Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Pháp luật Việt Nam về tập đoàn kinh tế nhà nước Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (834.87 KB, 106 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






TRẦN NGỌC DUNG






PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TẬP ĐOÀN KINH
TẾ NHÀ NƯỚC









LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC














HÀ NỘI – 2011

2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRẦN NGỌC DUNG





PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TẬP ĐOÀN KINH
TẾ NHÀ NƯỚC





CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60 38 50




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. LÊ THỊ CHÂU






HÀ NỘI - 2011

4
MỤC LỤC

Trang
Lời cam đoan
1
Danh mục viết tắt

4
PHẦN MỞ ĐẦU
5
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TĐKT NHÀ NƢỚC
13
1.1. Khái quát chung về tập đoàn kinh tế nhà nước
13
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển TĐKT nhà nước ở Việt Nam
13
1.1.2. Khái niệm tập đoàn kinh tế Nhà nước
19
1.1.3.Nguyên tắc hoạt động của Tập đoàn kinh tế Nhà nước
32
1.2. Vai trò của pháp luật đối với tập đoàn kinh tế nhà nước
34
1.2.1. Tập đoàn kinh tế nhà nước trong nền kinh tế Việt Nam
1.2.2. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với mô hình tập
đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam
34

42

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TẬP ĐOÀN KINH
TẾ NHÀ NƢỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Quy định pháp luật về địa vị pháp lý của TĐKT Nhà nước
2.1.1. Hệ thống các quy định pháp luật về tập đoàn kinh tế Nhà nước
2.1.2. Địa vị pháp lý của Tập đoàn kinh tế nhà nước theo Nghị định số
101/2009/NĐ- CP
2.2. Một số bất cập pháp lý về quá trình thành lập, hoạt động của tập đoàn
kinh tế Nhà nước ở Việt Nam

2.2.1. Về thành lập tập đoàn kinh tế Nhà nước
2.2.2. Cơ chế giám sát hoạt động bộ máy quản lý TĐKT Nhà nước

45
45

45
48

54

54

65

5
2.2.3. .Quy định pháp luật quản lý tài chính trong TĐKT Nhà nước
2.3. Bài học kinh nghiệm từ hoạt động của Tập đoàn công nghiệp tàu thuỷ
Việt Nam
67

70
CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM, PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP VÀ
KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƢỚC
3.1. Quan điểm, phương hướng của Đảng và Nhà nước về Tập đoàn kinh
tế Nhà nước hiện nay
3.2 Một số giải pháp về quá trình hoạt động của Tập đoàn kinh tế Nhà
nước
3.3. Một số kiến nghị về quy định của pháp luật và cách thức tổ chức của

tập đoàn kinh tế Nhà nước
3.2 1. Về tăng cường địa vị pháp lý của TĐKT nhà nước ở nước ta hiện
nay
3.2 2. Về quy định giám sát chặt chẽ bộ máy quản trị trong tập đoàn kinh
tế nhà nước
3.2.3. Về quy định quản lý vốn và sử dụng vốn trong TĐKT nhà nước
3.2.4. Về quy định đảm bảo tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động
kinh doanh của các công ty con trong tập đoàn kinh tế nhà nước
3.2.5. Xây dựng các quy định về thành lập tập đoàn kinh tế nhà nước
3.2.6. Hoàn thiện cơ chế quản lý, mối quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà
nước với quy chế nội bộ của tập đoàn kinh tế nhà nước trong các lĩnh vực,
cấp độ khác nhau
3.2.7 Các chính sách và cơ chế quản lý của Nhà nước đối với tập đoàn
kinh tế Nhà nước hiện nay

77

77


79

81

81


86
88
91


93

96


98
PHẦN KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
101
103


6
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TĐKT: Tập đoàn kinh tế
TCT: Tổng công ty
DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
WTO: Tổ chức thương mại quốc tế
TVN: Tập đoàn Công nghiệp than – khoáng sản Việt Nam
VNPT: Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam
PVN: Tập đoàn Dầu khí Việt Nam
EVN: Tập đoàn Điện lực Việt Nam
VINASHIN: Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam
DMC: Công ty dung dịch khoan và hóa phẩm dầu khí
HĐQT: Hội đồng quản trị
IMCA: Xí nghiệp liên doanh giữa viện ứng dụng vật liệu của Ucaraina
và công ty Lionnes Consulting Ldt của Mỹ.
XHCN: Xã hội chủ nghĩa
KTNN: Kiểm toán nhà nước















7
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tập đoàn kinh tế là mô hình tổ chức kinh doanh phát triển ở nhiều nước
trên thế giới nhưng ở Việt Nam lại khá mới mẻ. Pháp luật điều chỉnh về tập
đoàn kinh tế Việt Nam thực sự mới chỉ đang ở những bước khởi động đầu tiên
của sự vận hành với chủ trương nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh
nghiệp Nhà nước. Khi nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, quá trình
toàn cầu hoá đang diễn ra mạnh mẽ làm thay đổi bản chất của quá trình cạnh
tranh cùng với xu thế mở cửa hội nhập nền kinh tế trên phạm vi toàn cầu đã có
nhưng tác động to lớn đối với nền kinh tế nước ta. Đây vừa là cơ hội nhưng
đồng thời cũng là thách thức rất lớn đối với một nước có đến trên 80 triệu dân
và có thu nhập bình quân đầu người thấp như nước ta. Xu thế mở cửa nền
kinh tế đã và đang có những tác động nhất định đến các doanh nghiệp Việt
Nam trong quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới mà gần nhất là việc
ra nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) của Việt Nam. Do đó để có thể

nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế ở nước ta, cũng như phát huy
các ngành kinh tế mũi nhọn nhằm tạo thế và lực phục vụ cho quá trình công
nghiệp hoá hiện đại hoá của đất nước thì việc từng bước hình thành và phát
triển các tập đoàn kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là hết sức cần
thiết mà bước đầu là thành lập thí điểm các tập đoàn kinh tế từ các Tổng công
ty nhà nước.
Hội nhập kinh tế với nền kinh tế toàn cầu cần phải tổ chức sắp xếp các
doanh nghiệp nhỏ, manh mún thành những doanh nghiệp có quy mô lớn đủ
khả năng hợp tác cũng như cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài.
Ngoài ra việc tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước còn nhằm tăng cường vị trí
của doanh nghiệp nhà nước trong việc bảo đảm vai trò chủ đạo, dẫn dắt các
doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Tập đoàn hoạt động có hiệu quả sẽ là những mô hình nòng cốt
trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Do nền kinh tế hội nhập sẽ phải chấp nhận

