Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh theo pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (970.06 KB, 85 trang )


đại học quốc gia hà nội
khoa luật




hồ thị duyên





căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh
theo pháp luật việt nam




luận văn thạc sĩ luật học







Hà nội - 2010




đại học quốc gia hà nội
khoa luật



hồ thị duyên




căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh
theo pháp luật việt nam

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50


luận văn thạc sĩ luật học



Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Bùi Ngọc C-ờng


Hà nội - 2010






MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CĂN CỨ XÁC ĐỊNH
HÀNH VI HẠN CHẾ CẠNH TRANH
6
1.1.
Khái quát về cạnh tranh, pháp luật cạnh tranh và hành vi hạn
chế cạnh tranh
5
1.1.1.
Khái quát về cạnh tranh
5
1.1.2.
Khái quát về pháp luật cạnh tranh

10
1.1.3.
Khái quát về hành vi hạn chế cạnh tranh
13
1.2.
Những vấn đề lý luận về căn cứ xác định hành vi hạn chế
cạnh tranh
23
1.2.1.
Xác định thị trường liên quan
23
1.2.2.
Xác định thị phần, thị phần kết hợp
29

Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ CĂN CỨ XÁC ĐỊNH HÀNH VI HẠN
CHẾ CẠNH TRANH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
34
2.1.
Các quy định về căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh
34
2.1.1.
Quy định về thị trường liên quan
35
2.1.2.
Quy định về xác định thị phần
40
2.2.
Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về căn cứ xác định
hành vi hạn chế cạnh tranh

51
2.2.1.
Điều tra xác định thị trường liên quan
52
2.2.2.
Xác định thị phần, thị phần kết hợp
57


Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY
ĐỊNH VỀ CĂN CỨ XÁC ĐỊNH HÀNH VI HẠN CHẾ
CẠNH TRANH
61
3.1.
Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định về căn cứ xác định
hành vi hạn chế cạnh tranh
61
3.2.
Yêu cầu của việc hoàn thiện các quy định về căn cứ xác định
hành vi hạn chế cạnh tranh
66
3.3.
Một số giải pháp hoàn thiện các quy định về căn cứ xác định
hành vi hạn chế cạnh tranh
70
3.3.1.
Hoàn thiện các quy định pháp luật về căn cứ xác định hành vi
hạn chế cạnh tranh
70
3.3.2.

Về tổ chức thực hiện
75

KẾT LUẬN
78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
79


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Cạnh tranh là quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trường, đồng thời là
động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Hoạt động cạnh tranh
xuất hiện và tồn tại khách quan trong quá trình hình thành và phát triển của
nền sản xuất hàng hóa. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động
cạnh tranh sẽ diễn ra trên quy mô rộng hơn với mức độ gay gắt hơn trên mọi
lĩnh vực. Vì vậy, việc xây dựng hành lang pháp lý tạo khuôn khổ cho hoạt
động cạnh tranh là điều tất yếu.
Hầu hết các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển đều quan tâm
đến việc kiểm soát và điều tiết cạnh tranh bằng pháp luật nhằm chống lại
những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hành vi hạn chế cạnh tranh, tạo
ra môi trường kinh doanh công bằng, bình đẳng.
Ngày 3/12/2004, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
thông qua Luật số 27/2004/QH11 về cạnh tranh (sau đây gọi tắt là Luật cạnh
tranh) với 6 chương, 123 điều được xem là văn bản luật không nhỏ và có vai
trò quan trọng trong định hướng hành vi cạnh tranh của nền kinh tế nói chung
và của các doanh nghiệp nói riêng. Luật cạnh tranh quy định về hành vi hạn

chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh, trình tự thủ tục giải quyết vụ
việc cạnh tranh… đã khỏa lấp được phần nào thiếu hụt của pháp luật Việt
Nam trong bối cảnh hiện tại.
Một trong những vấn đề quan trọng và chiếm phần lớn nội dung Luật
cạnh tranh là những quy định về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh. Những
khái niệm lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền, tập trung
kinh tế… dường như còn mới mẻ đối với nền kinh tế Việt Nam. Nhiều doanh
nghiệp vi phạm pháp luật nhưng không biết mình đang vi phạm hoặc khi phát
sinh vụ việc hạn chế cạnh tranh, việc giải quyết vẫn còn nhiều vướng mắc. Để

2
kiểm soát được hành vi hạn chế cạnh tranh cũng như giải quyết các vụ việc
hạn chế cạnh tranh thì cần xác định được thế nào là hành vi hạn chế cạnh
tranh. Nhưng hiện nay, những căn cứ để xác định hành vi hạn chế cạnh tranh
chủ yếu được quy định trong các văn bản hướng dẫn thi hành và còn nhiều
vấn đề cần được quan tâm. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài "Căn cứ xác
định hành vi hạn chế cạnh tranh theo pháp luật Việt Nam" để làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Ở Việt Nam, Luật cạnh tranh là một văn bản pháp luật khá mới mẻ
trong hệ thống pháp luật, nhưng thời gian gần đây, nghiên cứu về pháp luật
cạnh tranh nói chung và pháp luật về hành vi hạn chế cạnh tranh nói riêng đã
thu hút được đông đảo sự quan tâm của các nhà khoa học. Đã có một số công
trình, bài viết nghiên cứu về vấn đề này. Có thể liệt kê một số đề tài như: Dự
án hoàn thiện môi trường kinh doanh VIE/97/016, Các vấn đề pháp lý và thể
chế chính sách cạnh tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh; PGS.TS
Nguyễn Như Phát, Bùi Nguyên Khánh, Tiến tới xây dựng pháp luật về cạnh
tranh trong điều kiện chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Nxb
Công an nhân dân, 2001; PGS.TS Nguyễn Như Phát, Xây dựng pháp luật
cạnh tranh trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, Tạp chí

dân chủ và pháp luật; TS Bùi Ngọc Cường, Một số vấn đề thực thi pháp luật
cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay, ThS Nguyễn Ngọc Sơn, Xác định thị trường
liên quan theo Luật cạnh tranh năm 2004. Ngoài ra, còn có nhiều bài báo
nghiên cứu trên các tạp chí chuyên ngành như Luật học, Nghiên cứu lập pháp,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật… Luật cạnh tranh, hành vi hạn chế cạnh tranh
cũng trở thành đối tượng nghiên cứu của một số dự án hỗ trợ thương mại đa
biên Multrap III, Hội thảo "Pháp luật điều chỉnh hành vi hạn chế cạnh tranh -
kinh nghiệm EU và bài học cho Việt Nam. Nhìn chung, những công trình, bài
viết đó thường đề cập đến việc đưa Luật cạnh tranh vào thực tiễn cuộc sống

