Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Nghĩa vụ của người kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (934.65 KB, 121 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






MAI THỊ THANH TÂM






NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI KINH DOANH HÀNG HOÁ,
DỊCH VỤ TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƢỜI TIÊU DÙNG






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC













HÀ NỘI – 2010




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





MAI THỊ THANH TÂM





NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI KINH DOANH HÀNG HOÁ,
DỊCH VỤ TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN LỢI
NGƢỜI TIÊU DÙNG



Chuyên ngành : Luật Kinh tế
Mã số : 60 38 50




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGÔ HUY CƢƠNG








HÀ NỘI – 2010



1
MỤC LỤC


Trang


MỞ ĐẦU
1

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGHĨA
VỤ CỦA NGƢỜI KINH DOANH HÀNG HOÁ, DỊCH VỤ
TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG
6
1.1.
Khái niệm người tiêu dùng và người kinh doanh hàng hoá, dịch vụ
6
1.1.1.
Khái niệm người tiêu dùng
6
1.1.2
Khái niệm người kinh doanh hàng hóa, dịch vụ

1.2.
Sự cần thiết quy định nghĩa vụ của người kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
13
1.3.
Nội dung các quyền cơ bản của người tiêu dùng
17
1.4.
Nội dung các nghĩa vụ cơ bản của người kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
21
1.4.1.
Nghĩa vụ bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng

21
1.4.2.
Nghĩa vụ cung cấp thông tin
22
1.4.3.
Nghĩa vụ bảo đảm quyền lựa chọn cho người tiêu dùng
23
1.4.4.
Nghĩa vụ lắng nghe ý kiến của người tiêu dùng
25
1.4.5.
Nghĩa vụ bảo hành sản phẩm
25
1.4.6.
Nghĩa vụ giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng
26
1.4.7.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người tiêu dùng
27
1.5.
Xử lý hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng của người kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ
30

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI KINH DOANH HÀNG HOÁ,
DỊCH VỤ TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI
TIÊU DÙNG
34



2
2.1.
Tổng quan hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ của
người kinh doanh hàng hoá, dịch vụ đối với người tiêu dùng
34
2.2.
Thực trạng các quy định pháp luật về nghĩa vụ của người kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ đối với người tiêu dùng
40
2.2.1
Nghĩa vụ bảo đảm tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng của hàng hóa,
dịch vụ
40
2.2.2.
Nghĩa vụ thông tin chính xác, trung thực về hàng hóa, dịch vụ
45
2.2.3
Nghĩa vụ bảo hành hàng hóa, dịch vụ
59
2.2.4
Nghĩa vụ bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng
62
2.2.5
Nghĩa vụ của người kinh doanh hàng hoá, dịch vụ trong quan hệ
hợp đồng với người tiêu dùng
64
2.2.6.
Nghĩa vụ giải quyết khiếu nại cho người tiêu dùng
68

2.3.
Thực trạng xử lý vi phạm nghĩa vụ của người kinh doanh hàng hoá,
dịch vụ đối với người tiêu dùng
70

Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI KINH
DOANH HÀNG HOÁ, DỊCH VỤ TRONG VIỆC BẢO VỆ
QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG
81
3.1.
Những định hướng cơ bản
81
3.2.
Những giải pháp chủ yếu
88
3.2.1.
Nhóm giải pháp xây dựng pháp luật
88
3.2.2.
Nhóm giải pháp bảo đảm thực thi pháp luật
93