8
cạnh tranh, là một tất yếu dẫn đến tích tụ và tập trung vốn, là điều kiện hình
thành tập đoàn kinh tế.
Khác với các tập đoàn kinh tế thế giới, hầu hết đều đi từ các các công ty
nhỏ, hoạt động rất hiệu quả, tích tụ vốn và phát triển quy mô dần trở thành các
tập đoàn khổng lồ, các tập đoàn kinh tế Việt Nam được thành lập dựa trên các
tổng công ty có quy mô chưa lớn, yếu kém trong quản lý, quen dựa vào bao
cấp đã vừa độc quyền lại thích có thêm quyền, phần lớn vị trí chủ chốt được
bổ nhiệm vì lý do chính trị chứ không dựa trên năng lực quản trị kinh doanh
nên sự tác hại của tập đoàn kinh tế khi làm ăn thiếu hiệu quả có thể gây hậu
quả lớn cho nền kinh tế, vì vậy cần thận trọng trong việc thành lập.
Ngày 1-7-2010, thời điểm Luật Doanh nghiệp Nhà nước hết hiệu lực, cả
nước đã hình thành 12 tập đoàn kinh tế nhà nước thí điểm dưới mô hình công
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thuộc sở hữu nhà nước, ngoại trừ tập
đoàn Bảo Việt được cổ phần hóa vào năm 2007:

- Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam
-Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam
-Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam,
- Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản
- Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam
- Tập đoàn Dệt- May Việt Nam
- Tập đoàn Điện lực Việt Nam
- Tập đoàn Bảo Việt
- Tập đoàn Viễn thông quân đội
- Tập đoàn Hóa chất Việt Nam
- Tập đoàn phát triển nhà và đô thị Việt Nam

9
- Tập đoàn Công nghiệp Xây dựng Việt Nam.
Ngược lại với sự phát triển nhanh chóng của các Tập đoàn kinh tế nhà
nước thì cơ chế pháp lý điều chỉnh mô hình này còn lỏng lẻo chồng chéo, mâu
thuẫn, tính pháp lý thấp và rất ít. Để tập đoàn kinh tế nhà nước phát triển một
cách toàn diện, cần thiết phải có một khung pháp lý hoàn chỉnh giúp cho tập
đoàn kinh tế nhà nước đi đúng hướng mà Đảng và Nhà nước đã vạch ra.
Chính vì vậy, em lựa chọn đề tài “Pháp luật Việt Nam về Tập đoàn kinh
tế nhà nước” với mong muốn nghiên cứu để nâng cao nhận thức về địa vị
pháp lý của Tập đoàn kinh tế nhà nước ta hiện nay phục vụ cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy và tốt nghiệp chương trình cao học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Hiện nay, Tập đoàn kinh tế nhà nước là mô hình kinh doanh được khá
nhiều các chuyên gia trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, pháp luật…
quan tâm. Đã có một số bài viết, nghiên cứu khoa học, một số cuốn sách viết
đề cập đến tập đoàn kinh tế nhà nước như: Một vài suy nghĩ về Tập đoàn kinh
tế nhà nước Việt Nam của Th.s Huỳnh Tuấn Cường giảng viên khoa quản trị
kinhh doanh ĐH Tôn Đức Thắng; mô hình tập đoàn kinh tế trong công nghiệp

hóa, hiện đại hóa - Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội, 2005 PGS.TSKH
Vũ Huy Từ (chủ biên); những rủi ro tiềm ẩn của tập đoàn kinh tế nhà nước
của T.S Trần Văn Hùng; Mô hình các tập đoàn kinh tế được thành lập theo
nghị định 101/2009/NĐ-CP của Phạm Viết Đào; Tập đoàn kinh tế nhà nước
Việt Nam sau 5 năm thí điểm hoạt động của TS Đinh La Thăng; “Địa vị pháp
lý của Tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam” của Nguyễn Thị Lan - luận
văn thạc sĩ luật học tại Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội; “Tập đoàn kinh
tế nhà nước tại Việt Nam bản chất pháp lý và vấn đề xây dựng khung pháp lý
điều chỉnh” của Nguyễn Hương Ly - luận văn thạc sĩ luật học tại Khoa Luật-
Đại học Quốc gia Hà Nội ; “Những vấn đề bất cập về tập đoàn kinh tế theo
Luật doanh nghiệp 2005” Đoàn Trung Kiên , Vũ Phương Đông - tạp chí luật

10
học số 9-2010; “Bất cập trong các quy định liên quan tập đoàn kinh tế và việc
sử dụng tên gọi “tập đoàn” ở Việt Nam hiện nay – kiến nghị sửa đổi” Ngô
Hồng Quang – tạp chí khoa học pháp lý số 1- 2010; “Về địa vị pháp lý của
tập đoàn kinh tế nhà nước” PGS.TS. Trần Văn Nam – PGS.TS.Nguyễn Thế
Quyền- kỷ yếu hội thảo về Tập đoàn kinh tế nhà nước, Đại học kinh tế quốc
dân ngày 19/7/2011; “Những vấn đề rút ra từ thí điểm mô hình tập đoàn kinh
tế” Trần Thị Lan Hương – tạp chí tổ chức nhà nước số 8 -2010; “Hoàn thiện
pháp luật về tập đoàn kinh tế nhà nước” PGS.TS Nguyễn Thế Quyền – Tạp
chí nghiên cứu lập pháp số 13/2011…và một số bài viết khác có đề cập đền
thực trạng và giải pháp hoàn thiện mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước.
Tuy nhiên, theo chúng tôi chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập
một cách toàn diện về pháp luật tập đoàn kinh tế ở Việt Nam hiện nay, cũng
như đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật tập đoàn kinh tế nhà nước
một cách cụ thể.
3. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng những quan điểm cơ bản
của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới nhằm xây dựng và phát

triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mọi tiềm
năng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Luận văn
vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận của triết học Mác - Lênin, của lý
luận nhà nước và pháp luật trong điều kiện cơ chế kinh tế mới. Trong đó, luận
văn đặc biệt chú ý vận dụng phương pháp biện chứng, phương pháp lịch sử để
phân tích, so sánh, đối chiếu, tổng hợp trong quá trình giải quyết những vấn
đề mà đề tài đặt ra.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Căn cứ vào quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trường, nâng cao sức mạnh và khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế nhà nước trong môi

