Tải bản đầy đủ (.pdf) (111 trang)

Pháp luật Việt Nam về thủ tục tố tụng của trọng tài thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.42 MB, 111 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT








VŨ THANH MINH




PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG
CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC















Hà Nội – 2011.



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




VŨ THANH MINH




PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG
CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI





Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 50



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Như Phát
Viện Nhà nước và Pháp luật

Hà nội – 2011


2
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Ý nghĩa của đề tài
Trọng tài thương mại là cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài tòa án thuận lợi
cho các bên, đặc biệt là các bên tham gia các hoạt động thương mại, đầu tư. Trong
giao dịch dân sự thường ngày, nhất là giao dịch kinh tế thương mại, việc phát sinh
tranh chấp là không thể tránh khỏi; và giải quyết nhanh chóng, hiệu quả, công bằng
các tranh chấp này sẽ góp phần thúc đẩy các hoạt động kinh tế, thương mại, đầu tư;
tạo sự yên tâm cho các bên ngay từ khi mới hình thành quan hệ và cả khi có phát
sinh tranh chấp.
Tuy nhiên trên thực tế, trọng tài tại Việt Nam rất ít được sử dụng để giải
quyết các tranh chấp đầu tư và thương mại; các hợp đồng với các bên nước ngoài
nhất là hợp đồng có trị giá lớn hầu như không lựa chọn trọng tài tại Việt Nam để
giải quyết tranh chấp. Các tranh chấp ở Việt nam hiện vẫn chủ yếu được giải quyết
thông qua hệ thống toà án hoặc trọng tài nước ngoài.
Nguyên nhân xuất phát từ việc hệ thống quy định hiện hành về trọng tài

thương mại vẫn còn những bất cập, làm cho hệ thống trọng tài chưa trở thành
phương thức hấp dẫn và hiệu quả để các bên lựa chọn giải quyết các tranh chấp liên
quan. Một trong những bất cập đó là thủ tục tố tụng trọng tài còn chưa phù hợp với
thực tiễn giải quyết tranh chấp, đặc biệt với các tranh chấp quốc tế và hình thức
trọng tài vụ việc. Chính vì vậy đã làm cho các bên e dè trong việc sử dụng trọng tài
để giải quyết tranh chấp; trọng tài chưa phải là phương thức giải quyết tranh chấp
hiệu quả và tin cậy so với toà án. Ngược lại, có khi lại gặp nhiều rủi ro, tốn kém và
có thể kéo dài hơn so với Tòa án. Do đó, thủ tục tố tụng trọng tài nhanh chóng, hiệu
quả, tiết kiệm chi phí là hết sức cần thiết.
Xuất phát từ lý do này, tác giả đã chọn vấn đề: “Pháp luật Việt Nam về thủ
tục tố tụng của trọng tài thương mại” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện đã có một số công trình nghiên cứu các vấn đề về trọng tài thương mại

3
với tư cách là bài bình luận, bài báo hoặc luận văn như: Về thẩm quyền của trọng tài
thương mại và những lưu ý trong hoạt động thụ lý các tranh chấp có thỏa thuận
trọng tài; Pháp luật trọng tài ở Việt Nam: Quá trình phát triển và vấn đề đặt ra; Sự
hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương mại v.v…Tuy
nhiên chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và thỏa đáng về thủ
tục tố tụng về trọng tài thương mại. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, Luật trọng tài
thương mại đã được Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ 7 ngày 17 tháng 6
năm 2010 thay thế cho Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 bị đánh giá là còn
nhiều điểm chưa hợp lý, chưa hấp dẫn các doanh nghiệp tìm đến con đường giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài, một phương thức tỏ ra có ưu thế hơn hẳn Tòa án
được thừa nhận ở hầu hết các nước trên thế giới. Trong đó, thủ tục tố tụng trọng tài
là một trong những vấn đề cần phải bàn tới nhiều nhất. Do vậy, tác giả đã mạnh dạn
nghiên cứu về vấn đề này, đồng thời so sánh với pháp luật của một số nước trên thế
giới để làm sáng tỏ sự khác biệt của tố tụng trọng tài so với tố tụng Tòa án và các
ưu điểm nổi bật của tố tụng trọng tài.

Tuy nhiên cho đến thời điểm Luận văn này được hoàn thành thì Luật Trọng
tài mới có hiệu lực được một thời gian ngắn. Do đó, phần thực trạng sẽ chỉ chủ yếu
trình bày tình hình thực tế quá trình thi hành Pháp lệnh Trọng tài trước đây. Để từ
đó rút ra những nhận xét, đánh giá và so sánh với những điểm mới trong Luật Trọng
tài để có phương hướng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng trọng tài tại Việt
Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn:
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là đưa đến cho người đọc một cái nhìn
khái quát về bản chất của trọng tài và để giải thích tại sao tố tụng trọng tài lại khác
biệt so với tố tụng Tòa án. Phân tích những quy định của pháp luật hiện hành về thủ
tục tố tụng trọng tài và so sánh với những quy định của pháp luật một số nước về
vấn đề này. Từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thủ tục tố tụng
trọng tài thương mại.
Với mục đích như trên nhiệm vụ của đề tài là:

(i) Nghiên cứu cơ sở lý luận về bản chất của trọng tài thương mại và thủ
tục tố tụng trọng tài thương mại.

4
(ii) Phân tích những quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục tố tụng
trọng tài thương mại.
(iii) Đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thủ tục tố tụng trọng
tài thương mại; giúp cho phương thức này phát huy đúng những ưu
việt của nó.

4. Phương pháp tiếp cận đề tài:
Để triển khai những nội dung cơ bản của luận văn, tác giả đã sử dụng các
phương pháp như:
(i) Phương pháp phân tích, tổng hợp được dùng để khái quát, đánh giá và
đưa ra nhận xét về các vấn đề pháp lý có liên quan đến thủ tục tố

trọng tài thương mại, sự khác nhau cơ bản giữa tố tụng trọng tài và tố
tụng Tòa án;
(ii) Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được dùng để mô
tả về quá trình phát triển của các vấn đề về trọng tài và thủ tục tố tụng
trọng tài tại Việt Nam;
(iii) Phương pháp so sánh được sử dụng để đối chiếu với pháp luật trọng
tài của một số nước trên thế giới, tìm ra điểm chung và điểm riêng của
pháp luật Việt Nam với pháp luật một số nước trong lĩnh vực này.

5. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và các phụ lục,
bản luận văn gồm 3 chương với kết cấu như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về trọng tài thương mại và thủ tục tố tụng của
trọng tài thương mại.
Chương 2. Các quy định pháp luật Việt Nam về thủ tục tố tụng của trọng tài thương
mại.
Chương 3. Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thủ tục tố tụng
của trọng tài thương mại.


