Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Thừa kế theo pháp luật trong Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn ở Việt Nam Luận văn Ths. Luật học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (874.88 KB, 129 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




HỒ THỊ VÂN ANH




THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
TRONG HOÀNG VIỆT LUẬT LỆ THỜI NGUYỄN
Ở VIỆT NAM






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC







HÀ NỘI - 2009
HỒ THỊ VÂN ANH  LUẬT DÂN SỰ  HÀ NỘI - 2009




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




HỒ THỊ VÂN ANH



THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
TRONG HOÀNG VIỆT LUẬT LỆ THỜI NGUYỄN
Ở VIỆT NAM


Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học:
TS. PHÙNG TRUNG TẬP





HÀ NỘI - 2009
MỤC LỤC


Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Tình hình nghiên cứu 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 7
5. Phương pháp nghiên cứu 8
6. Bố cục của luận văn 8
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT THỪA KẾ TRONG
HOÀNG VIỆT LUẬT LỆ THỜI NGUYỄN 9
1.1. Những cơ sở của pháp luật thừa kế trong Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn 9
1.1.1. Cơ sở Nho giáo 9
1.1.2. Cơ sở về văn hóa truyền thống, tục lệ của dân tộc 18
1.1.3. Sự kế thừa cổ luật của dân tộc và sự ảnh hưởng của pháp luật nhà Thanh 24
1.2. Những nguyên tắc của pháp luật thừa kế trong Hoàng Việt luật lệ 29
1.2.1. Nguyên tắc bảo vệ quan hệ huyết thống 29
1.2.2. Nguyên tắc hương hỏa 34
1.2.3. Nguyên tắc bảo đảm tuyệt đối Hiếu - Lễ - Nghĩa 37
CHƯƠNG 2. NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT
TRONG HOÀNG VIỆT LUẬT LỆ 43
2.1. Khái niệm thừa kế theo pháp luật trong Hoàng Việt luật lệ 43
2.1.1. Khái niệm 43
2.1.2. Những trường hợp thừa kế theo pháp luật trong Hoàng Việt luật lệ 47
2.2. Thời điểm mở thừa kế 48

2.3. Di sản thừa kế 55
2.4. Phạm vi những người được thừa kế theo pháp luật 67
2.4.1. Quan hệ hôn nhân 67
2.4.2. Quan hệ huyết thống 73
2.4.3. Quan hệ nuôi dưỡng (nghĩa dưỡng) 89
2.5. Phân định di sản thừa kế 93
2.5.1. Thừa kế không có chúc thư 93
2.5.2. Thừa kế hương hỏa (thừa kế tự sản) 97
2.5.3. Thừa kế tập ấm (hay thế tập) 100
CHƯƠNG 3. ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ THỪA KẾ
THEO
PHÁP LUẬT TRONG HOÀNG VIỆT LUẬT LỆ THỜI NGUYỄN . 104
3.1. Đánh giá về quyền lợi của người con gái trong việc hưởng di sản thừa kế 108
3.2. Đánh giá về quyền hưởng di sản thừa kế của các con 112
3.3. Đánh giá về quyền lợi của người vợ góa 114
3.4. Đánh giá về truyền thống, phong tục tập quán của dân tộc trong các quy định
về thừa kế 116
KẾT LUẬN 120
PHỤ LỤC 126

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Triều Nguyễn là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, kéo
dài hơn hai phần ba thế kỷ. Triều Nguyễn không chỉ để lại cho hậu thế, cho Huế
những di sản văn hóa: vật thể và phi vật thể, được thế giới công nhận, mà còn để
lại cho hậu thế một di sản lập pháp tương đối hoàn bị dưới thời phong kiến ở Việt
Nam. Việc nghiên cứu về văn hóa triều Nguyễn đã được quan tâm và có những
thành tựu nhất định. Song việc nghiên cứu về pháp luật triều Nguyễn vẫn chưa
được quan tâm đúng mức, chưa xứng đáng với tầm vóc, nhất là việc nghiên cứu

các quy định về thừa kế theo hướng chuyên sâu trong Hoàng Việt luật lệ dưới thời
nhà Nguyễn chưa hề được đề cập đến. Việc nghiên cứu pháp luật triều Nguyễn là
cần thiết không chỉ để hiểu thêm về triều đại này, mà còn để hiểu biết về pháp chế
triều Nguyễn, từ đó có cái nhìn toàn diện hơn về pháp chế Việt Nam dưới thời
phong kiến.
Năm 1802, vua Gia Long lên ngôi, chính thức sáng lập ra triều Nguyễn.
Ngay sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã triển khai biên soạn một bộ luật với quy
mô rộng lớn nhằm làm “chuẩn thằng” cho công tác pháp luật. Bộ luật có tên là
Hoàng Việt luật lệ (hay còn gọi là Hoàng triều luật lệ hoặc Bộ luật Gia Long). Vua
Gia Long trực tiếp đọc duyệt, tu sửa, sau cùng viết lời tựa có đoạn: “Thánh nhân
cai trị thiên hạ đều dùng luật pháp để xử tội, dùng đạo đức để giáo hóa họ. Hai
điều ấy không thiên bên nào bỏ bên nào. Thật vậy, sống trong xã hội, con người
với những ham muốn vô bờ, nếu không có luật pháp để ngăn ngừa thì không có
cách gì để dẫn dắt người ta vào đường giáo hóa mà biết được đạo đức”. Không
chỉ dừng lại ở Hoàng Việt luật lệ, các vua sau vua Gia Long cũng đặc biệt quan
tâm đến việc lập pháp, hàng loạt các Chỉ, Dụ được ban hành dưới thời Minh
Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức để tiếp tục bổ khuyết, hoàn thiện cho Hoàng Việt luật lệ.
Công tác lập pháp được chú trọng, triều Nguyễn để lại một di sản pháp luật đồ sộ
không kém gì di sản văn hóa: bộ Hoàng Việt luật lệ, 560 quyển Đại Nam thực lục,

1
262 quyển Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ, 25 quyển Minh Mệnh chính yếu,
3.171 tập Châu Bản
Tuy nhiên, triều Nguyễn lại là triều đại mà trong quá trình tồn tại của
mình gắn liền với nhiều biến động của lịch sử, đất nước lần lượt rơi vào tay thực
dân Pháp. Điều đó khiến cho việc đánh giá về triều Nguyễn trở nên hết sức phức
tạp. Vấn đề nhìn nhận về pháp luật triều Nguyễn cũng không nằm ngoài tình
trạng phức tạp nói trên. Trong sự giao lưu văn hóa, vấn đề tham khảo, tiếp nhận
ảnh hưởng văn hóa giữa các quốc gia là một hiện tượng bình thường, ở đâu và
thời nào cũng có. Song, đối với triều Nguyễn lại bị phê phán nặng nề. Trong số

những điều mà pháp luật triều Nguyễn nói chung và Hoàng Việt luật lệ nói riêng
bị phê phán thì các chế định về thừa kế trong Hoàng Việt luật lệ là bị chỉ trích
nặng nề nhất. Do đó, luận văn đã mạnh dạn lựa chọn vấn đề thừa kế trong Hoàng
Việt luật lệ dưới thời Nguyễn để nghiên cứu. Mục đích là nhằm tìm kiếm những
giá trị tốt đẹp của hệ thống pháp luật dưới thời nhà Nguyễn. Bởi, nếu không có
một “sự hợp lý” nào đó thì hệ thống pháp luật này đã không thể trở thành nền
pháp luật thực định của một triều đại tồn tại gần một thế kỷ. Đồng thời, qua việc
nghiên cứu về vấn đề chế định thừa kế trong Hoàng Việt luật lệ cũng là để góp
phần trong việc đánh giá về pháp luật triều Nguyễn.
Thừa kế là định chế hết sức đặc biệt vì nó liên quan nhiều đến văn hóa - văn
hóa tộc người. Ở đây, nó ít nhiều thuộc về lĩnh vực pháp lý văn hóa, đòi hỏi các nhà
lập pháp, hành pháp cũng như tư pháp khi xây dựng những chế định này cũng như
khi vận dụng pháp luật đều phải có sự am hiểu sâu sắc về phong tục tập quán của
dân tộc, về văn hóa dân tộc mà được tập trung ở cổ luật của dân tộc, về văn hóa dân
tộc. Việc nghiên cứu các chế định về thừa kế trong Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn
còn là để hiểu biết về những phong tục tập quán của người Việt xưa. Vì thời xưa,
giữa pháp luật và tục lệ tuy hai mà một. Tục lệ chính là cách ứng xử của cộng đồng
và pháp luật chính là sự quy phạm hóa những nguyên tắc của tục lệ để củng cố cho
luân lý xã hội. Việc tìm hiểu tục lệ của dân tộc thông qua việc nghiên cứu thừa kế
trong Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn thiết nghĩ là hết sức cần thiết trong thời buổi