3
và thực tế cạnh tranh trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, một
công trình nghiên cứu đầy đủ, cụ thể về căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh
tranh theo pháp luật Việt Nam là chưa có. Chính vì vậy, việc nghiên cứu một
cách có hệ thống về vấn đề này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Luận văn đưa ra những kiến nghị với mong muốn sẽ đem lại những kết quả
thiết thực trong việc hoàn thiện các quy định Luật cạnh tranh nhằm đảm bảo
quyền tự do cạnh tranh nhưng không ảnh hưởng đến lợi ích của doanh nghiệp
và lợi ích của nhà nước; tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng và lành mạnh.
Tác giả hy vọng rằng với sự đầu tư thích đáng, kết quả nghiên cứu sẽ là một
tài liệu tham khảo có giá trị.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các luận cứ khoa học và xuất phát từ thực
tiễn, trên cơ sở đối chiếu, so sánh với quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh
của một số nước trên thế giới để chỉ ra được căn cứ xác định hành vi hạn chế
cạnh tranh theo pháp luật Việt Nam. Trong phạm vi nghiên cứu của một luận
văn thạc sĩ, tác giả không đặt vấn đề nghiên cứu tất cả các vấn đề về Luật
cạnh tranh cũng như hành vi hạn chế cạnh tranh, mà chỉ tập trung làm rõ một
số vấn đề:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về cạnh tranh, hành vi hạn chế

cạnh tranh và căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh;
- Nghiên cứu quy định về căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh
trong pháp luật Việt Nam hiện nay; đồng thời, liên hệ với thực tế một số vụ
việc để tìm hiểu về việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn.
- Đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp
luật về căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật và những
phương pháp nghiên cứu cụ thể: phân tích các cơ sở lý luận; so sánh, đối chiếu

4
với kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới, đồng thời, sử dụng phương
pháp tổng hợp, chứng minh trong quá trình giải quyết những vấn đề mà đề tài
đặt ra. Từ đó, luận văn rút ra cơ sở lý luận để xác định hành vi hạn chế cạnh
tranh trong pháp luật Việt Nam.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về căn cứ xác định hành vi hạn chế
cạnh tranh.
Chương 2: Pháp luật về căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh và
thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện cac quy định về căn cứ
xác định hành vi hạn chế cạnh tranh.




5
Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CĂN CỨ XÁC ĐỊNH
HÀNH VI HẠN CHẾ CẠNH TRANH

1.1. KHÁI QUÁT VỀ CẠNH TRANH, PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VÀ
HÀNH VI HẠN CHẾ CẠNH TRANH
1.1.1. Khái quát về cạnh tranh
a) Khái niệm cạnh tranh
Cạnh tranh là thuật ngữ được nhắc đến hầu hết trong các lĩnh vực như:
kinh tế, chính trị, thể thao, quân sự… trên các phương tiện thông tin đại
chúng, sách báo chuyên môn cũng như trên các diễn đàn kinh tế. Ở mỗi góc
độ tiếp cận khác nhau, thuật ngữ cạnh tranh được hiểu khác nhau.
Tiếp cận ở gốc độ tổng quát, đơn giản, cạnh tranh là sự ganh đua của
cá nhân, tổ chức hay một nhóm nào đó thông qua các hành động, nỗ lực và biện
pháp để dành được phần thắng trong cuộc đua, đạt được mục tiêu của mình.
Tiếp cận ở góc độ kinh tế chính trị học, cạnh tranh là sự ganh đua của
chủ thể trong sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ nhằm dành được những
lợi ích cho mình. Cạnh tranh có thể diễn ra giữa người sản xuất với người sản
xuất, giữa người sản xuất với người tiêu dùng (người sản xuất muốn bán đắt,
người tiêu dùng muốn mua rẻ), giữa người tiêu dùng với người tiêu dùng…
để có những điều kiện tốt hơn trong sản xuất và tiêu thụ.
Vậy, cạnh tranh có thể hiểu là sự ganh đua giữa những chủ thể kinh
doanh có chức năng giống nhau thông qua các hành động, nỗ lực và biện pháp
để giành được phần thắng trong sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ hàng hóa,
sản phẩm, cung ứng dịch vụ.
Về bản chất, nếu cạnh tranh diễn ra một cách công bằng, bình đẳng và
lành mạnh thì nó luôn có tác động tích cực đến thị trường; là động lực để các
doanh nghiệp tự cải tổ, trang bị cho mình những điều kiện tốt nhất để tồn tại

