ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ BẢO NGA
KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG CỦA DOANH NGHIỆP
CÓ VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG
THEO PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ BẢO NGA
KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG CỦA DOANH NGHIỆP
CÓ VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG
THEO PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Bùi Nguyên Khánh
HÀ NỘI - 2012
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chƣơng 1 – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KIỂM
SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG CỦA DOANH NGHIỆP CÓ VỊ TRÍ
THỐNG LĨNH THỊ TRƢỜNG
7
1.1
Các khái niệm
7
1.1.1
Khái niệm vị trí thống lĩnh thị trường
7
1.1.2
Khái niệm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
9
1.1.3
Khái niệm kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
12
1.2
Quan niệm chung về pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng của
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trƣờng thị trƣờng
15
1.3
Đặc điểm, vai trò của pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng của
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trƣờng
18
1.3.1
Đặc điểm
18
1.3.2
Vai trò
21
1.4
Pháp luật Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế trong việc kiểm soát
hành vi lạm dụng của các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trƣờng
22
1.4.1
Pháp luật Việt Nam về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường
22
1.4.2
Kinh nghiệm quốc tế về kiểm soát hành vi lạm dụng của doanh nghiệp
có vị trí thống lĩnh thị trường
26
Chƣơng 2 – THỰC TRẠNG KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG
CỦA DOANH NGHIỆP CÓ VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƢỜNG
THEO PHÁP LUẬT CẠNH TRANH CẠNH TRANH VIỆT NAM
32
2.1
Thực trạng lạm dụng của các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trƣờng trong bối cảnh kinh tế - xã hội từ khi Luật cạnh tranh ra
đời cho đến nay
32
2.1.1
Bối cảnh kinh tế - xã hội từ khi Luật cạnh tranh ra đời cho đến nay
32
2.1.2
Nhận thức của xã hội, doanh nghiệp và các cơ quan quản lý nhà nước
về Luật cạnh tranh và kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường
36
2.1.3
Tình trạng lạm dụng của các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trường
38
2.2
Thực trạng pháp luật cạnh tranh Việt Nam điều chỉnh vấn đề
kiểm soát hành vi lạm dụng của các doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh thị trƣờng
42
2.2.1
Những quy định về xác định thị trường liên quan
43
2.2.2
Xác định vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp
47
2.2.3
Những quy định về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
51
2.2.4
Các quy định về cơ quan quản lý
56
2.2.5
Các biện pháp nhằm kiểm soát hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có
vị trí thống lĩnh thị trường
59
Chƣơng 3 – PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VỀ KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM
DỤNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỊ TRÍ THỐNG LĨNH
THỊ TRƢỜNG
65
3.1
Phƣơng hƣớng
65
3.1.1
Kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường theo pháp luật
cạnh tranh phải được xây dựng trên quan điểm, đường lối và chủ
trương phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà nước
65
3.1.2
.
Kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường theo pháp luật
cạnh tranh phải phù hợp với nguyên tắc kinh doanh; với phong tục, tập
quán, chuẩn mực đạo đức kinh doanh; và quy luật vận động khách
quan của nền kinh tế thị trường
67
3.1.3
.
Kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường theo pháp luật
cạnh tranh phải là cơ sở pháp lý vững chắc để bảo đảm cạnh tranh lành
mạnh, công bằng giữa các chủ thể kinh doanh và đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của người tiêu dùng
69
3.1.4
.
Kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường theo pháp luật
cạnh tranh phải đặt trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
71
3.1.5
.
Kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường theo pháp luật
cạnh tranh phải đảm bảo sự độc lập của bộ máy thực thi và sự tương
tác với các lĩnh vực pháp luật khác
73
3.2.
Giải pháp
75
3.2.1
Hoàn thiện các quy định của pháp luật cạnh tranh về nhận diện vị trí
75
thống lĩnh thị trường và hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
3.2.2
Hoàn thiện bộ máy quản lý cạnh tranh
79
3.2.3
Hoàn thiện các biện pháp xử lý hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường
83
3.2.4
Hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật cạnh tranh về kiểm soát hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
85
KẾT LUẬN
89
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
92
PHỤ LỤC
97
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AMA
: Luật về chống độc quyền tư nhân và đảm bảo giao dịch
công bằng
AFTA
: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
APEC
: Diễn đàn Châu Á - Thái Bình Dương
FDI
: Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
JFTC
: Ủy ban Thương mại công bằng Nhật Bản
OECD
: Tổ chức hợp tác và phát triển Liên hợp quốc
IFC
: Công ty Tài chính quốc tế
PJF
: Công ty Cổ phần Nhiên liệu bay
TNC
: Tập đoàn đa quốc gia
TNHH
: Trách nhiệm hữu hạn
UNCTAD
: Tổ chức thương mại và phát triển của Liên hợp quốc
VINAPCO
: Công ty xăng dầu hàng không
WB
: Ngân hàng thế giới
WEF
: Diễn đàn kinh tế thế giới
WTO
: Tổ chức kinh tế thế giới
1
MỞ ĐẦU
1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước, đã và đang khẳng định sự đúng
đắn thông qua những thành tựu quan trọng trong hoạt động kinh tế: lượng vốn đầu tư
được thu hút vào Việt Nam như ngày càng tăng và số lượng doanh nghiệp có tiềm lực
kinh doanh cũng tăng lên một cách đáng kể Tuy nhiên, quá trình mở cửa thị trường
này đòi hỏi chúng ta phải gỡ bỏ rào cản về thủ tục hành chính, thuế quan và những ưu
đãi với doanh nghiệp trong nước Điều đó khiến cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của
chúng ta không chỉ đối mặt với sự cạnh tranh với các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh
thị trường, độc quyền trong nước mà còn với các tập đoàn đa quốc gia hùng mạnh trên
thế giới, nhất là khi Việt Nam chính thức trở thành viên của WTO. Vì vậy, nâng cao
hiệu quả của quản lý nhà nước và hoàn thiện pháp luật cạnh tranh sẽ là một điều kiện
then chốt, một đòi hỏi bắt buộc để phát triển nền kinh tế, cũng như góp phần cho tăng
trưởng kinh tế dài hạn của Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu.
Theo xu hướng phát triển, doanh nghiệp khi tham gia vào kinh doanh đều mong
muốn phát triển hơn nữa thế lực của mình, nhất là những doanh nghiệp có thị phần lớn.