KẾT LUẬN
110

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
112







3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ sau đổi mới (1986), với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng và Nhà nước
ta đã tạo nhiều chuyển biến tích cực cho nền kinh tế Việt Nam. Hiện nay,
chúng ta đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, đặc biệt
kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO). Sự kiện này mở ra nhiều cơ hội cũng như thách thức không chỉ
đối với các doanh nghiệp Việt Nam mà còn cả đối với từng người dân Việt
Nam với tư cách là những chủ thể tiêu dùng.
Hơn nữa, sự phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ trong bối
cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã đặt người tiêu dùng vào một
khung cảnh mới – đó là sự đan xen giữa những tiện ích và phạm vi lựa chọn
rộng rãi với những phương thức kinh doanh gian dối, thiếu trung thực và được
ngụy trang dưới nhiều hình thức tinh vi hơn. Không hiếm các trường hợp các
doanh nghiệp đã sử dụng thị trường Việt Nam làm nơi giải quyết hàng kém
chất lượng, hàng tồn kho, hàng có chỉ dẫn gây nhầm lẫn hoặc trực tiếp tiến
hành các biện pháp khuyến mại, quảng cáo gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng
Việt Nam – nhóm người tiêu dùng chưa có nhiều cơ hội được giáo dục và đào
tạo về tiêu dùng trong kỷ nguyên toàn cầu hóa.
Thực tiễn Việt Nam thời gian qua cho thấy, không ít người kinh doanh
hàng hoá, dịch vụ trong nước, vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, đã sẵn sàng
chà đạp các quyền cơ bản của người tiêu dùng. Hàng loạt các vụ việc gần đây
như vụ nước tương có chứa chất 3-MPCD, xăng pha aceton, sữa nhiễm
melamine, kẹo chứa bột đá, rau quả chứa dư lượng thuốc bảo vệ thực vật lớn,

phân đạm giả, thuốc tây giả, rượu giả… cho thấy quyền lợi của người tiêu
dùng Việt Nam đang bị xâm hại nghiêm trọng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến


4
tình trạng trên, nhưng nguyên nhân trực tiếp nhất, quan trọng nhất là do sự
thiếu vắng một cơ chế pháp lý hiệu quả để người kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ tôn trọng của mình đối với người tiêu dùng.
Ở Việt Nam, mặc dù Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm
1999 cùng nhiều văn bản pháp luật khác đã ghi nhận tương đối toàn diện các
nghĩa vụ của người kinh doanh hàng hóa, dịch vụ song khả năng áp dụng còn
rất nhiều hạn chế, nội dung điều chỉnh còn mang tính nguyên tắc, khó áp
dụng. Hơn nữa, việc thiếu vắng các chế tài mạnh mẽ để xử lý các hành vi vi
phạm của người kinh doanh hàng hóa, dịch vụ làm cho pháp luật mất tính
giáo dục, răn đe. Nhiều vụ việc mặc dù xác định rõ vi phạm của người kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ trong việc bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng nhưng
vẫn không xử lý được vì không có chế tài. Nhiều hành vi đã xác định rõ chế
tài xử lý nhưng mức phạt quá nhẹ khiến cho nhiều cơ sở kinh doanh sẵn sàng
nộp phạt để rồi tiếp tục tái phạm…
Từ những nguyên nhân đã trình bày trên, có thể khẳng định rằng,
việc nghiên cứu đề tài “Nghĩa vụ của người kinh doanh hàng hóa, dịch vụ
trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng” có ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn, đặc biệt là trước yêu cầu ban hành Luật bảo vệ người tiêu dùng ở
nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Tuy có tầm quan trọng như vậy, song pháp luật về bảo vệ người tiêu
dùng ở nước ta mới chỉ được quan tâm đúng mức và bắt đầu có một số nghiên
cứu quy mô trong thời gian gần đây. Điều đáng nói là, các kết quả nghiên cứu
thu được cho đến nay còn hết sức khiêm tốn.
Quan trọng nhất trong số đó có thể kể đến các công trình như: “Các

biện pháp bảo vệ người tiêu dùng trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và
kinh tế thị trường” do Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam


5
chủ trì; “So sánh pháp luật bảo vệ người tiêu dùng một số nước trên thế giới –
Bài học kinh nghiệm và đề xuất một số nội dung cơ bản quy định trong dự
thảo Luật bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam”; Thiết chế bảo vệ người tiêu
dùng: Thực trạng Việt Nam, kinh nghiệm quốc tế và định hướng hoàn thiện –
Báo cáo nghiên cứu chuyên đề, Tài liệu phục vụ công tác xây dựng Luật Bảo
vệ người tiêu dùng Việt Nam do Cục Quản lý cạnh tranh – Bộ Công Thương
thực hiện (2008); Phùng Thị Lan Hương (2005), “Pháp luật về bảo vệ người
tiêu dùng ở Việt Nam - Thực trạng và kiến nghị”, Luận văn thạc sĩ luật kinh
tế, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; Bùi Thị Long (2007), “Pháp luật về
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” –
Luận văn thạc sĩ, Viện Nhà nước và Pháp luật;
Một số cuốn sách tham khảo như: Nguyễn Như Phát (2001), Cạnh
tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân,
Hà Nội; Đoàn Văn Trường (2003), Nghiên cứu người tiêu dùng: Những vấn
đề về việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam, Nxb. Khoa học và kỹ
thuật, Hà Nội; ; Đặng Vũ Huân (2004), Pháp luật về kiểm soát độc quyền và
chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội; Bá Linh (2005), Tìm hiểu pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,
Nxb Tư pháp, Hà Nội;
Ngoài ra, phần lớn các công trình còn lại được công bố dưới hình
thức các bài viết được đăng trên tạp chí khoa học chuyên ngành hoặc các
tham luận trong các Hội thảo khoa học. Trong số đó phải kể đến các bài viết
của Nguyễn Như Phát (2000), “Đối tượng điều chỉnh của pháp luật chống
cạnh tranh không lành mạnh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, (9); Ngô
Vĩnh Bạch Dương (2000), “Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong pháp

luật cạnh tranh”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật (11); Nguyễn Văn Mạnh
(2007), “Pháp luật bảo vệ sức khoẻ cộng đồng và kiến nghị hoàn thiện pháp


6
luật bảo vệ người tiêu dùng”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (105); Nguyễn
Ngọc Sơn (2009), “Người tiêu dùng và pháp luật bảo vệ người tiêu dùng”,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (138); Nguyễn Thị Thư (2009), “Hoàn thiện
pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay”, Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật (8); Hội thảo “Đẩy mạnh công tác bảo vệ người
tiêu dùng ở Việt Nam”, Sáng kiến trong khuôn khổ dự án 7UP2 do Cục Quản
lý cạnh tranh, Bộ Thương mại chủ trì, tháng 3/2006; Hội thảo “Cơ chế pháp
lý bảo vệ người tiêu dùng: thực tiễn Việt Nam và kinh nghiệm thế giới” do
Viện Khoa học và pháp lý chủ trì, tháng 8/2007; Hội thảo “Hoàn thiện cơ
chế pháp lý về bảo vệ người tiêu dùng ở Việt Nam” do Viện Nhà nước và
pháp luật chủ trì, tháng 2/2008; …
Hầu hết các công trình trên đều ít nhiều đề cập đến nghĩa vụ của người
kinh doanh dịch vụ, hàng hóa trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên
cứu một cách cơ bản và có hệ thống về nghĩa vụ của người kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ trong việc bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của Luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về
nghĩa vụ của người kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong việc bảo vệ quyền lợi
của người tiêu dùng, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về lĩnh vực này
và từ đó đề xuất một số định hướng và giải pháp hoàn thiện.
Với mục đích trên, Luận văn có các nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về nghĩa vụ của người kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ của

người kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong việc bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng;


7
- Đưa ra một số định hướng và giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp luật về
nghĩa vụ của người kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong việc bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghĩa vụ của người kinh doanh
hàng hoá, dịch vụ trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là khảo sát các quy định pháp luật
Việt Nam hiện hành về nghĩa vụ của người kinh doanh hàng hoá, dịch vụ
trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, trên cơ sở tham khảo quy định
một số nước trên thế giới.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp chủ yếu sau: phương pháp
phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch sử - cụ thể, phương pháp quy nạp -
diễn dịch, phương pháp hệ thống, phương pháp so sánh, …
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận
văn gồm 3 chương và 10 tiết













8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGHĨA VỤ CỦA NGƢỜI
KINH DOANH HÀNG HOÁ, DỊCH VỤ TRONG VIