Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Sự hỗ trợ của tòa án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 95 trang )


1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TỐNG VÂN HUYỀN





SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN
ĐỐI VỚI GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
BẰNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC






HÀ NỘI - 2011




2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



TỐNG VÂN HUYỀN



SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN
ĐỐI VỚI GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
BẰNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI Ở VIỆT
NAM

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Viết Tý


HÀ NỘI - 2011




3
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VÀ
SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
5
1.1.
Sự hình thành và phát triển của trọng tài thương mại

5
1.1.1.
Khái quát chung về trọng tài thương mại
5
1.1.2.
Đặc điểm trọng tài thương mại
7
1.1.3.
Các hình thức trọng tài thương mại
10
1.1.4.
Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng
tài thương mại
15
1.1.5.
Ưu điểm và nhược điểm của trọng tài thương mại so với
phương thức thương lượng, hòa giải và tòa án
16
1.2.
Khái quát sự hỗ trợ của tòa án đối với giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài thương mại
18
1.2.1.
Đối với việc thay đổi trọng tài viên
19
1.2.2.
Xem xét khiếu nại và giải quyết khiếu nại quyết định của Hội
đồng trọng tài về thẩm quyền
20
1.2.3.

Về việc triệu tập người làm chứng
21
1.2.4.
Về thủ tục áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
21
1.2.5.
Đăng ký phán quyết trọng tài vụ việc
25
1.2.6.
Hủy phán quyết trọng tài
26
1.2.7.
Một số vấn đề cần được lưu ý trong quá trình tòa án giải
quyết quyết các vụ việc liên quan tới trọng tài thương mại
30

Chương 2: THỰC TRẠNG VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI VÀ SỰ
HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
33

4
2.1.
Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng Trọng tài thương
mại tại Việt Nam
33
2.1.1.
Thực trạng Pháp luật Trọng tài thương mại tại Việt Nam
33
2.1.2.

Thực tiễn áp dụng pháp luật Trọng tài thương mại tại Việt Nam
36
2.1.3.
Những điểm hạn chế của pháp lệnh trọng tài thương mại
năm 2003
42
2.2.
Thực trạng sự hỗ trợ của Tòa án đối với việc giải quyết tranh
chấp bằng con đường Trọng tài thương mại tại Việt Nam
56
2.2.1.
Thực trạng sự hỗ trợ của tòa án đối với giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài thương mại tại Việt Nam
56
2.2.2.
Những hạn chế của Pháp lệnh trọng tài thương mại trong vấn
đề hỗ trợ của tòa án đối với trọng tài thương mại
59

Chương 3: ĐỔI MỚI NHẬN THỨC VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
VÀ SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
71
3.1.
Đổi mới nhận thức về trọng tài thương mại trong giải quyết
tranh chấp
71
3.1.1
Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Trọng tài
71

3.1.2.
Thỏa thuận trọng tài
72
3.1.3.
Một số điểm mới về quy định trọng tài viên
74
3.1.4.
Một số điểm tiến bộ khác
74
3.2.
Đổi mới nhận thức về sự hỗ trợ của tòa án đối với giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thương mại
76
3.2.1.
Hỗ trợ của Tòa án trong việc thu thập chứng cứ và áp dụng
các biện pháp khẩn cấp tạm thời
77
3.2.2.
Hỗ trợ của Tòa án trong việc xác định thẩm quyền của Trọng tài
82
3.2.3.
Hỗ trợ trong việc triệu tập nhân chứng
83
3.2.4.
Hủy quyết định Trọng tài
84

KẾT LUẬN
86


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
88

5
Danh môc c¸c b¶ng

Sè hiÖu
b¶ng
Tªn b¶ng
Trang
2.1
Số lượng vụ tranh chấp thương mại do các tổ chức trọng
tài thương mại Việt Nam giải quyết
41

























6
MỞ ĐẦU

1. Cơ sở khoa học và thực tiễn của đề tài
Trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay, khi các doanh nghiệp ngày
càng có điều kiện được thành lập với nhiều hình thức khác nhau và trong
nhiều ngành nghề khác nhau thì việc liên kết, hợp tác hay thậm chí là cạnh
tranh nhau đang ngày càng trở nên phổ biến. Bên cạnh những hợp đồng hợp
tác, những giao kết "thuận buồm xuôi gió" vẫn còn tồn tại khá nhiều những
mâu thuẫn, bất đồng thậm chí vi phạm quyền lợi lẫn nhau giữa các doanh
nghiệp. Từ đó gây ra những thiệt hại cho các bên và cho cả nền kinh tế thị
trường. Chính vì vậy, thuật ngữ "tranh chấp thương mại" hay "tranh chấp kinh
doanh" đã là thuật ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế xã hội ở các nước
trên thế giới và mới được sử dụng rộng rãi, phổ biến ở nước ta trong mấy năm
gần đây.
Tranh chấp thương mại là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên
diễn ra trong hoạt động của nền kinh tế thị trường. Do tính chất thường xuyên
cũng như hậu quả của nó gây ra cho các chủ thể tham gia tranh chấp nói riêng
và cho cả nền kinh tế nói chung, pháp luật Việt Nam cũng đã sớm có những
quan tâm nhất định đến hoạt động này, cũng như các phương thức giải quyết
nó thể hiện thông qua các quy định cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật.
Trọng tài thương mại ra đời và phát triển từ rất sớm, ở nhiều nước có

nền kinh tế thị trường phát triển thì phần lớn các tranh chấp phát sinh trong
hoạt động thương mại thường được giải quyết thông qua phương thức trọng
tài. Trọng tài thương mại là hình thức giải quyết tranh chấp khá phổ biến trên
thế giới, nhất là tại những nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Tại Việt
Nam, tuy mới được hình thành, nhưng trọng tài cũng được khuyến khích sử
dụng trong một loạt các luật như Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Doanh
nghiệp Giải quyết tranh chấp thương mại bằng hình thức trọng tài có 4 ưu