Việc các doanh nghiệp phát triển lành mạnh là điều tất cả các nước đều khuyến khích.
Nhưng không thể đảm bảo một doanh nghiệp tham gia thị trường lành mạnh lúc nào
cũng tuân thủ pháp luật, đặc biệt là khi tham vọng bành trướng tầm ảnh hưởng luôn
luôn thường trực trong mỗi doanh nghiệp. Do đó với nỗ lực xây dựng một thị trường
kinh doanh lành mạnh, công bằng, bình đẳng và thực sự trở thành một mảnh đất thu hút
vốn đầu tư trong và ngoài nước hiệu quả; Pháp luật cạnh tranh cần đặc biệt chú ý tới cơ
chế phát triển hoạt động của các thương nhân khi tham gia thị trường. Một trong những
giải pháp nhằm cải thiện và nâng cao môi trường kinh doanh là kiểm soát các hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
2
Như chúng ta đã biết, cạnh tranh là một thuộc tính của nền kinh tế thị trường.
Cạnh tranh có thể làm cho một doanh nghiệp ngày càng lớn mạnh hơn hoặc cũng có
thể làm dập tắt nó. Rủi do tiêu tán luôn rình rập các thương nhân mới thành lập, nhỏ lẻ,
ít vốn, ít thị phần. Mặc dù có sự hỗ trợ của các chính sách, các biện pháp hành chính…
nhưng quyền và lợi ích hợp pháp của họ vẫn có thể bị xâm phạm vì những lý do tới từ
nhiều phía. Rủi do đó có thể từ chính bản thân doanh nghiệp, cũng có thể do tác động
của các doanh nghiệp lớn hơn. Chính vì vậy việc bảo vệ các thương nhân yếu thế –
những thương nhân dễ bị xâm hại tới quyền, lợi ích hợp pháp; và tạo môi trường cạnh
tranh lành mạnh là mục tiêu hàng đầu của pháp luật cạnh tranh nói riêng và chính sách
cạnh tranh nói chung.
Với mục đích xây dựng một thị trường kinh doanh ổn định, lành mạnh, trở thành
một tác nhân thúc đầy nền kinh tế thì pháp luật cạnh tranh về kiểm soát hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường ở Việt Nam cần được nghiên cứu một cách toàn diện.
Hay nói cách khác việc nghiên cứu kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam là một vấn đề có tính cấp thiết, cần được
giải quyết.
2. Thực trạng nghiên cứu về đề tài
Cơ chế kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường được hình thành
từ khá sớm trong lịch sử, và dần trở thành nội dung quan trọng trong hệ thống pháp
luật của mỗi quốc gia. Ở nước ta, từ khi Đảng và nhà nước có chủ trương chuyển đổi
nền kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, chính sách cạnh tranh về vấn
đề này đã bước đầu được nghiên cứu làm tiền đề lý luận cho các quy định pháp luật
phù hợp với đời sống thực tiễn hơn. Có thể kể đến một số tài liệu như Nguyễn Như Phát
(1997), “Xây dựng pháp luật cạnh tranh trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện
nay”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật; Nguyễn Như Phát (2000), “Đối tượng điều chỉnh
của pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật;
Phạm Duy Nghĩa (2000), “Pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam: nhu cầu, khả năng và
3
một vài kiến nghị”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật; Phạm Duy Nghĩa (2003), “Độc
quyền hành chính: Góp phần nhận diện và tiếp cận từ pháp Luật cạnh tranh”, Tạp
chí nghiên cứu lập pháp; Đặng Vũ Huân (2002), Pháp luật về kiểm soát độc quyền và
chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, Luận văn tiến sĩ luật học, Trường Đại
học Luật Hà Nội. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên mang nặng tính chất chính
sách và định hướng xây dựng khung cơ chế mà chưa có bước triển khai cụ thể.
Cho đến khi Luật cạnh tranh chính thức ra đời năm 2004, đã có nhiều công
trình nghiên cứu về vị trí thống lĩnh thị trường, độc quyền, về các hành vi lạm dụng
vị trí độc quyền và các ảnh hưởng của nó đến kinh tế - xã hội như: Nguyễn Ngọc Sơn
(2006), “Luật cạnh tranh: Sứ mệnh và triển vọng”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp;
Nguyễn Ngọc Sơn (2006), “Xác định thị trường liên quan theo Luật cạnh tranh
2004”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp; Phan Thị Vân Hồng (2005), Độc quyền và pháp
luật về kiểm soát độc quyền ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội; Đào Ngọc Báu (2004), “Vấn đề độc quyền ở Việt Nam”, Tạp
chí nghiên cứu lập pháp, Lê Nết, Nguyễn Anh Tuấn (2006), “Luật cạnh tranh và
những vấn đề về hợp đồng, phân phối, tài trợ trong thương mại”, Tạp chí nghiên cứu
lập pháp; Nguyễn Như Phát, Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Phân tích và luận giải các
quy định của Luật cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí
độc quyền để hạn chế cạnh tranh Đánh giá một cách khách quan, tình hình nghiên
cứu về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường nói chung chưa có
nhiều và chưa mang tính chuyên sâu. Nội dung nghiên cứu mới chỉ xem xét, nghiên
cứu ở một vài khía cạnh như: nhận diện vị trí; nhận diện hành vi lạm dụng, độc
quyền; phân loại các hành vi lạm dụng; đánh giá bộ máy thực thi luật cạnh tranh;
nghiên cứu về pháp luật kiểm soát đối với hành vi lạm dụng nhưng thiên về nghiên
cứu độc quyền nhiều hơn. Chưa có một công trình nghiên cứu nào đi từ quan niệm
kiểm soát để phân tích đặc điểm và bản chất của cơ chế; và để soi chiếu vào những
quy định về vấn đề này trong pháp luật cạnh tranh hiện hành, tìm ra những bất cập,
4
nguyên nhân và định hướng hoàn thiện. Xuất phát từ ý nghĩa và tình hình nghiên cứu
của đề tài, tác giả mong muốn sẽ góp một phần nhỏ tìm ra những nguyên nhân của
bất cập trong các quy định của pháp luật cạnh tranh về kiểm soát hành vi lạm dụng vị
trí thống lĩnh thị trường, đưa ra định hướng và giải pháp toàn diện để hoàn thiện cơ
chế này, phù hợp với yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế của nước ta.