6
và phát triển. Nhờ vậy, thị trường ngày càng có nhiều hàng hóa, dịch vụ,

phong phú về chủng loại, đa dạng về mẫu mã và giá thành được giảm xuống.
Bên cạnh đó, cùng với mục đích tối đa hóa lợi nhuận, cố gắng giành
những điều kiện có lợi nhất, cạnh tranh đã thúc đẩy quá trình tập trung, tích tụ
tư bản. Việc tập trung tư bản có thể cải thiện năng lực cạnh tranh cho các chủ
thể, tuy nhiên đó cũng là tiền đề vật chất cho sự hình thành các hình thái cạnh
tranh không hoàn hảo và độc quyền trên thị trường.
Ngược lại với các hành vi cạnh tranh lành mạnh, công bằng là những
hành vi phản cạnh tranh làm cho thị trường méo mó, phá vỡ cấu trúc thị
trường, gây tổn thất cho bản thân doanh nghiệp, người tiêu dùng và các doanh
nghiệp liên quan.
b) Vai trò của cạnh tranh
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, cạnh tranh diễn ra như một
quy luật của nền kinh tế, vận hành tương ứng với các quy luật khác như quy
luật cung cầu, quy luật giá trị… và tôn vinh quyền lựa chọn của người tiêu
dùng. Vai trò của cạnh tranh được thể hiện dưới các góc độ:
Thứ nhất, cạnh tranh là nguồn gốc, động lực để phát triển khoa học kĩ
thuật và công nghệ cao.
Cạnh tranh luôn có mục tiêu lâu dài là thu hút về mình ngày càng
nhiều khách hàng nên các nhà sản xuất, kinh doanh phải tạo ra những sản
phẩm có mẫu mã đẹp, chất lượng cao và giá thành thấp nhất. Nhờ vậy, sản
phẩm được khách hàng, người tiêu dùng dễ dàng chấp nhận và nhanh chóng
chiếm được ưu thế đồng thời, mang lại lợi nhuận cho người sản xuất, kinh
doanh. Khoa học công nghệ mới sẽ đem lại kết quả hữu hiệu cho sản xuất,
kinh doanh, làm tăng tính năng cũng như chất lượng sản phẩm, đồng thời, làm
giảm giá thành sản phẩm. Các hoạt động nghiên cứu và triển khai nhằm mục
đích tối đa hóa lợi nhuận sẽ thúc đẩy sự phát triển của khoa học công nghệ,
hướng tới sử dụng công nghệ trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.

7
Thứ hai, cạnh tranh định hướng cho việc kinh doanh sản phẩm dịch

vụ, điều tiết quan hệ cung cầu của xã hội.
Mục tiêu cuối cùng của chủ thể kinh doanh là lợi nhuận. Vì vậy, họ
luôn tìm cách đưa được đến tay người tiêu dùng số lượng hàng hóa lớn nhất
bằng việc đáp ứng nhu cầu, thị hiếu và khả năng của người tiêu dùng. Tuy
nhiên, điều này chỉ phát huy tối đa khi trên thị trường có nhiều chủ thể cùng
kinh doanh một mặt hàng cùng loại, có khả năng thay thế cho nhau, nghĩa là
phải có sự cạnh tranh thu hút khách hàng. Khi đó, các nhà sản xuất sẽ phải
chú ý đến sở thích của người tiêu dùng và dự đoán trước những thay đổi trong
sở thích của họ. Do vậy, các nhà sản xuất sẽ không ngừng sáng tạo ra sản
phẩm, dịch vụ mới tốt hơn và có giá thành hợp lý hơn. Nhờ vậy, người tiêu
dùng được lựa chọn các loại hàng hóa, sản phẩm dịch vụ mà họ mong muốn,
đồng thời, tránh được những hàng hóa, dịch vụ kém chất lượng, và hạn chế
những hành vi tiêu cực của chủ thể cạnh tranh.
Thứ ba, cạnh tranh giúp cho việc sử dụng các nguồn tài nguyên hiệu
quả nhất.
Các chủ thể kinh doanh khi tham gia cạnh tranh trên thị trường đều
mong muốn đạt được hiệu quả cao nhất và tối đa hóa lợi nhuận. Do đó, họ
luôn phải cân nhắc, tính toán khi sử dụng các nguồn lực vật chất, nhân lực của
mình vào hoạt động sản xuất kinh doanh sao cho tiết kiệm và tránh lãng phí,
hạn chế tối đa chi phí cho sản xuất kinh doanh. Chính vì vậy, sử dụng tài
nguyên hợp lý sẽ phát huy hết khả năng vốn có của nó.
Thứ tư, cạnh tranh có chức năng phân phối nguồn lực và điều hòa
thu nhập.
Để ganh đua dành phần thắng về mình, các chủ thể kinh doanh không
ngừng tìm kiếm những giải pháp hữu ích, nhằm sản xuất ra những sản phẩm
ưu việt hơn. Một hàng hóa có thể thỏa mãn được nhu cầu của người tiêu dùng
trong giai đoạn nhất định nhưng nó luôn bị đe dọa bởi sự thay thế của những

8
hàng hóa, dịch vụ khác cùng loại tiến bộ hơn. Vì thế, không có chủ thể kinh

doanh nào có thể mãi thu lợi nhuận cao và thống trị hệ thống phân phối trên
thị trường. Những chủ thể cạnh tranh nào có nguồn lợi mạnh nhất, chiếm ưu
thế nhất sẽ dành được vị trí cao nhất và thu được nguồn lợi nhuận lớn nhất.
Chính vì vậy, người ta nói, cạnh tranh là yếu tố tác động tích cực đến việc
phân phối nguồn lực và điều hòa thu nhập.
c) Các hình thức cạnh tranh
 Căn cứ vào tính chất, mức độ can thiệp của công quyền vào cạnh
tranh, người ta chia thành cạnh tranh tự do và cạnh tranh có điều tiết:
- Cạnh tranh tự do: là hình thái thị trường thoát khỏi mọi sự can thiệp
của nhà nước. Đây là quy luật đặc thù của phương thức sản xuất tư bản thế kỷ
XIX, đầu thế kỷ XX, khi mà giá cả tự do vận động lên xuống theo sự chi phối
của quan hệ cung cầu, của các thế lực trên thị trường.
- Cạnh tranh có sự điều tiết (của nhà nước): là hình thái thị trường của
các nền kinh tế thị trường hiện đại; xuất hiện khi nhân loại chuẩn bị bước vào
thế kỷ XX, cạnh tranh tự do bộc lộ những mặt trái như: thất nghiệp, phá sản
hàng loạt, sự lãng phí tài nguyên…
Trên tinh thần khắc phục những nhược điểm của cạnh tranh tự do, sự
điều tiết của nhà nước đối với cạnh tranh trong điều kiện kinh tế thị trường là
tất yếu Sự điều tiết của nhà nước không làm thủ tiêu hoạt động cạnh tranh
mà sự can thiệp này là cần thiết nhằm đáp ứng những nhu cầu về mặt xã hội
được đánh giá là thiết yếu.
 Căn cứ vào cơ cấu doanh nghiệp và mức độ tập trung của thị
trường, của một ngành, một lĩnh vực kinh tế, người ta phân cạnh tranh thành
ba mức độ: Cạnh tranh hoàn hảo, cạnh tranh không hoàn hảo và độc quyền.
- Cạnh tranh hoàn hảo: là cạnh tranh trong một nền kinh tế được mô tả
là một mẫu kinh tế thị trường lý tưởng, theo đó, một thị trường với hiệu suất
cạnh tranh có sự tham gia của nhiều người bán và nhiều người mua, sản phẩm