5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
VÀ THỦ TỤC TỐ TỤNG CỦA TRỌNG TÀI
THƯƠNG MẠI

1.1 KHÁI QUÁT VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Hiện nay, trong khoa học pháp lý có nhiều cách định nghĩa về trọng tài do
các cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên có hai cách tiếp cận phổ biến nhất: (i) trọng
tài là phương thức giải quyết tranh chấp và (ii) trọng tài là cơ quan giải quyết tranh

chấp.
Dưới góc độ là một phương thức giải quyết tranh chấp, theo đại từ điển kinh
tế thị trường, trọng tài được hiểu là phương pháp giải quyết hòa bình các vụ tranh
chấp. Ở đó, chỉ đôi bên đương sự tự nguyện đem những sự việc, những vấn đề tranh
chấp giao cho người thứ ba có tư cách công bằng, chính trực xét xử, lời phán quyết
do người này đưa ra có hiệu lực ràng buộc với cả hai bên. Hoặc theo Hội đồng trọng
tài Mỹ AAA (American Arbitration Association), trọng tài là cách thức giải quyết
tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một hoặc một số người khách quan
xem xét giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên
tranh chấp phải thi hành.
Ở Việt Nam, trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp do
các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật trọng tài thương mại.
Dưới góc độ là cơ quan giải quyết tranh chấp, trọng tài bao gồm những cá
nhân được các bên lựa chọn để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các vụ việc
dân sự của họ [22, tr.348] hay là một cơ quan trung gian được các bên đương sự
giao tranh chấp cho để xét xử [24].
Dù được tiếp cận dưới góc độ nào, xét về mặt bản chất, trọng tài nói chung
và trọng tài thương mại nói riêng là một phương thức giải quyết tranh chấp do các
bên tự thỏa thuận lập ra nhằm giải quyết dứt điểm các vụ tranh chấp. Nói cách khác,
trọng tài là cơ quan xét xử mang tính chất “tư” do các bên đương sự thỏa thuận lựa
chọn để giải quyết các tranh chấp kinh doanh, thương mại của chính họ.

6
Có thể nói rằng trọng tài thương mại là hình thức giải quyết tranh chấp
thương mại hiện đại nhất trong các hình thức giải quyết tranh chấp ngoài Tòa án vì
nó đã kết hợp được cả hai yếu tố: thoả thuận và tài phán. Yếu tố thỏa thuận giúp
Trọng tài mang dáng dấp của việc giải quyết tranh chấp bằng tự thương lượng, hòa
giải và yếu tố tài phán lại giúp trọng tài mang dáng dấp của việc giải quyết tranh
chấp bằng Tòa án.
Tuy nhiên xuất phát từ bản chất vốn có, so với Toà án và hòa giải, Trọng tài

vẫn có những đặc trưng riêng khác hẳn.
Trọng tài và Hòa giải
Điểm giống nhau ở hai phương thức này là đều có sự thỏa thuận việc tham
gia của bên trung gian thứ ba. Trong đó, các bên đương sự sẽ thỏa thuận chọn một
(một số) người thứ ba trung gian, có nghĩa vụ trung lập tạo điều kiện giúp đỡ các
bên tranh chấp đạt được một giải pháp để khắc phục mâu thuẫn, bất đồng đã phát
sinh.
Điểm khác nhau cơ bản là ở chỗ, trong quá trình dàn xếp hòa giải bất cứ bên
nào cũng có quyền đơn phương tuyên bố chấm dứt hòa giải hoặc tước bỏ vai trò của
hòa giải viên và hòa giải viên không có quyền hạn gì để ra quyết định ràng buộc đối
với các bên. Hòa giải viên, bằng nỗ lực của mình một cách độc lập, vô tư và khách
quan đưa ra đề xuất hoặc những khuyến nghị để giúp cuộc hòa giải đạt được mục
đích. Các đề xuất và khuyến nghị này không có giá trị bắt buộc mà chỉ có tính chất
tham khảo đối với các bên. Trong khi đó, trọng tài viên được các bên lựa chọn có
quyền xét xử và ra các quyết định xét xử một cách hoàn toàn độc lập trên cơ sở
những chứng cứ, tài liệu mà các bên cung cấp hoặc có được thông qua việc tự điều
tra, xem xét của trọng tài viên hoặc do giám định viên, nhân chứng cung cấp trên cơ
sở pháp luật. Các quyết định của trọng tài nếu được ban hành phù hợp với các điều
kiện theo luật định sẽ có hiệu lực pháp luật, các bên có nghĩa vụ thi hành và không
có quyền kháng cáo [16, tr.13-15].
Trọng tài và Tòa án
Một là, trọng tài không có thẩm quyền đương nhiên mà xuất phát từ sự thỏa
thuận của các chủ thể tranh chấp đối với trọng tài. Nếu muốn một tranh chấp được
đưa ra trọng tài giải quyết thì các bên tranh chấp phải có thỏa thuận lựa chọn trọng

7
tài giải quyết vào thời điểm trước hoặc kể cả sau khi tranh chấp xảy ra. Nếu không
có thỏa thuận trọng tài hoặc có nhưng thỏa thuận trọng tài vô hiệu thì trọng tài cũng
không có thẩm quyền giải quyết. Với việc lựa chọn trọng tài giải quyết các bên
tranh chấp đã trao quyền lực xét xử cho trọng tài. Do đó việc giải quyết tranh chấp

bằng Trọng tài không nhân danh quyền lực tư pháp của nhà nước như Tòa án mà
Trọng tài nhân danh ý chí tối cao của các bên đương sự.
Hai là, xét về mặt hình thức, khác với Tòa án là cơ quan tài phán nhà nước,
do nhà nước thành lập và trao quyền thay mặt nhà nước xét xử, giải quyết tranh
chấp bất đồng giữa các cá nhân tổ chức trong xã hội thì Trọng tài là một tổ chức xã
hội nghề nghiệp do các trọng tài viên tự thành lập để giải quyết các tranh chấp phát
sinh trong lĩnh vực kinh doanh, thương mại. Trọng tài không phải là một cơ quan
nhà nước và cũng không hoạt động bằng ngân sách nhà nước như Tòa án. Các trọng
tài viên cũng không phải là viên chức nhà nước, không do nhà nước bổ nhiệm và
không được hưởng lương từ ngân sách nhà nước như các Thẩm phán.
Ba là, khi xét xử trọng tài không nhân danh Nhà nước để ra các phán quyết
nên các phán quyết trọng tài không mang tính quyền lực nhà nước. Hay nói cách
khác phán quyết trọng tài không có tính cưỡng chế thi hành như bản án của Tòa.
Các phán quyết trọng tài sẽ do các đương sự tự nguyện thi hành hoặc phải nhờ đến
sự hỗ trợ của cơ quan nhà nước để cưỡng chế thi hành. Trong khi đó quyết định,
bản án của Tòa án được đưa ra nhân danh quyền lực nhà nước, bảo đảm thi hành
bởi sức mạnh cưỡng chế của nhà nước, không những đương sự mà các bên có liên
quan đều có nghĩa vụ thi hành. Nếu không sẽ có một loạt các biện pháp cưỡng chế
do cơ quan thi hành án đảm nhiệm trên cơ sở pháp luật về thi hành án.
Bốn là, nếu như giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài các bên được quyền lựa
chọn và chỉ định trọng tài viên thì trong giải quyết tranh chấp bằng Tòa án, các bên
tham gia tố tụng không có quyền lựa chọn thẩm phán. Hơn nữa, khi khởi kiện ra
Tòa án, việc xác định Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ kiện cho mình không hoàn
toàn dựa vào ý chí của các bên đương sự nghĩa là các bên đương sự không có quyền
tự do lựa chọn Tòa án xét xử vì Tòa án có thẩm quyền xét xử theo vụ việc và lãnh
thổ do pháp luật quy định. Chỉ có một số ít trường hợp cụ thể được pháp luật quy
định thẩm quyền Tòa án có thể được xác định theo sự lựa chọn của nguyên đơn.
Còn nếu vụ việc được thỏa thuận giải quyết bằng trọng tài thì các bên lại hoàn toàn