Pháp luật tuy có tính lạc hậu hơn so với sự phát triển của nền kinh tế nhưng nếu
pháp luật không phản ánh đúng quy luật phát triển, nhà nước không thể tạo ra một hành
lang pháp lý tin cậy cho các doanh nghiệp thì sự phát triển của kinh tế trong thời đại
mở sẽ kéo theo nó vô số những tranh chấp kinh tế, thương mại và những hành vi thoả
thuận hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh giữa các chủ thể trong kinh
doanh gây ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và lý luận của nền luật học nước ta, dựa trên
những chủ trương, đường lối và chính sách xây dựng kinh tế - xã hội hội nhập kinh tế
quốc tế một cách toàn diện. Luận văn đặt mục đích nghiên cứu các vấn đề lý luận về
kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Nêu thực trạng bối cảnh kinh tế
- xã hội Việt Nam và đánh giá thực trạng pháp luật cạnh tranh hiện hành trong việc
kiểm soát các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Từ đó đưa ra những định
hướng, giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về vấn đề này. Từ mục đích nghiên cứu
trên, luận văn đặt ra các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Tìm hiểu, phân tích các khái niệm cơ bản liên quan đến vị trí thống lĩnh thị
trường, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường;
- Đưa ra quan niệm về pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường, đặc điểm và vai trò của cơ chế;
- Nêu kinh nghiệm quốc tế trong kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường;
5
- Nêu bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam, tình trạng lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường ở Việt Nam và nhận thức xã hội về Luật cạnh tranh và kiểm soát hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường;
- Đánh giá thực trạng pháp luật cạnh tranh về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường;
- Kiến nghị một số định hướng và giải pháp nhằm xây dựng, hoàn thiện pháp
luật về vấn đề này.
4. Phƣơng pháp và phạm vi nghiên cứu
Về phương pháp. Nhằm hoàn thành các nhiệm vụ đã đặt ra, luận văn sử dụng
nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau như: phương pháp tổng hợp và
phân tích; phương pháp so sánh và đối chiếu; kết hợp nghiên cứu lý luận và thực tiễn.
Các phương pháp nghiên cứu trong luận văn được thực hiện trên nền tảng của phương
pháp luận duy vật lịch sử, duy vật biện chứng; trên cơ sở quan điểm đường lối về chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Về phạm vi. Để đảm bảo cho luận văn có phạm vi nghiên cứu hợp lý, đáp ứng
mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, tác giả chỉ tập trung giải quyết các vấn đề
pháp lý trong kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường theo pháp luật
cạnh tranh Việt Nam. Trong luận văn, tác giả cũng đề cập đến bối cảnh kinh tế - xã hội
Việt Nam, nhận thức của xã hội về Luật cạnh tranh và hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường, tình trạng lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong thực tiễn chỉ với mục đích
đơn thuần nhằm làm rõ thêm thực trạng pháp luật của Việt Nam về kiểm soát hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
5. Những đóng góp của luận văn
Những đóng góp của luận văn gồm có:
Một là, về lý luận: Luận văn đóng góp trong nghiên cứu có hệ thống các khái
niệm về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường; quan niệm chung, đặc
điểm và vai trò của pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
6
Nêu và phân tích kinh nghiệm một số nước để chúng ta tiếp tục nghiên cứu và hoàn
thiện pháp luật cạnh tranh về vấn đề này.
Hai là, về thực tiễn: Nêu ra thực trạng bối cảnh kinh tế - xã hội, tình trạng lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường ở Việt Nam và nhận thức của xã hội về Luật cạn tranh
và hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Hơn hết, luận văn chỉ ra những hạn
chế và nguyên nhân hạn chế còn tồn tại trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật
cạnh tranh về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
Ba là, về định hướng hoàn thiện: Luận văn đã nêu lên một số giải pháp cụ thể
dựa trên những định hướng được căn cứ vào các quan điểm, đường lối của Đảng và
nhà nước; của các nguyên tắc và quy luật thị trường; và những đòi hỏi từ thực tiễn
kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
bao gồm 3 chương:
Chương 1 - Một số vấn đề lý luận cơ bản về kiểm soát hành vi lạm dụng
cuả doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường
Chương 2 – Thực trạng kiểm soát hành vi lạm dụng cuả doanh nghiệp có vị
trí thống lĩnh thị trường theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam
Chương 3 – Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật cạnh tranh
về kiểm soát hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường
7
Chƣơng 1 – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KIỂM SOÁT HÀNH VI
LẠM DỤNG CỦA DOANH NGHIỆP CÓ VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƢỜNG
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Khái niệm vị trí thống lĩnh thị trường
Các nhà khoa học trên thế giới đều thừa nhận rằng cạnh tranh là một quy luật
vận động khách quan của kinh tế thị trường. Bởi trong nền kinh tế đó, các chủ thể
phải vận động theo quy luật thị trường và cạnh tranh lẫn nhau để tồn tại và khẳng
định vị thế. Xét trên lộ trình của sự phát triển, cạnh tranh sẽ là nguyên nhân sự ra đi
của các doanh nghiệp yếu thế, nhưng đồng thời cũng làm xuất hiện các doanh nghiệp
có vị trí thống lĩnh thị trường. Vì vậy có thể nói cạnh tranh lành mạnh là động lực
thúc đẩy cuộc sống xã hội đi lên và góp phần tạo ra các giá trị đích thực. Mặc dù vậy,
cần thẳng thắn nhìn nhận rằng cạnh tranh cũng có xu hướng dẫn tới sự lạm dụng của
các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền. Lợi nhuận sẽ thúc
đẩy các chủ thể này thực hiện các hành vi nhằm tích tụ tối đa tư bản; hoặc duy trì và
củng cố vị trí của mình. Vì lẽ đó, để bảo vệ cấu trúc thị trường và xây dựng nền kinh
tế lành mạnh, hiệu quả, cần thiết phải có sự kiểm soát các hành vi lạm dụng của các
chủ thể có vị trí thống lĩnh trên thị trường.
Để kiểm soát được một quan hệ nào đó thì trước hết phải nhận diện được khách
thể và các thuộc tính của nó. Xuất phát từ quan niệm này, pháp luật cần phải đưa ra các
quy tắc chung để nhận dạng đâu là doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh thị trường. Tuy nhiên, do sự tập trung tư bản ở các lĩnh vực và đặc điểm
kinh tế - xã hội trên các vùng lãnh thổ khác nhau nên pháp luật các nước đưa ra khái
niệm nhận dạng vị trí thống lĩnh thị trường cũng không giống nhau.