9
đồng nhất, thông tin hoàn hảo cho tất cả cả các bên tham gia thị trường và họ

hoàn toàn được tự do trong việc gia nhập hoặc rút khỏi thị trường. Trong cạnh
tranh hoàn hảo, giá cả được định đoạt một cách duy nhất thông qua quan hệ
cung cầu. Người ta cho rằng, cạnh tranh hoàn hảo chỉ có trên lý thuyết, còn
trên thực tế, thị trường chỉ tồn tại hình thức cạnh tranh không hoàn hảo.
- Cạnh tranh không hoàn hảo: là hình thức cạnh tranh chiếm ưu thế
trong các ngành sản xuất, theo đó, chủ thể cạnh tranh có đủ sức mạnh thị
trường để có thể chi phối giá cả các sản phẩm của mình trên thị trường. Cạnh
tranh không hoàn hảo gây ra những hiệu ứng không tốt cho nền kinh tế, biểu
hiện ở mức giá tăng cao, và sản lượng giảm dần so với nhu cầu của xã hội.
Trong cạnh tranh không hoàn hảo thường dẫn đến tập trung kinh tế và một
cách tự nhiên mà đỉnh cao là độc quyền.
- Độc quyền: bao gồm độc quyền và độc quyền nhóm.
Độc quyền là hình thái thị trường trong đó một doanh nghiệp duy nhất
bán một sản phẩm mà không có sản phẩm thay thế gần giống nó. Việc thâm
nhập vào ngành này rất khó khăn hoặc không thể được.
Độc quyền nhóm là hình thái thị trường mà trong đó có một số ít các
nhà sản xuất, mỗi người đều nhận thức được rằng giá cả của mình không chỉ
phụ thuộc vào sản lượng của chính mình mà còn phụ thuộc vào hoạt động của
các nhà cạnh tranh quan trọng trong ngành đó.
 Căn cứ vào mục đích, tính chất của các phương thức thực hiện hành
vi cạnh tranh, người ta phân cạnh tranh thành: cạnh tranh lành mạnh và
cạnh tranh không lành mạnh.
- Cạnh tranh lành mạnh: là hành vi cạnh tranh hợp pháp, trung thực,
tuân thủ đạo đức và tập quán kinh doanh mà không xâm phạm đến quyền lợi
của người khác. Cạnh tranh lành mạnh được khuyến khích và được pháp luật
bảo vệ vì nó đem lại lợi ích cho người tiêu dùng, thúc đẩy tiến bộ khoa học -
công nghệ, phát triển nền kinh tế.

10
- Cạnh tranh không lành mạnh: là việc sử dụng những biện pháp

không chính đáng để giành giật khách hàng, cơ hội kinh doanh làm thiệt hại
đến đối thủ, người tiêu dùng và xã hội. Cạnh tranh không lành mạnh bị pháp
luật nghiêm cấm vì nó vi phạm pháp luật, trái với tập quán thương mại, đạo
đức kinh doanh, xâm phạm tới quyền lợi của chủ thể khác và đi ngược lại lợi
ích chung của xã hội.
1.1.2. Khái quát về pháp luật cạnh tranh
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, hoạt động cạnh tranh diễn ra
phức tạp với cường độ ngày càng gay gắt. Hành vi cạnh tranh không lành
mạnh, hạn chế cạnh tranh ngày càng phong phú và phức tạp. Những mầm
mống tiêu cực của cạnh tranh đã lan tỏa tới các lĩnh vực trong đời sống kinh
tế xã hội dưới mọi hình thức, từ sản xuất đến tiêu dùng, như bán phá giá, thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh để gây hạn chế cạnh
tranh… Những hành vi đó có khả năng ảnh hưởng đến quyền lợi của người
tiêu dùng, của các chủ thể cạnh tranh khác, phá vỡ trật tự kinh doanh công
bằng và nền kinh tế có thể phải đối phó với khủng hoảng nghiêm trọng bởi sự
phá sản hàng loạt của các doanh nghiệp.
Vì vậy, hoạt động cạnh tranh cần được can thiệp bởi cơ quan nhà nước
thông qua hệ thống chính sách pháp luật. Bằng công cụ này, nhà nước duy trì
một trật tự cạnh tranh lành mạnh, môi trường kinh doanh công bằng, tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội đặt "dấu ấn" trên thị trường Việt Nam và
xa hơn là trên thị trường quốc tế.
Trong nền kinh tế thị trường, sự điều tiết của nhà nước đối với hoạt
động này là điều tất yếu. Sự can thiệp của nhà nước một mặt bảo vệ, khuyến
khích những khả năng tốt đẹp của cạnh tranh, mặt khác, khắc phục những
khuyết tật của thị trường do môi trường cạnh tranh mang lại. Mỗi quốc gia
đều có chính sách cạnh tranh, trên cơ sở đó điều tiết môi trường cạnh tranh
trong đời sống kinh tế.