8

có quyền lựa chọn cơ quan Trọng tài mà không phụ thuộc vào nơi đặt trụ sở hoặc
nơi cư trú của các bên.
Qua những điểm khác biệt trên, chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định rằng,
Trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp độc lập bên cạnh Tòa án.
Về hình thức trọng tài, trọng tài ở các nước nói chung và ở Việt Nam nói
riêng được tổ chức dưới các dạng khác nhau với các tên gọi khác nhau nhưng chủ
yếu tồn tại dưới hai loại hình là: (i) Trọng tài vụ việc và (ii) Trọng tài thường trực.
Trọng tài vụ việc được thành lập cho từng vụ tranh chấp với các trọng tài
được lựa chọn một lần để giải quyết tranh chấp cụ thể và hội đồng trọng tài này sẽ
tự giải thể khi tranh chấp đã được giải quyết. Nói cách khác, trọng tài vụ việc là
trọng tài tự tiến hành (do it yourself arbitration).
Trọng tài vụ việc là loại hình trọng tài chỉ có tính chất lâm thời, không có trụ
sở và bộ máy cố định. Tính chất của Trọng tài vụ việc là hoàn toàn phụ thuộc vào ý
chí của các bên đương sự, do vậy Trọng tài vụ việc có một số đặc điểm sau:
Một là, các bên có quyền lựa chọn Trọng tài viên không bị giới hạn vào một
danh sách trọng tài có sẵn như ở hình thức Trọng tài thường trực. Trọng tài viên có
thể là bất cứ ai mà các bên tín nhiệm. “Thông thường đó là các luật gia, luật sư, giáo
sư các trường đại học, các thương gia có uy tín, chuyên gia hàng đầu trong nhiều
lĩnh vực như ngoại thương, đầu tư, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, xây dựng, công
nghệ thông tin, sở hữu công nghiệp ,.” [20, tr.134]. Họ là những người vừa có kiến
thức về pháp lí lại vừa có kinh nghiệm trong hoạt động thương mại.
Hai là, các bên cũng có toàn quyền trong việc xác lập quy chế tố tụng như
cách thiết lập Hội đồng trọng tài và thủ tục giải quyết thích hợp với từng vụ tranh
chấp. Các bên sẽ tự tổ chức Hội đồng trọng tài, tự thỏa thuận quá trình tố tụng. Hoạt
động trọng tài không lệ thuộc vào bất cứ quy tắc xét xử nào miễn là bảo đảm được
nguyên tắc xét xử khách quan, vô tư và đúng pháp luật.
Nhưng, trên thực tế, đây là một quá trình tốn thời gian nhằm thảo ra những
quy định đặc biệt dành riêng cho trọng tài vụ việc. Thông thường hình thức này
được áp dụng với trọng tài thương mại quốc tế, phù hợp với những trường hợp mà
thiệt hại lớn, đặc biệt trong những vụ việc có liên quan tới chủ thể là một quốc gia


9
hay một tổ chức quốc gia có liên quan và các vấn đề thuộc chính sách và quyền lực
công có thể phát sinh. Thông qua trọng tài vụ việc, có thể tạo ra thủ tục về tố tụng
có lợi cho cả hai bên, mà vẫn đạt được những yêu cầu đặt ra trong những vụ việc
nhạy cảm có liên quan đến một bên chủ thể là quốc gia [1, tr.58-59].
Trước khi pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 ra đời, ở Việt Nam, Trọng tài
vụ việc chỉ được thừa nhận để giải quyết các tranh chấp quốc tế. Điều này được quy
định trong nhiều văn bản pháp lý khác nhau như: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam, Luật hàng không dân dụng, Pháp lệnh chuyển giao công nghệ…Pháp lệnh
trọng tài 2003 lần đầu tiên quy định tương đối cụ thể về Trọng tài vụ việc, cho phép
Trọng tài vụ việc giải quyết tất cả các tranh chấp phát sinh kể cả tranh chấp quốc tế
và trong nước miễn là các bên đương sự thỏa thuận lựa chọn. Pháp lệnh quy định về
việc chọn trọng tài viên để thành lập Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng, việc hủy
quyết định trọng tài, việc thi hành quyết định của Trọng tài vụ việc tương tự như
Trọng tài thường trực. Hiện nay, Luật Trọng tài được ban hành trên cơ sở kế thừa
những quy định của Pháp lệnh Trọng tài và bổ sung thêm một số quy định mới về
Trọng tài vụ việc như việc đăng ký phán quyết Trọng tài vụ việc. Những quy định
này là cơ sở vững chắc để Trọng tài vụ việc hoạt động song song với Trọng tài
thường trực và Tòa án.
Trọng tài thường trực là trung tâm trọng tài có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, có
trụ sở cố định, có danh sách trọng tài viên và hoạt động theo điều lệ riêng, được
thành lập để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh, thương
mại.
Trên thế giới Trọng tài thường trực tồn tại dưới nhiều tên gọi và hình thức
khác nhau như: Các Trung tâm trọng tài (Trung tâm Trọng tài Quốc tế Singapo
(SIAC), Trung tâm Trọng tài Thương mại Quốc tế của Australia, Trung tâm Trọng
tài Quốc tế Hồng Kông…), các Hiệp hội trọng tài (Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ
(AAA), Hiệp hội Trọng tài Thương mại Nhật Bản) hay các Viện trọng tài (Viện
Trọng tài Stockhom của Thụy Điển, Viện Trọng tài Singapo, Viện trọng tài Luân

Đôn). Các tổ chức này tồn tại độc lập, không nằm trong hệ thống cơ quan nhà nước
và hoạt động một cách thường xuyên, sẵn sàng giải quyết các tranh chấp khi các
đương sự yêu cầu. Tuy nhiên cũng có một số ngoại lệ tồn tại trong pháp luật trọng
tài ở một số nước Châu Á như Trung Quốc và Thái Lan. Ở Trung Quốc, các Ủy ban