Ở Việt Nam, Luật cạnh tranh 2004 là đạo luật trực tiếp điều chỉnh các hành vi
cạnh tranh và kiểm soát cạnh tranh chung, nhưng không đưa ra một khái niệm cụ thể
thế nào là doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, mà chỉ
nhận dạng thông qua phương pháp định lượng (tức là xác định qua thị phần của chúng
8
trên thị trường liên quan – 30% thị phần trở lên đối với một doanh nghiệp, 50% thị
phần trở lên đối với hai doanh nghiệp, 65% thị phần trở lên đối với ba doanh nghiệp và
75% thị phần trở lên đối với bốn doanh nghiệp) và phương pháp định tính (“có khả
năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể”) [47, Điều 11].
Với cách tiếp cận định lượng, vị trí thống lĩnh thị trường có thể thuộc về người
mua hoặc người bán trong thương mại hàng hóa và cung ứng dịch vụ; vị trí thống lĩnh
thị trường có thể do một doanh nghiệp hoặc các doanh nghiệp có thị phần lớn nắm giữ.
Nhưng khi quy định tỷ lệ thị phần chiếm lĩnh thị trường liên quan để xác định vị trí
thống lĩnh thị trường được đóng khung như trong Luật cạnh tranh của Việt Nam là
không phù hợp. Bởi lẽ, tỷ lệ phần trăm không biểu thị được bản chất của vị thế, có
nhiều doanh nghiệp mức chiếm lĩnh ít hơn so với quy định nhưng trong thực tế các
doanh nghiệp này có tầm ảnh hưởng rất lớn và có tác động không nhỏ đến thị trường
liên quan. Hơn nữa, do đặc thù của từng lĩnh vực ngành nghề thì mức độ thống lĩnh thị
trường là khác nhau, nếu lấy tỷ lệ định lượng chung làm thước đo và quy kết hành vi
cũng là không bình đẳng. Còn với phương pháp xác định định tính “khả năng gây hạn
chế cạnh tranh một cách đáng kể” được quy định rất trìu tượng và rất khó áp dụng
cũng như không đem lại được hiệu quả trong thực tiễn.
Ở một số nước khác lại có cách tiếp cận khác so với pháp luật cạnh tranh về vấn
đề này, trong đó điển hình là Luật thương mại lành mạnh và những quy định về độc
quyền 1980 của Hàn Quốc (“gọi tắt là Luật Thương mại Hàn Quốc”).
Theo khoản 7, Điều 2 của Luật:
Doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường là bất kỳ người mua, người
bán trong một lĩnh vực thương mại nhất định và nắm giữ vai trò thống lĩnh thị trường
để ấn định, duy trì hoặc thay đổi giá cả, khối lượng, chất lượng và các điều kiện
thương mại khác hoặc trên cơ sở độc lập hoặc trên cơ sở câu kết với các doanh nghiệp
khác. Khi xét đoán các doanh nghiệp thống lĩnh thị trường, cần phải tính đến các yếu
9
tố như thị phần, sự tồn tại và quy mô của các rào cản đối với việc thâm nhập thị
trường và các quy mô tương đối của các doanh nghiệp cạnh tranh.
Với quy phạm này, Luật Thương mại Hàn Quốc đã đảm bảo xây dựng một khái
niệm mang tính lý luận tổng quát, miêu tả đầy đủ và ngắn gọn các đặc tính của đối
tượng; và hoàn thiện hơn so với cách nhận diện vị trí thống lĩnh thị trường của doanh
nghiệp trong Pháp luật cạnh tranh của Việt Nam. Khái niệm đã chỉ ra rằng vị trí thống
lĩnh thị trường không chỉ được xem xét dưới góc độ vị trí của một doanh nghiệp mà có
thể là vị trí của một nhóm doanh nghiệp cùng hành động (tập trung kinh tế để đạt được
vị trí thống lĩnh thị trường). Các doanh nghiệp này có khả năng kiểm soát thực tế hoặc
tiềm năng đối với thị trường liên quan mà doanh nghiệp đó đang hoặc sẽ hoạt động. Và
việc xem xét vị trí thống lĩnh thị trường sẽ căn cứ trên nhiều tiêu chí thị phần, quy mô
rào cản mà khả năng thực tế của doanh nghiệp trên thị trường.
Trong phạm vi luận văn này, tác giả thừa nhận khái niệm “vị trí thống lĩnh thị
trường” của Luật Thương mại Hàn Quốc là cách hiểu chung khi sử dụng cụm từ này
trong quá trình nghiên cứu và phân tích. Để làm rõ và bao quát hơn khái niệm vị trí
thống lĩnh thị trường, tác giả nhìn nhận vị trí độc quyền như là một dạng đặc thù của vị
trí thống lĩnh thị trường. Với mong muốn ngày càng bành trướng thế lực, các doanh
nghiệp sau khi đạt được vị trí thống lĩnh thị trường, với ưu thế của mình sẽ cố gắng và
từng bước loại bỏ dần các đối thủ cạnh tranh để đến với đỉnh cao nhất trong cạnh tranh
theo quy luật kinh tế thị trường là độc quyền (tức là doanh nghiệp không còn đối thủ
cạnh tranh hoặc có sự cạnh tranh nhưng rất yếu ớt và không đáng kể; khác với vị trí
thống lĩnh thị trường là trên thị trường vẫn còn sự cạnh tranh của các đổi thủ yếu hơn).
Và xét theo quá trình cạnh tranh, vị trí thống lĩnh thị trường là hình thái trước khi đến
biểu hiện của cạnh tranh không hoàn hảo – độc quyền.
10
1.1.2. Khái niệm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Hiện nay trên thế giới, khái niệm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
được tiếp cận theo hai cách. Cách thứ nhất là liệt kê các hành vi được coi là lạm dụng
thông qua các dấu hiệu của hành vi. Cách thứ hai là đưa ra định nghĩa về hành vi này,
tùy thuộc từng trường hợp và cách giải quyết của cơ quan quản lý cạnh tranh mà hành
vi đó có được coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường hay không.