11
Mục đích của chính sách cạnh tranh là đảm bảo thị trường không có

rào cản gia nhập và đảm bảo quyền tự do kinh doanh và tự do cạnh tranh của
mọi chủ thể.
Qua khảo sát chính sách cạnh tranh của một số quốc gia có nền kinh tế
thị trường phát triển cho thấy, các công cụ chủ yếu được nhà nước sử dụng để
điều tiết cạnh tranh là: chính sách thuế; Kiểm soát giá cả; Điều chỉnh độc
quyền; Quốc hữu hóa; Ban hành pháp luật.
Trong các công cụ đó, pháp luật luôn được xem là hiệu quả hơn cả vì
nó là phương thức đưa các công cụ điều tiết khác vào cuộc sống trong điều
kiện nhà nước pháp quyền và xã hội công dân.
Pháp luật cạnh tranh nếu hiểu theo nghĩa rộng bao gồm pháp luật
chống cạnh tranh không lành mạnh, pháp luật chống hạn chế cạnh tranh,
những quy định điều chỉnh hoạt động tố tụng cạnh tranh và tất cả các quy
phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động cạnh tranh trong các văn bản pháp luật
có liên quan. Còn theo nghĩa hẹp, pháp luật cạnh tranh được hiểu là một đạo
luật và những văn bản hướng dẫn thi hành điều chỉnh hoạt động cạnh tranh
như bảo vệ tự do cạnh tranh, cơ cấu thị trường cũng như môi trường cạnh
tranh công bằng và bình đẳng [29].
Ở Việt Nam, trước thời kì đổi mới, nền kinh tế Việt Nam vận hành
theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung nên chưa có môi trường cho hoạt động
cạnh tranh tồn tại. Vì vậy, trong giai đoạn này, pháp luật cạnh tranh gần như
không được đề cập đến ở nước ta.
Sau khi đổi mới, cùng với việc phát triển nền kinh tế thị trường, nhiều
văn bản pháp luật được xây dựng, trong đó có những quy định liên quan đến
cạnh tranh. Những quy định chung mang tính nguyên tắc, điều chỉnh hoạt động
cạnh tranh như Luật Hiến pháp năm 1992, Bộ luật Dân sự năm 1995, Luật
Thương mại năm 1997. Bên cạnh đó, còn có những văn bản chứa đựng những
quy định điều chỉnh hoạt động cạnh tranh trong từng lĩnh vực cụ thể như:

12
Luật báo chí năm 1990, Pháp lệnh quảng cáo số 39/2001/PL-UBTVQH10,

Nghị định 12/1999/NĐ-CP của Chính phủ ngày 6/3/1999 về xử phạt hành
chính trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, Quy chế đấu thầu ban
hành kèm theo Nghị định 88/1999/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày
1/9/1999, các quy định về quản lí giá hàng hóa và dịch vụ.
Như vậy, trong giai đoạn này, trong khi một văn bản pháp luật cạnh
tranh cụ thể chưa được ban hành, những văn bản pháp luật nêu trên cũng đã
góp phần tích cực trong việc điều chỉnh hoạt động cạnh tranh của các chủ thể
kinh doanh. Tuy nhiên, nó cũng bộc lộ những hạn chế nhất định như các quy
định về cạnh tranh nằm rải rác ở các văn bản khác nhau; một hành vi cạnh
tranh được nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh; phạm vi điều chỉnh còn hẹp và
thiếu và chưa có hệ thống chế tài xử lí hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên, ngày 03/12/2004, Luật cạnh
tranh được ban hành, có hiệu lực từ ngày 01/07/2005 với 6 chương 123 điều.
Luật cạnh tranh quy định phạm vi điều chỉnh là các hành vi hạn chế
cạnh tranh (thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, vị trí độc quyền và tập trung kinh tế của các doanh nghiệp); hành vi
cạnh tranh không lành mạnh (các chỉ dẫn gây nhầm lẫn, xâm phạm bí mật
kinh doanh, ép buộc trong kinh doanh, gièm pha doanh nghiệp khác, gây rối
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệm, quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh…).
Ngoài việc quy định về mặt nội dung, Luật cạnh tranh còn thể hiện ở
mặt hình thức bao gồm cả trình tự thủ tục miễn trừ, giải quyết vụ việc cạnh
tranh và biện pháp xử lý vi phạm pháp luật cạnh tranh. Đây được xem là cách
tiếp cận mới trong kỹ thuật soạn thảo văn bản pháp luật nhằm đảm bảo khả
năng thực thi Luật cạnh tranh cao.
Như vậy, có thể thấy rằng, quy định về hành vi hạn chế cạnh tranh là
một trong những nội dung chính, cơ bản và chủ yếu của Luật cạnh tranh. Đây

13
được xem là một thành công trong quá trình xây dựng Luật cạnh tranh của

Việt Nam, đưa văn bản luật này tiệm cận với pháp luật thế giới nói chung và
Luật cạnh tranh trên thế giới nói riêng.
1.1.3. Khái quát về hành vi hạn chế cạnh tranh
Như đã đề cập ở trên, hành vi cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ
thể kinh doanh có chức năng giống nhau thông qua các hành động, nỗ lực và
biện pháp để giành được phần thắng trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa, sản
phẩm, dịch vụ.
Để dành được phần thắng, chủ thể tiến hành hành vi cạnh tranh không
chỉ dựa vào năng lực cạnh tranh của mình mà còn dựa vào cả những biện
pháp gian dối, lừa đảo để vượt qua các đối thủ có thể gây thiệt hại cho chủ thể
cạnh tranh khác, tạo ra nhiều hậu quả xấu và tiêu cực đối với nhà nước và xã
hội. Đôi khi, những hành vi đơn thuần chỉ là sự hợp tác, liên kết với nhau,
không có mục đích nhưng gây tổn hại cho đối thủ cạnh tranh khác, người tiêu
dùng và thị trường nói chung vẫn có thể xẩy ra. Đây chính là hậu quả hạn chế
cạnh tranh trên thị trường do hành vi cạnh tranh của một số chủ thể gây ra.
Để hạn chế hậu quả tiêu cực do hành vi cạnh tranh gây ra, cũng như
bảo đảm chủ thể cạnh tranh không lạm dụng quyền tự do kinh doanh, tự do
cạnh tranh, ở mức độ nào đó, nhà nước tác động vào các hành vi cạnh tranh
của họ. Sự tác động đó có thể làm cho doanh nghiệp hiểu được khuôn khổ,
quy tắc của hành vi kinh doanh, từ đó có những ứng xử trên thị trường cho
phù hợp. Nhà nước cũng có thể can thiệp vào các hành vi cạnh tranh bằng
cách áp dụng biện pháp đình chỉ hành vi, phạt tiền, bồi thường thiệt hại đối
với hành vi hạn chế cạnh tranh.
Theo Luật cạnh tranh, "hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi của
doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường, bao gồm
hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường,
lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế".

