Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

một số lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 70 trang )

Một số lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại
Việt Nam

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN LUẬT KINH DOANH & THƯƠNG MẠI



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA 2010 – 2014

Đề tài:

MỘT SỐ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI
LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH
THỊ TRƯỜNG ĐỂ HẠN CHẾ CẠNH
TRANH TẠI VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn:
ThS. Nguyễn Mai Hân

Sinh viên thực hiện:
Lê Thị Hồng Thắm
MSSV: 5106003
Lớp: Luật Thương mại 1

Cần Thơ, tháng 11 năm 2013


Một số lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại


Việt Nam
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU...............................................................................................................1
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH
THỊ TRƯỜNG .........................................................................................................4
1.1 ................................................................................................................... K
hái quát về cạnh tranh......................................................................................4
1.1.1 Khái niệm.................................................................................................4
1.1.2............................................................................................................ Đ
ặc điểm.....................................................................................................5
1.2 Khái niệm hạn chế cạnh tranh .........................................................................6
1.3 Khái niệm vị trí thống lĩnh thị trường………………………………………….7
1.4 Khái quát về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh
Tranh………………………………………………………………………….11
1.4.1 Khái niệm.................................................................................................11
1.4.2 Đặc điểm của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh
tranh……………………………………………………………………….13
1.5 Sự cần thiết phải có quy định của pháp luật điều chỉnh hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường ......................................................................................................15
CHƯƠNG 2: NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ
TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG ĐỂ HẠN CHẾ CẠNH TRANH .......................18
Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ
cạnh tranh .....................................................................................................18
Khái niệm ......................................................................................18
Hành vi vi phạm.............................................................................18
Xử lý vi phạm ................................................................................20
Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại
tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng..............................................................21
2.2.1 Khái niệm .....................................................................................21
2.2.2 Hành vi vi phạm .............................................................................22

2.2.3 Xử lý vi phạm ................................................................................26
Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự
phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng ............................27
2.3.1 Khái niệm.......................................................................................27
2.3.2 Hành vi vi phạm .............................................................................28
2.3.3 Xử lý vi phạm ................................................................................31


Một số lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại
Việt Nam
Áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo bất
bình đẳng trong cạnh tranh ..............................................................................32
2.4.1 Khái niệm.......................................................................................32
2.4.2 Hành vi vi phạm .............................................................................33
2.4.3 Xử lý vi phạm ................................................................................34
Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa,
dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan
trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng ............................................................35
2.5.1 Khái niệm.......................................................................................35
2.5.2 Hành vi vi phạm .............................................................................36
2.5.3 Xử lý vi phạm ................................................................................39
Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới ...........40
2.6.1 Khái niệm.......................................................................................41
2.6.2 Hành vi vi phạm .............................................................................41
2.6.3 Xử lý vi phạm ................................................................................43
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG .......................45
3.1 Thực trạng hiện nay về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường .......................45
3.2 Một số bất cập và đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật về hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường……………………………………………………………………50

3.2.1 Về mục tiêu của Luật cạnh tranh .....................................................................51
3.2.2 Về cấu thành của hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách
hàng ....................................................................................................................52
3.2.2.1
Có sự mâu thuẫn giữa hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu trong Luật
cạnh tranh và Luật thương mại ............................................................................52
3.2.2.2
Hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu không hoàn toàn phản
cạnh tranh ......................................................................................................52
3.2.2.3
Hành vi ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại đến khách hàng chỉ
quy định đối với hàng hóa mà bỏ sót dịch vụ .............................................53
3.2.3 Về cấu thành của hành vi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn
bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh......................................................................54
3.2.4 Về cấu thành của hành vi áp đặt điều kiện thương mại
khác nhau trong điều kiện giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình đẳng trong cạnh
tranh....................................................................................................................55


Một số lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại
Việt Nam
3.2.5 Về biện pháp xử lý vi phạm ..........................................................................56
3.2.6 Về những vấn đề khác...................................................................................57
KẾT LUẬN ……………………………………………………………………………..59
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


Một số lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại
Việt Nam


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nhân luôn phải tranh đua với nhau để tồn tại
và phát triển. Mỗi doanh nghiệp thường xuyên phải đổi mới công nghệ, đổi mới cung
cách quản lý để ứng phó với sức ép liên tục từ các đối thủ cạnh tranh. Vượt trước để nắm
được lợi thế trong cuộc cạnh tranh là phần thưởng mà nhà kinh doanh nào cũng mong
muốn đạt được. Thế nên khi nắm được quyền lực thị trường, điều dễ hiểu là không ai
muốn từ bỏ, thậm chí nhiều doanh nghiệp đã lạm dụng vị trí đó bóp méo cạnh tranh để
thu lợi nhuận cho mình, ảnh hưởng tiêu cực đến lợi ích của người tiêu dùng. Chính vì
vậy, việc xây dựng các quy định chuyên biệt để điều chỉnh những hành vi này điều luôn
được các quốc gia chú trọng.
Ở nước ta, từ khi thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng, số lượng và quy mô của các
doanh nghiệp đã tăng lên một cách nhanh chóng. Cùng với đó, hiện tượng cạnh tranh đã
và đang diễn ra một cách gay gắt, thậm chí rất nhiều trường hợp cạnh tranh không lành
mạnh, gây thiệt hại lớn đối với các doanh nghiệp làm ăn chân chính và người tiêu dùng.
Luật cạnh tranh được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 3-12-2004. Tuy
nhiên, cho đến nay quá trình thực thi Luật này gặp nhiều vướng mắc, bất cập, đặc biệt là
trong việc điều chỉnh các hành vi lạm dụng quyền lực thị trường để hạn chế cạnh tranh.
Vì vậy, việc nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực này là rất cần thiết.
Chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước, đã và đang khẳng định sự đúng đắn
thông qua những thành tựu quan trọng trong hoạt động kinh tế: lượng vốn đầu tư được
thu hút vào Việt Nam ngày càng tăng và số lượng doanh nghiệp có tiềm lực kinh doanh
cũng tăng lên một cách đáng kể… Tuy nhiên, quá trình mở cửa thị trường này đòi hỏi
chúng ta phải gỡ bỏ rào cản về thủ tục hành chính, thuế quan và những ưu đãi với doanh
nghiệp trong nước… Điều đó khiến cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của chúng ta không
chỉ đối mặt với sự cạnh tranh với các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, độc
quyền trong nước mà còn với các tập đoàn đa quốc gia hùng mạnh trên thế giới nhất là
khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO. Vì vậy, nâng cao hiệu quả của
quản lý nhà nước và hoàn thiện pháp luật cạnh tranh sẽ là một điều kiện then chốt, một

đòi hỏi bắt buộc để phát triển nền kinh tế, cũng như góp phần cho tăng trưởng kinh tế dài
hạn của Việt Nam trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu. Theo xu hướng phát triển, các
GVHD: ThS Nguyễn Mai Hân