Pháp luật cạnh tranh Việt Nam, Pháp luật thương mại Pháp, Luật cạnh tranh của
Canada… là đại diện điển hình cho cách tiếp cận đầu tiên. Pháp luật cạnh tranh Việt
Nam liệt kê 06 nhóm hành vi được coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường (gồm
nhóm ấn định giá, nhóm hạn chế, cản trở cạnh tranh) [47, Điều 13]. Theo đó, chỉ những
hành vi của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường được liệt kê tại điều 13 và điều
14 cuả Luật cạnh tranh mới được coi là lạm dụng và bị xử lý. Luật cạnh tranh Canada
cũng không đưa ra khái niệm chung mà liệt kê 11 hành vi bị coi là vi phạm pháp luật
chống lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường (ngoài ra còn cho phép cơ quan có thẩm
quyền xử lý những hành vi chưa được pháp luật liệt kê nhưng thỏa mãn ba dấu hiệu
xác định hành vi lạm dụng theo điều 79 là: (i) Một hoặc một nhóm doanh nghiệp kiểm
soát thị trường liên quan ; (ii) thực hiện hành vi phản cạnh tranh được quy định trong
luật cạnh tranh ; (iii) hành vi đó đã, đang hoặc có thể làm cản trở, làm giảm cạnh tranh
trên thị trường một cách đáng kể) [17]. Điều L. 420-2 Bộ Luật thương mại Pháp nhận
diện: "Sự lạm dụng bao gồm hành vi từ chối bán, các điều kiện áp đặt giá bán hoặc
phân biệt đối xử cũng như sự phá vỡ các mối quan hệ thương mại đã được thiết lập chỉ
trên cơ sở mà bên đối tác từ chối thực hiện đối với các điều kiện thương mại không
công bằng" [24].
Tổ chức hợp tác và phát triển Liên hợp quốc (OECD) thì định nghĩa hành
vi này theo cách thứ hai: "Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh và vị trí độc quyền để
hạn chế cạnh tranh là hành vi hạn chế cạnh tranh mà doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh hoặc độc quyền sử dụng để duy trì hay tăng cường vị trí của nó trên thị trường
11
bằng cách hạn chế khả năng gia nhập thị trường hoặc hạn chế quá mức cạnh tranh"
[49, tr 52].
Có thể nhận thấy hai cách tiếp cận này chỉ nhau ở tính chủ động của hành vi.
Nếu như cách tiếp cận của pháp luật Việt Nam, Pháp và Canada nhìn nhận hành vi lạm
dụng dựa vào hậu quả của hành động, tức là khả năng làm cản trở, sai lệch hoặc làm
giảm cạnh tranh; thì Luật mẫu về cạnh tranh của Liên hợp quốc lại xem xét hành vi ở
mục đích khi chủ thể hành động, nhằm tăng cường và củng cố địa vị của mình thông
qua việc ngăn chặn đối thủ thực tế hoặc tiềm năng tham gia thị trường hoặc hạn chế
quá mức cạnh tranh cho phép. Bình luận trên góc độ lý luận và áp dụng thực tiễn, khái
niệm được xây dựng theo cách thức đầu tiên sẽ gây khó khăn trong cách hiểu và áp
dụng thực thi bởi cách xác định được căn cứ trên phương pháp định tính. Sẽ không có
đại lượng nào có thể cân đong đo đếm sự phân biệt ứng xử, sự giảm cạnh tranh trên
thương trường… Ngược lại, xác định sự duy trì hay tăng cường vị trí của doanh nghiệp
có vị trí thống lĩnh thị trường lại đơn giản hơn nhiều. Người ta có thể căn cứ trên báo
cáo hoạt động của doanh nghiệp, các phân tích thị trường liên quan và thị phần chiếm
lĩnh, số lượng doanh nghiệp đối thủ… để đưa ra kết luận chính xác.
Nhưng dù hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường
được khái niệm theo cách thức nào thì về cơ bản khi giải quyết các vụ việc về hành vi
lạm dụng, cơ quan có thẩm quyền của của các nước sẽ tiến hành xác định ba nội dung:
(i) chủ thể được xem xét có vị trí thống lĩnh thị trường hay không; (ii) chủ thể đó có
thực hiện hành vi lạm dụng hay không; và (iii) hành vi lạm dụng đó gây ra hoặc có khả
năng gây ra hậu quả hạn chế cạnh tranh hay không. Trong đó, việc xác định hậu quả
của hành vi của các cơ quan có thẩm quyền là cần thiết để phân biệt với hành vi tập
trung kinh tế (một dạng hạn chế cạnh tranh). Vì chủ thể của hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường có thể là nhóm doanh nghiệp (tối đa là 4 doanh nghiệp) [47, Điều
11], nên rất dễ nhầm sang dấu hiệu khả năng làm giảm, sai lệch hoặc hạn chế cạnh
tranh của tập trung kinh tế (do suy đoán về việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại hoặc liên
12
doanh để tạo thành các doanh nghiệp có quyền lực thị trường nhằm làm thay đổi tương
quan và cấu trúc thị trường).
Về bản chất, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là một dạng của hành
vi hạn chế cạnh tranh nhằm khai thác lợi thế mà vị trí thống lĩnh thị trường đem lại:
trong quan hệ với khách hàng sẽ tìm cách ấn định giá, áp đặt các điều kiện mua bán,
bóc lột nhằm tích tụ tư bản lớn nhất; trong quan hệ với đối thủ cạnh tranh sẽ ngăn cản,
kìm hãm sự ra nhập thị trường để củng cố và duy trì địa vị thống lĩnh thị trường. Hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường khác với hành vi thỏa thuận ở chỗ các doanh
nghiệp không có sự thỏa thuận trước nhưng cùng hành động các hành vi vi phạm để
loại bỏ đối thủ, gây thiệt hại đến khách hàng…
1.1.3. Khái niệm kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Vị trí thống lĩnh thị trường là hiện tượng kinh tế khách quan tồn tại trong tất cả
các nền kinh tế. Nó là hệ quả khách quan của quá trình cạnh tranh, là mơ ước của các
doanh nghiệp khi tham gia thị trường và là một yếu tố không thể thiếu để thúc đẩy nền
kinh tế phát triển. Vấn đề đặt ra là sau khi có được vị trí thống lĩnh thị trường, các
doanh nghiệp luôn có xu hướng lạm dụng vị trí để tích tụ tư bản, dần đưa môi trường
trong phạm vi kinh doanh của mình về phía không có cạnh tranh – độc quyền. Điều đó
sẽ xâm hại đến quyền tự do kinh doanh của các chủ thể khác, gây bất bình đẳng và phá
vỡ cấu trúc thị trường mà hệ quả sâu xa là vi phạm lợi ích của Nhà nước. Trước những
tác động tiêu cực mà hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường có thể gây ra và để
bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh cũng như bảo vệ các doanh nghiệp yếu thế,
pháp luật các nước đều nhận định rằng cần phải có sự kiểm soát các hành vi này.
