao động
đầu tiên từ khi giành được độc lập gồm: Nghị định ngày 01/10/1945 quy định
buộc các xưởng kỹ nghệ, nhà thương mại phải báo trước một tháng cho người
lao động khi sa thải họ, Sắc lệnh 55/SL ngày 20/11/1945 quy định về hưởng
lương của người lao động khi nghỉ ngày 01/5, Sắc lệnh 64/SL ngày 8/5/1946
ban hành hệ thống cơ quan lao động trên lãnh thổ Việt Nam. Đặc biệt, Hiến
pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời vào ngày 9/11/1946
là một sự kiện trọng đại đánh dấu một mốc lớn trong lịch sử lập hiến của nước
ta, trong đó có Điều 3, Điều 13, Điều 14 quy định về chế độ lao động.
Năm 1947, Chính phủ ban hành tiếp Sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947
quy định về các chế độ lao động của công nhân Việt Nam làm tại các xưởng
kỹ nghệ, hầm mỏ, thương điếm và các nhà làm nghề tự do trong toàn quốc.

Những quy định về học nghề được quy định tại Chương thứ hai Sắc lệnh số
29/SL ngày 12/3/1947 được coi là những quy định sớm nhất, đặt nền móng
cho việc ghi nhận chế định học nghề của Nhà nước Việt Nam. Theo đó, khái
niệm thợ học nghề được định nghĩa một cách cụ thể, đây là "người mà chủ đã
nhận dạy cho biết nghề và đã cam đoan làm cho chủ tùy theo những điều kiện
và thời hạn mà đôi bên đã thỏa thuận" [6]. Bên cạnh đó, Sắc lệnh này cũng
quy định rõ độ tuổi học nghề, độ tuổi là thợ chính thức. Theo Điều 12 Sắc
lệnh, "không được dùng trẻ con dưới 12 tuổi (tính theo dương lịch) làm thợ

×