1

SVTH: Lê Thị Hồng Thắm


Một số lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại
Việt Nam
doanh nghiệp khi tham gia vào kinh doanh đều mong muốn phát triển hơn nữa thế lực
của mình, nhất là những doanh nghiệp có thị phần lớn. Việc các doanh nghiệp phát triển
lành mạnh là điều tất cả các nước đều khuyến khích. Nhưng không thể đảm bảo một
doanh nghiệp tham gia thị trường kinh doanh lành mạnh lúc nào cũng tuân thủ pháp luật.
Do đó với nỗ lực xây dựng một thị trường kinh doanh lành mạnh, công bằng, bình đẳng
và thực sự trở thành một mảnh đất thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước hiệu quả. Pháp
luật cạnh tranh cần đặc biệt chú ý tới cơ chế phát triển hoạt động của các thương nhân khi
tham gia thị trường. Một trong những giải pháp nhằm cải thiện và nâng cao môi trường
kinh doanh là kiểm soát các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
Từ những phân tích trên, tác giả chọn đề tài “Một số lý luận về hành vi lạm dụng vị
trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu lý luận và thực tiễn về hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, đề
xuất một số giải pháp, kiến nghị góp phần đưa Luật cạnh tranh đi vào áp dụng được hoàn
thiện hơn.
3. Phạm vi nghiên cứu
Nội dung nghiên cứu đề tài bao gồm nhiều vấn đề khác nhau. Tuy nhiên, do giới hạn
của một luận văn cử nhân, việc nghiên cứu chỉ tập trung vào những vấn đề cơ bản nhất

thuộc về nội dung đề tài như khái niệm, đặc điểm, nội dung, biện pháp xử lý vi phạm và
ý nghĩa của quy định luật cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để
hạn chế cạnh tranh; khảo sát thực trạng về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
trong thời gian qua, qua đó tác giả nhận thấy một số bất cập và hạn chế trong quy định
của pháp luật về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Trên cơ sở đó, tác giả đưa
ra một số đề xuất để hoàn thiện quy định của pháp luật về hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Với những kiến thức cơ bản và tài liệu thu thập được, tác giả đã sử dụng phương pháp
triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử chủ nghĩa Mác-Lênin, của lý luận nhà
nước và pháp luật trong điều kiện cơ chế kinh tế mới. Bên cạnh đó, kết hợp với phương

GVHD: ThS Nguyễn Mai Hân

2

SVTH: Lê Thị Hồng Thắm


Một số lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại
Việt Nam
pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, chứng minh… để nghiên cứu và hoàn thành luận văn
này.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, danh mục tài liệu tham khảo, kết luận, Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Chương 2: Những quy định pháp luật về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
để hạn chế cạnh tranh
Chương 3: Thực trạng và một số đề xuất hoàn thiện pháp luật về lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường

Mặc dù đã cố gắng nhưng do kinh nghiệm của bản thân cũng như thời gian còn
hạn chế nên chắc chắn luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báo của quý thầy cô, các bạn sinh viên
và tất cả những ai quan tâm về cạnh tranh và kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường để đề tài nghiên cứu ngày càng hoàn thiện hơn.

GVHD: ThS Nguyễn Mai Hân

3

SVTH: Lê Thị Hồng Thắm


Một số lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại
Việt Nam

CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH
THỊ TRƯỜNG
1.1 KHÁI QUÁT VỀ CẠNH TRANH
1.1.1 Khái niệm
Theo nhà kinh tế học Adam Smith đã xác lập lý thuyết “Bàn tay vô hình” khẳng định
vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường. Khi được cạnh tranh tự do, mọi cá
nhân có quyền mưu cầu lợi ích riêng của mình, đầu tư và hưởng thành quả chính tương
xứng với đóng góp của mình vào thị trường. Adam Smith tin chắc rằng trong đại đa số
các trường hợp, để cho nền kinh tế thị trường tự do điều chỉnh bởi quy luật khách quan sẽ
mang lại những kết quả hữu ích hơn so với việc can thiệp vào nó.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, ở đó sản xuất
cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai và đổi mới cái gì được quyết định thông qua
thị trường.

Có thể nói không có cơ chế thị trường thì không có quy luật cạnh tranh. Chính vì vậy
cạnh tranh là một quy luật quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh là cơ chế
vận hành chủ yếu của nền kinh tế thị trường, là động lực để thúc đẩy cho sự phát triển
kinh tế. Theo cuốn Black’Law Dictionary diễn tả cạnh tranh là “sự nổ lực hoặc hành vi
của hai hay nhiều thương nhân nhằm tranh giành những lợi ích giống nhau từ chủ thể thứ
ba”1.
Theo góc độ kinh tế thì cạnh tranh được hiểu là một quá trình trong đó các thành viên
tham gia thị trường để đảm bảo thị trường tiêu thụ phải tranh đua đưa ra những điều kiện
tốt hơn so với những đối thủ của mình (về khối lượng, chất lượng, giá cả, hình thức, mẫu
mã, và điều kiện thương mại khác). Đối thủ là các nhà sản xuất hoặc cung cấp hàng hóa,
dịch vụ cùng loại hoặc thay thế.
Hay theo cuốn “Từ điển kinh doanh của Vương Quốc Anh”, xuất bản năm 1992 thì
thuật ngữ cạnh tranh trong cơ chế thị trường được định nghĩa như sau: Cạnh tranh là sự

1

Bryan A. Garner, Black’Law Dictionary, St. Paui, 1999, trang 278.

GVHD: ThS Nguyễn Mai Hân

4

SVTH: Lê Thị Hồng Thắm


Một số lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại
Việt Nam
ganh đua, sự kình địch giữa các nhà kinh doanh trên thị trường nhằm tranh giành một loại
khách hàng về phía mình”2.
Còn theo một định nghĩa được Lobe đưa ra từ gần một thế kỉ nay (mà khoa học pháp

lý cũng không thể phát triển thêm một cách đáng kể) có thể hiểu cạnh tranh là sự cố gắng
của hai hay nhiều người thông qua những hành vi của ít nhất hai nhà cung cấp hàng hóa
hoặc dịch vụ cùng loại hoặc có thể trao đổi được, nhằm cùng một loại khách hàng.
Với tư cách là một hiện tượng xã hội riêng của nền kinh tế thị trường, cạnh tranh xuất
hiện ở mọi lĩnh vực, mọi công đoạn của quá trình kinh doanh và gắn liền với bất cứ chủ
thể nào đang hoạt động trên thị trường. Do đó, cạnh tranh được nhìn nhận ở nhiều góc độ
khác nhau tùy thuộc vào ý định và hướng tiếp cận của các nhà khoa học.
1.1.2 Đặc điểm
Mặc dù cạnh tranh được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, nhưng suy cho
cùng cạnh tranh cơ bản có ba đặc trưng sau đây:
Thứ nhất, cạnh tranh là hiện tượng xã hội diễn ra giữa các chủ thể kinh doanh
Cạnh tranh phải có sự hiện diện của các thành viên thương trường. Cạnh tranh được
hình thành từ sự đa dạng về sở hữu kéo theo sự đa dạng về chủ thể kinh doanh, đây là các
nhà sản xuất, các doanh nghiệp được tổ chức dưới nhiều hình thức, thuộc mọi thành phần
kinh tế khác nhau. Đây cũng là một trong những điều kiện cần và đủ để cạnh tranh xuất
hiện trong cơ chế thị trường.
Thứ hai, về mặt hình thức, cạnh tranh là sự ganh đua, sự kình địch giữa các doanh
nghiệp
Cạnh tranh là có sự ganh đua vì mục tiêu lợi nhuận giữa các thành viên trên thương
trường. Trong nền kinh tế quan liêu, bao cấp thì hầu như không có cạnh tranh. Việt Nam
là một điển hình: trước năm 1986, ta còn cơ chế bao cấp, tất cả sản phẩm đều do nhà
nước phân phối theo chế độ tem phiếu, các nhà sản xuất theo chỉ tiêu do nhà nước đưa ra,
sản phẩm không đa dạng và không có tính sáng tạo, còn hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh kém, nếu như có doanh nghiệp bị thua lỗ thì nhà nước sẽ đền bù, tạo ra một tâm lý
ỷ lại, không hề có sự năng động trong sản xuất, tạo sự ì ạch, vô trách nhiệm của các chủ
thể kinh tế. Còn người sử dụng sản phẩm thì không có quyền lựa chọn sản phẩm mà mình
2

Dẫn theo Đặng Vũ Huân, Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam,
Nxb chính trị quốc gia, 2004, trang 19.