7
thế so với giải quyết bằng con đường tòa án. Thứ nhất là thủ tục giải quyết
đơn giản và nhanh. Thứ hai là bảo đảm bí mật (xử kín). Điều này rất quan
trọng đối với DN vì nó liên quan đến vấn đề uy tín, thương hiệu của DN. Thứ
ba, các trọng tài viên là những chuyên gia hàng đầu. Ưu thế thứ tư, xét xử
bằng cơ chế trọng tài chỉ một lần nên nó là chung thẩm. Quyết định của trọng
tài buộc các bên phải thi hành ngay, nếu không sẽ được chuyển sang cơ quan
thi hành án dân sự thi hành.
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp thương mại một cách
nhanh chóng, hiệu quả và cũng làm giảm bớt gánh nặng cho tòa án. Trong
thực tế, vì Trọng tài là một cơ quan phi Chính phủ nên vẫn cần có sự trợ
giúp của Tòa án. Tòa án hỗ trợ giám sát rất lớn đối với việc thực thi các
phán quyết của trọng tài, hỗ trợ trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp
tạm thời… Có thể nói trọng tài không thể hoạt động tốt nếu thiếu sự hỗ trợ
của tòa án. Vì vậy việc nghiên cứu những vấn đề lý luận chung, thực trạng
về trọng tài và sự hỗ trợ của tòa án đối với hoạt động trọng tài là cần thiết
trong giai đoạn hiện nay để đảm bảo cho việc giải quyết tranh chấp bằng con
đường trọng tài thực sự đạt hiệu quả. Chính vì vậy tác giả chọn đề tài "Sự hỗ
trợ của toà án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại ở
Việt Nam" để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ trước đến nay cũng đã có một số bài báo, bài viết về vấn đề này

nhưng cũng chỉ nói chung mà chưa đi sâu nghiên cứu chi tiết pháp luật về
trọng tài thương mại, bản chất thỏa thuận trọng tài cũng như thực trạng về
thỏa thuận trọng tài thương mại ở nước ta. Trong xu thế hội nhập hiện nay,
việc nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề này mang ý nghĩa lý luận và
thực tiễn sâu sắc. Những giải pháp của đề tài hy vọng sẽ đem lại những kết
quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật về trọng tài của
Việt Nam.

8
3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
Trong nội dung trình bày đề tài sẽ tập trung nghiên cứu lý luận chung
về trọng tài thương mại và sự hỗ trợ của tòa án đối với hoạt động trọng tài,
sau đó tác giả sẽ đưa ra những nhận xét, đánh giá thực trạng pháp luật về sự
hỗ trợ của tòa án đối với hoạt động trọng tài về 5 nội dung:
- Tòa án hỗ trợ trong việc thi hành thỏa thuận trọng tài
- Sự hỗ trợ của tòa án trong việc lựa chọn trọng tài viên
- Tòa án xem xét lại quyết định của Hội đồng trọng tài về tính hợp
pháp của thỏa thuận trọng tài, về thẩm quyền trong việc giải quyết tranh chấp.
- Sự hỗ trợ của tòa án trong việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời
- Sự hỗ trợ của tòa án trong việc hủy quyết định của trọng tài
Qua đó nêu lên những điểm đổi mới hoàn thiện của Luật Trọng tài
thương mại.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu cả hai phương diện lý luận và thực tiễn về sự hỗ trợ
của tòa án đối với việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng con đường
trọng tài thương mại tại Việt Nam. Trước tiên, nghiên cứu về trọng tài thương
mại, thực trạng và sự phát triển của trọng tài thương mại nói chung. Sau đó
tập trung nghiên cứu và đưa ra quan điểm đổi mới hoàn thiện pháp luật về sự
hỗ trợ của tòa án và thực trạng sự hỗ trợ của tòa án đối với việc giải quyết
tranh chấp bằng con đường trọng tài thương mại ở nước ta.

Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp lý luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đồng thời cũng kết hợp với các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp,
so sánh… để nghiên cứu.

9
5. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Nghiên cứu đề tài này, luận văn có những đóng góp mới về mặt khoa
học trên những khía cạnh chủ yếu sau:
Thứ nhất: Tiếp tục hoàn thiện cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về thỏa thuận trọng tài thương mại ở
Việt Nam
Thứ hai: Luận văn đi sâu phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về
thỏa thuận trọng tài thương mại thông qua một số ví dụ cụ thể.
Thứ ba: Đưa ra quan điểm đổi mới nhận thức về trọng tài thương mại
và sự hỗ trợ của tòa án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương
Chương 1: Lý luận chung về Trọng tài thương mại và sự hỗ trợ của
Tòa án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
Chương 2: Thực trạng về trọng tài thương mại và sự hỗ trợ của Tòa án
đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại tại Việt Nam.
Chương 3: Đổi mới nhận thức về trọng tài thương mại và sự hỗ trợ
của tòa án đối với giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.

10
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
VÀ SỰ HỖ TRỢ CỦA TÒA ÁN ĐỐI VỚI GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP

BẰNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI

1.1. Sự hình thành và phát triển của trọng tài thƣơng mại
1.1.1. Khái quát chung về trọng tài thương mại
Thực tiễn thương mại trên thế giới đã chứng tỏ rằng, trọng tài là một
phương thức hữu hiệu để giải quyết tranh chấp. Phương thức này đã xuất hiện
từ lâu và ngày càng phổ biến trong đời sống kinh tế ở khắp nơi trên thế giới.
Khái niệm trọng tài được nghiên cứu dưới rất nhiều bình diện khác nhau trong
khoa học pháp lý và hiện nay cũng có rất nhiều cách tiếp cận về khái niệm
này. Trọng tài với tư cách là một phương thức giải quyết tranh chấp là cách
tiếp cận chủ yếu của hệ thống các quy định pháp luật về trọng tài.
Theo cuốn "Đại từ điển kinh tế thị trường" thì Trọng tài làm một
phương thức giải quyết một cách hòa bình các vụ tranh chấp. Là chỉ đôi bên
đương sự tự nguyện đem những sự việc, những vấn đề tranh chấp giao cho
bên thứ ba có tư cách công bằng chính trực xét xử, lời phán quyết do người
này đưa ra có hiệu lực ràng buộc với cả hai bên.
Theo Luật mẫu của UNCITRAL - một văn bản nhiều nước tiếp nhận
khi xây dựng luật trọng tài thì Trọng tài nghĩa là mọi hình thức trọng tài có
hoặc không có sự giám sát của tổ chức.
Theo Hội đồng trọng tài Mỹ (AAA) thì Trọng tài là cách thức giải
quyết tranh chấp bằng cách đệ trình vụ tranh chấp cho một số người khách
quan xem xét giải quyết và họ sẽ đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt
buộc các bên tranh chấp phải thi hành.

11
Theo cuốn "Đạo đức và kỹ năng hành nghề luật sư trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" do PGS.TS Lê Hồng Hạnh làm chủ
biên thì Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp theo đó hai hay nhiều
bên đưa vụ tranh chấp của họ ra trước bên thứ ba trung lập để chủ thể này tiến
hành giải quyết tranh chấp theo những thủ tục đặc trưng của quá trình đó.

Theo Nghị định 116/CP ngày 5/9/1994 về tổ chức và hoạt động của
trọng tài kinh tế thì:
Trọng tài kinh tế là tổ chức xã hội - nghề nghiệp có thẩm
quyền giải quyết các tranh chấp về hợp đồng kinh tế; các tranh chấp
giữa công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của
công ty với nhau, liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể
công ty; các tranh chấp có liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái
phiếu [2].
Tuy nhiên, trọng tài thương mại còn cụ thể và chi tiết hơn trọng tài
kinh tế vì hoạt động thương mại chỉ là một phần của hoạt động kinh tế. Hiểu
một cách ngắn gọn thì trọng tài thương mại trước hết phải là một trong những
hình thức trọng tài, chức năng của trọng tài thương mại là giải quyết các tranh
chấp thương mại.
Pháp luật trọng tài Việt Nam cũng có quy định tương tự về khái niệm
này: "Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh
trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và được tiến hành theo
trình tự thủ tục do pháp lệnh này quy định" [30, Khoản 1, Điều 2].
Bên cạnh đó, trọng tài với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh
chấp cũng là cách tiếp cận khá phổ biến, ví dụ như theo Từ điển tiếng Việt thì
trọng tài là người được cử ra để phân xử, giải quyết những vụ tranh chấp.
Ngoài ra, khái niệm này còn được tiếp cận với tư cách là một chế định
pháp luật, theo cuốn Danh từ pháp luật lược giải thì trọng tài là "một chế định

12
cử tư nhân giải quyết sự bất hòa cho hai bên nguyên bị trong một vụ tranh
chấp" [16].
Như vậy, có rất nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về trọng tài,
nhưng tựu chung lại, có thể nhìn nhận trọng tài thương mại với hai tư cách:
Một là, Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp.
Hai là, Trọng tài thương mại là cơ quan giải quyết tranh chấp.

1.1.2. Đặc điểm trọng tài thương mại
* Trọng tài với tư cách là một cơ quan giải quyết tranh chấp
Trọng tài được hiểu là một cơ quan tài phán, có thẩm quyền giải quyết
các tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại. Ở các nước có nền kinh
tế thị trường, trọng tài được thừa nhận là cơ quan tài phán độc lập tại song
song với Tòa án. Pháp luật tôn trọng quyền tự do lựa chọn của các bên, khi có
tranh chấp trong thương mại phát sinh, các chủ thể có thể lựa chọn hoặc Tòa
án hoặc Trọng tài giải quyết tranh chấp cho mình. Nếu các bên đã có thỏa
thuận trọng tài có hiệu lực, đưa tranh chấp ra Trọng tài giải quyết mà sau đó
các bên lại đưa đơn yêu cầu Tòa án giải quyết thì Tòa án không được thụ lý
và sẽ trả lại đơn kiện và vụ tranh chấp đó sẽ do trọng tài giải quyết.
Trong tương quan so sánh với Tòa án, cơ quan giải quyết tranh chấp
thương mại thuộc hệ thống cơ quan Nhà nước, Trọng tài thương mại có
những đặc trưng riêng khác hẳn với Tòa án, cụ thể là:
Một là, với hình thức là một Trung tâm Trọng tài thì trọng tài là một
tổ chức xã hội - nghề nghiệp do các trọng tài viên tự thành lập nên để giải
quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh vực kinh doanh thương mại; còn với
hình thức là trọng tài vụ việc (ad- hoc) thì trọng tài là một tổ chức lâm thời do
các bên tranh chấp thỏa thuận thành lập để giải quyết một vụ việc tranh chấp
cụ thể. Trọng tài không phải là cơ quan xét xử của Nhà nước, không do Nhà
nước thành lập nên và cũng không hoạt động bằng ngân sách nhà nước. Các