11
trường kinh doanh. Từ thực tiễn xây dựng pháp luật trong thời gian qua, mục
đích nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ quan niệm về khung pháp luật,
vai trò của khung pháp luật Việt Nam về Tập đoàn kinh tế nhà nước, để Tập
đoàn kinh tế nhà nước vận hành một cách đồng bộ và hợp lý.Trên cơ sở đó,
tìm ra những phương hướng, giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện khung
pháp luật thị về Tập đoàn kinh tế nhà nước.
Xuất phát từ yêu cầu của đề tài là nghiên cứu pháp luật và đề ra một số
giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về TĐKT nhà nước nên luận văn đưa
ra cơ cấu cơ bản của pháp luật về TĐKT nhà nước nói chung, đánh giá thực trạng
pháp luật điều chỉnh mô hình kinh doanh này ở nước ta hiện này, tìm ra những
những nội dung còn thiếu hoặc chưa đạt yêu cầu so với tiêu chuẩn đã chọn.
Những nội dung chưa có, chưa hoàn chỉnh, cần phải xây dựng mới hoặc tiếp
tục xây dựng cho hoàn chỉnh thêm. Những nội dung đã đạt yêu cầu bước đầu,
cần phải tiếp tục giữ vững và hoàn thiện cùng với yêu cầu thực tế.
Để thực hiện mục đích nêu trên, nhiệm vụ của luận văn là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về Tập đoàn kinh tế nhà nước như là
đối tượng điều chỉnh của pháp luật về Tập đoàn kinh tế nhà nước.

- Nghiên cứu, lý giải khái niệm pháp luật về Tập đoàn kinh tế nhà nước;
từ đó xác định vai trò của pháp luật đối với việc hình thành và phát triển Tập
đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích, đánh giá thực trạng những nội dung cơ bản của pháp luật
Việt Nam về Tập đoàn kinh tế nhà nước. Đây cũng chính là những thành tựu
đã đạt được cũng như một số vấn đề còn tồn tại của quá trình xây dựng pháp
luật về Tập đoàn kinh tế nhà nước ở nước ta trong thời gian qua.
- Đề ra những định hướng, giải pháp nhằm xây dựng và hoàn thiện pháp
luật Việt Nam về Tập đoàn kinh tế nhà nước.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

12
Tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam hiện nay là mô hình kinh doanh
mới được thành lập khoảng 6 năm trở lại đây. Từ khi được thành lập tới nay,
đã có một số vụ bê bối lớn của các Tập đoàn kinh tế nhà nước xảy ra nên đây
là mô hình kinh doanh được coi là nhạy cảm trong thời gian này. Mô hình này
có quan hệ mật thiết với nhiều lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội và pháp luật.
Pháp luật đươc coi là phương tiện quan trọng nhất đảm bảo cho Tập đoàn kinh
tế vận hành bình thường và phát huy tác dụng. Luận văn tập trung nghiên cứu
trong khuôn khổ những quy định pháp luật có ảnh hưởng trực tiếp tới Tập
đoàn kinh tế nhà nước mà không nghiên cứu toàn bộ vấn đề liên quan tới cơ
chế kinh tế và cũng không nghiên cứu những yếu tố ảnh hưởng gián tiếp tới
Tập đoàn kinh tế nhà nước. Khái niệm pháp luật Tập đoàn kinh tế nhà nước
được đề cập trong luận văn là khái niệm tổng hợp chỉ tổng thể các nguyên tắc
pháp lý cơ bản của pháp luật Việt Nam về Tập đoàn kinh tế nhà nước cùng
tổng thể các qui phạm pháp luật thuộc nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau có
quan hệ trực tiếp đến quá trình hình thành, phát triển và hoạt động của Tập
đoàn kinh tế nhà nước.
Khi nghiên cứu pháp luật Việt Nam về Tập đoàn kinh tế nhà nước, luận
văn cũng tập trung nghiên cứu những nội dung có liên quan trực tiếp nhất đến

sự hình thành và hoạt động của Tập đoàn kinh tế nhà nước. Vì vậy, hướng
nghiên cứu của luận văn luôn bám sát những yêu cầu của Tập đoàn kinh tế
nhà nước mà pháp luật cần phải thể chế hoá và đảm bảo thực hiện.
Tác giả luận văn cũng nhận thức được, để hoàn thiện pháp luật Việt Nam
về tập đoàn kinh tế nhà nước, cần phải giải quyết nhiều vấn đề thuộc nhiều
lĩnh vực khác nhau như cải cách bộ máy hành chính, nâng cao năng lực quản
lý của đội ngũ cán bộ, cải cách thủ tục hành chính Đó là những vấn đề rất
phức tạp cần phải được tiếp tục nghiên cứu ở các công trình khoa học pháp lý
tiếp theo.
6. Ý nghĩa của đề tài

13
- Khẳng định vai trò to lớn của mô hình tập đoàn kinh tế trong quá trình
hội nhập nền kinh tế của Việt Nam hiện nay.
- Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động, thực trạng về pháp luật điều
chỉnh mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước hiện nay, từ đó đề xuất các giải
pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của mô hình
kinh tế này.
- Kết quả nghiên cứu đề tài này, có thể là liệu tham khảo cho những nhà
lập pháp để đưa ra các quy định pháp luật mang tính tối ưu điều chỉnh hoạt
động của mô hình Tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
7. Điểm mới và kết quả mong muốn:
Luận văn có những điểm mới sau:
- Luận văn là công trình nghiên cứu ở cấp độ Thạc sĩ luật học một cách
tương đối có hệ thống lý luận pháp luật Việt Nam về tập đoàn kinh tế
Nhà nước. Cụ thể là:
+ Luận văn đã hệ thống các nguyên tắc pháp lý cơ bản chi phối toàn bộ
pháp luật về Tập đoàn kinh tế nhà nước.
+ Luận văn đã khái quát, hệ thống các văn bản pháp luật trong việc điều
chỉnh mô hình Tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam hiện nay.

- Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về Tập
đoàn kinh tế nhà nước.
- Luận văn phân tích và đánh giá về việc làm ăn thua lỗ của Tập đoàn
Vinashin vừa qua, và rút ra bài học kinh nghiệm chung cho cách quản lý và
hoạt động của các Tập đoàn kinh tế nhà nước.
- Luận văn đề xuất một số giải pháp hoàn thiện những nội dung pháp luật
quan trọng có liên quan trực tiếp đến việc vận hành và phát triển Tập đoàn
kinh tế nhà nước ở Việt Nam.
8. Kết cấu của đề tài

14
Ngoài phần mở đầu, danh mục các từ viết tắt, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung luận văn bao gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về tập đoàn kinh tế nhà nước.
Chương 2: Thực trạng về pháp luật Tập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt
Nam hiện nay.
Chương 3: Quan điểm, phương hướng, giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật Việt Nam về Tập đoàn kinh tế nhà nước



















15
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHÀ NƢỚC
1.1. Khái quát chung về tập đoàn kinh tế nhà nƣớc
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế nhà nƣớc
ở Việt Nam.
Vào những thập niên 70, 80 của thế kỷ trước tại các nước xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô cũ đã bắt đầu có phong trào hình thành các Liên
hiệp xí nghiệp theo ngành nghề trong mọi ngành kinh tế. Những ngành nghề
này, được thúc đẩy để tạo điều kiện tích lũy tài sản, công cụ sản xuất, vốn sản
xuất. Đây là quy trình chuyển biến tất yếu của sự tích tụ vật chất để tăng hơn
nữa hiệu quả kinh tế, trình độ kĩ thuật, tập trung nguồn lực đầu tư vào nhiều
mục đích hợp lý khác trong xã hội.
Vì sự hợp lý của các mục tiêu và hiệu quả mà nó mang lại nên các Liên
hiệp xí nghiệp hay các tổng công ty ở Đông Âu và Liên Xô cũ phát triển rất
nhanh và không thể cưỡng lại, hình thành các tổ chức kinh tế siêu lớn nhiều
tầng lớp lên đến các bộ ngành, đối trọng lại với các tập đoàn kinh tế quốc gia
và siêu quốc gia của các nước Tư bản chủ nghĩa trong môi trường của chiến
tranh lạnh.
Có thể nói, ở mỗi thời kỳ phát triển nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam chúng ta có các cách gọi tên mô hình kinh tế khác nhau, nhưng xét về
bản chất kinh tế của doanh nghiệp thì mô hình sơ khai của Tập đoàn kinh tế,
Tổng công ty nhà nước được hình thành từ Nghị quyết Trung ương 3, khoá IV
của Đảng với tên gọi: "Liên hiệp các xí nghiệp", là "trong công nghiệp, ở
những nơi có điều kiện cần tổ chức các liên hiệp xí nghiệp có đủ quyền hạn và

trách nhiệm là những đơn vị kế hoạch, đơn vị kinh doanh của ngành ".
Như vậy, ngay từ đầu chúng ta đã khẳng định sự tôn trọng quy luật khách
quan của nền kinh tế, bước đầu hình thành ý tưởng tách quản lý nhà nước với
sản xuất kinh doanh, xác định rõ nhiệm vụ, mục tiêu mới của mô hình sản
xuất mới trong các doanh nghiệp. Sau một thời gian ngắn tổ chức thực hiện,

16
Hội nghị Trung Ương 6, khoá IV tiếp tục cụ thể hoá quá trình tổ chức liên
hiệp xí nghiệp ,tổ chức sản xuất phải theo hướng từng bước thực hiện tập
trung hoá, chuyên môn hoá, hiệp tác hoá và liên hiệp hoá nhằm đạt hiệu quả
kinh tế cao. Các liên hiệp xí nghiệp phải hoạt động theo nguyên tắc hạch toán
kinh tế. Việc tổ chức liên hiệp các xí nghiệp phải được tiến hành chu đáo,
vững chắc, đạt hiệu quả kinh tế thiết thực, không để trở thành cấp trung gian
hình thức.
Lần đầu tiên cụm từ "Tập đoàn kinh tế" được xuất hiện trong Nghị quyết
đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII: "Nhà nước hỗ trợ, khuyến
khích và thực hiện từng bước vững chắc, phù hợp với yêu cầu phát triển của
nền kinh tế, việc đổi mới các liên hiệp xí nghiệp, các tổng công ty theo hướng
tổ chức các tập đoàn kinh tế, khắc phục tính chất hành chính trung gian". [7]
Việc nghiên cứu và tìm hiểu quá trình hình thành, sử dụng cụm từ "Tập
đoàn kinh tế" trong các nghiên cứu, văn kiện của Đảng chính là cơ sở để có
thể đưa ra những nhận xét, những đánh giá khách quan về mô hình tổ chức
sản xuất này. Như một số đoạn trích đã nêu trên, chứng tỏ tư duy về mô hình
tổ chức sản xuất của nhóm doanh nghiệp cũng phát triển với quá trình đổi mới
tư duy kinh tế phù hợp với thực tế phát triển lực lượng sản xuất, phát triển đời
sống xã hội và bối cảnh kinh tế quốc tế. Muốn thực hiện công nghiệp hoá theo
hướng hiện đại đất nước thì phải đẩy mạnh quá trình tích tụ, tích lũy và tập
trung nguồn lực, nguồn vốn lớn. Tương ứng với quá trình này là những doanh
nghiệp có quy mô ngày một lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong
nước và quốc tế. Năm 1994, Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 91/TTg -

ngày 7-3-1994, về việc thí điểm thành lập Tập đoàn kinh tế kinh doanh dựa
trên các xí nghiệp, công ty cũ. Ý tưởng thành lập các tổng công ty lớn để từ đó
pháp triển thành các Tập đoàn kinh tế là của nguyên Thủ tướng chính phủ Võ
Văn Kiệt.