GVHD: ThS Nguyễn Mai Hân

5

SVTH: Lê Thị Hồng Thắm


Một số lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại
Việt Nam
mong muốn mà chỉ nhận mua sản phẩm theo chỉ tiêu được giao. Nhưng nền kinh tế thị
trường thì các nhà sản xuất, các nhà kinh doanh đặt ra mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu
nên giữa họ sẽ có sự cạnh tranh gay gắt với nhau để có thể tồn tại và phát triển. Đây mới
thực sự là cạnh tranh và các đối thủ phải áp dụng kỹ thuật cao, sử dụng tài nguyên một
cách có hiệu quả, sử dụng lao động một cách hợp lý.
Thứ ba, mục đích của các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh là cùng tranh giành thị
trường mua hoặc bán sản phẩm
Trên thị trường, cạnh tranh chỉ xảy ra giữa các doanh nghiệp có chung lợi ích tiềm
năng về nguồn nguyên liệu đầu vào (cạnh tranh mua); hoặc về thị trường đầu ra của sản
phẩm (cạnh tranh bán) của quá trình sản xuất. Việc có chung lợi ích để tranh giành làm
cho các doanh nghiệp trở thành đối thủ của nhau. Nói tóm lại, chỉ khi nào xác định được
các doanh nghiệp cùng trên một thị trường liên quan mới có thể kết luận được rằng các
doanh nghiệp đó là đối thủ cạnh tranh của nhau. Khi họ có chung khách hàng hoặc đối
tác để tranh giành, có chung một nguồn lợi ích để hướng đến mới có căn nguyên nảy sinh
ra sự ganh đua giữa họ với nhau.
Trong môi trường cạnh tranh thì người tiêu dùng đóng vai trò quan trọng. Sự lựa chọn
của người tiêu dùng là yếu tố quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp. Người tiêu dùng có
quyền lựa chọn những sản phẩm hợp với sở thích của mình và giá thành rẻ nhất. Vì thế
sự lựa chọn đó làm cho cạnh tranh có khả năng tạo ra một áp lực liên tục đối với giá cả,
buộc các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng sản phẩm và cải thiện mẫu mã, hình

thức đẹp mắt để phù hợp với mong muốn của người tiêu dùng, nếu không làm như vậy
thì doanh nghiệp sẽ bị đào thải hay phá sản.
1.2 KHÁI NIỆM VỀ HẠN CHẾ CẠNH TRANH
Pháp luật nhiều nước đã xây dựng các chế định về việc cấm và kiểm soát các biểu
hiện hạn chế cạnh tranh, Luật cạnh tranh lành mạnh Croatia quy định: “kìm hãm cạnh
tranh tự do là sự ngăn cản, hạn chế tự do của thương nhân hoặc là sự ngăn cản, hạn chế
công việc của thương nhân liên quan đến việc mua bán hàng hóa và dịch vụ trên thị
trường”. Còn Bộ quy tắc về cạnh tranh của Liên hợp quốc quy định: “hành vi gây hạn chế
kinh doanh là những hành vi hay ứng xử của doanh nghiệp thông qua sự sáp nhập hay
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường hạn chế khả năng tiếp cận thị trường hay tạo ra các
sức ép cạnh tranh quá mức gây ra hay sẽ gây ra những ảnh hưởng xấu đến thương mại
quốc tế đặc biệt là thương mại của những nước đang phát triển và sự phát triển kinh tế
GVHD: ThS Nguyễn Mai Hân

6

SVTH: Lê Thị Hồng Thắm


Một số lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại
Việt Nam
của những nước này bởi những thỏa thuận hay dàn xếp chính thức, phi chính thức, bằng
văn bản hay không bằng văn bản giữa các doanh nghiệp có cùng lợi thế thị trường”.
Qua các khái niệm trên cho ta thấy hành vi hạn chế cạnh tranh bao gồm:
 Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc hoặc theo chiều ngang;
 Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường nhằm hạn chế cạnh tranh của doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường như định giá độc quyền, phân biệt đối xử
giữa các khách hàng …
 Tập trung kinh tế để tạo thành vị trí thống lĩnh thị trường như tích tụ dọc, tích tụ
ngang và hình thành tập đoàn.

Theo khoản 3, Điều 3 của Luật cạnh tranh Việt Nam thì “hành vi gây hạn chế cạnh
tranh là hành vi làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường”. Các hành vi này
làm cho tình trạng cạnh tranh bị biến dạng, cạnh tranh bị yếu đi hoặc không còn tồn tại
cạnh tranh nữa. Ban soạn thảo Luật cạnh tranh Việt Nam cũng dựa theo khuôn mẫu của
Bộ quy tắc mẫu về cạnh tranh của Liên hợp quốc để quy định các hành vi hạn chế cạnh
tranh trong chương II Luật cạnh tranh “Kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh”, đây là
một điểm học hỏi tích cực.
Các hành vi đó bao gồm:
 Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh;
 Tập trung kinh tế;
 Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và vị trí độc quyền.
Trong phạm vi của luận văn tốt nghiệp này thì vấn đề trọng tâm nghiên cứu là hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường nhằm hạn chế cạnh tranh.
1.3 KHÁI NIỆM VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG
Đây là một khái niệm mới và khó có thể định nghĩa một cách chính xác. Một doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường là doanh nghiệp bằng khả năng có những hành vi
chi phối thị trường về giá cả hay có khả năng tác động đến giá.
Vị trí thống lĩnh thị trường được hiểu là khả năng kiểm soát thực tế hoặc tiềm năng
đối với thị trường của một hay một nhóm doanh nghiệp. Sự kiểm soát có thể căn cứ trên
cơ sở: thị phần, doanh thu hàng năm, quy mô tài sản, nhân viên…, ngoài ra nó còn được
GVHD: ThS Nguyễn Mai Hân

7

SVTH: Lê Thị Hồng Thắm


Một số lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại
Việt Nam
căn cứ vào khả năng của công ty trong việc tăng (hoặc giảm) giá trên (hoặc dưới) mức

cạnh tranh trên thị trường trong một giai đoạn nhất định. Vị trí thống lĩnh thị trường được
hiểu là vị trí không chỉ một doanh nghiệp, mà còn có thể là của một nhóm doanh nghiệp
cùng phối hợp hành động3. Doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường có xu hướng hạn
chế cạnh tranh, vì thế Luật cạnh tranh ở các nước đều có những quy định kiểm soát
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường một cách chặt chẽ.
Đối với trường hợp một nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, pháp luật
muốn tập trung vào cơ cấu thị trường có độ tập trung cao trong cạnh tranh như hình thức
độc quyền nhóm. Xác định vị trí thống lĩnh thị trường có ý nghĩa rất lớn đối với việc xác
định hành vi lạm dụng. Một hành vi áp đặt giá quá thấp hoặc quá cao có thể chỉ là hành
vi của doanh nghiệp bình thường. Tuy nhiên, khi nó được thực hiện bởi một doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thì hành vi ấy không còn bình thường nữa và nó có
khả năng đe dọa đến cơ cấu và trật tự cạnh tranh trên thương trường.
Pháp luật cạnh tranh các nước cũng có quy định tương đối gần nhau về các tiêu chí
xác định một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Các tiêu chí này có thể xác
định bằng thị phần; năng lực tài chính, khả năng thâm nhập vào thị trường mà doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường đang tồn tại; khả năng của doanh nghiệp đó về việc
chi phối hoạt động tại khu vực thị trường…
Pháp luật của Mỹ, Châu Âu và một số nước như Anh, Thụy Điển và hầu hết các nước
đều sử dụng mức thị phần là căn cứ chủ yếu để đánh giá quyền lực thị trường của doanh
nghiệp. Ta có thể tìm thấy các quy định xác định vị trí thống lĩnh thị trường trên cơ sở thị
phần trong pháp luật của Anh, theo đó vị trí thống lĩnh thị trường của một công ty được
xác lập khi công ty đó mua hoặc bán 25% trở lên của một loại hàng hóa, dịch vụ trong
nước hoặc trên một khu vực thị trường nhất định, độc quyền nhóm xuất hiện khi các công
ty chiếm 25% thị phần cùng hành động làm ảnh hưởng đến cạnh tranh. Tại Balan, một
công ty có vị trí thống lĩnh thị trường khi thị phần của nó vượt quá 40%. Luật Cộng Hòa
Séc và Bồ Đào Nha xác định mức thị phần là 30% là có vị trí thống lĩnh thị trường4.
Bằng phương pháp định lượng, thông qua các án lệ Tòa án Mỹ thông thường coi một
chủ thể có ưu thế trên thị trường nếu chi phối hơn 40% thị phần, hay nhóm chủ thể chi

3


Ts Đặng Vũ Huân, Pháp luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, Nxb
chính trị quốc gia, 2004, trang 125.
4
Hoàng Xuân Bắc, Bình luận luật mẫu về cạnh tranh, bản dịch Tiếng Việt, Bộ thương mại, 2002.

GVHD: ThS Nguyễn Mai Hân

8

SVTH: Lê Thị Hồng Thắm


Một số lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại
Việt Nam
phối hơn 70% thị phần. Chính vì tỷ lệ % này mà việc xác định cho được thị trường là vấn
đề quan trọng.
Còn ở pháp luật Châu Âu không đưa ra tiêu chí định lượng cụ thể mà thông qua các
án lệ mới tổng hợp lại rằng một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường là chiếm
khoảng 40% - 50% thị phần trở lên. Luật cạnh tranh Thụy Điển quy định phạm vi chiếm
thị phần là 35% thì bị coi là có vị trí thống lĩnh thị trường.
Luật cạnh tranh của Việt Nam cũng lấy tiêu chí là thị phần để quy định một doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Theo Điều 3 khoản 5 của Luật cạnh tranh có định
nghĩa: “Thị phần” của doanh nghiệp đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định là tỷ lệ
phần trăm giữa doanh thu bán ra của doanh nghiệp này với tổng doanh thu của tất cả các
doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường liên quan hoặc tỉ lệ
phần trăm giữa doanh số mua vào của doanh nghiệp này với tổng doanh số mua vào của
tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ trên thị trường liên quan theo
tháng, quý, năm”.
Việc lấy tiêu chí thị phần để đánh giá một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp

trong Luật cạnh tranh Việt Nam là điều hợp lý và phù hợp với xu hướng pháp luật thế
giới. Theo đó, pháp luật Việt Nam quy định “Nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí
thống lĩnh thị trường nếu cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh và thuộc một
trong các trường hợp sau:
a. Hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan;
b. Ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên trên thị trường liên quan;
c. Bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên trên thị trường liên quan”5.
Dựa vào tỷ lệ thị phần là một trong những căn cứ quan trọng để quy định doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường trên thị trường liên quan và căn cứ vào đó Nhà nước
mới có một tiêu chí cụ thể để điều tra các doanh nghiệp trên thị trường. Tuy các quốc gia
trên thế giới đều lấy tiêu chí thị phần là căn cứ quan trọng để đánh giá doanh nghiệp có vị
trí thống lĩnh thị trường nhưng ở các quốc gia khác nhau thì việc xác định mức thị phần
làm căn cứ kết luận vị trí thống lĩnh không giống nhau. Với kinh nghiệm lập pháp và tình
hình thực tế của quy mô kinh doanh, quy mô cạnh tranh chủ yếu trên thị trường của mỗi
nước mà mức thị phần khác nhau và mức thị phần mà pháp luật xác định cho một doanh
5

Khoản 2, Điều 11, Luật cạnh tranh 2004 số 27/2004/QH11 được ban hành ngày 03/12/2004.

GVHD: ThS Nguyễn Mai Hân

9

SVTH: Lê Thị Hồng Thắm


Một số lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại
Việt Nam
nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường là khác nhau. Ví dụ
pháp luật Latvia xác định vị trí thống lĩnh của một doanh nghiệp là khi thị phần của

doanh nghiệp đó chiếm 40%, còn vị trí thống lĩnh của 3 doanh nghiệp được xác định là
70%.
Trong khoản 1 Điều 11 của Luật cạnh tranh Việt Nam có nêu: “Doanh nghiệp được
coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên
quan hoặc có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể”.
Luật cạnh tranh Việt Nam cũng lấy tiêu chí chủ yếu là thị phần để quy định một
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, đây là một tiêu chí phù hợp với pháp luật
trên thế giới.
Về tỷ lệ thị phần để xem xét vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp thì các nhà
làm luật đã phải nghiên cứu rất kỹ vì như trên đã đề cập thì tùy theo quy mô kinh doanh,
quy mô cạnh tranh chủ yếu trên thị trường của mỗi nước mà mức thị phần khác nhau và
mức thị phần mà pháp luật xác định cho một doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp
có vị trí thống lĩnh thị trường là khác nhau thế nên tỷ lệ thị phần là 30% là hợp lý vì ở
nước ta doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm đến 96% tổng số các doanh nghiệp. Các doanh
nghiệp này có số vốn dưới 10 tỷ đồng Việt Nam hoặc số lao động dưới 300 người6. Và
nền kinh tế ở Việt Nam là nền kinh tế còn ở trình độ thấp do đó một doanh nghiệp có
được thị phần 30% trở lên là không nhiều nếu quy định doanh nghiệp có thị phần là 40%
hoặc 50% là quá cao so với nền kinh tế Việt Nam. Đơn cử một trường hợp điển hình là
Công ty kinh doanh dược phẩm Zuellig Pharma mới chỉ chiếm 26% thị phần mà đã gây
lũng đoạn thị trường thuốc tân dược7, điều đó cho thấy thị phần 30% là rất lớn.
Yếu tố thị phần là chủ yếu nhưng không phải là tất cả vì pháp luật Mỹ và Châu Âu
còn xem xét các yếu tố khác để chứng minh vị trí thống lĩnh thị trường:
 Dựa vào vị thế cạnh tranh, thể hiện ở tương quan so sánh về thị phần giữa chủ thể
đang xem xét và các đối thủ cạnh tranh của nó;
 Dựa vào sự vượt trội về các nguồn lực cho sản xuất, quy mô và năng lực kinh
doanh;