13
trọng tài viên không phải là viên chức nhà nước và cũng không hưởng lương
từ ngân sách nhà nước. Khi xét xử, trọng tài không nhân danh Nhà nước mà
nhân danh "quyền lực tư" để ra các phán quyết.
Hai là, thẩm quyền giải quyết của trọng tài đối với tranh chấp thương
mại cụ thể không tự nhiên mà có, không do pháp luật ấn định mà còn phụ
thuộc vào sự thỏa thuận của các chủ thể tranh chấp. Pháp luật quy định, trọng
tài chỉ có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp khi các bên tranh chấp có thỏa

thuận lựa chọn trọng tài giải quyết. Nếu không có thỏa thuận trước hoặc sau
khi xảy ra tranh chấp về việc lựa chọn trọng tài hoặc có nhưng thỏa thuận
trọng tài vô hiệu thì trọng tài không có thẩm quyền giải quyết. Có thể nói,
chính các chủ thể tranh chấp với việc lựa chọn trọng tài giải quyết tranh chấp
của mình đã trao quyền được xét xử vụ việc cho trọng tài.
Ba là, phán quyết trọng tài vừa có tính tài phán của cơ quan có thẩm
quyền xét xử, vừa thể hiện ý chí, sự thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, do
trọng tài không phải là cơ quan xét xử của Nhà nước như Tòa án nên phán
quyết của trọng tài không mang tính quyền lực nhà nước. Phán quyết của
trọng tài có giá trị ràng buộc đối với các bên tranh chấp mà không có giá trị
ràng buộc với bên thứ ba. Ngay cả khi một hoặc các bên tranh chấp không tôn
trọng phán quyết trọng tài, không tự nguyện thi hành phán quyết thì trọng tài
cũng không có cơ quan cưỡng chế của riêng mình để cưỡng chế thi hành.
Phán quyết trọng tài do các bên đương sự tự nguyện thi hành hoặc nhờ đến sự
hỗ trợ của cơ quan Nhà nước để cưỡng chế thi hành.
Như vậy, với tư cách là một cơ quan tài phán, trọng tài không nằm
trong hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước, tồn tại độc lập, song song với Tòa
án và có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp khi được các bên lựa chọn.
* Trọng tài thương mại với tư cách là một hình thức giải quyết tranh
chấp thương mại
Trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong lĩnh
vực kinh doanh thương mại, tồn tại song song với các phương thức giải quyết

14
tranh chấp khác như: thương lượng, hòa giải, tòa án và các phương thức giải
quyết tranh chấp lựa chọn ADR. Trọng tài và các phương thức ADR, nói
chung là các phương thức giải quyết ngoài tòa án, không cạnh tranh với toàn
án mà tòa án, trọng tài ADR là các phương thức bổ sung lẫn nhau. Thực tế,
trọng tài không thể phát triển mà không có sự hợp tác và kiểm soát cuối cùng
của tòa án quốc gia. Trọng tài đã trở thành phương thức được sử dụng phổ

biến để giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế. Với tính chất là một
phương thức giải quyết tranh chấp, trọng tài thương mại được hiểu là phương
thức, trong đó các bên tranh chấp tự nguyện thỏa thuận với nhau để ủy thác
việc giải quyết tranh chấp đã hoặc sẽ phát sinh giữa họ cho trọng tài; và trọng
tài, trên cơ sở các tình tiết khách quan của tranh chấp, được quyền đưa ra
quyết định cuối cùng để giải quyết tranh chấp và quyết định này có giá trị bắt
buộc thi hành đối với các bên. Tại Việt Nam, trọng tài theo đúng nghĩa là một
phương thức giải quyết tranh chấp chỉ ra đời từ năm 1993 trên cơ sở Quyết
định số 204-TTg của thủ tướng Chính phủ ngày 28/4/1993 về việc thành lập
trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC).
Với tư cách là một hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh trong
hoạt động kinh doanh thương mại, trọng tài có những đặc trưng cơ bản sau:
Một là, trọng tài là một hình thức giải quyết tranh chấp có sự tham gia
của bên thứ ba - một Hội đồng trọng tài hoặc một trọng tài viên duy nhất.
Trọng tài do chính các bên tranh chấp thỏa thuận lựa chọn trước hoặc sau khi
xảy ra tranh chấp. Trọng tài là người hoàn toàn độc lập với các bên, đứng
giữa để giải quyết tranh chấp, đưa ra các phán quyết bắt buộc để bảo vệ quyền
và lợi ích của các bên.
Hai là, trọng tài là hình thức giải quyết tranh chấp thông qua một thủ
tục tố tụng chặt chẽ. Đối với trọng tài thường trực trong quá trình giải quyết
tranh chấp, trọng tài viên và các bên tranh chấp phải tuân thủ đúng trình tự tố
tụng mà pháp luật trọng tài, điều lệ và quy tắc tố tụng của tổ chức trọng tài đó

15
quy định. Còn đối với trọng tài vụ việc, các bên có thể thỏa thuận thủ tục tố
tụng riêng, ngoài ra, các trọng tài viên và các bên cũng phải tuân thủ đúng thủ
tục tố tụng trọng tài mà mình đặt ra.
Ba là, kết quả của việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài là phán quyết
do trọng tài tuyên đối với các bên đương sự của vụ tranh chấp, phán quyết của
trọng tài mang tính chung thẩm, vừa kết hợp yếu tố thỏa thuận (các bên

đương sự có thể thỏa thuận về trình tự thủ tục giải quyết tranh chấp, luật áp
dụng đối với vụ tranh chấp…), vừa kết hợp yếu tố tài phán (có giá trị bắt buộc
đối với các bên).
1.1.3. Các hình thức trọng tài thương mại
Với tư cách là tổ chức giải quyết tranh chấp trọng tài thường được biết
đến với hai hình thức phổ biến là trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc) và trọng
tài thường trực (trọng tài quy chế).
* Trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc)
Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài được lập ra theo yêu cầu của
các đương sự để giải quyết một vụ tranh chấp cụ thể và tự giải thể khi tranh
chấp đó đã được giải quyết. Tính chất vụ việc của hình thức trọng tài này
được thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp
và tự chấm dứt hoạt động (tự giải thể) khi giải quyết xong tranh chấp.
Thứ hai, trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ
máy điều hành và không có danh sách trọng tài viên riêng. Trọng tài viên
được các bên chọn hoặc được chỉ định có thể là người có tên hoặc ngoài danh
sách trọng tài viên của bất cứ trung tâm trọng tài nào.
Thứ ba, trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tụng dành riêng cho
mình, mà quy tắc tố tụng để giải quyết vụ tranh chấp phải được các bên thỏa
thuận xây dựng. Thông thường, các bên tranh chấp có thể thỏa thuận lựa chọn

16
bất kỳ một quy tắc tố tụng phổ biến nào, thường là quy tắc tố tụng của các
trung tâm trọng tài có uy tín ở trong nước và quốc tế.
Vì vậy khi tiến hành xét xử, hội đồng trọng tài không bị lệ thuộc vào
bất kỳ quy tắc tố tụng nào, tuy nhiên phải đảm bảo nguyên tắc xét xử khách
quan, vô tư và đúng pháp luật. Hoạt động của của trọng tài vụ việc rất linh
hoạt, phù hợp với những tranh chấp đơn giản. Trọng tài viên do các đương sự
thỏa thuận lựa chọn không bị giới hạn bởi danh sách trọng tài viên sẵn có.

Thông thường trọng tài viên được chọn có thể là các thương gia có tu nghiệp
pháp lý hay các luật sư làm việc cho các công ty, họ không chỉ nắm vững kiến
thức về luật pháp mà còn rất am hiểu về hoạt động thương mại.
Thỏa thuận trọng tài vụ việc thường được thiết lập khi tranh chấp đã
xảy ra cho nên thường là phù hợp với tính chất, điều kiện cụ thể của tranh
chấp. Thời gian giải quyết tranh chấp nhanh chóng theo sự định đoạt của
đương sự, họ có toàn quyền trong việc xác định quy chế tố tụng. Tuy nhiên,
để soạn thảo được các thỏa thuận trọng tài vụ việc đòi hỏi các bên phải có luật
sư chuyên gia tư vấn pháp lý có chuyên môn trong lĩnh vực trọng tài. Giữa
các bên tranh chấp có sự thiện chí, hợp tác chặt chẽ. Mặt khác, do tính chất
không ổn định, không có quy chế hoạt động chặt chẽ nên hiệu quả giải quyết
vụ việc tranh chấp của trọng tài vụ việc là không cao.
Sự khác biệt cơ bản giữa nước ta với nhiều nước có nền kinh tế thị
trường phát triển và có lịch sử trọng tài tồn tại khá lâu đó là ngay từ khi xuất
hiện phương thức giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài, họ đã thừa nhận
có hai hình thức tổ chức trọng tài là trọng tài adhoc và trọng tài thường trực.
Ở Việt Nam, trước khi Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 ra đời,
chưa từng có trọng tài vụ việc. Mặc dù đã có một số văn bản điều chỉnh các
quan hệ kinh tế, thương mại với nước ngoài thừa nhận trọng tài adhoc trong
việc giải quyết các tranh chấp kinh tế quốc tế như: Luật đầu tư nước ngoài
1987; Luật Hàng không dân dụng Việt Nam 1991… nhưng chưa có văn bản

17
pháp luật nào về trọng tài quy định về trọng tài vụ việc. Do vây trên thực tế
hình thức trọng tài này hầu như không tồn tại.
Ưu điểm của hình thức Trọng tài vụ việc so với trọng tài quy chế là là
quyền tự định đoạt của các bên lớn hơn, chi phí cho tố tụng trọng tài thấp và
thời gian giải quyết nhanh. Tuy nhiên, trọng tài vụ việc cũng có những hạn
chế nhất định, hạn chế lớn nhất là phải phụ thuộc hoàn toàn vào thiện chí của
các bên. Nếu một bên không có thiện chí quá trình tố tụng sẽ luôn có nguy cơ

bị trì hoãn, và nhiều khi không thể thành lập được Hội đồng Trọng tài bởi vì
không có quy tắc tố tụng nào được áp dụng. Mặt khác trong quá trình tố tụng
cũng không có tổ chức nào giám sát nên kết quả phần lớn phụ thuộc vào việc
tiến hành tố tụng và khả năng kiểm soát quá trình tố tụng của các trọng tài
viên. Trọng tài viên và các bên sẽ không có cơ hội nhận được sự ủng hộ và trợ
giúp đặc biệt từ một tổ chức Trọng tài thường trực trong trường hợp phát sinh
sự kiện không dự kiến trước và trong trường hợp các trọng tài viên không thể
giải quyết được vụ việc. Sự hỗ trợ duy nhất mà các bên có thể nhận được là sự
hỗ trợ của Tòa án.
* Trọng tài thường trực (Trọng tài quy chế)
Khác với trọng tài adhoc, trọng tài thường trực luôn tồn tài không phụ
thuộc vào tranh chấp của các bên, là hình thức trọng tài có tổ chức, hoạt động
thường xuyên, có điều lệ, quy tắc tố tụng riêng và có danh sách trọng tài viên.
Trọng tài thường trực được tổ chức dưới những hình thức đa dạng như: các
trung tâm trọng tài, các hiệp hội trọng tài hay các viện trọng tài, nhưng chủ
yếu và phổ biến vẫn là các Trung tâm Trọng tài. Có thể kể tên các Trung tâm
Trọng tài nổi tiếng như: Tòa án trọng tài quốc tế (IAC) thuộc Phòng Thương
mại quốc tế (ICC) có trụ sở tại Paris (Pháp); Hiệp hội trọng tài Mỹ (AAA);
Trọng Tài quốc tế Singapore; Trọng Tài quốc tế Hồng kông; ở Việt Nam có
Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam - VIAC và một số trung tâm khác.
Ta có định nghĩa: Trung tâm trọng tài là tổ chức phi Chính phủ, có tư
cách pháp nhân, có con dấu, có tài khoản riêng và có trụ sở giao dịch ổn định.