Kiểm soát theo định nghĩa của Từ điển Luật học là việc “xem xét để phát hiện,
ngăn ngừa kịp thời việc làm trái với thỏa thuận, với quy định” [60, tr 264]. Tức là, khi
thực hiện chức năng kiểm soát, pháp luật sẽ xây dựng các tiêu chí nhận diện hành vi
được coi là vi phạm pháp luật và nhận diện các chủ thể có khả năng thực hiện các hành
13
vi đó. Từ khung pháp luật chung, cá nhân, tổ chức có trách nhiệm kiểm soát sẽ đối
chiếu vào thực tế để xác định chủ thể thỏa mãn điều kiện, tiêu chí trở thành đối tượng
thuộc phạm vi kiểm soát; đồng thời chủ động tiến hành theo dõi một cách chủ động các
hành vi của chủ thể nhằm phát hiện các dấu hiệu vi phạm các nguyên tắc, quy tắc đã
được thừa nhận. Nếu hành vi có sự xâm phạm nhưng chưa đủ cấu thành vi phạm thì
chức năng kiểm soát sẽ thực hiện các biện pháp ngăn ngừa, cách ly hành vi đó tiếp tục
thực hiện vi phạm và quay trở về quỹ đạo lành mạnh ban đầu. Nếu chủ thể có những
hành vi vi phạm nghiêm trọng, gây ảnh hưởng đến các quy tắc, nguyên tắc kiểm soát
ban đầu được đặt ra thì tùy từng trường hợp sẽ được áp dụng các biện pháp chế tài
nghiêm khắc, tất nhiên sẽ có xem xét đến yếu tố miễn trừ. Bình luận trên góc độ lý
luận, khái niệm kiểm soát được nhận diện tương đối giống với khái niệm gần “giám
sát” [60, tr 292]. Hai khái niệm này cùng chỉ ra việc theo dõi, quan sát mang tính chủ
động thường xuyên của cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân đối với hoạt động của các đối
tượng chịu sự kiểm soát, giám sát. Nếu phát hiện các hành vi vi phạm sẽ tác động bằng
các biện pháp tích cực để yêu cầu và hướng các hoạt động đó đi đúng quỹ đạo, quy chế
nhằm đạt được mục đích từ trước, bảo đảm cho các quy định pháp luật được tuân thủ
nghiêm chỉnh. Tuy nhiên, hai khái niệm cũng có một số sự khác biệt. Về tính chủ động,
nếu kiểm soát đòi hỏi cần phải tự chủ động xây các tiêu chí, nguyên tắc khi trước áp
dụng thì giám sát chỉ thực hiện nhiệm vụ căn cứ trên các yêu cầu và mệnh lệnh đã được
đặt ra từ trước. Về mục đích, giám sát hướng cách đối tượng chịu sự giám sát thực hiện
đúng các quy định và đạt được hiệu quả được thiết lập khung; còn mục đích kiểm soát
không chỉ dừng lại ở việc yêu cầu thực hiện các hệ quả được mô tả mà còn phải đảm
bảo xem xét kiểm soát dựa trên lẽ phải, sự công bằng và trong những trường hợp nhất
định thì kiểm soát sẽ thực hiện mục đích ngăn chặn, loại bỏ những hoạt động sai trái và
vi phạm. Về phạm vi xử lý các trường hợp vi phạm, giám sát chỉ dừng lại ở việc phát
hiện hành vi và thực hiện các biện pháp khuyến nghị đối với chủ thể thực hiện hành vi
đó, trường hợp chủ thể tiếp tục vi phạm hoặc vi phạm nghiêm trọng thì cá nhân, tổ
14
chức thực hiện chức năng giám sát báo cáo lên tổ chức, cá nhân có thẩm quyền đề nghị
xử lý; trong khi đó, chủ thể thực hiện chức năng kiểm soát sẽ trực tiếp xem xét, áp
dụng các biện pháp ngăn chặn và đưa ra các chế tài xử lý. Về hiệu quả, kiểm soát đem
lại kết quả cao do có tính trừng trị răn đe cao, còn tác động ngăn chặn của giám sát chỉ
mang tính khuyến nghị.
Hiểu một cách chung nhất, kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường được hiểu là: (i) tổng thể các cơ chế, thiết chế bảo đảm cho chủ thể có quyền
kiểm soát hạn chế cạnh tranh thực hiện chức năng theo dõi, kiểm tra quá trình thực
hiện, chấp hành, tuân thủ các quy chuẩn hành vi đạo đức và pháp luật của các chủ thể
bị kiểm soát; (ii) thực hiện chức năng ngăn ngừa nhằm bảo đảm cho những đối tượng
này luôn nằm trong quỹ đạo của các yêu cầu về pháp luật, các chuẩn mực đạo đức kinh
doanh và bảo đảm để các quy định về cạnh tranh được thực hiện đúng và có hiểu quả;
(iii) trong những trường hợp nhất định, pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường sẽ áp dụng các chế tài xử phạt nghiêm khắc để loại bỏ những hoạt
động sai trái và vi phạm.