6

Báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Cạnh Tranh trình Quốc hội thông qua, Hà Nội ngày 13-10-2004,

số 265/UBTVQH.
7
Phạm Trần, Việt Nam: Vụ án Tuổi Trẻ - Lan Anh,
/>
GVHD: ThS Nguyễn Mai Hân

10

SVTH: Lê Thị Hồng Thắm


Một số lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại
Việt Nam
 Dựa vào sự vượt trội về kỹ thuật và các sở hữu các giải pháp kỹ thuật, quyền sở
hữu trí tuệ.
Luật cạnh tranh Việt Nam cũng có quy định tương tự: bên cạnh lấy yếu tố thị phần để
quy định doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường thì theo khoản 1 Điều 11 Luật cạnh
tranh còn đề cập đến “Doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường có khả năng gây hạn
chế cạnh tranh một cách đánh kể”. Theo quy định này doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh
thị trường có mức thị phần dưới 30% nhưng lại có khả năng hạn chế cạnh tranh đáng kể
như khống chế giá, định đoạt giá để lũng đoạn thị trường như trường hợp công ty kinh
doanh dược phẩm có 26% thị phần như trên. Vì thế theo Luật cạnh tranh không phải thị
phần là yếu tố duy nhất để kết luận vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp. Theo
pháp luật Việt Nam thì khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể của doanh
nghiệp trên thị trường liên quan được xác định dựa vào một hoặc một số căn cứ chủ yếu
sau đây:8
 Năng lực tài chính của doanh nghiệp;
 Năng lực tài chính của tổ chức kinh tế, cá nhân thành lập doanh nghiệp;
 Năng lực tài chính của tổ chức, cá nhân có quyền kiểm soát hoặc chi phối hoạt
động của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ của doanh

nghiệp;
 Năng lực tài chính của công ty mẹ;
 Quyền sở hữu, quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp;
 Quy mô của mạng lưới phân phối.
1.4 KHÁI QUÁT VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ
TRƯỜNG ĐỂ HẠN CHẾ CẠNH TRANH
1.4.1 Khái niệm
Luật cạnh tranh năm 2004 (sau đây gọi tắt là luật cạnh tranh) không định nghĩa như
thế nào là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh, mà chỉ đưa
ra khái niệm chung về hành vi hạn chế cạnh tranh. Cụ thể, khoản 3 Điều 3 Luật cạnh
tranh quy định “hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai
lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường, bao gồm hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh,
8

Điều 22, Nghị định của chính phủ số 116/2005/NĐ – CP ngày 15 tháng 9 năm 2005 quy định chi tiết thi hành một
số điều của Luật cạnh tranh.

GVHD: ThS Nguyễn Mai Hân

11

SVTH: Lê Thị Hồng Thắm


Một số lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại
Việt Nam
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế”.
Như vậy, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là một trong ba hành vi cụ thể của
hành vi hạn chế cạnh tranh. Để cụ thể hóa hành vi này, Điều 13 Luật cạnh tranh đã liệt kê
các hành vi mà các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường không được thực hiện,

bao gồm: “bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ
cạnh tranh; áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý hoặc ấn định giá bán lại
tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng; hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ,
giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách
hàng; áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình
đẳng trong cạnh tranh; áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán
hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan
trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng; ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối
thủ cạnh tranh mới”.
Như vậy chủ thể thực hiện hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế
cạnh tranh là các doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Các
doanh nghiệp này đã thực hiện những hành vi vi phạm mà Điều 13 Luật cạnh tranh đã liệt
kê gây giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường. Cũng cần phải lưu ý là pháp luật
cạnh tranh cũng nghiêm cấm các doanh nghiệp có vị trí độc quyền thực hiện các hành vi
được quy định tại Điều 13 Luật cạnh tranh. Vì vậy, khi có doanh nghiệp thực hiện các
hành vi trên, người tiến hành điều tra cần xác định rõ vị trí của doanh nghiệp để kết luận
doanh nghiệp thực hiện hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị cấm hay hành vi
lạm dụng vị trí độc quyền bị cấm. Từ đó, có thể khái quát “hành vi lạm dụng để hạn chế
cạnh tranh là những hành vi được quy định trong Luật cạnh tranh do doanh nghiệp hoặc
nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền trên thị trường liên quan thực
hiện làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường”9. Về vấn đề này, luật cạnh
tranh của các nước có hai cách tiếp cận khác nhau:
-

Cách tiếp cận thứ nhất, quy định tương tự như Luật cạnh tranh Việt Nam, chẳng
hạn, Điều 79 Luật cạnh tranh Canađa quy định ba dấu hiệu của hành vi lạm dụng
vị trí thống lĩnh là: “một hoặc một nhóm doanh nghiệp kiểm soát thị trường liên
quan; thực hiện hành vi phản cạnh tranh được quy định trong luật cạnh tranh; hành

9


PGS-TS Nguyễn Như Phát, ThS Nguyễn Ngọc Sơn, phân tích và luận giải các quy định của Luật Cạnh tranh về
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006,
trang 9.

GVHD: ThS Nguyễn Mai Hân

12

SVTH: Lê Thị Hồng Thắm


Một số lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại
Việt Nam
vi đó đã, đang hoặc có thể làm cản trở, làm giảm cạnh tranh trên thị trường một
cách đáng kể”10. Hoặc theo khoản 8 Điều 2 Luật thương mại Hàn Quốc quy định:
“hành vi gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể là hành vi gây ảnh hưởng hoặc
được coi là gây ảnh hưởng tới giá cả, khối lượng, chất lượng và các điều kiện nhất
định hay hiệp hội thương mại nhất định và kết quả là làm giảm cạnh tranh trên một
thị trường thương mại nhất định”.
-

Cách tiếp cận thứ hai, có quy định khác so với Luật cạnh tranh Việt Nam, như
theo quy định của “Bộ quy tắc về cạnh tranh của Liên hợp quốc được thông qua
ngày 22 tháng 4 năm 1980 và Luật mẫu về cạnh tranh của Tổ chức hợp tác và phát
triển Liên hợp quốc định nghĩa hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để
hạn chế cạnh tranh là hành vi mà doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường sử
dụng để duy trì tăng cường vị trí của nó trên thị trường bằng cách hạn chế khả
năng gia nhập thị trường hoặc hạn chế quá mức cạnh tranh”11.


So với cách tiếp cận thứ nhất, việc xác định hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường để hạn chế cạnh tranh của Bộ quy tắc về cạnh tranh của Liên hợp quốc và Luật
mẫu về cạnh tranh dễ dàng hơn, bởi lẽ để chứng minh một doanh nghiệp thực hiện hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh theo cách tiếp cận thứ nhất
cần phải chứng minh được doanh nghiệp gây hậu quả (hoặc có khả năng) làm giảm, sai
lệch, cản trở cạnh tranh. Tuy nhiên, việc xác định mức độ giảm, sai lệch, cản trở cạnh
tranh là không hề đơn giản do khó có một đại lượng khách quan nào có thể cân, đo, đong
đếm được mức độ ganh đua trên thị trường thực tế. Ngược lại, theo cách tiếp cận thứ hai,
việc xác định khả năng duy trì, củng cố vị trí của doanh nghiệp sẽ đơn giản hơn do các
nhà điều tra có thể sử dụng các số liệu về thị phần của các doanh nghiệp, các thông số
kinh tế, kỹ thuật trên thị trường liên quan… để đưa ra kết luận.
1.4.2 Đặc điểm của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh
tranh
Thứ nhất, chủ thể tiến hành hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế
cạnh tranh là doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường.
Pháp luật cạnh tranh nói chung không nghiêm cấm việc hình thành doanh nghiệp có vị trí
10

Cơ quan phát triển quốc tế Canađa, Bộ thương mại Việt Nam, Luật Cạnh tranh Canađa và bình luận Bản dịch
của Vụ pháp chế, Bộ Thương mại, 2004.
11
PGS-TS Nguyễn Như Phát, ThS Nguyễn Ngọc Sơn, Phân tích và luận giải các quy định của Luật Cạnh tranh về
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006,
trang 10.