10
Trọng tài Hợp đồng Kinh tế là cơ quan nhà nước thuộc Cục Quản lý Hành chính
Công thương các cấp. Ở Thái Lan, Viện trọng tài trực thuộc Bộ Tư pháp, có quy tắc
tố tụng riêng nhằm hỗ trợ, phát triển các hoạt động hòa giải và Trọng tài [6, tr.12].
Như vậy, sự khác biệt giữa trọng tài vụ việc và trọng tài thường trực giống
như sự khác biệt giữa một chiếc áo do thợ may riêng và những chiếc áo được may
đại trà [1, tr. 58-59]. “Lợi thế lớn nhất của Trọng tài thường trực so với trọng tài vụ
việc là có sẵn các bộ quy tắc tố tụng trọng tài và các bên đương sự chỉ cần thỏa
thuận áp dụng các bộ quy tắc đó là đủ mà không cần mất công tạo lập ra các bộ quy
tắc mới” [16]. Các bộ quy tắc này thường xuyên được các Trung tâm trọng tài
nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với nhu cầu của các khách hàng. Điều
này rất thuận lợi cho các nhà doanh nghiệp mới bước vào nghề đã phát sinh các
tranh chấp cần giải quyết, nếu họ không muốn có điều gì bất lợi cho mình thì họ sẽ
chọn trọng tài thường trực với bộ quy tắc có sẵn.
Hơn nữa các trung tâm trọng tài lại có một bộ máy thường trực hoạt động
thường xuyên nên sẽ hỗ trợ các bên rất hiệu quả trong quá trình tố tụng như: chọn
trọng tài viên, thông tin liên lạc, phiên dịch viên trong các vụ tranh chấp quốc tế,
giám sát tố tụng khi một bên vắng mặt, ấn định và giám sát thời hạn ban hành phán
quyết. Một số trung tâm trọng tài còn cung cấp phòng xét xử, phòng cho các trọng
tài viên, thư ký và các dịch vụ khác.
Ở Việt Nam, Trọng tài thường trực là hình thức được pháp luật ghi nhận
trước. Ngay từ năm 1963, trọng tài thường trực đã ra đời. Đó là Hội đồng trọng tài
ngoại thương được tổ chức theo NĐ 59/CP ngày 30/04/1963 và Hội đồng trọng tài
hàng hải được tổ chức theo NĐ 153 ngày 05/10/1964 của Hội đồng chính phủ. Đến
năm 1993, theo Quyết định 204/QĐ-TTg ngày 28/04/1993 của thủ tướng chính phủ,

cho phép thành lập Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở hợp nhất Hội đồng Trọng tài Ngoại
thương và Hội đồng Trọng tài Hàng hải. Đồng thời với việc ban hành nghị định
116/NĐ-CP ngày 05/09/1994 về tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế cũng cho
ra đời các trung tâm trọng tài là những tổ chức trọng tài thường trực. Các Trung tâm
trọng tài kinh tế đã mang dáng dấp của một tổ chức phi chính phủ, có Điều lệ và
con dấu nhưng vẫn chưa có tư cách pháp nhân. Điều lệ của các Trung tâm trọng tài
kinh tế cần được sự chuẩn y của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh, các trọng tài

11
viên trong danh sách trọng tài viên phải do Hội đồng xét chọn trọng tài viên do Bộ
Tư pháp thành lập, xét duyệt và được Bộ trưởng Bộ tư pháp công nhận và cấp thẻ
Trọng tài viên có thời hạn 02 năm. Đến Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, trọng
tài thương mại được chính thức thừa nhận là tổ chức phi chính phủ, có tư cách pháp
nhân, có con dấu và tài khoản riêng, danh sách trọng tài viên do Tổ chức trọng tài tự
lựa chọn. Quy định này tiếp tục được ghi nhận trong Luật trọng tài thương mại số
54/2010/QH12 có hiệu lực ngày 01/01/2011.
Tóm lại, với những lợi thế của mình trong việc giải quyết tranh chấp, Trọng
tài ngày càng được áp dụng ở nhiều nước, nhất là những nước có nền kinh tế thị
trường phát triển thì trọng tài hầu như là lựa chọn tối ưu nhất khi các bên không thể
thương lượng và hòa giải được. Còn ở Việt Nam vì nhiều lí do khác nhau mà Trọng
tài vẫn chưa phải là hình thức giải quyết tranh chấp mà các nhà kinh doanh ưa
chuộng như “các quy định pháp luật chưa phù hợp, tâm lý xã hội chưa quen với các
tổ chức giải quyết tranh chấp ngoài Nhà nước và ngay cả hoạt động của các trọng
tài vẫn còn nhiều điểm chưa thuyết phục” [5] trong đó có những quy định về tố tụng
trọng tài tỏ ra chưa phù hợp với thực tiễn. Với sự phát triển kinh tế thị trường ngày
càng đi vào chiều sâu thì chắc chắn hình thức trọng tài thương mại sẽ được ưa
chuộng và phát triển.
1.2 KHÁI QUÁT VỀ TỐ TỤNG TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Tố tụng trọng tài thương mại được hiểu là trình tự, thủ tục khởi kiện và thành

lập Hội đồng trọng tài để giải quyết các vụ tranh chấp về thương mại; nhiệm vụ,
quyền hạn và trách nhiệm của Hội đồng trọng tài; quyền và nghĩa vụ của các đương
sự nhằm bảo đảm cho việc giải quyết các tranh chấp thương mại được nhanh chóng
và chính xác.
Xuất phát từ tính chất của trọng tài là tổ chức phi chính phủ được hình thành
trên cơ sở sáng kiến và tự nguyện tham gia của các trọng tài viên, theo quy định của
pháp luật, hoặc trên cơ sở sự lựa chọn của các bên đương sự. Trong tố tụng trọng tài
không tồn tại quy tắc tố tụng thống nhất, áp dụng chung cho tất cả các loại hình
trọng tài và các loại tranh chấp. Những gì là phù hợp cho một vụ việc về mua bán
hàng hóa, hoặc giải thích một điều khoản đối với hợp đồng thuê tàu do các bên thỏa
thuận trên cơ sở thực tế, sẽ không phù hợp cho một tranh chấp dự án cơ sở hạ tầng

12
phức tạp mà phải cần rất nhiều năm để lập kế hoạch, cấp vốn, xây dựng và vận
hành. Hơn nữa những vụ việc khẩn cấp cũng cần được giải quyết một cách khẩn
cấp, hay nói cách khác là “xử nhanh” [2, tr.122]. Do đó, quy tắc tố tụng trọng tài sẽ
được các tổ chức trọng tài quy định tùy theo điều lệ của mình hoặc do các bên
đương sự thỏa thuận xây dựng, áp dụng.
Tuy nhiên, quy tắc tố tụng chính là khung pháp lý mà Hội đồng trọng tài xét
xử vụ tranh chấp và các bên đương sự phải tuân theo. Nếu làm trái các quy định
trong quy tắc tố tụng sẽ dẫn đến hậu quả pháp lý hết sức phức tạp. Phán quyết của
Hội đồng trọng tài có thể bị Tòa án tuyên hủy hoặc không được công nhận và cho
thi hành. Do đó hầu hết các nước đều chú trọng việc xây dựng Quy tắc tố tụng của
trọng tài, đảm bảo cho việc giải quyết bằng trọng tài được thuận tiện, nhanh chóng,
hấp dẫn, có khả năng thu hút các doanh nghiệp, quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên được tôn trọng.
Như đã phân tích ở trên, Trọng tài mang yếu tố thỏa thuận nhưng đây lại là
hình thức giải quyết tranh chấp tài phán thông qua một thủ tục tố tụng chặt chẽ theo
quy định của pháp luật trọng tài và Quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài. Cụ
thể:

Thứ nhất là thẩm quyền giải quyết tranh chấp.
Theo quy định của pháp luật trọng tài Việt Nam (Điều 2 và 5 Luật Trọng tài),
trọng tài thương mại có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nếu (i) tranh chấp đó phát
sinh từ hoạt động thương mại hoặc ít nhất một bên có hoạt động thương mại và (ii)
giữa các bên có thỏa thuận về việc đưa vụ tranh chấp ra Trọng tài giải quyết. Tức là
thẩm quyền của trọng tài được xác định dựa trên hai yếu tố là tranh chấp có phát
sinh từ hoạt động thương mại hay không và trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp
các bên đã có thỏa thuận trọng tài chưa.
Hiện nay, hoạt động thương mại được định nghĩa rõ ràng nhất trong Luật
Thương mại 2005, Khoản 1 Điều 3 “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục
đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến
thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác.” Nghĩa là tất cả các
tranh chấp phát sinh trong các hoạt động kể trên hoặc một trong các bên tranh chấp
có thực hiện các hoạt động trên mới được yêu cầu trọng tài giải quyết.