18
Từ khái niệm về trung tâm trọng tài trên, ta có thể đưa ra một số đặc
trưng cơ bản về hình thức trọng tài này như sau:
Thứ nhất, các trung tâm trọng tài là tổ chức phi Chính phủ, không nằm
trong hệ thống cơ quan nhà nước. Thể hiện:
- Các trung tâm trọng tài được thành lập theo sáng kiến của các trọng
tài viên sau khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chứ không

phải được thành lập bởi Nhà nước. Do đó, nó không nằm trong hệ thống cơ
quan quản lý Nhà nước cũng không thuộc hệ thống cơ quan xét xử Nhà nước.
- Hoạt động của trung tâm trọng tài theo nguyên tắc tự trang trải mà
không được cấp kinh phí hoạt động từ ngân sách nhà nước.
- Trọng tài viên duy nhất hoặc hội đồng trọng tài không nhân danh
quyền lực nhà nước mà nhân danh người thứ ba độc lập ra phán quyết.
- Dù không được thành lập bởi Nhà nước nhưng trung tâm trọng tài
vẫn luôn đặt dưới sự quản lý và hỗ trợ của Nhà nước, thông qua các hoạt động
như: ban hành các văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lý cho việc tổ chức
và hoạt động của trung tâm trọng tài; cấp, thay đổi, bổ sung hay thu hồi giấy
phép thành lập, giấy đăng ký hoạt động của các trung tâm trọng tài; hỗ trợ
trung tâm trọng tài trong việc hủy hoặc không hủy quyết định trọng tài, hỗ trợ
trong việc cưỡng chế thi hành quyết định trọng tài
Thứ hai, các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, tồn tại độc lập
với nhau. Giữa các trung tâm trọng tài không tồn tại quan hệ phụ thuộc cấp
trên, cấp dưới.
Thứ ba, tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn
nhẹ. Cơ cấu của trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các trọng tài
viên của trung tâm. Cụ thể:
- Ban điều hành gồm có chủ tịch, một hoặc các phó chủ tịch trung tâm
trọng tài và có thể có tổng thư ký trung tâm trọng tài do chủ tịch trung tâm
trọng tài cử.

19
- Các trọng tài viên trong danh sách trung tâm trọng tài có thể tham
gia vào việc giải quyết tranh chấp khi được chọn hoặc chỉ định.
Thứ tư, mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và
có quy tắc tố tụng riêng. Thể hiện:
- Tùy theo khả năng chuyên môn của đội ngũ trọng tài viên, mỗi trung
tâm trọng tài có quyền tự xác định về lĩnh vực hoạt động của mình, đồng thời

có thể mở rộng hoặc thu hẹp phạm vi lĩnh vực hoạt động trên cơ sở sự chấp
thuận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
- Mỗi trung tâm trọng tài đều có điều lệ riêng, đặc biệt là quy tắc tố
tụng riêng được xây dựng căn cứ vào đặc thù về tổ chức, hoạt động của trung
tâm và không trái với quy định của pháp luật về trọng tài thương mại. Khi giải
quyết tranh chấp, hội đồng trọng tài hoặc trọng tài viên duy nhất phải tuân thủ
quy tắc tố tụng này.
- Việc xây dựng quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài thường
dựa trên cơ sở là một số bản quy tắc trong tài hay một số công ước quốc tế có
liên quan cũng như bản quy tắc tố tụng của một số trung tâm trọng tài quốc tế
có uy tín.
Thứ năm, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi
các trọng tài viên của trung tâm. Việc chọn hoặc chỉ định trọng tài viên tham
gia giải quyết tranh chấp chỉ được giới hạn trọng danh sách trọng tài viên của
trung tâm. Vì vậy, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài chỉ được tiến hành
bởi các trọng tài viên của chính trung tâm.
Có thể nói ưu điểm lớn nhất trọng tài quy chế so với trọng tài vụ việc
là có quy tắc tố tụng chi tiết từ khi bắt đầu đến khi kết thúc quá trình giải
quyết tranh chấp. Điều này đảm bảo trong mọi trường hợp tranh chấp sẽ được
giải quyết, không phụ thuộc vào việc một bên có tham gia vào quá trình tố
tụng trọng tài hay không. Ưu điểm thứ hai là hầu hết các tổ chức trọng tài đều

20
có những chuyên gia hỗ trợ cho quá trình trọng tài. Họ đảm bảo cho Hội đồng
Trọng tài sẽ được thành lập, các khoản phí trọng tài sẽ được nộp đủ, đôn đốc
đúng thời hạn Bên cạnh đó, trọng tài quy chế cũng có những hạn chế nhất
định, mà hạn chế lớn nhất đó là tốn kém nhiều chi phí vì ngoài việc phải trả
chi phí thù lao cho các trọng tài viên, các bên còn phải trả thêm các chi phí
hành chính để nhận được sự hỗ trợ của các Trung tâm trọng tài. Nhược điểm
thứ hai của Trọng tài quy chế là với những vụ việc cần giải quyết nhanh

chóng hoặc vụ việc đơn giản thì quá trình tố tụng thường bị kéo dài mà các
bên tranh chấp và Hội đồng trọng tài vẫn bắt buộc phải tuân theo do phải tuân
thủ các thời hạn theo quy định của Quy tắc tố tụng.
1.1.4. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng
tài thương mại
Trọng tài thương mại là một trong 4 hình thức giải quyết tranh chấp
thương mại. Đây là một hình thức giải quyết tranh chấp khá đơn giản, nhanh
chóng và có nhiều ưu điểm. Tuy nhiên, để áp dụng hình thức này trong việc
giải quyết tranh chấp, các chủ thể tham gia giải quyết tranh chấp cần tuân thủ
một số những nguyên tắc cơ bản sau:
1. Trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận của các bên nếu
thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội.
2. Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân
theo quy định của pháp luật.
3. Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.
Hội đồng trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của mình.
4. Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành
không công khai, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
5. Phán quyết trọng tài là chung thẩm [23].