GVHD: ThS Nguyễn Mai Hân

13

SVTH: Lê Thị Hồng Thắm



Một số lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại
Việt Nam
thống lĩnh thị trường mà chỉ hướng đến việc xóa bỏ hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường để hạn chế cạnh tranh. Một doanh nghiệp có thể đạt vị trí thống lĩnh thị trường do
“hình thành từ sự tích tụ trong quá trình cạnh tranh; từ những điều kiện tự nhiên của thị
trường như: yêu cầu về quy mô hiệu quả tối thiểu, sự biến dị của sản phẩm, sự tồn tại của
các rào cản gia nhập thị trường; hoặc sự bảo hộ quyền lực nhà nước…”. Trong trường
hợp này, vị trí thống lĩnh thị trường là hợp pháp và được pháp luật bảo hộ. Thậm chí còn
có nhiều quan điểm khuyến khích doanh nghiệp tạo lập vị trí thống lĩnh thị trường, như
theo quan điểm của thạc sĩ Nguyễn Văn Chương thì đó là tiền đề cho cơ chế “hiệu quả
kinh tế quy mô”. Tuy nhiên, vị trí thống lĩnh thị trường sẽ đem lại cho doanh nghiệp
quyền lực thị trường, theo đó “quyền lực thị trường là khả năng của một doanh nghiệp
hoặc một nhóm doanh nghiệp trong việc tác động đến giá cả thị trường của một loại hàng
hóa hoặc dịch vụ mà họ bán hoặc mua”. Do đó, doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trường sẽ có nhiều lợi thế hơn về khả năng kiểm soát nguồn nguyên liệu, giá cả, số
lượng, chất lượng… khi ganh đua với các doanh nghiệp khác trên thị trường liên quan và
mặt khác, cũng có khả năng chi phối các quan hệ với khách hàng của doanh nghiệp. Từ
đó, doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường có khả năng gây hạn chế cạnh tranh và
gây thiệt hại không những cho các doanh nghiệp khác mà còn cho khách hàng của các
doanh nghiệp. Chính vì nguyên nhân này, Luật cạnh tranh đã cấm các doanh nghiệp có vị
trí thống lĩnh thị trường thực hiện các hành vi nhằm hạn chế cạnh tranh.
Thứ hai, các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh là
những hành vi mà Luật cạnh tranh liệt kê. Như đã phân tích ở trên, Luật cạnh tranh
không quy định rõ khái niệm hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế
cạnh tranh, do đó, các nhà làm luật đã cố gắng liệt kê các hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường cụ thể để ngăn chặn hành vi trên. Như vậy, chỉ khi nào một doanh nghiệp
có vị trí thống lĩnh thị trường thực hiện hành vi quy định tại Điều 13 Luật cạnh tranh, tức
là chứng minh hành vi của doanh nghiệp có đầy đủ các dấu hiệu của hành vi cụ thể được

quy định.
Thứ ba, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh là sự áp
đặt của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường lên các doanh nghiệp đối thủ hoặc
khách hàng của doanh nghiệp. Đây là dấu hiệu để phân biệt hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh và hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Trong
kinh tế học, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được nhìn nhận là sự thống nhất hành động
của nhiều doanh nghiệp nhằm giảm bớt hoặc loại bỏ sức ép của cạnh tranh hoặc hạn chế
GVHD: ThS Nguyễn Mai Hân

14

SVTH: Lê Thị Hồng Thắm


Một số lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại
Việt Nam
khả năng hành động một cách độc lập giữa các đối thủ cạnh tranh. Như vậy, thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh chỉ xảy ra giữa các doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh của nhau. Hình
thức của thỏa thuận là sự thống nhất cùng hành động của các doanh nghiệp. Nói cách
khác, các doanh nghiệp đã tự nguyện thỏa thuận với nhau để áp dụng một tiêu chuẩn
thống nhất về giá, điều kiện và nội dung kí kết hợp đồng, kỹ thuật công nghệ… Trong khi
đó, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là sự áp đặt của doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh thị trường lên khách hàng và các đối thủ cạnh tranh. Như vậy, trong mối quan
hệ với doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, khách hàng và doanh nghiệp không
thể tự do thoả thuận mà bị bắt buộc phải thực hiện các hành vi theo yêu cầu của doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Nói cách khác, trong biểu hiện của hành vi này sẽ
thiếu đi yếu tố tự nguyện, sự tự do ý chí của các khách hàng và doanh nghiệp đối thủ
cạnh của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường.
Thứ tư, hậu quả của hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trường là làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường. Việc xác định tác hại

của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là một bước rất quan trọng để chống lại
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, các nhà hoạch định chính sách cạnh tranh
của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (viết tắt là OEDC) đã chỉ rõ: “chỉ có thể chống
lại sự lạm dụng quyền lực thị trường thành công khi pháp luật và người thi hành nó xác
định được những hành vi cụ thể có thể gây hại cạnh tranh và đánh giá tác động toàn diện
của chúng trên thị trường liên quan”. Luật cạnh tranh Việt Nam cũng có cách tiếp cận
tương tự khi liệt kê cụ thể những hành vi vi phạm và chỉ rõ hậu quả của hành vi lạm dụng
vị trí thống lĩnh để hạn chế cạnh tranh là làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị
trường. Tuy nhiên, để có thể đánh giá tác động toàn diện của các hành vi vi phạm trên thị
trường là rất khó khăn khi Luật cạnh tranh Việt Nam đã không giải thích thế nào là giảm,
sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường và cũng không quy định các căn cứ để xác
định mức độ tác động của các hành vi. Trong quá trình xây dựng Luật cạnh tranh, các nhà
làm luật Việt Nam cũng rất mong muốn quy định các căn cứ cụ thể xác định mức độ thiệt
hại gây ra, tuy nhiên, điều này là vô cùng nan giải vì:
 Hành vi hạn chế cạnh tranh bao gồm ba nhóm hành vi cụ thể là thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn chế
cạnh tranh và tập trung kinh tế, do đó khó có thể quy định một khái niệm chứa
đựng những căn cứ cho từng hành vi.