2
xã hội đương trải qua một “cơn sốt vỡ da” của nền kinh tế thị trường, những giá trị
truyền thống đã và đang ít nhiều bị mai một, lãng quên. Trong khi người Việt đang
chạy theo đà tiến triển vũ bão của văn minh thế giới, thiết nghĩ có ít nhiều ngoảnh
lại vào cuộc sống hôm qua của cha ông, chưa ắt đã là hoàn toàn vong bản!
Có thể nói, những giá trị cổ luật này không chỉ có ý nghĩa về mặt lịch sử, về
truyền thống, mang yếu tố dân tộc mà còn có ý nghĩa về xây dựng pháp luật. Những
giá trị này không mất đi mà nó đã, đang và sẽ đồng hành cùng với sự phát triển của
đời sống dân sự hiện đại. Việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật thừa kế hiện nay

không thể không kế thừa những giá trị tốt đẹp về thừa kế mang tính dân tộc như các
quy định về hương hỏa, hiếu, lễ, nghĩa, huyết thống, thừa tự trong cổ luật mà
trong đó tất yếu có pháp luật thời Nguyễn.
Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 24 tháng 5 năm 2005 về
“Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến 2010, định
hướng đến 2020” đã khẳng định: “Xây dựng và hoàn thiện pháp luật nhằm bảo tồn
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, “phát huy
di sản văn hóa dân tộc”
Vì vậy, nghiên cứu về “Thừa kế theo pháp luật trong Hoàng Việt luật lệ thời
Nguyễn ở Việt Nam” là cần thiết và có cơ sở khoa học.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu về pháp luật triều Nguyễn nói chung đã được đặt ra từ lâu
nhưng kết quả vẫn còn khiêm tốn, nhất là việc nghiên cứu về thừa kế trong Hoàng Việt
luật lệ dưới thời Nguyễn chưa được quan tâm. Cụ thể là, chưa có công trình nào nghiên
cứu về vấn đề này, nếu có, chỉ có thể tìm được một số công trình nghiên cứu một khía
cạnh nào đó có hàm chứa yếu tố thừa kế trong Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn.
Dưới thời phong kiến chưa thấy có công trình nghiên cứu nào về pháp luật
triều Nguyễn. Chỉ đến thời Pháp thuộc, cùng với việc dịch thuật bộ Hoàng Việt luật
lệ ra tiếng Pháp, một số tác giả người Pháp đã chú giải nó và do đó vấn đề nghiên
cứu về Hoàng Việt luật lệ mới được bắt đầu.

3
Vào năm 1862, Anbaret dịch xong Hoàng Việt luật lệ ra tiếng Pháp và cho xuất
bản. Đến năm 1875, P. Philastre dịch lại bộ Hoàng Việt luật lệ ra tiếng Pháp xuất bản
tại Paris, dưới tiêu đề Le Code Annamite. Cùng với dịch thuật, P. Philastre đã bình
luận, chú giải và đó là những kết quả nghiên cứu đầu tiên về bộ Hoàng Việt luật lệ theo
quan điểm pháp lý của Tây phương. Đến năm 1909, trong lời tựa viết cho bản dịch bộ
Luật Hồng Đức ra tiếng Pháp của Deloustal tuy tập trung nói về pháp luật thời Lê,
nhưng H. Maitre cũng đã dành một đoạn để đánh giá về Hoàng Việt luật lệ.
Đến năm 1922, lần đầu tiên, một luận án Tiến sỹ Luật học nghiên cứu về bộ

Hoàng Việt luật lệ của luật sư Phan Văn Trường đã được đệ trình tại Đại học đường
Paris, xuất bản 1922. Luận án gồm 2 công trình có tên là Essais sur Le Code Gia Long
(gồm 86 trang) và Le droit pénal à travers l’ancienne la législation chinoise (Etude
comparée sur Le Code Gia Long) (gồm 194 trang). Trong luận án, tác giả đã nghiên
cứu tường tận và so sánh, phân tích những điểm tương đồng và dị biệt giữa Hoàng Việt
luật lệ và bộ luật nhà Thanh. Đây là công trình nghiên cứu có tính hệ thống và quy mô
đầu tiên về Hoàng Việt luật lệ, trong đó có các định chế về thừa kế. Đến năm 1928,
Trần Văn Liêu tiếp tục đệ trình một luận án Tiến sỹ Luật học khác tại Đại học đường
Paris với tiêu đề De la propriété familiale comme fondement du droit familial
Vetnamien, d’après Le Code Gia Long et Le Code des Lê. Đến năm 1935, Phạm Quang
Bạch lại đệ trình luận án Tiến sỹ Luật học tại Đại học đường Paris với tiêu đề là Essai
sur l’idée de la loi dans Le Code Gia Long. Từ sau đó trở đi cũng còn một số luận án
khác có bàn ít nhiều đến bộ luật Hoàng Việt luật lệ.
Sau năm 1954, giáo sư Vũ Văn Mẫu đã tập trung nghiên cứu về cổ luật Việt
Nam, trong đó có Hoàng Việt luật lệ. Năm 1958 với cương vị khoa trưởng trường
Đại học Luật khoa Sài Gòn, ông đã cho ra đời bộ giáo trình Dân luật khái luận,
trong đó có bàn về Hoàng Việt luật lệ và có đề cập đến chế định thừa kế. Từ năm
1958 cho đến 1975, quan điểm của giáo sư Vũ Văn Mẫu về vấn đề thừa kế trong
Hoàng Việt luật lệ được giữ nguyên và ông là người độc chuyên giảng dạy tư pháp
sử ở miền Nam Việt năm trước năm 1975 nên chúng trở thành nhận thức chính
thống của giới luật học miền Nam trước đây.

4
Cùng thời này, ở miền Bắc, luật gia Đinh Gia Trinh cho ra đời tác phẩm Sơ
khảo lịch sử nhà nước và pháp quyền Việt Nam (tập 1, Nxb Khoa học, Hà Nội, 1968).
Trong tác phẩm này có một phần nhỏ đề cập đến pháp luật triều Nguyễn nói chung.
Ngoài công trình của luật gia Đinh Gia Trinh, ở miền Bắc cho đến ngày đất
nước thống nhất không còn thấy có một công trình nào khác nữa về vấn đề này.
Trong mười năm đầu sau 1975 không thấy có một công trình nghiên cứu nào
về pháp luật triều Nguyễn. Chỉ từ năm 1986 trở đi, cùng với chủ trương đổi mới,

ngành luật học ở Việt Nam dần phát triển. Năm 1986, khoa Lịch sử - Trường Đại
học Sư phạm Huế đã xây dựng một chuyên đề giảng dạy tại khoa với tiêu đề: Lịch
sử nhà nước và pháp quyền Việt Nam (từ nguồn gốc đến thế kỷ XIX). Tài liệu này
được xuất bản năm 1993 và là tài liệu học tập cho sinh viên khoa Sử trường Đại học
Sư phạm Huế. Tài liệu này có đề cập đến pháp luật triều Nguyễn nói chung.
Bốn năm sau, vào năm 1990, khoa Luật của trường Đại học Tổng hợp tiếp tục
xuất bản giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam (Từ nguồn gốc đến trước
Cách mạng tháng Tám 1945). Nội dung có đề cập đến pháp luật triều Nguyễn nói chung.
Năm 1994, tại cuộc Hội thảo khoa học về triều Nguyễn (thuộc chương trình
nghiên cứu khoa học cấp Bộ) do trường Đại học Sư phạm Huế tổ chức cũng đã ít
nhiều đề cập đến pháp luật triều Nguyễn nhưng thừa kế theo Hoàng Việt luật lệ
trong triều Nguyễn vẫn chưa được đề cập đến.
Năm 1994, tác giả Nguyễn Q. Thắng là người đầu tiên dịch Hoàng Việt luật lệ
ra tiếng Việt, kèm theo nhận xét, đánh giá chung về Bộ luật. Đây là lần đầu tiên công
chúng được tiếp cận với một bản dịch đầy đủ về Hoàng Việt luật lệ.
Từ năm 1996 cho đến nay, một số giáo trình “lịch sử nhà nước và pháp luật
Việt Nam” của các cơ sở đào tạo luật trong toàn quốc đều lần lượt được xuất bản,
trở thành tài liệu học tập của sinh viên ngành luật. Pháp luật triều Nguyễn bắt đầu
được quan tâm nhưng nội dung và thời lượng dành cho nó vẫn chưa nhiều nhất là về
mảng thừa kế không được quan tâm đến theo hướng chuyên sâu.
Nhiều cuộc Hội thảo Khoa học được tổ chức: Hội thảo khoa học Văn hóa Việt
Nam thời Nguyễn và những vấn đề đặt ra hiện nay, tổ chức tại Đại học Huế vào năm

5
2000. Gần đây nhất là Hội thảo khoa học Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong
lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX ngang tầm cỡ quốc gia, được tổ chức ở
Thanh Hóa từ ngày 18 đến ngày 19 tháng 10 năm 2008 Đáng tiếc, là trong các cuộc
hội thảo này, vấn đề về pháp luật triều Nguyễn chưa được quan tâm đúng mức. Chưa
có bài tham luận nào về thừa kế theo pháp luật trong Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn.
Đầu năm 2005, trên cơ sở của đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, TS. Huỳnh

Công Bá đã xuất bản tác phẩm: Hôn nhân và gia đình trong pháp luật triều Nguyễn.
Và như vậy, thừa kế vẫn đang là vấn đề về pháp luật triều Nguyễn bị bỏ ngỏ.
Có thể nói, công tác nghiên cứu về pháp luật triều Nguyễn và pháp luật thừa
kế trong Hoàng Việt luật lệ dưới triều Nguyễn đã được đặt ra từ lâu, song cho đến
nay vấn đề này vẫn chưa được giải quyết một cách dứt khoát vì chưa có sự quan
tâm đúng mức. Trên cơ sở những kết luận đầu tiên của P. Philastre vào năm 1875,
về sau nhiều tác giả đã tiếp tục nghiên cứu nhưng không đi sâu vào lĩnh vực thừa kế
theo pháp luật trong Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn. Điều này khiến kết quả nghiên
cứu về vấn đề này bị dẫm chân tại chỗ, mặc dù thời gian đã lùi xa trên nền của
những người đã khai phá mở đường.
Do vậy, việc nghiên cứu và đánh giá một cách khách quan về nền pháp luật
triều Nguyễn, nhất là ở phương diện pháp luật thừa kế là một việc làm hết sức cần
thiết để góp phần hiểu đúng về nền pháp luật triều đại này, góp phần đánh giá triều
Nguyễn và góp phần gìn giữ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc trong
hoạt động lập pháp hiện đại.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Trong giới hạn của luận văn, chúng tôi chưa có điều kiện để trình bày toàn
bộ nền pháp luật của triều Nguyễn, mà chỉ tập trung ở lĩnh vực pháp luật về thừa kế
theo pháp luật trong Hoàng Việt luật lệ dưới thời Nguyễn.
Trong một số nội dung, chúng tôi không dừng lại ở Hoàng Việt luật lệ, mà cố
gắng khảo sát thêm các luật lệ bổ sung dưới thời Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức.
Ở một số trường hợp khi luật văn tỏ ra mặc tĩnh, chúng tôi đã cố gắng xem xét thêm ở
thái độ của tục lệ (ở các câu giải đáp của Ủy ban cố vấn Án lệ). Tuy nhiên, về cơ bản,

6
công trình tập trung ở Hoàng Việt luật lệ, vì đây là tài liệu căn bản trong nền pháp
luật của triều Nguyễn, đã được áp dụng trong suốt thời gian trị vì của thời đại này và
còn được tiếp tục áp dụng sang cả giai đoạn đầu của thời kỳ Pháp thuộc, cho đến
ngày người Pháp ban hành các bộ Dân luật giản yếu ở Nam Kỳ (1883), Dân luật Bắc
ở Bắc kỳ (1931) và Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật ở Trung kỳ (1936). Đối với các Chỉ,

Dụ bổ sung sau ngày ban hành các bộ Hoàng Việt luật lệ, luận văn chú ý đến các Chỉ
dụ năm Minh Mệnh 10 (1829), Chỉ dụ năm Thiệu Trị 4 (1844), Chỉ dụ năm Tự Đức 8
(1855) Đây là các chỉ dụ liên quan đến tài sản của người vô tự, thừa kế tài sản của
người con gái đối với tài sản của cha mẹ, của người vợ góa đối với chồng
Ngoài ra, luận văn cũng đã chú ý so sánh với pháp luật nhà Thanh của Trung
Quốc, so sánh với Quốc triều Hình luật của triều Lê, pháp luật của phương Tây
trong một chừng mực có thể, để góp phần tìm kiếm một cách đánh giá khách quan
hơn đối với nền pháp luật triều Nguyễn.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đây là công trình đầu tiên tập hợp và trình bày một cách tương đối có hệ thống
về vấn đề thừa kế theo pháp luật trong Hoàng Việt luật lệ thời nhà Nguyễn. Loại bỏ
định kiến, luận văn nhìn triều Nguyễn bằng cái nhìn bình đẳng như những triều đại
phong kiến khác. Trên cơ sở những vấn đề lý luận, vấn đề pháp lý về thừa kế, các quy
định của Hoàng Việt luật lệ về thừa kế và các Chỉ, Dụ được bổ sung suốt thời gian trị
vì của triều Nguyễn, luận văn đã phân tích, hệ thống hóa các quy định về thừa kế theo
pháp luật của Hoàng Việt luật lệ dưới triều Nguyễn. Luận văn đã đặt vấn đề này vào
hoàn cảnh lịch sử cụ thể của chúng để đánh giá về những giá trị của những quy định
thừa kế theo pháp luật trong Hoàng Việt luật lệ. Từ đó, góp phần đánh giá nền luật
pháp triều Nguyễn nói chung.
Một mục đích khác của luận văn là ở sự so sánh với pháp luật triều Lê, pháp
luật nhà Thanh, pháp luật phương Tây. Tuy không phải ở tất cả mọi điểm đều được
so sánh (vì như thế là nhiệm vụ của một đề tài khác). Song đây cũng chính là một
trong những mục tiêu mà luận văn đề ra và nó cũng đem lại một số kết quả bước
đầu trong việc góp phần đánh giá đúng đắn hơn về nền pháp luật triều Nguyễn.

7
Một mục đích khác nữa của luận văn là luận văn đã chọn đúng vào chỗ pháp
luật triều Nguyễn bị phê phán nặng nề nhất, nên việc nghiên cứu vấn đề này sẽ góp
phần giải tỏa định kiến bấy lâu nay về pháp luật triều Nguyễn.
Luận văn cũng còn có thể góp phần trong việc hiểu biết về cội nguồn của các

chế định về thừa kế hiện nay ở nước ta, vốn đã được các nhà lập pháp thời hiện đại
kế thừa từ trong di sản pháp luật của dân tộc.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận khoa học luật dân sự, các quy định của Hoàng Việt luật lệ,
các Chỉ, Dụ bổ sung sau Hoàng Việt luật lệ, và trên cơ sở các nguồn tư liệu tiếp cận
được, chúng tôi đã tiến hành xử lý, sử dụng các phương pháp khác nhau như: phân
tích, so sánh, đối chiếu. Ngoài ra, chúng tôi còn vận dụng các phương pháp lịch sử
và phương pháp lôgic để rút ra các ý nghĩa, hệ thống hóa các chế định và trình bày
thành luận văn của mình.
Trong đó, luận văn đặc biệt chú ý phương pháp so sánh (trong một giới hạn
với khả năng có thể) với pháp luật triều Lê, pháp luật Trung Quốc nhà Thanh và
pháp luật phương Tây. Để đánh giá các định chế về pháp luật thừa kế dưới triều
Nguyễn, chúng tôi phải cố gắng vận dụng các phương pháp duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử; nhìn nhận vấn đề trong tính lịch sử cụ thể của nó; xem xét từng vấn
đề trong tiến trình vận động và phát triển của chúng, cũng như trong tính toàn thể
của các sự vật và sự việc.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương. Cụ thể là:
Chương 1. Khái quát về pháp luật thừa kế trong Hoàng Việt luật lệ thời
Nguyễn.
Chương 2. Những quy định về thừa kế theo pháp luật trong Hoàng Việt
luật lệ.
Chương 3. Đánh giá giá trị những quy định về thừa kế theo pháp luật trong
Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn.

8

CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT THỪA KẾ

TRONG HOÀNG VIỆT LUẬT LỆ THỜI NGUYỄN


1.1. Những cơ sở của pháp luật thừa kế trong Hoàng Việt luật lệ thời Nguyễn
1.1.1. Cơ sở Nho giáo
Thừa kế là một quan hệ phát sinh trong đời sống xã hội với yếu tố nền tảng
là gia đình, dòng họ. Vấn đề gia đình được Nho giáo đặc biệt quan tâm, tạo cơ sở
vững chắc cho những chế định về quan hệ thừa kế trong cổ luật.
Trong lịch sử gần hai nghìn năm phát triển của Nho giáo ở Việt Nam, phải
đến thời Nguyễn thì những phạm trù của học thuyết này mới được các Nho sĩ
nghiền ngẫm, luận giải một cách sâu sắc, trở thành ngọn cờ tinh thần thống nhất
được toàn xã hội trên một nền tảng đạo lý, lễ nghi, tâm lý, nếp sống, một diện mạo
văn hóa Nho giáo khá điển hình [617; 6].
Các quan hệ trong đời sống người dân và kể cả pháp luật thời kỳ này đều ít
nhiều đậm nét Nho giáo. Điều đáng lưu ý là các tư tưởng Nho giáo này đều qua quá
trình sàng lọc lịch sử, vì vậy nó chỉ được chấp nhận khi phù hợp với đạo đức, luân
lý của dân tộc Việt Nam đã có từ ngàn đời nay.
Nho giáo coi gia đình là cơ sở của xã hội. Nho giáo xác định “Thiên hạ chi
bản tại quốc, quốc chi bản tại gia” (Mạnh Tử - Ly lâu thượng 5) (tức: gốc của thiên
hạ là nước, gốc của nước là nhà). Nhà Nho Phan Bội Châu nêu ra: “Nước là cái nhà
to, nhà là cái nước lớn” (Khổng học đăng) [140; 16]. Trong Tam cương, vua làm
giường mối cho bầy tôi, cha làm giường mối cho con, chồng làm giường mối cho
vợ, thì đã có hai điều nói về quan hệ gia đình. Trong Ngũ thường: 1- Quân quân
thần thần, 2- Phụ phụ tử tử, 3- Huynh huynh đệ đệ, 4- Phu phu thê thê, 5- Bạn bè
bằng hữu, thì cũng có 3 điều nói về mối quan hệ trong gia đình. Tam cương liên kết
với Ngũ thường, là năm đức: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Đây là những nội dung cơ
bản của đạo đức Nho giáo.

9
Những vấn đề luân lý đạo đức này được nhà Nguyễn điển chế thành các quy

định pháp luật và truyền bá đến tận làng, xã. Mỗi khi triều đình ban bố huấn điều -
giáo điều thì lý trưởng, xã trưởng tập hợp nhân dân giảng giải cặn kẽ giáo điều để
mọi người thấm nhuần, tuân thủ lễ giáo Nho giáo và xây dựng nên phong tục làng
xã thuần hậu (Mỗi nhà nhân hậu thì cả nước dấy lên nhân hậu, mỗi nhà lễ nhượng
thì cả nước dấy lên lễ nhượng)
Đây là những nguyên nhân đã khiến nhà làm luật dự liệu hình phạt cả trong
những vấn đề liên hệ đến quyền lợi của tư nhân trong gia đình như các vấn đề giá
thú, nghĩa dưỡng, thừa kế v.v , thiết tưởng chỉ cần nhấn mạnh rằng trạng thái ấy đã
ghi nhận một sự đắc thắng của Nho giáo [456; 22].
Sự đắc thắng của Nho giáo càng có ý nghĩa hơn, nếu ta nhận định quan niệm
pháp trị đã xâm lấn vào cả địa hạt luân lý, nghĩa là lãnh vực đáng lẽ phải dành
riêng cho các giáo điều của nhân trị chủ nghĩa. Chính trong phạm vi của luân
thường đạo lý, những sự xâm phạm vào các điều mà chủ nghĩa nhân trị coi là căn
bản của gia đình hay cơ sở của nền tam cương ngũ thường cổ điển, lại được luật
pháp coi là những tội đại ác. Do đó, các tội bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, loạn luân
được xếp ngang hàng với các trọng tội chính trị trong sự qui định tội thập ác, trong
các bộ luật cổ của Trung Hoa cũng như của Việt Nam, từ bộ Hình luật nhà Lý, đến
các bộ luật triều Lê, triều Nguyễn.
Theo Điều 2 Quốc triều Hình luật và Hoàng Việt luật lệ (cũng là Điều 2 luật
nhà Đường và nhà Thanh), tội thập ác là:
1. Mưu phản (mưu làm nghiêng đổ xã tắc, nghĩa bóng là mưu hại vua).
2. Mưu đại nghịch (mưu phá hủy tôn miếu, sơn lăng và cung quyết, nghĩa
bóng là mưu hại đến tổ tiên nhà vua).
3. Mưu bạn (mưu phản nước theo giặc).
4. Ác nghịch (đánh đập hay mưu giết ông bà, cha mẹ, bác, chú, thím, cô,
anh, chị, em, ông bà ngoại, ông bà cha mẹ chồng).
5. Bất đạo (giết trong một nhà ba người không đáng phải tội chết; giết
người chặt thây ra từng mảnh, bỏ thuốc độc bùa mê).

10

6. Đại bất kính (ăn trộm đồ thờ trong lăng miếu, đồ ngự dụng, làm giả ấn
ngự bảo, chế thuốc ngự không theo đúng phương, nấu ngự thiện (đồ ăn
của vua) phạm vào những món ăn cấm, không giữ gìn thuyền ngự cho
được chắc chắn, chỉ trích vua và đối với sứ giả nhà vua không giữ lễ của
kẻ bầy tôi).
7. Bất hiếu (tố cáo, rủa mắng ông bà, cha mẹ; trái lời dạy bảo; nuôi nấng
thiếu thốn ông bà cha mẹ; có tang cha mẹ mà lấy vợ lấy chồng, vui chơi
ăn mặc như thường; được tin tang ông bà cha mẹ mà giấu, không tỏ nỗi
xót thương; nói dối là ông bà cha mẹ chết).
8. Bất mục (giết hay đem bán những người trong họ từ hàng để tang ba
tháng trở lên, đánh đập và tố cáo chồng, cùng những người trong họ từ
hàng tang tiểu công (phải để tang từ 5 tháng trở lên)).
9. Bất nghĩa (giết quan cai trị đương tại chức trong địa hạt; giết thầy học;
được tin tang chồng mà không thương xót, vui chơi ăn mặc như thường
cùng là cải giá).
10. Nội loạn (gian dâm với người trong họ từ hàng tang tiểu công (tang 5
tháng) trở lên, cùng nàng hầu của ông cha)).
Các tội thập ác được coi là những tội đại hung ác. Vì vậy những sự khoan
hồng được dự liệu trong luật đều không áp dụng cho các tội này; thí dụ các người ở
trong trường hợp bát nghị phạm tội thập ác, không được hưởng sự ưu đãi mà luật đã
dành cho họ; tội thập ác không thể được chuộc bằng tiền, dù phạm nhân đã già quá
70 tuổi hay còn trẻ dưới 15 tuổi hoặc phế tật
Theo giáo lý của Nho giáo thì “gia giáo” rất mực được đề cao, “phụ phụ tử
tử, huynh huynh đệ đệ” (cha ra cha, con ra con, anh ra anh, em ra em). Trong mối
quan hệ ấy thì “cha nhân từ, con có hiếu, anh rộng lượng, em kính trọng”. Hoàng
Việt luật lệ nghiêm khắc đối với những hành vi vi phạm tôn ti, trật tự trong gia
đình; Điều 76 Hoàng Việt luật lệ cấm “lập đích tử trái phép”, Điều 96 Hoàng Việt
luật lệ xử phạt trường hợp “mất thứ bậc thê và thiếp” v.v

11

Nho giáo chủ trương tuyệt đối phụ quyền gia trưởng nên pháp luật quy định
cho người gia trưởng có uy quyền đối với mọi thành viên trong gia đình. Khi người
vợ phạm phải các lỗi “thất xuất” thì người chồng được phép rẫy vợ. Điều 108
Hoàng Việt luật lệ quy định 7 trường hợp “thất xuất” là: vô tử, dâm dật, bất sự cậu
cô, đa ngôn, đạo thiết, đố kỵ, ác tật. Trong khi đó người vợ bị trừng phạt nghiêm
khắc nếu ruồng bỏ chồng. Con cái trong gia đình phải hiếu kính với cha mẹ, dưới
quyền của người gia trưởng, theo cổ luật nói chung và Hoàng Việt luật lệ nói riêng,
con cái trong gia đình không được phép có tài sản riêng. Điều này bắt nguồn từ luân
lý Nho giáo, trong sách Lễ ký đã viết: “Phụ mẫu tại bất cảm hữu kỳ thân, bất cảm
tư kỳ tài”, nghĩa là khi cha mẹ còn sống thì con cái không dám có đến cả thân thể
của mình, cũng như không được có tài sản riêng tư. Điều 82 Hoàng Việt luật lệ
minh thị quy định: “Phàm không phải ông bà cha mẹ cho phép, mà con cháu lập
riêng sổ hộ tịch, chia gia sản thì phải bị phạt 100 trượng”.
Chính sách pháp luật trên cơ sở Nho giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống
xã hội thời bấy giờ. Quan niệm thừa kế trong cổ luật có những khác biệt so với quan
niệm thừa kế phương Tây hiện đại. Thừa kế trong bối cảnh phải giữ vững diện mạo
của gia đình về lối sống luân lý, đạo đức. Bảo đảm được tôn ti, trật tự, củng cố được
tình đoàn kết của gia đình, dòng tộc, đó mới là yếu tố cơ bản quan trọng.
Vấn đề xây dựng nề nếp gia đình Nho giáo được nhà Nguyễn rất quan tâm.
Hàng năm, lý trưởng, xã trưởng phải lập danh sách những người trong làng, xã thọ
100 tuổi với đàn ông, 80 tuổi với đàn bà, những gia đình tứ, ngũ đại đồng đường,
những người con hiếu thuận với ông bà, cha mẹ, những người con gái, những người
vợ tiết hạnh để triều đình kịp thời cấp biển biểu dương, phong tặng làm gương cho
mọi người noi theo, xây dựng nên mỹ tục ở làng xã [80; 20].
- Quan niệm của Nho giáo về vấn đề tài sản
Chế định thừa kế gắn liền với yếu tố tài sản. Nếu yếu tố gia đình là điều kiện
“cần” thì yếu tố tài sản là điều kiện “đủ” để phát sinh quan hệ thừa kế. Tuy nhiên
dưới góc nhìn của Nho giáo, vấn đề tài sản trong cổ luật hầu như không được đề cập
đến. Vấn đề này có lý do của nó.


12
Nho giáo có chủ đích rõ ràng trong việc xây dựng những quan hệ chặt chẽ
trong gia đình và phát triển chúng thành những quan hệ chính trị - xã hội. Việc vun
đắp tôn ti, tình cảm trong gia đình, từ đó phát triển lên trở thành những tình cảm và
đức tính trọng đạo thờ vua, trị nước. Nho giáo khẳng định: Hiếu giả sở dĩ sự quân
dã, để giả sở dĩ sự trưởng dã, từ giả sở dĩ sự chúng dã (Đại học, 9), nghĩa là Hiếu là
để phụng sự nhà vua đấy, Để là để phụng sự bề trên đấy, Từ là để sai khiến dân
chúng đấy. Ngoài việc xây dựng một gia đình bền vững, một xã hội luân lý thì đây
còn là nguyên nhân chính khiến các triều đại phong kiến (triều Lê, triều Nguyễn)
chọn Nho giáo làm cơ sở của pháp luật và đạo đức.
Vì vậy, các bộ cổ luật được soạn ra để phục vụ trước hết là chế độ quân chủ
nên phạm vi các quan hệ về tài sản trong đời sống pháp luật dân sự thường hay bị
mặc tĩnh. Quyền hưởng di sản trong cổ luật không phải hướng tới quyền lợi cá nhân
như ta thấy qui định ở trong luật phương Tây mà hướng đến quyền lợi lâu dài và sự
bền vững của cả dòng họ, vì theo quan niệm triết lý phương Đông, “thiên hạ vi
công” dưới gầm trời này không có gì là tư cả [110; 24].
Với ảnh hưởng của Nho giáo, xã hội Việt Nam thời bấy giờ tin là có sự điều
hòa tự nhiên giữa vạn vật; vạn vật và xã hội loài người có một sự giao hòa tương
cảm tương ứng rất mật thiết. Xã hội chỉ cần hoạt động theo đúng quy luật điều hòa
của vạn vật là giữ được trật tự. Vì vậy, nhà làm luật khi đề cập đến vấn đề dân sự,
tài sản chỉ cần quy định những điều gì liên quan đến sự điều hòa của vạn vật. Trong
“di sản, thừa kế, thừa tự” chỉ cần không làm rối loạn các điều lễ - nghĩa, để trật tự
đó trong vạn vật, trật tự xã hội khỏi bị tiêu tán. Vì vậy, nhà làm luật thường có thái
độ mặc tĩnh đối với một số các quan hệ liên quan đến tài sản, thừa kế. Hoàng Việt
luật lệ không quy định các vấn đề về di sản, tài sản của vợ chồng mà được bổ sung
bằng các Đạo, Dụ của các vua sau đó: Minh Mạng, Thiệu Trị, Đây không phải
là một bước thụt lùi so với Quốc triều Hình luật như một số ý kiến mà có thể lý giải
là do thời Nguyễn sự ảnh hưởng của Nho giáo vào pháp luật đã sâu sắc hơn so với
thời nhà Lê (chỉ bắt đầu nảy sinh từ thời vua Lê Thánh Tông [39; 58]). Nói như vậy
không có nghĩa là nhà làm luật không quan tâm giải quyết những vấn đề này, mà


13
theo Nho giáo “dĩ hòa vi quý”, “một sự nhịn chín sự lành”, đã đưa các tranh chấp
liên quan đến tài sản trở về giải quyết bằng tập quán, tục lệ. Gặp các trường hợp
tranh chấp này, trước khi có pháp luật can thiệp thì đã có sự dàn xếp và uy quyền
của người gia trưởng, xã trưởng để giải quyết ổn thỏa mọi vấn đề. Trong xã hội cổ
điển của ta, đức “nhượng” là đức tính của người hiền nhân, quân tử; đức tính ấy đã
xóa nhòa quan niệm “quyền lợi cá nhân” khiến các tranh chấp liên quan đến tài sản
luôn trong vòng lễ giáo và giữ đúng khuôn phép của đạo đức xã hội.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng. Quá trình lựa chọn và vay mượn tư tưởng
Nho giáo để xây dựng Hoàng Việt luật lệ là một quá trình chọn lọc, có ý thức của
nhà cầm quyền triều Nguyễn. Lựa chọn Nho giáo phải đặt trên cơ sở kinh tế xã hội
đương thời, phù hợp với truyền thống và tục lệ của người dân Việt.
Trong xã hội truyền thống, pháp lý có tính cách hình thức thiên về cưỡng
bức; mà tục lệ lại là sự thể hiện cả cuộc sống nội tâm của con người, của xã hội.
Con người Việt Nam lại giàu tình cảm, cuộc đời là sự thể hiện về tâm lực của người
Việt Nam. Vì vậy, nếu pháp luật chỉ đơn thuần vay mượn các học thuyết Nho giáo
của Trung Quốc mà không quan tâm gì đến truyền thống của dân tộc thì Hoàng Việt
luật lệ không thể tồn tại đến gần một thế kỷ.
Trong hội thảo quốc tế “Nghiên cứu tư tưởng Nho gia Việt Nam từ hướng
tiếp cận liên ngành” được Viện nghiên cứu Hán Nôm (Việt Nam) cùng với Viện
Harvard - Yenching (Hoa Kỳ) phối hợp tổ chức tại Thủ đô Hà Nội vào ngày 9 -
10/11/2007. Giáo sư Nguyễn Thế Anh trình bày bài tham luận với nội dung liên
quan đến Nho giáo dưới thời nhà Nguyễn đã nêu rõ:
“Ngay từ khi được thiết lập, nhà Nguyễn đã phải đối phó với việc khẩn cấp
xây dựng lại một xứ sở phần lớn bị tàn phá sau gần ba mươi năm nội chiến và biến
loạn. Giải pháp lựa chọn bởi người sáng lập triều đại là tìm trong truyền thống Nho
giáo các phương thức để tổ chức lại chế độ chính trị, và nhiệm vụ của các vị vua kế
tiếp sẽ phải là gìn giữ những gì ông đã củng cố. Vì Trung Quốc là kiểu mẫu duy
nhất có thể dự kiến, sự đồng nhất với ý thức hệ Khổng giáo và văn hóa Trung Hoa

chính thống trở thành đường lối chính trị của chính phủ. Sự tập trung hành chánh

14
theo khuôn Trung Quốc một cách chặt chẽ hơn là trong quá khứ, với sự áp dụng
nghiêm ngặt luật lệ Khổng giáo, là lợi khí nhà Nguyễn dùng để khắc phục các xu
hướng ly tâm quân sự và chính trị tại các địa phương. Song phải nói là quá trình
vay mượn này phản ánh lòng tin rằng Khổng giáo diễn đạt các kinh nghiệm toàn
cầu chứ không phải của Trung Quốc mà thôi, đồng thời thể hiện phương sách kiểm
tra xã hội và cai trị tiên tiến nhất. Như thế, các vua nhà Nguyễn không mong muốn
mô phỏng theo thể chế Mãn Thanh cùng thời, mà là chế độ đã có trong các thời kỳ
lịch sử vẻ vang trong quá khứ. Điều này giải thích tại sao biên niên sử nhà Nguyễn
miêu tả vị quân vương Việt Nam trong thế kỷ XIX như là nhân vật bảo vệ học thuyết
Khổng giáo chính thống, đứng trên cả vua nhà Thanh về mặt văn hóa” [368; 28].
Chứng minh cho vấn đề này, luận văn tìm hiểu địa vị pháp lý của người phụ
nữ trong Nho giáo và thực tế trong xã hội xưa ở Việt Nam.
Đối với học thuyết Nho giáo
Cuộc sống vợ chồng là cơ sở tồn tại của gia đình. Nhưng xuất phát từ quan
điểm coi trọng huyết thống và từ thái độ coi rẻ phụ nữ (xếp đàn bà và bọn tiểu nhân
vào cùng một duộc là hạng người khó nuôi dạy), Nho giáo đặt tình nghĩa anh em
cao hơn tình nghĩa vợ chồng. Vợ chết thì có thể lấy được vợ khác, chứ anh em
không còn thì biết lấy gì mà thay thế?
Phụ nữ là người phải hứng chịu nhiều nhất những đau khổ, thiệt thòi do chế
độ hà khắc, bất công và bất bình đẳng trong xã hội và trong gia đình gây nên.
Bị dồn nén trong vòng cương tỏa của “tứ đức” (công, dung, ngôn, hạnh -
hiểu theo lúc bấy giờ), người phụ nữ chỉ biết phận mình là phải nép vào khuôn
phép, biết tự kiềm chế, tự tước bỏ mọi ham muốn cá nhân, chịu “thuần dưỡng” để
vâng lời, để nhường nhịn, để kiên nhẫn chịu đựng và hy sinh. Cô con gái ngay trước
lúc về nhà chồng, đã được mẹ dặn: “Con về nhà của con (tức nhà chồng, thì nên
kính nhường, giữ mình cho khéo, đừng trái ý chồng” (Vãng chi nhữ gia, tất kính, tất
giới, vô vi phu tử).

Phải đeo đẳng cái đạo lý “tam tùng” (tại gia tùng phụ, thích nhân tùng phu,
phu tử tùng tử): ở nhà theo cha, qua nhà người theo chồng, chồng chết theo con.

15
Người đàn bà suốt đời bị phụ thuộc vào người đàn ông, dù người đó là cha, là
chồng, hay là con trai của mình.
Cũng không kém phần ác nghiệt, cái đạo lý về “tiết hạnh”! Người đàn ông
có thể năm thê bảy thiếp, nhưng người đàn bà thì không thể lấy hai chồng, cũng ví
như bậc trung thần không thể thờ hai vua! (Trung thần bất sự nhị quân, liệt nữ bất
giá nhị phu).
Người đàn bà chồng chết thì cứ phải ở vậy. Đi lấy chồng khác là thất tiết. Và
theo Trình Y Xuyên, danh nho đời Tống, nếu người đàn ông lại đi cưới người đã
thất tiết, thì chính mình là người thất tiết. (Nhược thú thất tiết giả dĩ phối thân, thị
kỷ thất tiết dã). Kể cả những bà góa, nghèo đói, không nơi nương tựa, cũng không
nên đi bước nữa, vì đói chết là việc cực nhỏ, thất tiết mới là việc cực lớn. (Nhiên
ngạc tử sự cực tiểu, thất tiết sự cực đại).
Học thuyết Nho giáo trên đây mặc dù được vận dụng vào Việt Nam nhưng
nhà lập pháp triều Nguyễn đã điều chỉnh cho phù hợp với truyền thống tôn trọng
phụ nữ của dân tộc ta.
Hoàng Việt luật lệ và phong tục đối với đàn bà đã hòa hoãn bớt cái tính cách
tàn nhẫn của Nho giáo. Theo Hoàng Việt luật lệ thì đàn ông có quyền thất xuất,
nhưng lại có ba trường hợp khiến người chồng không thể bỏ vợ được, trừ khi vợ có
tội ngoại tình, là: nếu vợ đã để tang cha mẹ chồng, nếu vợ đã làm nên giàu có, nếu
ngoài nhà chồng ra vợ không còn chỗ nào nương tựa nữa. Nếu người chồng vô cớ
mà bỏ vợ, hay nếu ở trong ba trường hợp ấy mà bỏ vợ, thì pháp luật trừng phạt.
Gia dĩ Hoàng Việt luật lệ tuy cho phép chồng có quyền dùng của cải của
vợ, vợ không bao giờ được kiện chồng, nhưng theo phong tục thì chồng chỉ
được quản lý của ấy, nếu muốn cắt nhượng thì phải có vợ thuận tình. Nếu
chồng tự tiện bán tài sản của vợ thì cha mẹ vợ có thể truy tố, cho nên những tài
sản ấy bán mà vợ không ký tên hay điểm chỉ vào văn khế thì không ai dám

mua. Theo luân lý xưa thì chồng có quyền đem bán vợ mà pháp luật thì cấm
chồng không được bán vợ, bắt vợ làm thuê, hay là hạ vợ chính xuống hàng vợ
hầu và đem vợ hầu lên hàng vợ chính.

16
Cổ luật lại nhận cho người vợ có địa vị tương đương với chồng ở trong gia
đình, mà theo tục thường thì việc quản lý gia sản không những là vợ làm giúp
chồng mà lại chính vợ tự đảm đương, cho nên không những người ta gọi người chủ
phụ là nội trợ, mà lại thường gọi là nội tướng.
Nhất là khi chồng chết thì quyền của người chủ phụ lại rõ rệt lắm. Nho giáo
buộc người đàn bà chết chồng phải ở vậy nuôi con, người nào đi lấy chồng khác là
thất tiết. Theo nguyên lý thì người quả phụ ở với con là phải phụ thuộc theo con
(tòng tử), nhưng theo sự thực thì bà mẹ góa có quyền quản lý gia chính và có quyền
giám đốc con cái cũng như người cha khi sống. Nếu con trưởng của bà là tộc trưởng
mà còn nhỏ thì bà có quyền thay con mà tế tự tổ tiên, song khi hành lễ thường có
một người đàn ông trong họ (ông chú) giúp đỡ.
Địa vị của đàn bà như thế cũng là cao hơn địa vị do Nho giáo chỉ định
nhiều, song nếu người quả phụ bỏ con cái và gia đình chồng mà đi lấy chồng khác
thì những quyền kể trên tự nhiên mất hết. Người đàn bà tái giá đối với gia đình
chồng đã dứt hết quan hệ cho nên đối với con cái cũng không quan hệ gì nữa. Nếu
con cái còn nhỏ thì tài sản của chúng cùng việc nuôi dạy chúng có người chú bác
hay bà con gần của cha chúng trông nom. Người con gái xuất giá là bỏ gia đình
mình mà vào gia đình chồng; người quả phụ tái giá là bỏ gia đình chồng cũ mà
vào gia đình chồng mới. Nhưng ở trong gia đình chồng mới, người đàn bà vẫn có
địa vị tương đương.
Cũng có nhiều khi, nếu gia đình không có con trai thì người con gái trưởng
được giữ của hương hỏa và thờ phụng cha mẹ tổ tiên như con trai trưởng. Theo Quốc
triều Hình luật đời Lê và một đạo sắc chỉ lời Quang Thuận (Lê Chiêu Tôn, 1517) thì
con gái trưởng ấy có đủ các quan hệ nghĩa vụ về pháp luật và tôn giáo như một người
gia trưởng vậy. Đến triều Nguyễn, khi cha chết không có người thừa tự nữa thì pháp

luật và phong tục cũng cho con gái được hưởng của hương hỏa để phụng sự tổ tiên
Theo thực tế, nếu chỉ có con gái thì các con gái vẫn được hưởng di sản và của hương
hỏa, duy khi nào không có con, hầu thì mới nuôi con nuôi để lập tự. Câu tục ngữ “Vô
nam dụng nữ” ta thường nghe lại làm chứng rõ rệt cho tập tục ấy.

17
Hoàng Việt luật lệ lại trừng phạt những người thất kính với đàn bà. Theo
Hoàng Việt luật lệ (Điều 17) thì người nào dùng lời thô tục dâm đãng làm cho
người đàn bà đến xấu hổ mà tự tử thì phải xử đến hình giảo giam hậu. Cũng điều
luật ấy định rằng nếu người nói lời tục tĩu dâm đãng ấy mà không cố ý làm nhục,
nhưng người đàn bà nghe thấy cũng lấy làm xấu hổ mà tự tử, thì phải xử hình
trượng nhất bách lưu tam thiên lý.
Dẫu về thực tế thì những điều ấy không khi nào thi hành, nhưng trong Hoàng
Việt luật lệ có những điều ấy cũng đủ tỏ rằng đàn bà ở xã hội ta không đến nỗi bị
khinh miệt quá mức như theo đạo đức Nho giáo.
1.1.2. Cơ sở về văn hóa truyền thống, tục lệ của dân tộc
Pháp luật phản ánh trình độ phát triển của một xã hội trong một giai đoạn
lịch sử nhất định. Tuy nhiên, đối với pháp luật thừa kế trong cổ luật còn chịu sự ảnh
hưởng của truyền thống đạo đức, phong tục tập quán và bản sắc dân tộc, nó phản
ánh rõ nét các yếu tố tâm lý xã hội. Tùy theo truyền thống mỗi dân tộc, mà các thể
thức tiến hành cùng với giới hạn về quyền và nghĩa vụ trong các chế định thừa kế
rộng hẹp không chừng. Đó chính là bản sắc văn hóa của từng dân tộc.
Đầu tiên là phong tục tập quán, truyền thống: có xứ theo mẫu hệ chế, có xứ
theo phụ hệ chế, có xứ theo tục lệ đa thê, có xứ lại theo tục độc thê. Có những dân
tộc sống về nghề nông, ở cố định một nơi không đi nơi khác. Trái lại cũng có những
dân tộc du mục thích sống nay đây mai đó. Tất cả các hình thái sinh hoạt khác nhau
này dĩ nhiên ảnh hưởng sâu xa tới nền pháp luật của các dân tộc đó. Ngoài yếu tố xã
hội, cơ cấu kinh tế cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến sự tạo lập pháp luật. Thí dụ,
sự phát triển kỹ nghệ quá mạnh mẽ tại Âu Châu vào cuối thế kỷ XIX đã làm phát
sinh các xã hội, các công ty hợp tư. Nó đã đảo lộn quan niệm thông thường về giá

trị các động sản nên đã đòi hỏi nhiều pháp chế mới về sự sử dụng động sản [42; 35].
Ở xã hội Việt Nam xưa, pháp luật trọng về tinh thần, theo quan niệm pháp
luật cổ truyền của Việt Nam là một quan niệm tĩnh với lý tưởng “đi tìm giải pháp ở
mỗi cá nhân và đòi hỏi ở mỗi cá nhân một kỷ luật cao thượng bắt nguồn ở sự rèn
luyện tâm tính, lấy việc tu thân làm gốc” [27; 24]. Bởi vậy trong xã hội cổ điển giữa