17
Trên cơ sở quyết định này, 18 Tổng công ty thường được gọi là TCT91
được thành lập. Các tổng công ty (TCT) được thiết lập trong hàng loạt các
ngành, một số trường hợp các tổng công ty chiếm toàn ngành. Tuy nhiên, hoạt
động của nhiều tổng công ty nhà nước còn thiếu năng động, linh hoạt trong
kinh doanh, vẫn với cung cách làm ăn cũ, chất lượng sản phẩm chưa được cải
tiến đáng kể so với chất lượng của các sản phẩm cùng loại trên thị trường, sản
lượng thấp. Ý tưởng về tập đoàn kinh tế được Thủ tướng Chính phủ đưa ra
ngay từ khi quyết định thành lập TCT 91.
Nhưng phải gần 10 năm sau, đến Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng lần thứ ba, khóa IX (tháng 9-2001) về sắp xếp, đổi mới, phát triển và
nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước thì vấn đề thành lập Tập đoàn kinh
tế nhà nước mới được đề cập một cách cụ thể. Nghị quyết Hội nghị chỉ rõ:
"Hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà
nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành, trong
đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hóa cao và giữ vai trò chi phối lớn
trong nền kinh tế quốc dân, có quy mô rất lớn về vốn, hoạt động cả trong nước
và ngoài nước, có trình độ công nghệ cao và quản lý hiện đại, đào tạo, nghiên
cứu triển khai với sản xuất kinh doanh. Thí điểm hình thành tập đoàn kinh tế
trong một số lĩnh vực có điều kiện, có thế mạnh, có khả năng phát triển để
cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả như: dầu khí, viễn thông,
điện lực, xây dựng…” [8]
Triển khai thực hiện Nghị quyết trên, Chính phủ đã chỉ đạo xây dựng thí
điểm mô hình tập đoàn kinh tế từ đầu năm 2005 nhằm thực hiện các mục tiêu:
1 – Tập trung đầu tư và huy động các nguồn lực hình thành nhóm công ty

có quy mô lớn trong các ngành, lĩnh vực then chốt, phát triển, nâng cao khả
năng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế;

18
2 – Bảo đảm các cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân, ứng dụng công
nghệ cao, tạo động lực phát triển cho các ngành, các lĩnh vực khác và toàn bộ
nền kinh tế; thúc đẩy liên kết trong chuỗi giá trị gia tăng, phát triển các thành
phần kinh tế khác;
3 – Tăng cường quản lý, giám sát có hiệu quả đối với vốn, tài sản nhà
nước đầu tư tại các doanh nghiệp trong tập đoàn;
4 – Tạo cơ sở để hoàn thiện cơ chế chính sách và pháp luật về tập đoàn
kinh tế.
Hội nghị lần thứ IX Ban chấp hành Trung Ương tháng 01 năm 2004 đã
đưa ra định hướng xác định: “Tiếp tục củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt
động của các Tổng công ty nhà nước; tích cực chuẩn bị để hình thành một số
tập đoàn kinh tế mạnh do tổng công ty làm nòng cốt, có sự tham gia mạnh mẽ
của các thành phần kinh tế trong nước và đầu tư của nước ngoài”.
Triển khai Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ ba, khóa
IX (tháng 9-2001) và định hướng của Hội nghị lần thứ IX Ban chấp hành
Trung Ương tháng 01 năm 2004, tháng 11-2005, Tập đoàn kinh tế nhà nước
đầu tiên của nước ta là Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam
(TVN) đã ra đời và đi vào hoạt động, theo Quyết định số 198/2005/QĐ-TTg,
ngày 8-8-2005 của Thủ tướng Chính phủ, về việc thành lập công ty mẹ. Cùng
năm đó, Tổng công ty Dệt may Việt Nam cũng được chuyển thành Tập đoàn
Dệt may Việt Nam; Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam cũng được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt đề án thành lập Tập đoàn Tài chính – Bảo hiểm Bảo
Việt. Tiếp theo đó năm 2006, tổng công ty Bưu chính – Viễn thông Việt Nam
chuyển thành Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam (VNPT), tổng công
ty Dầu khí Việt Nam chuyển thành Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN).
Đầu năm 2007, Thủ tướng Chính phủ có văn bản đồng ý để tổng công ty