GVHD: ThS Nguyễn Mai Hân

15

SVTH: Lê Thị Hồng Thắm


Một số lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại
Việt Nam
 Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường được liệt kê rất đa dạng, bao gồm
sáu hành vi cụ thể được quy định tại Điều 13 Luật cạnh tranh, mỗi hành vi cụ

thể xâm hại một đối tượng khác nhau và tác hại của nó gây ra trên thực tế cũng
rất khác nhau, do đó việc xây dựng các căn cứ xác định mức độ tác hại của mọi
hành vi là điều không thể.
Vì thế, để xác định mức độ thiệt hại của các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường cả về góc độ lý thuyết đối với nhà nghiên cứu và trong công tác thực thi pháp luật
đối với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền họ đều phải dựa vào việc phân tích từng hành
vi vi phạm.
1.5

SỰ CẦN THIẾT PHẢI CÓ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH
HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG

Đã có một giai đoạn, nguyên tắc tự do trong kinh doanh được xem trọng tuyệt đối.
Lúc này, Nhà nước – chủ thể nắm trong tay quyền lực xã hội – cũng không thể tác động
đến cạnh tranh, bởi vì “thị trường tự do tồn tại khi không có sự can thiệp của Chính phủ
và tại đó các tác nhân cung cầu được phép hoạt động tự do”12. Theo nhà kinh tế học
người Anh – Adam Smith (1723-1790) thì đã tồn tại một “Bàn tay vô hình” điều tiết các
quan hệ thị trường. Lúc này, khả năng, hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp sẽ
quyết định thành bại của chính mình. “Bàn tay vô hình” của thị trường sẽ tước đi các
nguồn lực kinh tế từ những doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu quả và chuyển những
nguồn lực này cho các doanh nghiệp có khả năng hơn. Vì vậy, công quyền không cần
phải can thiệp sâu vào đời sống thị trường13. Tuy nhiên, cùng với thời gian, “Bàn tay vô
hình” dường như trở nên bất lực với những toan tính ngày càng tinh vi hơn của con
người.
Trong thực tiễn, các doanh nghiệp khi tham gia vào thị trường đã tiến hành nhiều
cách khác nhau để tối đa hóa lợi nhuận thu được. Một số doanh nghiệp có chiến lược
nâng cao khả năng kinh doanh một cách chính đáng, đi lên bằng chính khả năng của
doanh nghiệp mình. Các doanh nghiệp này không ngừng sáng tạo những thủ pháp cạnh
tranh, đầu tư phát triển khoa học, kỹ thuật, nâng cao công nghệ, trình độ quản lý, sản xuất
kinh doanh, quản lý lao động để nâng cao năng suất, hạ giá thành sản phẩm. Từ đó, đáp

ứng nhiều hơn nhu cầu của khách hàng, thu hút khách hàng sử dụng sản phẩm của doanh
12
13

Daid W. Pearce, Từ điển kinh tế học hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, trang 397.
Daid W. Pearce, Từ điển kinh tế học hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, trang 952.

GVHD: ThS Nguyễn Mai Hân

16

SVTH: Lê Thị Hồng Thắm


Một số lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại
Việt Nam
nghiệp mình.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, các doanh
nghiệp còn lại tiến hành những hành vi không lành mạnh bao gồm hành vi cạnh tranh
không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh tranh để giảm sức cạnh tranh, gây thiệt hại cho
các doanh nghiệp đối thủ, cho khách hàng và cho toàn bộ nền kinh tế. So với hành vi
cạnh tranh không lành mạnh, hành vi hạn chế cạnh tranh gây ra những tác hại to lớn hơn,
bởi vì nếu như hành vi cạnh tranh không lành mạnh chỉ gây ra những thiệt hại cho doanh
nghiệp đối thủ và cho khách hàng, thì hành vi hạn chế cạnh tranh của doanh nghiệp lại có
thể gây ảnh hưởng đến toàn bộ cấu trúc thị trường, tác động đến nền kinh tế, cản trở sự
phát triển của toàn xã hội, ảnh hưởng đến nền văn minh của nhân loại. Trong trường hợp
này, “Bàn tay vô hình” không thể tác động đến những doanh nghiệp có những hành vi
toan tính không lành mạnh. Vì vậy, Nhà nước – chủ thể thực thi công quyền – phải đứng
ra thực hiện các biện pháp để bảo vệ sự lành mạnh của cạnh tranh. Trong các biện pháp
được Nhà nước thực hiện thì pháp luật là biện pháp quan trọng và hiệu quả nhất để Nhà

nước tác động đến hành vi phản cạnh tranh nói chung và hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh nói riêng vì những lí do sau:
 Thứ nhất, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trước hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường để hạn chế cạnh tranh. Như đã phân tích, khi một doanh nghiệp đạt được
vị trí thống lĩnh thị trường, doanh nghiệp này sẽ tồn tại một quyền lực thị trường
khiến người tiêu dùng không được lựa chọn sử dụng các sản phẩm của các doanh
nghiệp khác, thậm chí khi ký kết các hợp đồng với các doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh thị trường, người tiêu dùng còn phải chịu những điều kiện bất hợp lý. Lúc này,
sự ra đời của pháp luật sẽ giúp người tiêu dùng tránh được những tác động do các
hành vi của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường vì pháp luật sẽ bảo vệ người
tiêu dùng trước những hợp đồng không trung thực và không công bằng theo hướng
phải sửa đổi lại các điều khoản không công bằng, đồng thời, quy định những trách
nhiệm đối với những quy phạm có thể đe dọa đến người tiêu dùng14.
 Thứ hai, nhờ có pháp luật, các doanh nghiệp sẽ được bảo vệ trước những hành vi
của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Sự ra đời của pháp luật sẽ lập lại
trật tự thị trường, giúp các doanh nghiệp giải phóng khỏi sự bất bình đẳng khi có
doanh nghiệp đạt được vị trí thống lĩnh thị trường. Hơn nữa, những chế tài của pháp

14

TS Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, Ths Nguyễn Ngọc Sơn, Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam, Nxb Tư pháp,
Hà Nội, 2006, trang 84-85.

GVHD: ThS Nguyễn Mai Hân

17

SVTH: Lê Thị Hồng Thắm



Một số lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại
Việt Nam
luật sẽ làm cho doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường phải dè dặt hơn khi thực
hiện những hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp.
 Thứ ba, pháp luật bảo vệ toàn bộ nền kinh tế, tạo nên một môi trường kinh doanh và
cạnh tranh bình đẳng tự do thông qua các quy định về tự do kinh doanh và quyền
được tồn tại bình đẳng của các doanh nghiệp. Với tư cách là một lĩnh vực đặc thù
của nền kinh tế thị trường, pháp luật tác động đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường để hạn chế cạnh tranh của doanh nghiệp, thông qua đó “pháp luật cạnh
tranh bảo vệ quyền tự do kinh doanh của các thành viên thị trường, bảo vệ môi
trường cạnh tranh, bảo vệ sự lành mạnh của nền kinh tế”15.
 Thứ tư, hoàn thiện hệ thống pháp luật về cạnh tranh sẽ giúp Việt Nam nhanh chóng
mở rộng thị trường và đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và bảo vệ nền kinh
tế thị trường quốc gia.
 Thứ năm, khuyến khích doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, bằng con
đường cạnh tranh lành mạnh. Thực hiện các biện pháp ngăn chặn các hậu quả tiêu
cực do hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường gây ra. Góp phần bảo đảm sự ổn
định và phát triển của nền kinh tế thị trường.

15

TS Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, Ths Nguyễn Ngọc Sơn, Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam, Nxb Tư pháp,
Hà Nội, 2006, trang 79.