Bản chất của kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường được thể
hiện thông qua hai góc độ hành vi và góc độ cơ chế. Nhìn từ góc độ hành vi, kiểm soát
sự lạm dụng là sự tác động từ phía cơ quan, chủ thể có thẩm quyền đối với doanh
nghiệp bị kiểm soát. Trong đó, sự kiểm soát từ phía cơ quan trực tiếp quản lý cạnh
tranh thực hiện chức năng theo dõi, phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm;
còn đối với các chủ thể có thẩm quyền khác (các đối thủ cạnh tranh hoặc người tiêu
dùng) thực hiện chức năng kiểm soát thông qua việc phát hiện, tố cáo lên cơ quan cạnh
tranh hoặc thực hiện quyền khởi kiện để đảm bảo quyền và lợi ích của mình. Trong hai
hành vi tác động này, hành vi từ phía cơ quan quản lý cạnh tranh có ý nghĩa lớn trong
việc ngăn chặn và khắc phục hiệu quả các hành vi vi phạm, đồng thời có tính răn đe
cao. Ở góc độ cơ chế, vấn đề này được thể hiện ở ba khía cạnh là sự phân quyền trong
nội bộ chủ thể có quyền kiểm soát; kiểm soát dựa trên sự giới hạn của chủ thể có thẩm
15
quyền đối với quyền tự do kinh doanh của khách thể; và kiểm soát dựa trên mối liên hệ
giữa chủ thể và khách thể kiểm soát. Có thể nói, trong ba khía cạnh trên thì kiểm soát
mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể trong kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường đóng vai trò quan trọng và cần thiết phải được quan tâm. Bởi, trong hoạt
động kiểm soát, chủ thể quản lý phải luôn luôn có thông tin để nhanh chóng phát hiện
ra các hành vi vi phạm và kịp thời đưa ra các biện pháp xử lý. Mặt khác đối tượng bị
kiểm soát cũng muốn có được những thông tin nhanh nhất về yêu cầu của chủ thể cũng
như các quyền và nghĩa vụ của mình để thực hiện đúng, có hiệu quả.
1.2. Quan niệm chung về pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng của
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trƣờng
Trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hóa, doanh nghiệp đạt được vị trí
thống lĩnh thị trường là hiện tượng tất yếu khách quan. Vì tự thân vị trí thống lĩnh thị
trường không thể gây ra những tác hại lớn cho nền kinh tế cũng như làm méo mó cấu
trúc thị trường. Vì lẽ đó, các nước trên thế giới đều thừa nhận không thể xóa bỏ vị trí
này mà chỉ đặt ra vấn đề kiểm soát khi có sự lạm dụng.
Về cách thức và phạm vi điều chỉnh. Hiện nay có nhiều cách thức kiểm soát
khác nhau được áp dụng như biện pháp kinh tế, biện pháp chính trị, sự lên án của xã
hội…; nhưng pháp luật với thuộc tính là những quy phạm mang tính ổn định, chặt chẽ
và bắt buộc cưỡng chế thi hành được đánh giá là công cụ hữu hiệu nhất trong kiểm soát
hành vi lạm dụng. Theo quan niệm của các nước, pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng
vị trí thống lĩnh thị trường cần phải được điều chỉnh trong một đạo luật chung có vài
trò điều tiết các hành vi thương mại, xây dựng và duy trì môi trường kinh doanh lành
mạnh như luật cạnh tranh (ở một số quốc gia đạo luật này có thể được gọi các tên gọi
khác nhau nhưng chung một bản chất như Luật chống độc quyền, Luật Thương mại
lành mạnh và chống độc quyền…). Tuy nhiên, Luật cạnh tranh với vai trò là luật chung
nên không thể tích hợp thành một bộ luật điều tiết mọi khía cạnh thuộc các lĩnh vực
16
của hoạt động kinh doanh. Do đó, trong từng pháp luật chuyên ngành như pháp luật
hình sự, pháp luật thương mại, pháp luật hợp đồng cũng cần thiết phải có sự điều chỉnh
vấn đề này phù hợp với phạm vi, đối tượng và phương pháp mà luật đó điều chỉnh.
Việc quy định như vậy sẽ góp phần giảm tải cho Luật cạnh tranh không bị cồng kềnh
và hạn chế những thiếu sót trong quá trình điều chỉnh các lĩnh vực đặc thù; đồng thời
cũng giúp các luật chuyên ngành không lặp lại các quy định chung.
Về hình thức điều chỉnh, khi thiết kế các quy phạm cần phải tuân theo giá trị của
văn bản pháp luật chứa đựng nó. Điều này sẽ đảm bảo cho mức độ điều chỉnh, tính
hiệu lực và khả năng sửa đổi, bổ sung của quy định được phù hợp. Bởi căn cứ vào vị trí
của văn bản trong hệ thống pháp luật thì giá trị áp dụng của quy phạm cũng khác nhau,
quy định trong luật sẽ cao hơn nghị định và quy định trong nghị định sẽ cao hơn thông
tư. Không chỉ vậy, các văn bản có vị trí cao sẽ được áp dụng phổ biến và ít được bổ
sung, chỉnh sửa so với những văn bản ở vị trí trí thấp hơn nên các quy định trong đó
đòi hỏi phải có tính ổn định và chuẩn xác. Theo đó, các quy phạm về kiểm soát hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, mà cụ thể là các nguyên tắc và các quy định
chung về nhận dạng vị trí thống lĩnh thị trường, các trường hợp được coi là lạm dụng vị
trí, chế tài áp dụng cho hành vi vi phạm, cơ quan có chức năng kiểm soát, cơ chế thực
thi phải được ghi nhận trong luật. Vì các quy định này sẽ được điều chỉnh chung cho
tất cả các lĩnh vực. Ở mức độ thấp hơn là nghị định, các quy phạm điều chỉnh chỉ nhằm
mục đích giải thích mà minh thị các quy định đã được nêu ở góc độ chung. Thông
thường trong nghị định của các nước sẽ đi sâu diễn giải chi tiết cách thức nhận diện vị
trí thống lĩnh thị trường thông qua thị phần hoặc các tiêu chí định tính; cụ thể hóa các
hành vi được coi là lạm dụng; làm rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của cơ quan
quản lý cạnh tranh; xây dựng các mức phạt và khung phạt cụ thể của chế tài; quy định
trình tự, thủ tục điều tra và xử lý. Đối với những hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường thuộc các lĩnh vực đặc thù thì tùy từng nhu cầu cụ thể mà thông tư do bộ trực
tiếp quản lý các lĩnh vực đó quy định. Ví dụ cách xác định vị trí thống lĩnh thị trường
17
của doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực điện lực sẽ khác với các doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm. Khi đó, cơ quan đứng đầu quản lý ngành sẽ
trực tiếp ra thông tư để hướng dẫn việc xác định.