Thuốc lá Việt Nam chuyển thành Tập đoàn Thuốc lá Việt Nam; và Tập đoàn

19
Chế tạo cơ khí nặng (do TCT Lắp máy Việt Nam làm nòng cốt); TCT Cao su
Việt Nam chuyển thành Tập đoàn Công nghiệp cao su Việt Nam; đầu năm
2010 Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án thí điểm thành lập Tập đoàn Công
nghiệp Xây dựng Việt Nam, hoạt động theo hình thức công ty mẹ -công ty
con với đơn vị nòng cốt là Tổng công ty Sông Đà và nhiều doanh nghiệp khác
hoạt động trong lĩnh vực tương đồng thuộc Bộ Xây dựng.Tập đoàn Công
nghiệp Xây dựng Việt Nam sẽ kinh doanh đa ngành, trong đó xây dựng và
tổng thầu xây dựng các công trình, chế tạo và sản xuất vật liệu xây dựng là
ngành mũi nhọn, làm nòng cốt để ngành công nghiệp xây dựng Việt Nam phát
triển bền vững, có khả năng cạnh tranh, hoạt động hiệu quả.Về cơ cấu, công ty
mẹ -Tổng công ty Sông Đà là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn
điều lệ, sẽ trực tiếp tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh và đầu tư tài chính
vào công ty con, công ty liên kết. Đồng thời, giữ quyền chi phối các công ty
con thông qua vốn, tài sản được Nhà nước giao quản lý. Để dần hình thành
một tổ chức kinh tế mạnh đa sở hữu, nhưng trong đó sở hữu Nhà nước chiếm
tỷ lệ chi phối. Thủ tướng chỉ đạo Bộ trưởng Bộ Xây dựng phải có quyết định
chuyển giao quyền và nghĩa vụ của đại diện chủ sở hữu nhà nước tại 5 tổng
công ty gồm: Lắp máy Việt Nam, Xây dựng và phát triển hạ tầng, Cơ khí xây
dựng, Cổ phần Sông Hồng, Cổ phần Đầu tư phát triển xây dựng cho Hội đồng
quản trị công ty mẹ - Tập đoàn Sông Đà. Cho đến thời điểm thành lập
(12/1/2010), đã có 29 công ty con do Tập đoàn Sông Đà nắm giữ trên 50%
vốn điều lệ; 16 công ty con do Tập đoàn nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ và 4
tổng công ty do Tập đoàn nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Nhìn chung, các Tập đoàn kinh tế nhà nước được thành lập ở Việt Nam
hiện nay đều là tổ chức lại các tổng công ty nhà nước (các tổng công ty 90 và
91): gồm 10 tập đoàn: Tập đoàn Bưu chính – Viễn thông Việt Nam, Tập đoàn
Công nghiệp Cao su Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Tàu thủy Việt Nam,

Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí quốc
gia Việt Nam, Tập đoàn Dệt may Việt Nam, Tập đoàn Điện lực Việt Nam,

20
Tập đoàn Bảo Việt, Tập đoàn Viễn thông Quân đội, Tập đoàn Hóa chất Việt
Nam. Tổ hợp các doanh nghiệp độc lập có cùng lĩnh vực hoạt động: gồm 2 tập
đoàn là Tập đoàn Công nghiệp Xây dựng Việt Nam được thành lập trên cơ sở
tổ hợp các doanh nghiệp độc lập hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực xây dựng
và cơ khí chế tạo, bao gồm: Tổng công ty Sông Đà, Tổng công ty Sông Hồng,
Tổng công ty Cơ khí Xây dựng, Tổng công ty Đầu tư phát triển xây dựng,
Tổng công ty Lắp máy Việt Nam và Tổng công ty Xây dựng và Phát triển hạ
tầng. Tập đoàn Phát triển nhà và đô thị Việt Nam thành lập trên cơ sở tổ hợp
từ: Tổng công ty Phát triển nhà và đô thị, Tổng công ty Xây dựng Bạch Đằng,
Tổng công ty Xây dựng Hà Nội, Tổng công ty Thủy tinh và Gốm xây dựng,
Tổng công ty Đầu tư xây dựng cấp thoát nước và Môi trường Việt Nam.
Sự phát triển của mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước trải qua một số giai
đoạn, được đánh dấu bởi một số quyết định của Thủ tường chính phủ và văn
bản pháp lý của nhà nước. Như đã nói ở phần trên, mô hình tập đoàn kinh tế
được manh nha từ quyết định 91/TTg ban hành năm 1994. Thế nhưng theo
đánh giá của một nhóm nhà nghiên cứu của viện quản lý kinh tế trung ương
(CIEM) thì mặc dù đây là “văn bản đầu tiên xác lập các tiêu chí về tập đoàn
nhưng chưa đề cập đúng bản chất và đặc thù về mô hình, tổ chức quản lý và
hoạt động của Tập đoàn kinh tế, dẫn đến hoạt động của các tổng công ty chưa
thể phát triển theo mô hình tập đoàn kinh tế”. Vì lý do này nên cho đến năm
2003 – tức là sau gần 10 năm khi ý tưởng về mô hình tập đoàn kinh tế được
tuyên bố chính thức – kết quả hoạt động và tổ chức của các tổng công ty vẫn
chưa đủ mạnh để là cơ sở cho sự hình thành các tập đoàn kinh tế nhà nước.
Theo báo cáo của ban Chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp ngày
15.2.2011, quy mô vốn chủ sở hữu của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước
được xác định là 540.701 tỉ đồng, tăng 11,75% so với năm 2009. Trong khi

đó, tổng lợi nhuận trước thuế là 70.778 tỉ đồng. Như vậy, chỉ tiêu lợi nhuận
trước thuế trên vốn chủ sở hữu chỉ đạt khoảng 13,1%, thấp hơn nhiều so với
lãi suất vay ngân hàng thương mại trong năm vừa qua. [12]

21
Đặc biệt, báo cáo cũng cho biết có đến 80% tổng số lợi nhuận trước thuế
đến từ bốn tập đoàn là Dầu khí, Viễn thông quân đội, Bưu chính viễn thông và
Cao su. Như vậy, ở các tập đoàn, tổng công ty còn lại, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn
chủ sở hữu kể trên còn thấp hơn nữa.
1.1.2. Khái niệm về Tập đoàn kinh tế Nhà nƣớc:
Hiện nay trên thế giới khái niệm Tập đoàn kinh tế vẫn chưa được thống
nhất. Mỗi khu vực trên thế giới có cách sử dụng các thuật ngữ, khái niệm về
tập đoàn kinh tế khác nhau, nhưng chưa có một khái niệm hay thuật ngữ nào
được coi là chuẩn mực. Tại các nước Tây Âu và Bắc Mỹ, khi nói đến Tập
đoàn kinh tế người ta thường sử dụng các cụm từ như: “Consortium”,
“Conglomerate”, “Trust”, “Alliance”, “Syndicate” hay “Group”. Ở một số
nước châu Á, người Nhật thường gọi Tập đoàn kinh tế là “Keiretsu” hoặc
“Zaibatsu” thì người Hàn Quốc lại gọi là “Cheabol”; các Tập đoàn kinh tế ở
Đài Loan được gọi là “Guanxiquiye”, còn ở Trung Quốc, cụm từ “Jituan
Gongsi” được sử dụng để chỉ khái niệm này.
Mặc dù về mặt ngôn ngữ, tùy theo từng nước, người ta có thể dùng nhiều
từ khác nhau để nói về khái niệm TĐKT, song trên thực tế, việc sử dụng từ
ngữ lại phụ thuộc vào nguồn gốc xuất xứ và tính chất đặc trưng của từng loại
Tập đoàn kinh tế.
 Thuật ngữ chỉ về sự liên kết như:
- Group, Business group, Corporate group, Alliance:
Thường ám chỉ hình thức Tập đoàn kinh tế được tổ chức trên cơ sở kết
hợp tính đặc thù của tổ chức kinh tế với cơ chế thị trường: về đặc trưng, đó là
một nhóm công ty có tư cách pháp nhân riêng biệt nhưng lại có mối quan hệ
liên kết về phương diện quản lý. Mối quan hệ giữa các công ty trong một Tập

đoàn kinh tế có thể là chính thức hoặc không chính thức.

22
- Consortium:
Xét về phương diện ngôn ngữ, “Consortium” là một từ gốc Latin có
nghĩa là “đối tác, hiệp hội hoặc hội”, được sử dụng để chỉ sự tập hợp của 2
hay nhiều thực thể nhằm mục đích tham gia vào một hoạt động chung hoặc
đóng góp nguồn lực để đạt được mục tiêu chung. Khi tham gia vào một
Consortium, các công ty vẫn giữ nguyên tư cách pháp nhân độc lập của mình.
Thông thường, vai trò kiểm soát của Consortium đối với các công ty
thành viên chủ yếu giới hạn trong các hoạt động chung của cả tập đoàn, đặc
biệt là việc phân phối lợi nhuận. Sự ra đời của một Consortium được xác lập
trên cơ sở hợp đồng, trong đó quy định rõ các quyền và nghĩa vụ của từng
công ty thành viên tham gia Consortium;
 Tập đoàn kinh doanh chuyên sâu như:
Tập đoàn dầu khí, tập đoàn tài chính - ngân hàng, tập đoàn truyền
thông, tập đoàn xây dựng, tập đoàn dịch vụ du lịch, tập đoàn nhà hàng –
khách sạn… Đây là những tập đoàn kinh tế chuyên kinh doanh trong một lĩnh
vực, ngành nghề nhất định.
 Theo phạm vi hoạt động:
Là các tập đoàn đa quốc gia nếu tập đoàn đó có cơ sở kinh doanh ở các
quốc gia khác nhau; hoặc các doanh nghiệp có thể dựa trên sự liên kết kiểu gia
đình như dạng Family Business (như của Ford, Motorola, Cargill…).
Tuy có sự khác nhau về thuật ngữ và nội dung chuyển tải, nhưng các khái
niệm “Tập đoàn kinh tế” trên thế giới đều được hiểu là một cơ cấu, hoặc một
tổ hợp, một nhóm các doanh nghiệp có quan hệ với nhau về vốn, quản trị,
công nghệ, thương hiệu, thị trường, ngành nghề, phân phối lợi ích… mối quan

23
hệ này dựa trên nhiều yếu tố khác nhau nhưng chủ yếu trên ba nền tảng của

quan hệ:
- Sở hữu vốn của công ty mẹ đối với công ty con, công ty “cháu”, hoặc
sở hữu vốn của các công ty với nhau trong cùng một tập đoàn nhưng theo các
mức độ khác nhau, có thể như kiểm soát, chi phối hoặc góp vốn đầu tư vào
các công ty này một cách đơn thuần.
- Quản trị công ty mẹ đối với các công ty con thông qua việc cử người
đại diện cho phần vốn góp và xây dựng hệ quản trị chung cho các tập đoàn.
Theo đó các công ty trong tập đoàn kinh tế (dù bị chi phối hay không bị chi
phối về vốn) cam kết chấp thuận hệ quả quản trị tập đoàn và tuân thủ theo hệ
quản trị tập đoàn để xây dựng giá trị cốt lõi, mục tiêu dài hạn và sứ mệnh của
tập đoàn.
- Quan hệ thương hiệu thể hiện khá rõ nét khi các công ty liên kết trong
tập đoàn sử dụng hoặc được phép sử dụng chung thương hiệu của công ty mẹ.
Do đó các quyết định của công ty mẹ đối với các công ty con cũng như các
công ty thành viên trong tập đoàn (thường ám chỉ chung là quyết định của tập
đoàn) không chỉ đơn thuần dựa vào “lá phiếu” biểu quyết mà còn thông qua
các hình thức khác như các nguyên tắc quản trị tập đoàn, các kế hoạch, định
hướng, sứ mệnh, giá trị cốt lõi và quy định nội bộ khác của tập đoàn bao quát
toàn bộ cấu trúc hoạt động chung của cả tập đoàn.
Các nhà kinh tế học trên thế giới cũng đưa ra nhiều định nghĩa về TĐKT:
“Tập đoàn kinh tế là một tập hợp các công ty hoạt động kinh doanh trên
các thị trường khác nhau dưới sự kiểm soát về tài chính hoặc quản trị chung,
trong đó các thành viên của chúng ràng buộc với nhau bằng các mối quan hệ
tin cậy lẫn nhau trên cơ sở sắc tộc hoặc bối cảnh thương mại”(Leff, 1978);