13
Tuy nhiên về vấn đề này, pháp luật các nước cũng có những quy định khác
nhau. Thông thường có hai xu hướng, một là tương tự như Việt Nam, trọng tài chỉ
được giải quyết các tranh chấp thuộc hoạt động thương mại, hai là ngoài lĩnh vực
thương mại, trọng tài được giải quyết cả các tranh chấp thuộc lĩnh vực dân sự nói
chung. Với xu hướng thứ nhất, đạo luật về trọng tài thường sẽ gắn với chữ “thương
mại” tương tự như Việt Nam và Luật mẫu về trọng tài thương mại kinh tế của Ủy
ban Liên Hợp quốc về Luật Thương mại Quốc tế thông qua ngày 21/06/1985 (sau
đây viết tắt là “Luật mẫu UNCITRAL 1985”). Ngược lại, xu hướng thứ hai, đạo luật
về trọng tài sẽ không có chữ “thương mai” như Trung Quốc, Singapore, Thái-lan,
Hoa Kỳ, Anh…) hoặc quyển luật trong các bộ luật tố tụng dân sự (Đức, Nhật, Pháp)
với tên gọi là Luật trọng tài, không phân biệt tranh chấp dân sự và thương mại [10].
Ví dụ: Điều 2 và Điều 3 Luật Trọng tài Trung Quốc quy định: “Mọi tranh chấp phát
sinh từ hợp đồng và các tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu và lợi ích phát sinh
giữa các chủ thể dân sự có địa vị pháp lý ngang nhau, như giữa các công dân, pháp

nhân hoặc tổ chức khác có thể được giải quyết bằng trọng tài trừ các tranh chấp
sau: (i) tranh chấp liên quan đến hôn nhân, nhận con nuôi, giám hộ và thừa kế; và
(ii) các tranh chấp hành chính được giải quyết bởi cơ quan có thẩm quyền về hành
chính theo quy định của pháp luật”.
Đối với yêu cầu bắt buộc về sự tồn tại của thỏa thuận trọng tài đều được tìm
thấy trong hầu hết pháp luật các nước. Đây trở thành một nguyên tắc cơ bản trong
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài “không có thỏa thuận trọng tài thì không có
việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài” [8, tr.60].
Chẳng hạn Điều 4, Luật Trọng tài Trung Quốc: “Phương thức trọng tài được
áp dụng để giải quyết tranh chấp phải dựa trên ký kết thỏa thuận trọng tài được ký
kết một cách tự nguyện giữa các bên. Nếu một bên đưa vụ kiện ra trọng tài mà
không có thỏa thuận trọng tài, hội đồng trọng tài sẽ không thụ lý vụ kiện”.
Thứ hai là nguyên tắc giải quyết tranh chấp.
Hội đồng trọng tài được thành lập sẽ giải quyết vụ tranh chấp theo các
nguyên tắc cơ bản như: các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ,
trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư, phải căn cứ vào pháp luật và tôn
trọng thỏa thuận các bên, xét xử một lần, giải quyết tranh chấp được tiến hành

14
không công khai. Các nguyên tắc này được quy định cụ thể trong hầu hết luật trọng
tài của các nước trên thế giới. Điều 18 Luật mẫu UNCITRAL quy định: “Các bên
phải được đối xử trên một cơ sở bình đẳng và mỗi bên đều phải có khả năng đòi
được hưởng quyền của mình”. Điều 40 Luật Trọng tài Trung Quốc có quy định:
“Trọng tài sẽ mở phiên xét xử kín. Nếu các bên đồng ý, Hội đồng Trọng tài sẽ mở
phiên xét xử công khai trừ trường hợp liên quan đến an ninh quốc gia”…
Nếu trong quá trình tố tụng, một trong những nguyên tắc trên bị vi phạm
hoặc không được đảm bảo thì trọng tài viên vi phạm có thể bị yêu cầu thay thế hoặc
phán quyết của Hội đồng trọng tài có thể sẽ bị hủy. “Bất kỳ Trọng tài viên nào cũng
có thể bị bãi miễn nếu có các vấn đề gây nên sự nghi ngờ về tính vô tư và độc lập
của người đó” (Điều 10 Bản Quy tắc trọng tài UNCITRAL áp dụng với Trọng tài

vụ việc được UNCITRAL thông qua ngày 28/04/1976 và Đại hội đồng Liên hợp
quốc thông qua ngày 15/12/1976 (“Quy tắc Trọng tài UNCITRAL 1976”). Phán
quyết trọng tài có thể bị hủy nếu “một bên không được thông báo một cách hợp thức
về việc chỉ định một trọng tài viên hoặc về tiến trình tố tụng trọng tài, hoặc vì một
lý do khác mà họ không thể phát huy được các quyền của mình” (Điểm a Khoản 2
Điều 34 Luật mẫu UNCITRAL 1985) hoặc “trọng tài viên trong quá trình giải
quyết tranh chấp đã yêu cầu hoặc nhận hối lộ, thể hiện sự thiên vị, có hành vi gian
lận hoặc lập phán quyết trái với luật” (Khoản 6 Điều 58 Luật trọng tài Trung
Quốc).
Chính vì vậy giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có thể bảo đảm bí mật và
uy tín của các đương sự đồng thời làm cho quá trình giải quyết tranh chấp được
nhanh gọn, dứt điểm, bảo đảm quyền tự định đoạt của các bên.
Thứ ba là thủ tục tố tụng.
Đối với Trọng tài thường trực, mỗi trung tâm trọng tài đều có riêng một bản
quy tắc tố tụng trên cơ sở quy định của pháp luật nhưng đều rất linh hoạt, mềm dẻo,
có khả năng đáp ứng tốt các đòi hỏi của các nhà kinh doanh trong việc giải quyết
tranh chấp. Đối với Trọng tài vụ việc, các bên có hoàn toàn tự do trong việc quy
định thủ tục tố tụng. Thông thường với hình thức này, các bên có thể lựa chọn một
bộ quy tắc tố tụng có sẵn của một trong các Trung tâm trọng tài lớn, có uy tín hoặc
tham khảo Quy tắc Trọng tài UNCITRAL 1976 để quy định một bộ quy tắc riêng áp

15
dụng đối với tranh chấp của mình.
Ở Việt Nam về thủ tục thi hành phán quyết của trọng tài theo quy định của
Luật Trọng tài thì phán quyết của trọng tài thường trực trong nước có giá trị tương
đương với bản án, quyết định của Tòa án. Những phán quyết này không cần thông
qua thủ tục công nhận của Tòa án mà có thể bị cơ quan thi hành án cưỡng chế thi
hành ngay theo yêu cầu của bên được thi hành trong trường hợp hết thời hạn mà
một bên không tự nguyện thi hành. Riêng đối với phán quyết của Trọng tài vụ việc
sẽ được yêu cầu thi hành sau khi đã tiến hành đăng ký tại Tòa án có thẩm quyền