14
Như vậy, theo khái niệm trên, hành vi hạn chế cạnh tranh bao gồm các

hình thức:
- Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh;
- Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền;
- Tập trung kinh tế.
a) Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Trong hoạt động kinh doanh, các chủ thể thường thỏa thuận với nhau
nhằm đạt những hiệu quả cao nhất khi tham gia vào thị trường. Pháp luật cho
phép họ được tự do kinh doanh cũng như thực hiện các hoạt động hợp tác,
đầu tư để thu lợi nhuận. Tuy nhiên, các chủ thể kinh doanh đôi khi đã quá làm
dụng quyền tự do của mình dẫn đến hạn chế khả năng tham gia thị trường của
cac chủ thể khác hoặc loại bỏ những đối thủ đang hoạt động trên thị trường
bằng cách thống nhất với nhau cùng thực hiện chiến lược cạnh tranh. Nội
dung của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chính là sự thống nhất ý chí giữa các
chủ thể dưới bất kì hình thức nào về cách thức, biện pháp nhằm hạn chế, thậm
chí khống chế cạnh tranh trên thị trường liên quan [13, tr. 62].
Như vậy, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh phải là thỏa thuận chính thức
giữa các doanh nghiệp; là quyết định của một nhóm doanh nghiệp; sự thỏa
thuận này được xem là hành vi có bàn tính. Người ta có thể xem, thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh là một dạng "hợp đồng" [13, tr. 60].
Về chủ thể thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, có sự khác nhau giữa pháp
luật các quốc gia. Theo Luật cạnh tranh của Cộng hòa Pháp, chủ thể của thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh là tổ chức hoặc cá nhân (trên thực tế chủ yếu là các doanh
nghiệp) thuộc mọi thành phần kinh tế. Theo Luật cạnh tranh của Liên minh Châu
Âu, thì chủ thể của thỏa thuận cạnh tranh là các "doanh nghiệp" (khoản 1 điều 81
Hiệp định Rome). Tuy nhiên, hiệp định này không đưa ra khái niệm rõ ràng về
"doanh nghiệp". Còn theo Luật cạnh tranh Việt Nam, chủ thể của thỏa thuận
cạnh tranh không chỉ là doanh nghiệp mà còn là các hiệp hội ngành nghề.

15
Dưới góc độ pháp lý, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được thể hiện

dưới hai hình thức là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc và thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang.
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang: "là các thỏa thuận
hay hành vi có sự bàn tính giữa các công ty hoạt động cùng cấp trên thị
trường" [24]. Ví dụ: những thỏa thuận của các nhà sản xuất cùng cung cấp
một loại hang hóa. Đây được xem là thỏa thuận nghiêm trọng và phổ biến
nhất, liên quan đến giá cả, phân chia thị trường, ngăn cản các doanh nghiệp
khác tham gia thị trường.
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc: "là thỏa thuận hoặc hành
vi có bàn tính giữa hai hay nhiều công ty hoạt động tại các khâu khác nhau
trong chuỗi sản xuất, phân phối và liên quan đến những điều kiện mà theo đó
các bên có thể mua, bán, bán lại những hàng hóa, dịch vụ nhất định" [24]. Ví dụ:
thỏa thuận cung ứng nguyên liệu. Những hành vi phổ biến trong loại thỏa
thuận này là ấn định giá bán lại, phân phối độc quyền theo lãnh thổ hoặc theo
nhóm khách hàng…
Cả hai loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nêu trên đều ảnh hưởng đến
khả năng cạnh tranh trên thị trường, "Cartel là ung nhọt đối với nền kinh tế thị
trường mở… với việc phá cạnh tranh, chúng gây hại nghiêm trọng cho nền
kinh tế và người tiêu dùng của chúng ta" [8, tr. 17].
Đây là hai dạng thỏa thuận có bản chất kinh tế khác hẳn nhau và thực
tế cho thấy, trong điều kiện thương mại thông thường thỏa thuận theo chiều dọc
thường có mức độ tác động thấp hơn đến môi trường canh tranh so với thỏa
thuận theo chiều ngang. Bởi, thỏa thuận theo chiều dọc chỉ tác động đến một số
doanh nghiệp, một số khu vực và đối với mặt hàng nhất định trên thị trường. Còn
thỏa thuận theo chiều ngang nó ảnh hưởng đến phần lớn hoặc toàn bộ thị trường
liên quan. Vì vậy, tùy vào tính chất và mức độ tác động của từng loại thỏa thuận
mà pháp luật các quốc gia có cách điều chỉnh, can thiệp sao cho phù hợp.