24
“Tập đoàn kinh tế là một hệ thống công ty hợp tác thường xuyên với
nhau trong một thời gian dài” (Powell & Smith- Doesrr, 1934);
“Tập đoàn kinh tế dựa trên hoạt động cung ứng sản phẩm dịch vụ thông
qua mối ràng buộc trung gian, một mặt ngăn ngừa sự liên minh ngắn hạn ràng

buộc đơn thuần giữa các công ty, mặt khác ngăn ngừa một nhóm công ty sát
nhập với nhau thành một tổ chức duy nhất” (Granovette, 1994).
Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động hội
nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế, việc cơ cấu sắp xếp lại các
doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé, hoạt động manh mún thành những doanh
nghiệp lớn không chỉ có đủ khả năng trở thành đối tác mà còn có thể cạnh
tranh với các Tập đoàn kinh tế của nước ngoài trở thành một yêu cầu hết sức
cấp thiết và phù hợp với quy luật phát triển.
Tại nhiều nước trên thế giới, Tập đoàn kinh tế đã có bề dày lịch sử phát
triển từ hàng trăm năm nay và trở thành một trong những nhân tố quan trọng
thúc đẩy sự phát triển của kinh tế quốc dân.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, khái niệm Tập đoàn kinh tế mới chỉ được nhắc
đến nhiều trong thập niên cuối của thế kỷ trước. Có lẽ vì thế mà những nghiên
cứu về Tập đoàn kinh tế ở nước ta cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn vẫn còn rất
hạn chế. Ở Việt Nam, hiện nay vẫn chưa có khái niệm chính xác về tập đoàn
kinh tế, mà thực chất xung quanh vấn đề này còn rất nhiều tranh cãi và chưa
được thống nhất, nhiều quan điểm đã được đưa ra.
Theo Luật Doanh nghiệp 2005 được sửa đổi bổ sung năm 2009 thì Tập
đoàn kinh tế được xếp là một thành phần trong nhóm công ty, cụ thể như sau:
Điều 146 quy định: "Nhóm công ty là tập hợp các công ty có mối quan
hệ gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ thị trường và các dịch

25
vụ kinh doanh khác. Thành phần của nhóm công ty gồm có: Công ty mẹ, công
ty con, tập đoàn kinh tế, các hình thức khác."
Điều 149 quy định: “Tập đoàn kinh tế là nhóm công ty có quy mô lớn,
chính phủ quy định hướng dẫn tiêu chí tổ chức quản lý và hoạt động của tập
đoàn kinh tế”
Ngoài các quy định trong Luật và nghị định còn có các quan điểm khác
về Tập đoàn kinh tế:

Theo từ điển bách khoa toàn thư mở: Khái niệm tập đoàn kinh tế được hiểu
là một tổ hợp lớn các doanh nghiệp có tư cách pháp nhân hoạt động trong
một hay nhiều ngành khác nhau, có quan hệ về vốn, tài chính, công nghệ,
thông tin, đào tạo, nghiên cứu và các liên kết khác xuất phát từ lợi ích của các
bên tham gia. Trong mô hình này, "công ty mẹ" nắm quyền lãnh đạo, chi phối
hoạt động của "công ty con" về tài chính và chiến lược phát triển. [34]
Theo từ điển bách khoa toàn thư mở: Mô hình tập đoàn là một hình thái tổ
chức giữa các doanh nghiệp. Còn nhiều quan niệm khác nhau về tập đoàn,
song cũng có một điểm chung nhất là: Tập đoàn doanh nghiệp là tổ chức kinh
tế có kết cấu tổ chức nhiều cấp, liên kết nhau bằng quan hệ tài sản và quan hệ
hợp tác nhằm đáp ứng đòi hỏi của nền sản xuất hàng hóa; các doanh nghiệp
trong tập đoàn đều có pháp nhân độc lập.[34]
Tuy nhiên để đưa ra khái niệm về tập đoàn kinh tế, chúng ta nên dựa vào
quy định chính thức của pháp luật do nhà nước ban hành. Theo điều 38 Nghị
định 102/ 2010/NĐ - CP hướng dẫn thi hành một số điều luật doanh nghiệp đã
hướng dẫn bổ sung về khái niệm tập đoàn kinh tế như sau:
“ Tập đoàn kinh tế bao gồm nhóm các công ty có quy mô lớn, có tư cách
pháp nhân độc lập, được hình thành trên cơ sở tập hợp, liên kết thông qua
đầu tư, góp vốn, sáp nhập, mua lại, tổ chức lại, hoặc các hình thức gắn bó
liên kết khác; gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường

26
và các dịch vụ kinh doanh khác tạo thành tổ hợp kinh doanh có từ hai cấp
doanh nghiệp trở lên, dưới hình thức công ty mẹ công ty con.
Tập đoàn kinh tế không có tư cách pháp nhân, không phải đăng ký kinh
doanh theo quy định của luật doanh nghiệp, việc tổ chức hoạt động của tập
đoàn do các công ty thành lập tập đoàn tự nguyện thoả thuận quyết định”
Công ty mẹ trong Tập đoàn kinh tế được tổ chức dưới hình thức công ty
cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn, đáp ứng điều kiện nêu tại khoản
15 Điều 4 của Luật Doanh nghiệp (một công ty được coi là công ty mẹ của

công ty khác nếu thuộc một trong các trường hợp: Sở hữu trên 50% vốn điều
lệ hoặc tổng số cổ phần phổ thông đã phát hành của công ty đó; có quyền trực
tiếp hoặc gián tiếp bổ nhiệm đa số hoặc tất cả thành viên Hội đồng quản trị,
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của công ty đó; Có quyền quyết định việc sửa
đổi, bổ sung Điều lệ của công ty đó).
Công ty con được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty
trách nhiệm hữu hạn theo quy định của Luật Doanh nghiệp hoặc của pháp luật
liên quan. Công ty mẹ, công ty con và các công ty khác hợp thành tập đoàn
kinh tế có các quyền, nghĩa vụ, cơ cấu tổ chức quản lý và hoạt động phù hợp
với hình thức tổ chức doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp,
pháp luật liên quan và Điều lệ công ty.
Cụm từ "tập đoàn" có thể sử dụng như một thành tố phụ trợ cấu thành
nên tên riêng của công ty mẹ, phù hợp với những quy định từ Điều 31 đến
Điều 34 của Luật Doanh nghiệp sửa đổi bổ sung năm 2009 về các yêu cầu đặt
tên doanh nghiệp.
Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ báo cáo tài chính hợp nhất, giám sát hoạt
động tài chính của Tập đoàn kinh tế, của nhóm công ty mẹ - công ty con thuộc
Tập đoàn kinh tế.
Bộ Công Thương hướng dẫn việc giám sát các tập đoàn kinh tế, nhóm
công ty mẹ - công ty con thuộc tập đoàn kinh tế thực hiện các quy định về hạn

×