(Điều 66 Luật Trọng tài). Quy định này giúp cho thủ tục tố tụng trọng tài đơn giản
và hiệu quả hơn rất nhiều.
Tóm lại, với những lợi thế của mình trong việc giải quyết tranh chấp, Trọng
tài ngày càng được áp dụng ở nhiều nước, nhất là những nước có nền kinh tế thị
trường phát triển thì trọng tài hầu như là lựa chọn tối ưu nhất khi các bên không thể
thương lượng và hòa giải được. Còn ở Việt Nam vì nhiều lí do khác nhau mà Trọng
tài vẫn chưa phải là hình thức giải quyết tranh chấp mà các nhà kinh doanh ưa
chuộng như “các quy định pháp luật chưa phù hợp, tâm lý xã hội chưa quen với các
tổ chức giải quyết tranh chấp ngoài Nhà nước và ngay cả hoạt động của các trọng
tài vẫn còn nhiều điểm chưa thuyết phục” [5]. Với sự phát triển kinh tế thị trường
ngày càng đi vào chiều sâu thì chắc chắn hình thức trọng tài thương mại sẽ được ưa
chuộng và phát triển.










16
Chương 2
CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỦ TỤC TỐ
TỤNG CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI

Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, thủ tục tố tụng trọng tài được tính
bắt đầu từ khi Trung tâm trọng tài hoặc bị đơn nhận được đơn kiện của nguyên đơn
và kết thúc khi phán quyết của trọng tài được ban hành và có hiệu lực thi hành.

Ở Việt Nam, văn bản mới nhất quy định về thủ tục tố tụng trọng tài thương
mại là Luật Trọng tài Thương mại số 54/2010/QH12 ngày 17/06/2010 (“Luật
Trọng tài”). Trước khi Luật Trọng tài có hiệu lực (01/01/2011), quy định tố tụng
trọng tài được quy định trong Pháp lệnh trọng tài thương mại số 08/2003/PL-
UBTVQH11 ngày 25 tháng 02 năm 2003 (“Pháp lệnh Trọng tài”) và Nghị quyết
số 05/2003/NQ-HĐTP ngày 31 tháng 7 năm 2003 hướng dẫn thi hành một số quy
định của Pháp lệnh Trọng tài thương mại. Có thể nói so với thủ tục tố tụng tại Toà
án thì thủ tục tố tụng trọng tài thương mại ở Việt Nam còn rất mới mẻ đối với các
doanh nghiệp và người dân.
2.1 CÁC NGUYÊN TẮC TRONG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI
Nguyên tắc trong tố tụng trọng tài là những tư tưởng có giá trị chỉ đạo và chi
phối toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài nhằm đảm bảo việc giải
quyết tranh chấp chính xác, nhanh chóng, đúng pháp luật, phù hợp với sự thật khách
quan để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tranh chấp.

2.1.1 Nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận và quyền tự định đoạt của các bên.
Tranh chấp thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài phát sinh
từ những quan hệ xã hội được thiết lập trên cơ sở bình đẳng, thỏa thuận giữa các
bên tham gia. Đây là nguyên tắc cơ bản nhất trong tố tụng trọng tài. Nguyên tắc này
được thể hiện qua nhiều nội dung khác nhau.
Thứ nhất là trọng tài chỉ có thể giải quyết tranh chấp khi các bên có thỏa
thuận về Trọng tài. Trước đây theo Pháp lệnh Trọng tài, nội dung này được thể hiện
là một nguyên tắc trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài (Điều 3 Pháp lệnh

17
Trọng tài) nhưng trong Luật Trọng tài, nó đã được ghi nhận là điều kiện tiên quyết
để giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
Như vậy, trọng tài chỉ có thẩm quyền xét xử nếu giữa các bên tồn tại một
thỏa thuận chọn trọng tài để giải quyết tranh chấp. Nếu có thỏa thuận trọng tài
nhưng thỏa thuận trọng tài không có giá trị pháp lý thì Trọng tài cũng không có

thẩm quyền.
Thứ hai là sự thỏa thuận của các bên được tôn trọng tối đa. Trong tố tụng
trọng tài, các bên có quyền quyết định hoặc thay đổi thủ tục theo mong muốn và
yêu cầu của mình trong giới hạn pháp luật cho phép. Các bên có quyền quyết định
luật áp dụng cho nội dung và luật áp dụng cho thủ tục trọng tài. Các bên cũng tự do
xác định hình thức trọng tài, địa điểm giải quyết tranh chấp, ngôn ngữ trong xét xử
trọng tài, thời hạn thực hiện các thủ tục cần thiết cho việc giải quyết tranh chấp, thời
gian mở phiên họp giải quyết tranh chấp… Thông thường, hội đồng trọng tài sẽ
phải tính đến mong muốn và nguyện vọng của các bên khi tiến hành tố tụng. Vì nếu
thủ tục tố tụng trọng tài được tiến hành không phù hợp với thỏa thuận của các bên
thì phán quyết cuối cùng đưa ra sẽ có khả năng bị hủy.
Nguyên tắc này phù hợp với bản chất của phương thức giải quyết bằng trọng
tài cũng như mong muốn của các bên khi lựa chọn trọng tài.

2.1.2 Nguyên tắc Trọng tài viên độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy
định của pháp luật

Để giải quyết tranh chấp một cách công bằng các trọng tài viên phải độc lập,
khách quan và vô tư đối với cả hai bên tranh chấp. Vì điều đó có thể ảnh hưởng đến
tính đúng đắn, chính xác và khả năng thi hành của phán quyết trọng tài. Trong quá
trình giải quyết tranh chấp, giống như các thẩm phán, các trọng tài viên chỉ căn cứ
theo pháp luật. Không ai có quyền can thiệp vào hoạt động của trọng tài viên.
Luật Trọng tài đã có những quy định để quá trình tố tụng trọng tài sẽ đảm
bảo được nguyên tắc này. Đó là trong trường hợp được chọn hoặc chỉ định, các
trọng tài viên vẫn buộc phải từ chối giải quyết tranh chấp nếu họ là người thân thích
hoặc là người đại diện của một bên, người có lợi ích liên quan trong vụ tranh chấp,
hòa giải viên, người đại diện, luật sư của bất cứ bên nào trước khi đưa vụ tranh chấp
đó ra giải quyết tại trọng tài, trừ trường hợp được các bên chấp thuận bằng văn bản;