16
Pháp luật các quốc gia thường đưa ra những căn cứ, cơ sở để xác định

các hành vi hạn chế cạnh tranh bị kiểm soát. Theo đó, cùng một hành vi,
nhưng có những chủ thể không bị cơ quan nhà nước can thiệp nếu chưa đến
ngưỡng pháp luật quy định sẽ không bị kiểm soát hoặc không bị cấm.
b) Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền
Trong hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp luôn phấn đấu vươn
lên để đạt được lợi nhuận cao nhất, dành được ưu thế lớn nhất để chiếm lĩnh
một thị phần tương đối lớn trên thị trường liên quan. Đây là điều đáng mừng
cho bản thân doanh nghiệp cũng như nền kinh tế và luôn được nhà nước ủng
hộ, khuyến khích. Trong một số trường hợp, sự phát triển đó đã đưa doanh
nghiệp lên vị trí thống lĩnh thị trường, thậm chí là độc quyền - những vị trí có
lợi thế cạnh tranh cao nhất. Bản thân vị trí thống lĩnh thị trường hay độc
quyền không có tội, không trái với pháp luật. Tuy nhiên, việc lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền, tìm cách hạn chế cạnh tranh để bảo vệ
vị trí của mình, gây bất lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ là vấn đề mà
pháp luật cần phải can thiệp.
Trước khi tìm hiểu lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền,
cần phải tìm hiểu thế nào là vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền.
 Vị trí thống lĩnh thị trường:
Vị trí thống lĩnh không phải là khái niệm thuộc phạm trù pháp luật,
mà là một khái niệm thuộc phạm trù kinh tế. Án lệ của Pháp cho rằng, vị trí
thống lĩnh được hiểu là "khả năng đối mặt với đối thủ cạnh tranh thực tế" và
"doanh nghiệp được coi là giữ vị trí chiếm lĩnh một vị trí ưu thế trên thị
trường khi nắm giữ thị phần ưu thế trên thị trường so với các doanh nghiệp là
đối thủ cạnh tranh khác" [13, tr. 71]. Còn Toà án châu Âu quy định:
Vị trí thống lĩnh đối trường… liên quan đến sức mạnh kinh tế
của một doanh nghiệp có khả năng ngăn chặn hữu hiệu cạnh tranh
hiện có trên thị trường thông qua việc doanh nghiệp này có khả

17
năng hành xử trong phạm vi độc lập với đối thủ cạnh tranh, khách

hàng và cuối cùng là người tiêu dùng của doanh nghiệp [9, tr. 45].
Dưới góc độ pháp luật, các quốc gia thường sử dụng tỉ lệ thị phần để
xác định vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp, hoặc nhóm doanh
nghiệp. Theo quyết định ngày 14 tháng 2 năm 1978 của Tòa tư pháp liên
minh Châu Âu, nếu doanh nghiệp có thị phần trung bình từ 40% trở lên có thể
đủ để kết luận rằng đó là vị trí thống lĩnh. Còn theo Luật cạnh tranh:
Doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu
có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả
năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể Nhóm doanh
nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu cùng hành
động nhằm gây hạn chế cạnh tranh và thuộc một trong các trường
hợp sau đây: a) Hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên
trên thị trường liên quan; b) Ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ
65% trở lên trên thị trường liên quan; c) Bốn doanh nghiệp có tổng
thị phần từ 75% trở lên trên thị trường liên quan [21].
Với những quy định đó, có thể thấy, để xác định một doanh nghiệp có
vị trí thống lĩnh thị trường phải có hai yếu tố: thị phần và thị trường liên quan.
Nội dung này sẽ được tìm hiểu kĩ trong mục tiếp theo.
 Vị trí độc quyền:
Nếu như có vị trí thống lĩnh thị trường, doanh nghiệp chỉ mới có khả
năng chi phối một phần hoặc vào những giai đoạn nhất định của quá trình
phát triển thị trường, thì có vị trí độc quyền, doanh nghiệp không có đối thủ
nào cạnh tranh hoặc sự cạnh tranh nhưng không đáng kể. Đây là vị trí mà
doanh nghiệp hoàn toàn có thể chi phối trên thị trường liên quan. So với vị trí
thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền dễ dàng xác định hơn.
Việc các doanh nghiệp phấn đấu vươn lên và đạt được vị trí thống lĩnh
thị trường, vị trí độc quyền là điều bình thường, không vi phạm pháp luật.

18
Tuy nhiên, khi các doanh nghiệp đã đạt được vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí

độc quyền và lạm dụng vị trí đó để gây ảnh hưởng, khó khăn cho đối thủ
khác, cho người tiêu dùng thì mới là vi phạm pháp luật.
 Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền:
Khi có được vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền, các doanh
nghiệp luôn có xu hướng duy trì để có thể bảo vệ được lợi thế cạnh tranh
tuyệt đối so với các chủ thể khác. Việc các doanh nghiệp phấn đấu vươn lên
và đạt được vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền là điều bình thường,
không phải vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, khi các doanh nghiệp lạm dụng vị
trí đó để gây ảnh hưởng, loại bỏ đối thủ cạnh tranh, làm biến dạng quy Luật
cạnh tranh trên thị trường, gây khó khăn cho đối thủ khác, cho người tiêu
dùng thì mới là vi phạm pháp luật và bị pháp luật điều chỉnh.
- Theo pháp luật các quốc gia cũng như pháp luật Việt Nam, hành vi
của doanh nghiệp bị coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bị pháp luật
cấm có thể là: Bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành; Áp đặt giá mua,
giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý; Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch
vụ, Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới Đỉnh
cao của thống lĩnh thị trường là độc quyền. Như đã nêu ở trên, doanh nghiệp có
vị trí độc quyền là doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường, chiếm 100%
thị phần trên thị trường liên quan. Vì vậy, doanh nghiệp có vị trí độc quyền ngoài
việc không được thực hiện các hành vi bị cấm đối với doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh thị trường, còn bị cấm thực hiện các hành vi áp đặt các điều kiện bất
lợi cho khách hàng; Lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc
hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng.
Sở dĩ pháp luật cấm lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc
quyền là để bảo đảm thực hiện mục đích chung của pháp luật là tạo lập một
môi trường cạnh tranh bình đẳng, bảo vệ quyền và lợi ích của chủ thể kinh
doanh vừa và nhỏ; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng.