21
1.1.5. Ƣu điểm và nhƣợc điểm của trọng tài thƣơng mại so với phƣơng

thức thương lượng, hòa giải và tòa án
* So với thương lượng, hòa giải
Để góp phần hiểu hơn về ưu và nhược điểm của trọng tài thương mại
so với thương lượng, hòa giải, chúng ta cùng nhau xem xét một số khía cạnh
của thương lượng và hòa giải là hai phương thức giải quyết tranh chấp khác
nhau. Chúng có những điểm chung như: đều là những phương thức giải quyết

tranh chấp ngoài tố tụng, chủ thể tham gia vào việc giải quyết tranh chấp ở
đây không phải là những cơ quan Nhà nước mà chính là các nhà kinh doanh.
Thủ tục hòa giải, thương lượng cũng không mang tính chất chặt chẽ
như thủ tục giải quyết tranh chấp tại các cơ quan tài phán. Mặt khác, kết quả
mà phương thức thương lượng, hòa giải đạt được cũng không mang tính
cưỡng chế, không đảm bảo thi hành bởi cơ quan thi hành án. Việc thương
lượng, hòa giải phụ thuộc hoàn toàn vào sự thiện chí của các bên.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp khác, do không tìm thấy tiếng núi
chung, việc thương lượng, hòa giải sẽ rơi vào bế tắc. Hơn thế, phương thức
giải quyết tranh chấp này chưa được pháp luật hiện hành nước ta quy định cụ thể.
Trong khi đó, việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng con đường
trọng tài, xét về bản chất mang dáng dấp của việc giải quyết bằng con đường
tự thương lượng hoặc trung gian hòa giải, đó là dựa trên ý chí của các bên
đương sự. Tuy nhiên, so với phương thức giải quyết trên thì giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài thương mại có những ưu điểm mà phương thức hòa giải,
thương lượng không có:
Một là, mặc dù các bên đương sự có quyền định đoạt cao về quá trình
giải quyết tranh chấp nhưng các trọng tài viên khi được các bên lựa chọn có
quyền xét xử và ra quyết định một cách hoàn toàn độc lập trên cơ sở quy định
của pháp luật.

22
Hai là, giải quyết tranh chấp thông qua trọng tài là phương thức giải
quyết tranh chấp mang tính tài phán. Quyết định trọng tài được ban hành phù
hợp với quy định của pháp luật sẽ có hiệu lực bắt buộc đối với các bên đương sự.
Ba là, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài phải tuân thủ theo một thủ
tục tố tụng chặt chẽ, trong khuôn khổ luật định, nếu vi phạm quyết định trọng
tài sẽ bị hủy theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh những ưu điểm mang tính bản chất nêu trên, cần nhìn nhận
việc giải quyết tranh chấp trọng tài cũng có những hạn chế nhất định so với

thương lượng, hòa giải như nó bị ràng buộc bởi những nguyên tắc pháp lý nhất
định và trình tự thủ tục chặt chẽ, tốn kém hơn về mặt thời gian và cả chi phí.
* So với tòa án
Việc giải quyết tranh chấp thông qua tòa án là hình thức giải quyết
tranh chấp do cơ quan tài phán của Nhà nước thực hiện. Quyền và nghĩa vụ tố
tụng của các bên được xác định trước, thời gian cũng được ấn định trước
trong quá trình tố tụng. Đặc biệt phiên tòa bao giờ cũng có sự tham gia của
Viện kiểm sát làm chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Mặc dù đã tính đến các đặc thù của quan hệ kinh tế, nhưng nhìn chung giải
quyết tranh chấp thông qua tòa án vẫn phải tuân thủ các quy định chặt chẽ của
pháp luật tố tụng.
Việc giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài phần nào cũng
mang dáng dấp của việc giải quyết tranh chấp bằng con đường tòa án. Tuy
nhiên, sở dĩ trọng tài thương mại tồn tại và phát triển mạnh mẽ như ngày nay
là vì nó có những điểm mạnh sau đây.
Một là, tố tụng trọng tài diễn ra nhanh chóng, thuận lợi và đảm bảo dân
chủ trong quá trình giải quyết tranh chấp, hạn chế mức cao nhất sự gián đoạn
trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Các bên đương sự có quyền định đoạt
quá trình tố tụng và quyết định thủ tục giải quyết tranh chấp. Họ có quyền lựa
chọn nhiều phương án để giải quyết tranh chấp sao cho phù hợp nhất.

23
Hai là, với tố tụng trọng tài sẽ đảm bảo yếu tố bí mật kinh doanh và
bảo vệ được uy tín của các bên đương sự trên thương trường. Theo khoản 3
Điều 38 Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 thì "phiên họp giải quyết
tranh chấp không công khai. Trong trường hợp có sự đồng ý của các bên, Hội
đồng trọng tài có thể xem xét cho phép người khác tham dự phiên họp". Trong
khi đó, tòa án với thủ tục công khai, mọi người đều có quyền tham dự có thể
không đảm bảo được bí mật và không giữ được uy tín của chủ thể tranh chấp.
Ba là, chi phí cho việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài nói chung

thấp hơn so với việc giải quyết tại tòa án. Bản thân tố tụng trọng tài là một
cấp và quyết định trọng tài có giá trị chung thẩm. Điều đó đã giúp cho các
doanh nghiệp cú tranh chấp không phải mất nhiều thời gian cũng như tiền của
để theo kiện.
Tóm lại, việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng con đường tòa án
thể hiện sức mạnh quyền lực Nhà nước, chịu sự điều chỉnh mạnh mẽ của các
quy định pháp luật thì việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng con đường
trọng tài thương mại lại mang tính xó hội, thể hiện ý chí thống nhất của các
bên đương sự, do đó đã đáp ứng được đòi hỏi của các nhà kinh doanh trong
việc giải quyết tranh chấp một cách nhanh gọn, hiệu quả nhất.
Nói như vậy, không có nghĩa chúng ta tuyệt đối hóa việc giải quyết
tranh chấp thương mại bằng con đường trọng tài thương mại. Bên cạnh những
mặt mạnh đã phân tích ở trên, tố tụng trọng tài so với tố tụng trọng tài có
những điểm yếu, đó là với quyết định trọng tài nhân danh ý chí tối cao của
các bên đương sự, không nhân danh quyền lực nhà nước nên để đảm bảo thi
hành cần đến sự tự nguyện của các bên cũng như sự hỗ trợ từ phía Nhà nước.
1.2. Khái quát sự hỗ trợ của tòa án đối với giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài thƣơng mại
Trên thế giới, mối quan hệ đặc trưng giữa Tòa án và Trọng tài là mối
quan hệ hỗ trợ và giám sát. Nhờ có sự hỗ trợ và có sự giám sát của Tòa án mà