Về mục đích, pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
trước hết hướng tới xây dựng một khuôn khổ thị trường lành mạnh. Trong đó mọi
doanh nghiệp đều có cơ hội thành công hay thất bại tùy thuộc vào năng lực cạnh
tranh. Các quy định của pháp luật được áp dụng nhằm thúc đẩy cạnh tranh hiệu quả
và không ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của bất kỳ đối thủ cạnh tranh hay nhóm đối
thủ cạnh tranh nào. Mặc khác, các chính sách cạnh tranh được xây dựng và áp dụng
để khuyến khích cạnh tranh mà không phải để trừng phạt các doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh thị trường nếu như việc tạo lập vị trí đó là hợp pháp (dù kết quả của chiến
lược đó có loại bỏ đối thủ cạnh tranh). Nói cách khác, việc áp dụng pháp luật kiểm
soát không nhằm loại bỏ vị trí thống lĩnh thị trường mà chỉ loại bỏ hành vi lạm dụng
vị trí này để trục lợi và bóp méo cạnh tranh. Một khi doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh
thị trường chưa có các biểu hiện của sự lạm dụng thì chúng vẫn là chủ thể được pháp
luật bảo vệ.
Về cơ chế điều chỉnh, theo lý luận chung về nhà nước và pháp luật của Chủ
nghĩa Mác thì điều chỉnh pháp luật là việc nhà nước dùng pháp luật, dựa vào pháp luật
để điều chỉnh các quan hệ xã hội, tác động theo những hướng nhất định vào các quan
hệ xã hội, tạo lập trật tự trong một ngành, một lĩnh vực theo ý muốn của nhà nước.
Hiểu theo nghĩa này, cơ chế điều chỉnh pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường phải là một hệ thống các biện pháp pháp luật gồm quy phạm pháp
luật (các quy định vị trí thống lĩnh thị trường, về hành vi lạm dụng), quan hệ pháp luật
(các quan hệ của doanh nghiệp đến đối thủ, người tiêu dùng và nhà nước) và thực hiện
pháp luật chống lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường (quản lý của cơ quan nhà nước,
áp dụng các biện pháp chế tài, điều tra và xử lý các hành vi vi phạm). Điều đó cũng
đồng nghĩa với việc cơ chế này phải bảo đảm có sự can thiệp của các cơ quan nhà nước
18
trong việc kiểm soát, giới hạn hoặc cấm đoán tất cả các hành vi, thỏa thuận được coi là
lạm dụng dẫn đến sự hạn chế hoặc triệt tiêu cạnh tranh; giám sát các doanh nghiệp có
vị trí thống lĩnh thị trường để ngăn cản không cho chủ thể có điều kiện thực hiện hành
vi lạm dụng; giới hạn và điều hòa quyền và lợi ích của các chủ thể có vị thế thống lĩnh
thị trường, của những doanh nghiệp khác, của người tiêu dùng và của nhà nước. Và để
các quy định của pháp luật được tôn trọng trong cuộc sống nhất thiết phải có một chế
tài đủ mạnh để bảo đảm thực hiện.
Về tiêu chí đánh giá sự hoàn thiện. Với vai trò là bộ phận cấu thành khung
của pháp luật kinh tế trong điều tiết thị trường, thúc đẩy môi trường cạnh tranh lành
mạnh, pháp luật về kiểm soát các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
không những cần đáp ứng các quan niệm về phương pháp, phạm vi, hình thức, mục
đích và cơ chế điều chỉnh được phân tích ở trên mà còn phải bảo đảm tôn trọng các
tiêu chí tiên quyết sau:
(i) Tuân theo các quy định của điều ước quốc tế về vấn đề này;
(ii) Tôn trọng truyền thống, tập quán và đạo đức kinh doanh;
(iii) Kết hợp hài hòa lợi ích của người sản xuất, kinh doanh với những chủ thể
sản xuất, kinh doanh khác, lợi ích của người tiêu dùng, lợi ích của nhà nước và xã hội;
(iv) Đảm bảo sự minh bạch và ổn định trên thị trường;
(v) Đảm bảo tính hợp lý và hợp pháp của các quy định pháp luật;
(vi) Tôn trọng các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động kinh doanh và của Luật
cạnh tranh: nguyên tắc tự do kinh doanh, nguyên tắc tự do giá cả, nguyên tắc tự do
cạnh tranh.
19
1.3. Đặc điểm, vai trò của pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng của
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trƣờng
1.3.1. Đặc điểm
Mặc dù chính sách cạnh tranh và kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh của các
quốc gia là không giống nhau do những yếu tố đặc thù về chính trị, văn hóa và truyền
thống chi phối. Song, về cơ bản pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, trong kinh tế thị trường, người ta ghi nhận nguyên tắc “tự do thỏa
thuận, tự do kinh doanh” như là nguyên tắc bản lề khi xây dựng pháp luật kinh doanh
cũng như là tiêu chí để đánh giá môi trường cạnh tranh có hoàn hảo hay không. Tuy
nhiên, các quyền này không được diễn ra một cách tự ý, tự phát mà được luật pháp
điều chỉnh hợp lý. Chính vì vậy, pháp luật nói chung và pháp luật cạnh tranh nói
riêng khi xây dựng các quy định về kiểm soát hành vi thống lĩnh thị trường thị trường
đều nhằm mục đích tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, cân bằng lợi ích của các
chủ thể trên thị trường và thúc đẩy sự phát triển của kinh tế xã hội quốc gia. Nó được
coi là công cụ quản lý của nhà nước để duy trì quyền tự do cạnh tranh kinh doanh
lành mạnh bằng cách hạn chế các đặc quyền kinh tế của doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh thị trường.
Thứ hai, sự điều tiết của pháp luật khi tác động đến các quan hệ cạnh tranh đều
phải được căn cứ trên bản chất của hành vi và tôn trọng tính quy luật khách quan. Do
đó, pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường chỉ can thiệp vào
những nơi, những quan hệ, những hành vi không đảm bảo sự cạnh tranh mang tính
hiệu quả (những hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường làm triệt tiêu hoặc hạn
chế cạnh tranh). Nói cách khác, nhà làm luật chỉ hướng đến cấm đoán hành vi, vì tự
thân vị trí thống lĩnh thị trường không tạo ra vi phạm, không tạo ra những hệ quả xấu
ảnh hưởng đến sự phát triển lành mạnh của thị trường. Khác với pháp luật kiểm soát
tập trung kinh tế có nhiệm vụ ngăn chặn khả năng hình thành các thế lực có quyền