19
c) Tập trung kinh tế

Sự tiến bộ khoa học công nghệ đã kéo theo quá trình tích tụ và tập
trung sản xuất, hình thành các chủ thể kinh doanh có quy mô lớn nhằm khai
thác lợi thế trong kinh doanh. Sự tác động của nền kinh tế thị trường đã hình
thành một số chủ thể kinh doanh giữ vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc
quyền. Điều này dẫn đến hệ quả là các chủ thể này luôn tìm cách nâng cao vị
trí, nâng cao năng lực cạnh tranh của mình; Các doanh nghiệp nhỏ muốn tồn
tại phải sáp nhập vào doanh nghiệp lớn, hoặc bị doanh nghiệp lớn mua lại một
phần hoặc toàn bộ doanh nghiệp. Vì thế, doanh nghiệp lớn có thể kiểm soát
được doanh nghiệp nhỏ hoặc thủ tiêu đối thủ cạnh tranh.
Khái niệm tập trung kinh tế được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác
nhau. Nhìn nhận như một quá trình gắn liền với việc hình thành và thay đổi
của cấu trúc thị trường, hành vi tập trung kinh tế trên thị trường được hiểu là
việc giảm số lượng các doanh nghiệp độc lập cạnh tranh trên thị trường thông
qua các hành vi sáp nhập (theo nghĩa rộng) hoặc thông qua tăng trưởng nội
sinh của doanh nghiệp trên cơ sở mở rộng năng lực sản xuất. Các nhà hoạch
định chính sách cạnh tranh có thể phân tích các yếu tố kinh tế để tìm kiếm,
bản chất pháp lý nhằm tìm ra những cơ chế điều chỉnh phù hợp. Với tư cách
là hành vi của các doanh nghiệp, tập trung kinh tế (còn gọi là tập trung tư bản)
được hiểu là tăng thêm tư bản do hợp nhất nhiều tư bản lại hoặc một tư bản
này thu hút một tư bản khác.
Trong cuốn Hành vi hạn chế cạnh tranh, một số vụ việc điển hình của
châu Âu, tập trung kinh tế được hiểu:
Là các thỏa thuận tài chính theo đó hai hay nhiều doanh
nghiệp độc lập quyết định kết hợp sức mạnh kinh tế của họ với nhau
thành một tổ chức duy nhất thông qua phương thức mua lại, sáp
nhập hoặc liên doanh làm ảnh hưởng tiêu cực đến cấu trúc của thị
trường, hay để tạo lập, củng cố vị trí thống lĩnh thị trường gây hạn
chế cạnh tranh một cách đáng kể [8, tr. 9].

20

Dưới góc độ pháp lý, các văn bản pháp luật có thể trực tiếp đưa ra
định nghĩa về tập trung kinh tế hoặc chỉ liệt kê những hành vi được coi là tập
trung kinh tế. Theo điều L430 - 1 Bộ luật Thương mại Pháp:
một vụ tập trung kinh tế được thực hiện khi: một hoặc nhiều
người đã nắm quyền kiểm soát ít nhất một doanh nghiệp hoặc nhiều
doanh nghiệp có được quyền kiểm soát đối với toàn bộ hoặc một
phần doanh nghiệp khác một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, bằng
cách góp vốn mua cổ phần, giao kết hợp đồng hoặc mọi hình thức
khác [2].
Còn Luật cạnh tranh lại không đưa ra khái niệm cụ thể về tập trung
kinh tế mà lại liệt kê các hình thức tập trung kinh tế.
Tập trung kinh tế là hành vi của doanh nghiệp bao gồm:
1. Sáp nhập doanh nghiệp;
2. Hợp nhất doanh nghiệp;
3. Mua lại doanh nghiệp;
4. Liên doanh giữa các doanh nghiệp;
5. Các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của
pháp luật [21, Điều 16].
Như vậy, dù cho xem xét dưới góc độ kinh tế hay pháp lý, tập trung
kinh tế đều được nhìn nhận là một hình thức tập trung nguồn lực của các
doanh nghiệp đang hoạt động trên thị trường bằng việc tổ chức lại doanh
nghiệp và hậu quả của nó là việc hình thành các tập đoàn kinh tế, thay đổi cấu
trúc thị trường, ảnh hưởng đến các doanh nghiệp vừa và người tiêu dùng.
Pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật các quốc gia trên thế giới đều
ghi nhận những hình thức tập trung kinh tế như quy định tại điều 16 Luật
cạnh tranh nêu trên. Để làm rõ hơn các hình thức tập trung kinh tế, Điều 17
Luật cạnh tranh đã đưa ra các khái niệm cụ thể về các hình thức tập trung
kinh tế:

21

1. Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh
nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp
của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng thời chấm dứt sự tồn
tại của doanh nghiệp bị sáp nhập.
2. Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh
nghiệp chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp
của mình để hình thành một doanh nghiệp mới, đồng thời chấm dứt
sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất.
3. Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn
bộ hoặc một phần tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát,
chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của doanh nghiệp bị mua lại.
4. Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều
doanh nghiệp cùng nhau góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và
lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp mới [21].
Các hình thức tập trung kinh tế đó đều có mục đích cuối cùng là tạo ra
một chủ thể kinh doanh lớn hơn, có năng lực cạnh tranh, khả năng sản xuất
lớn hơn. Qua đó, có thể giảm được chi phí sản xuất, tăng cường kinh nghiệm
chuyên sâu trong sản xuất, khả năng nghiên cứu và phát triển. Đây là nhu cầu
tất yếu của doanh nghiệp.
Bên cạnh những tác động tích cực, tập trung kinh tế cũng có những tác
động tiêu cực. Tập trung kinh tế là con đường dẫn đến vị trí thống lĩnh thị
trường hoặc vị trí độc quyền trên thị trường, khi đó, doanh nghiệp rất dễ lạm
dụng sức mạnh tập trung để tạo ra lợi thế cạnh tranh cho mình, áp đặt điều
kiện thương mại bất lợi đối với chủ thể khác trong mối quan hệ hợp đồng.
Tập trung kinh tế cũng có thể dẫn đến độc quyền nhóm, làm cho cơ cấu
thị trường mất cân đối, cản trở cạnh tranh, ảnh hưởng đến người tiêu dùng.
Tập trung kinh tế là nhu cầu tất yếu và là điều bình thường trong kinh
tế thị trường. Tuy nhiên, vì những hạn chế của nó nên đến mức độ nào nhất
định, hoạt động này sẽ bị nhà nước can thiệp, kiểm soát.

×