24
Trọng tài tuy là tổ chức tài phán phi Chính phủ nhưng vẫn hoạt động được
một cách hiệu quả. Sự ra đời của luật Trọng tài thương mại năm 2010 đã thể
hiện một quan điểm mới tiếp cận với sự phát triển của pháp luật tài phán của
các nước phát triển. Trong đó, một trong những nội dung cơ bản là việc thừa
nhận vai trò, trách nhiệm của Tòa án nhân dân trong hỗ trợ, giám sát hoạt
động tố tụng giải quyết tranh chấp của Trọng tài thương mại và sự hỗ trợ của
Nhà nước thông qua Cơ quan thi hành án dân sự về cơ chế thi hành phán
quyết của Trọng tài. Có thể gọi đây là sự tiếp sức cho Trọng tài, thể hiện quan

điểm của Nhà nước trong việc đa dạng hóa phương thức giải quyết tranh chấp
và tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho các chủ thể kinh doanh được sự bảo hộ
của Nhà nước về mặt pháp lý trong quá trình thực hiện giao dịch thương mại.
Đó cũng là một sự minh chứng về việc đáp ứng nhu cầu hội nhập của Việt
Nam trong nền kinh tế thị trường hiện nay. Sự hỗ trợ của Tòa án đối với hoạt
động Trọng tài thương mại thể hiện ở các nội dung cơ bản sau đây.
1.2.1. Đối với việc thay đổi trọng tài viên
Theo Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 thì tòa án có thẩm
quyền chỉ định trọng tài viên theo Điều 26 của Pháp lệnh trong các trường
hợp sau:
- Khi phía bị đơn không thông báo việc chọn trọng tài viên cho
nguyên đơn biết trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nguyên đơn gửi đơn kiện
cho bị đơn.
- Trong trường hợp có nhiều bị đơn, các bị đơn không chọn được
trọng tài viên thì nguyên đơn có quyền yêu cầu tòa án chỉ định trọng tài viên
mình đã chọn trong 30 ngày.
- Trong trường hợp mà 2 trọng tài viên không chọn được trọng tài viên
thứ ba thì yêu cầu tòa án cấp tỉnh chỉ định trọng tài viên thứ ba.
- Đối với vụ tranh chấp do Hội đồng trọng tài được các bên thành lập,
giải quyết (trọng tài vụ việc) thì nguyên đơn có thể yêu cầu tòa án chỉ định.

25
Việc thay đổi trọng tài viên theo Luật Trọng tài thương mại năm 2010
được quy định tại Điều 43 trong hai trong hợp sau:
- Đối với vụ tranh chấp được giải quyết tại trung tâm trọng tài, nếu
Hội đồng trọng tài chưa được thành lập, việc thay đổi trọng tài viên do Chủ
tịch Trung tâm trọng tài quyết định. Nếu Hội đồng trọng tài đã được thành
lập, việc thay đổi trọng tài viên do các thành viên còn lại của Hội đồng trọng
tài quyết định. Trong trường hợp các thành viên Hội đồng trọng tài còn lại
không quyết định được hoặc nếu các trọng tài viên hay trọng tài viên duy nhất

từ chối giải quyết tranh chấp, Chủ tịch Trung tâm trọng tài quyết định về việc
thay đổi trọng tài viên (Khoản 3 Điều 43).
- Đối với vụ tranh chấp do Hội đồng trọng tài vụ việc giải quyết, việc
thay đổi trọng tài viên sẽ do các thành viên còn lại của hội đồng trọng tài
quyết định. Trong trường hợp các thành viên còn lại của Hội đồng trọng tài
không quyết được hoặc nếu các trọng tài viên hay trọng tài viên duy nhất từ
chối giải quyết tranh chấp, thì trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận
được yêu cầu của một hoặc các trọng tài viên nói trên, hoặc của một hoặc các
bên tranh chấp, Chánh án tòa án có thẩm quyền giao cho một thẩm phán quyết
định về việc thay đổi trọng tài viên (Khoản 4 Điều 43).
Như vậy, theo Điều 43 của Luật Trọng tài thương mại năm 2010 thì
tòa án chỉ hỗ trợ việc thay đổi trọng tài viên trong trường hợp trọng tài vụ việc
giải quyết còn việc chỉ định trọng tài viên hoặc thay đổi trọng tài viên mà vụ
tranh chấp được giải quyết tại trung tâm trọng tài thì do Chủ tịch Trọng tài
quyết định. Việc thay đổi trọng tài viên (Hội đồng trọng tài vụ việc thuộc
thẩm quyền của tòa án là tòa án nơi có Hội đồng giải quyết tranh chấp thực
hiện (điểm b khản 2 Điều 7 Luật Trọng tài thương mại).
1.2.2. Xem xét khiếu nại và giải quyết khiếu nại quyết định của Hội
đồng trọng tài về thẩm quyền
Theo Pháp lệnh Trọng tài thương mại năm 2003 nếu Hội đồng trọng
tài đã xem xét và giải quyết khiếu nại của một bên về việc Hội đồng trọng tài

×