18
pháp luật và tục lệ tuy hai mà một. Đây là “mẫu số chung” của các bộ cổ luật Việt
Nam và Hoàng Việt luật lệ không phải là ngoại lệ. Nhất là vào thời điểm lịch sử đó,
Hoàng Việt luật lệ trước tiên là một công cụ trị nước của triều sơ Nguyễn vào thời
điểm nước Việt mới thu về một mối; nhất là sau cuộc nội chiến kéo dài (1771 -
1802) từng phá nát kỷ cương và tục lệ của dân tộc làm cho “phong hóa suy đồi”
tiêu trầm luật pháp (như lời tựa của vua Gia Long) [148; 40].
Tục lệ chính là cách thức ứng xử của cộng đồng và pháp luật chính là sự quy
phạm hóa những nguyên tắc của tục lệ để củng cố cho luân lý xã hội. Trong nhiều
trường hợp, pháp luật phải nhường chỗ cho luân thường đạo lý.
Bằng chứng là Điều 31 Hoàng Việt luật lệ cho phép tất cả những người trong
một gia đình được quyền che giấu tội phạm lẫn nhau. Khi biết có người trong gia
đình phạm tội mà không tố cáo lại tìm cách che chở thì cũng không bị tội.
Qua đó cho thấy, quan niệm cổ truyền của phương Đông không những coi
trọng đạo Hiếu mà lại còn coi nền tảng gia đình trọng hơn là trật tự xã hội. Quan
niệm trong tục lệ này được biểu thị rõ rệt trong luật pháp.
Tục lệ vừa là nội dung vừa là hình thức của pháp luật. Nó không chỉ giúp
hiểu biết về nội dung của pháp luật mà còn làm giảm bớt sự trần trụi của pháp
luật, sự khắt khe của Nho giáo, sự nghiệt ngã, nặng nề khi tham chước pháp
luật nhà Thanh và chứng minh cho sự kế tục các truyền thống tốt đẹp của dân
tộc từ pháp luật nhà Lê. Hơn hết, nó chỉ ra “dân tộc tính” của sắc thái Việt
Nam trong một bộ luật được xây dựng với ý thức dân tộc. Hoàng Việt luật lệ
thừa nhận và bảo vệ các tục lệ cổ truyền Việt Nam, luân lý của xã hội, thí dụ
điển hình là Điều 351 Hoàng Việt luật lệ. Điều này quy định rằng: “phàm

những điều không nên làm mà làm thì phải phạt 40 roi”. Thế nào là những điều
không nên làm? Đó là những điều mà tục lệ, luân lý xã hội Việt Nam cổ cấm
đoán. Như vậy, phạm vi áp dụng của Điều 351 thật quá rộng. Tác dụng của nó
là chế tài tất cả những điều của luân lý, tục lệ xã hội. Điều 351 của Hoàng Việt
luật lệ đã khiến cho các luật gia Tây phương khi nghiên cứu luật Việt Nam,
phải ngạc nhiên và đặc biệt chú ý [89, 35].

19
Hoàng Việt luật lệ phản ánh từ đặc trưng của một nền văn hóa nông nghiệp -
xóm làng, đề cao cuộc sống gia đình. Ở Việt Nam, một gia đình có nhiều thế hệ
cùng chung sống trong một nhà là truyền thống, những gia đình “tam đại đồng
đường”, “tứ đại đồng đường” được xem là phúc đức. Trong gia đình tình thương,
trách nhiệm và gắn bó của các thế hệ trong gia đình là rất chặt chẽ. Vì vậy, người
Việt Nam luôn nghĩ đến việc dành dụm chắt chiu để để lại “cơ đồ” cho con cháu.
“Người Việt Nam có thể thiếu cơm ăn, áo mặc hàng ngày thậm chí lâm vào hoàn
cảnh đói khát nhưng người đó vẫn để lại di sản thừa kế sau khi chết”. “Người Việt
Nam khi còn sống có thể rất nghèo túng nhưng rất ít trường hợp bán nhà cửa,
ruộng đất để giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm cho bản thân. Đây là nét văn
hóa đặc thù của người Việt Nam và được thể hiện càng rõ nét trong xã hội Việt
Nam cổ truyền” [285; 38]. Vì vậy, xét về phương diện kinh tế thì việc thừa kế là
nhằm bảo đảm cho đời sống của các thế hệ sau, nhằm củng cố quyền lợi của gia
đình và tiếp tục phát triển kinh tế của dòng họ.
Như vậy, thừa kế là cần thiết để người quá cố làm tròn bổn phận của mình
đối với gia đình, dòng họ. Người Việt Nam từ ngàn xưa đã là những con người hiền
lành, lương thiện, sống đời sống tình cảm, nhẫn nhịn, chịu khó, yêu thương gắn bó
tạo nên nền nếp của gia đình Việt Nam cổ truyền. Khi sinh ra, họ đã có bổn phận
“hiếu thảo”, “kính nhường” đối với ông bà cha mẹ. Khi trưởng thành họ ý thức
được bổn phận phải chăm lo cho gia đình. Đến lúc nắm mắt họ cũng tiếp tục mong
muốn làm tròn bổn phận chăm lo cho hậu thế. Của cải của người Việt Nam được
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác “hầu như được ứng xử theo bổn phận, đạo

hiếu trong gia đình, dòng họ và tập quán có tính chất phổ thông” [24; 21].
Trên thực tế, cổ luật triều Nguyễn đã thừa nhận tục lệ này. Thừa kế được coi
là một bổn phận của người quá cố đối với gia đình, nên cổ luật cho người quá cố
được tự do một phần trong việc định đoạt tài sản của người ấy (pháp luật triều
Nguyễn thừa nhận hình thức định đoạt tài sản thông qua chúc thư). Tuy nhiên, xét
về phương diện kinh tế, để củng cố quyền lợi gia đình và dòng họ, pháp luật vẫn có
quyền can thiệp vào chế định thừa kế để đảm bảo vấn đề này. Đây là quan niệm

20
truyền thống khiến pháp luật thừa kế dưới triều Nguyễn coi trọng nguyên tắc huyết
thống, bảo vệ quyền lợi của dòng họ bên nội, coi trọng đích thứ trưởng ấu
Quan niệm này hoàn toàn phù hợp với quan niệm thừa kế trong cổ luật dưới
thời nhà Nguyễn.
Vấn đề về truyền thống văn hóa, về tục lệ là một vấn đề rất rộng lớn. Trong
giới hạn phạm vi của luận văn chúng tôi chỉ đề cập đến những tục lệ, phong tục là
cơ sở của thừa kế trong cổ luật thời Nguyễn. Vì vậy, không thể không nhắc đến
phong tục thờ cúng tổ tiên của người Việt Nam. Đây là phong tục gắn liền chế
định hương hỏa. Toan Ánh cho rằng: “Nếu trong tín ngưỡng ta có cái gì đặc biệt
hơn hết, phải nói đó là thờ phụng tổ tiên và việc cúng giỗ những người đã khuất”
[12; 4]. Thật ra, sự thờ cúng tổ tiên không phải là một tín ngưỡng riêng có ở người
Việt mà nó có mặt ở nhiều quốc gia trên thế giới, là “nét chung của nhiều nước
Đông Á như Trung Hoa, Triều Tiên, khách quan mà nói đây là dạng tín ngưỡng có
chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán” [255; 30]. Tục thờ cúng tổ tiên mặc dù do
Trung Hoa truyền sang ta, nhưng theo Toan Ánh với nhiều sự biến đổi, việc cúng
giỗ của ta không còn giống hẳn người Trung Hoa và đã mang một sắc thái riêng
biệt Việt Nam [12; 4].
Ý thức rõ tầm quan trọng và ý nghĩa sâu sắc của tín ngưỡng cổ truyền của
người Việt, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt, nhà Nguyễn có thái độ rõ
ràng trong việc coi trọng những tín ngưỡng truyền thống, trước hết là sự thờ cúng tổ
tiên, sau nữa là các anh hùng dân tộc và những người có công với dân, với nước,

các vị thần linh khác. Xuất phát từ lý do này, Hoàng Việt luật lệ minh thị quy định
về hương hỏa và yêu cầu sự tôn trọng của thế hệ con cháu đối với hương hỏa được
suy ra từ Lệ 1 Điều 87 Hoàng Việt luật lệ: “Nếu các con cháu bán trái phép các
điền sản của tiền nhân di lưu để dùng vào việc tế tự thì sẽ bị lưu đi viễn châu, nếu
bán quá 50 mẫu”.
Xét về phương diện đạo đức, xã hội thì cơ sở để Hoàng Việt luật lệ thừa
nhận “hương hỏa” là sự hiếu thuận, biết ơn đấng sinh thành cũng như tưởng nhớ
đến công ơn của tổ tiên đã khuất. Đây là vấn đề cung phụng, hương khói, tế tự ông

×