GVHD: ThS Nguyễn Mai Hân

18

SVTH: Lê Thị Hồng Thắm



Một số lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại
Việt Nam

CHƯƠNG 2
NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ
THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG ĐỂ HẠN CHẾ CẠNH TRANH
2.1 BÁN HÀNG HÓA, CUNG ỨNG DỊCH VỤ DƯỚI GIÁ THÀNH TOÀN BỘ
NHẰM LOẠI BỎ ĐỐI THỦ CẠNH TRANH
2.1.1 Khái niệm
Trong tình trạng xã hội đang bị lạm phát như hiện nay thì đối với nhiều người tiêu
dùng chất lượng sản phẩm không phải là điều quan trọng nhất mà giá cả mới là vấn đề ưu
tiên hàng đầu. Do đó, các doanh nghiệp luôn cố gắng hạ giá thành sản phẩm để thu hút
khách hàng. Trong đó, có nhiều doanh nghiệp đã sử dụng những hành vi không lành
mạnh trong cuộc cạnh tranh về giá bằng cách sử dụng giá cả như một công cụ để tiêu diệt
đối thủ. Hành vi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ để loại bỏ đối
thủ cạnh tranh là một trong những hành vi không lành mạnh ấy. Cụ thể, “doanh nghiệp có
GVHD: ThS Nguyễn Mai Hân

19

SVTH: Lê Thị Hồng Thắm


Một số lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại
Việt Nam
vị trí thống lĩnh thị trường đã chấp nhận lỗ khi bán hàng hóa dưới giá thành toàn bộ để
loại bỏ đối thủ cạnh tranh ra khỏi thị trường”16. Khi doanh nghiệp thực hiện hành vi này,
các doanh nghiệp khác cũng không thể bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ với mức giá cũ.
Như vậy, “doanh nghiệp đã tạo ra một môi trường cạnh tranh về khả năng chịu lỗ”17. Với

khả năng tài chính vượt trội, doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường sẽ có khả năng
chịu đựng bền bĩ hơn và tồn tại. Trong khi đó, các doanh nghiệp khác khi không còn khả
năng chịu đựng sẽ phải chấp nhận từ bỏ thị trường.
Khoản 1 Điều 23 Nghị định 163/2005/NĐ-CP quy định hành vi bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh là việc bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ với mức giá thấp hơn tổng các chi phí cấu thành giá thành sản xuất
hàng hóa, dịch vụ và chi phí lưu thông hàng hóa, dịch vụ.
2.1.2

Hành vi vi phạm

Để xác định hành vi vi phạm trước hết cơ quan điều tra cần xác định thế nào là giá
thành sản xuất. Theo quy định của Điều 24 Nghị định 116/2005/NĐ-CP giá thành sản
xuất bao gồm các chi phí vật tư trực tiếp (chi phí nguyên liệu, vật liệu, nhiên liệu…), chi
phí nhân công trực tiếp (các khoản trả cho người lao động trực tiếp sản xuất như tiền
lương, tiền công…), chi phí sản xuất chung (chi phí chung phát sinh ở các phân xưởng,
bộ phận kinh doanh của doanh nghiệp như tiền lương, phụ cấp…) và theo quy định tại
Điều 25 Nghị định 116/2005/NĐ-CP, chi phí lưu thông hàng hóa, dịch vụ bao gồm các
chi phí phát sinh trong quá trình tiêu thụ hàng hóa, cung ứng dịch vụ như tiền lương, chi
phí tiếp thị, chi phí đóng gói, chi phí vận chuyển… Nếu hiệu số giữa giá bán thực tế hàng
hóa, cung ứng dịch vụ và giá thành toàn bộ của hàng hóa, dịch vụ là một số âm thì có thể
kết luận có hành vi vi phạm mà không cần điều tra về hậu quả thực tế của hành vi gây ra
cho thị trường. Như vậy theo pháp luật Việt Nam, khi xác định hành vi này, cơ quan điều
tra sẽ “suy đoán và quy kết dựa vào hiện tượng giá bán bị hạ thấp một cách bất bình
thường”18. Trong khi đó, pháp luật cạnh tranh của nhiều nước lại quy định khác với Việt
Nam. Chẳng hạn, ở Ấn Độ, Hoa Kì, Canađa khi xác định hành vi vi phạm, cơ quan điều
16

PGS-TS Nguyễn Như Phát, ThS Nguyễn Ngọc Sơn, Phân tích và luận giải các quy định của Luật Cạnh tranh về
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006,

trang 389.
17
TS Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, ThS Nguyễn Ngọc Sơn, Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam, Nxb Tư pháp,
Hà Nội, 2006, trang 390.
18
PGS-TS Nguyễn Như Phát, ThS Nguyễn Ngọc Sơn, Phân tích và luận giải các quy định của Luật Cạnh tranh về
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006,
trang 78.

GVHD: ThS Nguyễn Mai Hân

20

SVTH: Lê Thị Hồng Thắm


Một số lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh tại
Việt Nam
tra cần phải chứng minh được ý định loại bỏ đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh thị trường19. Cụ thể, ở Canađa, Hoa Kì để xác định hành vi và mục đích loại
bỏ đối thủ của việc bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới chi phí toàn bộ, cơ quan có
thẩm quyền phải xác định liệu có tồn tại những điều kiện thị trường đủ để cho phép
doanh nghiệp bị điều tra có thể thu hồi lại những tổn thất do việc định giá thấp không và
mức giá bán có thấp một cách bất hợp lý so với chi phí hay không20. Trong khi đó, pháp
luật Việt Nam sử dụng phương pháp liệt kê những tình huống được coi là không vi phạm.
Cụ thể, khoản 2, khoản 3 Điều 23 Nghị định 116/2005/NĐ-CP quy định hành vi bán hàng
hóa dưới giá thành toàn bộ sẽ không được xem là loại bỏ đối thủ cạnh tranh nếu hạ giá
bán hàng hóa tươi sống; hạ giá bán hàng hóa tồn kho do chất lượng giảm, lạc hậu về hình
thức, không phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng; hạ giá bán hàng hóa theo mùa vụ; hạ
giá bán hàng hóa trong chương trình khuyến mại theo quy định của pháp luật… và có

niêm yết công khai, rõ ràng tại cửa hàng, nơi giao dịch về mức giá cũ, mức giá mới, thời
gian hạ giá. Như vậy, chỉ khi nào có những tình huống trên thì hành vi bán hàng hóa dưới
giá thành toàn bộ của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường mới không bị xem là vi
phạm. Thiết nghĩ, các nhà lập pháp Việt Nam cần phải học hỏi kinh nghiệm của Hoa kỳ,
Canađa khi xác định hành vi bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ. Bên
cạnh đó, khi xác định hành vi bán hàng hóa, dịch vụ dưới giá thành toàn bộ, cơ quan cạnh
tranh sẽ gặp rất nhiều khó khăn, bởi lẽ:
 Các thông số về chi phí phần lớn do doanh nghiệp cung cấp. Trong điều kiện các
tiêu chuẩn kế toán, kiểm toán ở Việt Nam chưa được tôn trọng và minh bạch như
hiện nay sẽ dẫn đến kết quả điều tra có thể sẽ không chính xác;
 Việc xác định các chi phí của loại hình dịch vụ là rất khó khăn do tính chất vô
hình của dịch vụ. Việc xác định các bộ phận cấu thành của chi phí dịch vụ và quy
định một tiêu chuẩn cụ thể để xác định chi phí cho loại hình này là vô cùng nan
giải;

19

PGS-TS Nguyễn Như Phát, ThS Nguyễn Ngọc Sơn, Phân tích và luận giải các quy định của Luật Cạnh tranh về
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006,
trang 79.
20
PGS-TS Nguyễn Như Phát, ThS Nguyễn Ngọc Sơn, Phân tích và luận giải các quy định của Luật Cạnh tranh về
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006,
trang 79 -80.

GVHD: ThS Nguyễn Mai Hân

21

SVTH: Lê Thị Hồng Thắm



×