18

hoặc Trọng tài viên cũng phải từ chối nếu có căn cứ rõ ràng cho thấy họ không vô
tư, khách quan. Ngoài ra, theo Điều 42 Luật Trọng tài, kể từ khi được chọn hoặc
được chỉ định, Trọng tài viên phải thông báo bằng văn bản cho Trung tâm trọng tài
hoặc Hội đồng trọng tài và các bên về những tình tiết có thể ảnh hưởng đến tính
khách quan, vô tư của mình.
Luật Trọng tài của Việt Nam mới chỉ quy định về nghĩa vụ thông báo của
trọng tài viên về mọi vấn đề liên quan đến tính độc lập và vô tư của mình sau khi đã
được chọn hoặc chỉ định. Theo Quy tắc trọng tài UNCITRAL 1976, nghĩa vụ này
được thực hiện sớm hơn, ngay từ giai đoạn “tiền chỉ định”. Theo Điều 9 và Điều 10
“Một trọng tài viên có khả năng sẽ được chỉ định phải giải trình cho những người có
ý định chỉ định mình làm trọng tài viên về mọi vấn đề liên quan đến sự nghi ngờ về
tính vô tư và độc lập của người đó” vì nếu một bên sau khi đã biết rõ về các tình
tiết liên quan đến tính độc lập và vô tư của trọng tài viên nhưng vẫn quyết định chỉ
định người đó thì trong tương lai sẽ mất quyền yêu cầu thay đổi trọng tài viên đó
với lý do người này không độc lập, vô tư và khách quan. Quy định này là hết sức
cần thiết trong việc hạn chế nỗ lực của một bên trong việc trì hoãn tố tụng trọng tài.
Điều này sẽ loại trừ hiện tượng “hoãn binh” của một bên bằng cách yêu cầu thay thế
chính trọng tài viên của mình sau khi chỉ định với lý do không biết lý do trước khi
tiến hành chỉ định người này.
Vấn đề này cũng được hầu hết các Trung tâm trọng tài hết sức quan tâm, đặc
biệt là Tòa án Trọng tài Quốc tế ICC. Trọng tài viên của Tòa án Trọng tài Quốc tế
ICC phải trình bày mọi quan hệ người này có, hoặc đã có, với bất kỳ bên nào,
không chỉ quan hệ với bên đã chỉ định họ làm trọng tài viên. Một trọng tài viên
cũng nên trình bày mọi quan hệ trong nghề nghiệp cụ thể mà họ có hoặc đã có trong
quá khứ với bất kỳ luật sư của bên nào trong tố tụng trọng tài. Tất cả những nội
dung này sẽ được thể hiện trong bản tuyên thệ về tính độc lập của trọng tài viên.
Trước khi được Trung tâm trọng tài chỉ định hoặc xác nhận việc chỉ định do một
bên đề nghị, một trọng tài viên tương lai phải ký vào văn bản này và trình bày với
Ban Thư ký mọi sự kiện mà bản chất của chúng khiến các bên nghi ngờ về tính độc
lập của trọng tài viên. Sau đó, Ban Thư ký sẽ cung cấp các thông tin đó cho các bên

và ấn định thời hạn để nhận trả lời của các bên trước khi Trung tâm trọng tài đưa ra
quyết định.

19
Ở Việt Nam, Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) cũng có một số
quy định nội bộ để đảm bảo tính độc lập, khách quan và vô tư của Trọng tài viên
như luật sư khi đã làm trọng tài viên hoàn toàn có tư cách xét xử như trọng tài viên
đối với những vụ kiện được đưa đến VIAC nhưng không được làm luật sư bào chữa
cho các bên tranh chấp đối với một vụ kiện được giải quyết tại trung tâm, còn đối
với các nơi khác thì không bị cấm. Quy định này để tránh hiện tượng một người làm
luật sư cho bên A kiện bên B, nhưng sau đó nếu lại có vụ kiện giữa bên B và bên C
mà luật sư đó lại là trọng tài viên thì bản thân bên B sẽ có thể không có lòng tin vào
tính vô tư, khách quan của trọng tài viên đó. Nếu không đồng ý với quy định nội bộ
này, trọng tài viên có thể xin ra khỏi danh sách trọng tài viên của VIAC. Quy định
này nhằm đảm bảo tính khách quan, vô tư, đảm bảo lòng tin của các bên tranh chấp
đối với VIAC [14].
Đây là một nguyên tắc rất quan trọng trong thủ tục tố tụng của tất cả các
phương thức giải quyết tranh chấp. Song không phải lúc nào, nó cũng được tuân thủ
một cách tuyệt đối bởi nhiều lý do khác nhau. Chính vì vậy, khi giải quyết tranh
chấp, các trọng tài viên chỉ căn cứ theo pháp luật với thái độ khách quan và vô tư để
đảm bảo cho quyền và lợi ích chính đáng của cả hai bên đương sự. Có như vậy mới
đem lại lòng tin cho các nhà kinh doanh để trọng tài trở thành phương thức giải
quyết tranh chấp đầu tiên mà họ lựa chọn trong các hợp đồng thương mại.
2.1.3 Nguyên tắc xét xử không công khai
Nguyên tắc này là một đặc trưng và ưu điểm nổi bật của Trọng tài so với Tòa
án. Theo Điều 4 Luật Trọng tài, trong giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, việc tiến
hành tố tụng trọng tài do các bên tự lựa chọn, có thể tiến hành công khai hoặc bí
mật. Nếu các bên không có thỏa thuận thì đương nhiên việc giải quyết tranh chấp sẽ
được tiến hành không công khai.
Nguyên tắc này xuất phát từ tính đặc thù của hoạt động kinh doanh. Trong

môi trường tự do cạnh tranh, việc bảo vệ các bí mật trong hoạt động kinh doanh và
giữ uy tín của các doanh nghiệp trên thương trường là một trong những vấn đề sống
còn, góp phần tạo sức mạnh trong các cuộc cạnh tranh khốc liệt để tồn tại và phát
triển. Chính vì vậy nếu trong quá trình tham gia vào các quan hệ thương mại mà
phát sinh tranh chấp, các doanh nghiệp đều mong muốn việc giải quyết được tiến

20
hành một cách kín đáo, tranh chấp được giải quyết mà không làm ảnh hưởng đến uy
tín và bí quyết kinh doanh của mình [16, tr.36].
Do vậy, việc giữ bí mật trong giải quyết tranh chấp của trọng tài trở thành
nguyên tắc được thể hiện trong hầu hết các đạo luật về trọng tài và quy tắc tố tụng
của các tổ chức trọng tài.
Theo nguyên tắc này, nếu không có sự đồng ý của các bên thì phiên họp giải
quyết tranh chấp được tiến hành trong phòng mà ở đó ngoài trọng tài viên và các
đương sự thì những người không có trách nhiệm hoặc không liên quan không được
có mặt. Trọng tài viên có trách nhiệm phải đảm bảo bí mật mọi vấn đề liên quan đến
các bên mà mình biết được do tiến hành giải quyết vụ việc và không tiết lộ cho
người khác biết. Phán quyết trọng tài cũng như những căn cứ để trọng tài quyết định
sẽ không được công bố công khai nếu các bên không có yêu cầu khác. Phán quyết
trọng tài chỉ được công bố rộng rãi khi các bên đồng ý. Có thể nói nguyên tắc này
hoàn toàn đối lập với nguyên tắc xét xử công khai trong tố tụng tòa án.
2.1.4 Nguyên tắc xét xử một lần
Đây là cũng là nguyên tắc đặc trưng của tố tụng trọng tài so với tố tụng tòa
án. Nếu như trong tố tụng tòa án, một phán quyết của tòa án có thể bị kháng cáo
hoặc kháng nghị thì phán quyết của trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực kể từ
ngày ban hành (Điều 4 Luật Trọng tài). Phán quyết trọng tài có hiệu lực ràng buộc
các bên và đương sự không có quyền kháng cáo.
Nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất của tố tụng trọng tài là nhân danh ý
chí tối cao và quyền tự định đoạt của các bên đương sự. Các bên đương sự đã tự do
lựa chọn và tín nhiệm người phân xử cho mình thì đương nhiên phải phục tùng

quyết định của người đó. Hơn nữa bản thân trọng tài là một tổ chức phi chính phủ,
không có cơ quan cấp trên và tố tụng trọng tài cũng là tố tụng một cấp.
Nếu hết thời hạn thi hành quyết định trọng tài mà bên phải thi hành phán
quyết không tự nguyện thi hành và cũng không yêu cầu hủy phán quyết trọng tài,
bên được thi hành phán quyết trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu Cơ quan thi hành
án dân sự có thẩm quyền thi hành phán quyết trọng tài (Điều 66 Luật Trọng tài).
Riêng với Trọng tài vụ việc, Luật Trọng tài mới bổ sung thêm quy định phán quyết
phải được đăng ký với Tòa án trước khi yêu cầu Cơ quan thi hành án dân sự tổ chức

21
thi hành phán quyết đó.
Tóm lại, với các nguyên tắc xét xử trên, tố tụng trọng tài đã đáp ứng được
phần lớn những yêu cầu trong việc giải quyết tranh chấp của các nhà kinh doanh
trong và ngoài nước. Vì vậy hiện nay các doanh nghiệp có thể yên tâm lựa chọn
trọng tài để yêu cầu giải quyết tranh chấp cho mình. Điều này càng trở nên cần thiết
khi Việt Nam đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), các doanh nghiệp
Việt Nam ít nhất phải áp dụng khoảng 20 hiệp định khi thực hiện quan hệ thương
mại như: Hiệp định thuế quan, Hiệp định chống trợ cấp, Hiệp định Bảo vệ môi
trường Các quan hệ buôn bán, giao thương trong WTO rất phức tạp đòi hỏi sự
thông tường về mặt pháp lý quốc tế, nếu không có sự đổi mới, nhạy bén về pháp lý
thì bài học đau đớn như thua kiện nhập khẩu cá basa, tôm sẽ còn tiếp diễn. Với sự
phát triển kinh tế thị trường ngày càng đi vào chiều sâu, giới luật gia quốc tế và
trong nước khuyến cáo các doanh nghiệp nên giải quyết tranh chấp thương mại qua
trọng tài thương mại thay vì đưa nhau ra tòa.

2.2 THẨM QUYỀN CỦA TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI
Như đã phân tích ở trên, trọng tài không có thẩm quyền đương nhiên mà do
các bên thỏa thuận lựa chọn. Do đó, thẩm quyền của trọng tài không xác định theo
lãnh thổ vì các bên tranh chấp có quyền thỏa thuận lựa chọn bất kỳ một tổ chức
trọng tài nào để giải quyết, thậm chí cả hội đồng trọng tài với thành viên do các bên

tự thành lập, không phụ thuộc vào nơi cư trú hoặc trụ sở của bị đơn. Thẩm quyền
của trọng tài cũng không chia thành các cấp vì trọng tài chỉ có một cấp duy nhất và
thẩm quyền của trọng tài cũng không thể căn cứ theo sự lựa chọn của nguyên đơn vì
trọng tài chỉ giải quyết khi có thỏa thuận của cả hai bên.
Như vậy, thẩm quyền của trọng tài là thẩm quyền theo vụ việc. Vụ việc ở
đây sẽ thỏa mãn hai yếu tố, (i) vụ việc được các bên lựa chọn đích danh trọng tài
giải quyết, nghĩa là giữa hai bên phải tồn tại một thỏa thuận trọng tài và (ii) vụ việc
đó phải thuộc phạm vi lĩnh vực của trọng tài theo quy định của pháp luật.

2.2.1 Thỏa thuận trọng tài - cơ sở xác định thẩm quyền của Trọng tài
Thỏa thuận trọng tài là cơ sở pháp lý trực tiếp và đầu tiên để trọng tài có thể
tiến hành thụ lý và giải quyết tranh chấp. Do đó, chúng ta cần xem xét (a) thế nào là
thỏa thuận trọng tài và (b) khi nào thỏa thuận này có hiệu lực.


22
(a) Thỏa thuận trọng tài
Theo Khoản 2 Điều 3 và Điều 5 Luật Trọng tài, thoả thuận trọng tài là thoả
thuận giữa các bên về việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc
đã phát sinh. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp.
Về hình thức, thỏa thuận trọng tài có thể được thể hiện là một điều khoản trọng
tài trong hợp đồng hoặc là một thỏa thuận riêng. Tuy nhiên dù được thể hiện dưới bất
kỳ hình thức nào thì thỏa thuận trọng tài phải được lập thành văn bản. Ngay cả khi hợp
đồng giữa các bên không được thể hiện bằng văn bản thì thỏa thuận trọng tài vẫn phải
lập thành văn bản. Thỏa thuận trọng tài cũng được coi là xác lập thành văn bản nếu
thỏa thuận đó được trao đổi bằng telegram, fax, telex, thư điện tử hoặc thông qua văn
bản trao đổi thông tin giữa các bên hoặc các ghi chép bằng văn bản được luật sư, công
chứng viên hoặc tổ chức có thẩm quyền lập theo yêu cầu của các bên. Thậm chí là các
văn bản như hợp đồng, chứng từ, điều lệ công ty được các bên dẫn chiếu đến trong giao
dịch hoặc qua trao đổi về đơn kiện và bản tự bảo vệ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của

thỏa thuận trọng tài do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận (Khoản 2 Điều 16
Luật Trọng tài).
Về hiệu lực pháp lý, thoả thuận trọng tài hoàn toàn độc lập với hợp đồng. Việc
thay đổi, gia hạn, hủy bỏ hợp đồng, hợp đồng vô hiệu hoặc không thể thực hiện được
không làm mất hiệu lực của thoả thuận trọng tài. Điều này được hiểu là hợp đồng mà
trong đó có thoả thuận trọng tài là không tồn tại, hoặc vô hiệu, sẽ không dẫn đến thỏa
thuận trọng tài cũng trở nên không tồn tại, hoặc vô hiệu. Tính độc lập này của thỏa
thuận trọng tài có ý nghĩa rất quan trọng, nhất là khi hợp đồng bị hủy bỏ, bị vô hiệu thì
thỏa thuận trọng tài vẫn có hiệu lực và đương nhiên phát sinh thẩm quyền của trọng tài
đối với vụ tranh chấp. Vì hội đồng trọng tài vẫn có thẩm quyền quyết định quyền và
nghĩa vụ tương ứng của các bên và xét xử khiếu kiện giữa họ nếu trên thực tế chính
hợp đồng có thể không tồn tại, hoặc vô hiệu.
Khi có hiệu lực, một thỏa thuận trọng tài sẽ có chức năng (1) phủ nhận thẩm
quyền của Tòa án vì bằng việc xác lập thỏa thuận trọng tài, các bên đã gián tiếp thỏa
thuận khước từ thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với tranh chấp phát sinh giữa họ với
nhau hay còn gọi là tác động tiêu cực của thoả thuận trọng tài vì thỏa thuận trọng tài đã
cho phép loại trừ sự can thiệp của tòa án quốc gia vào quá trình giải quyết tranh chấp, ít

23

×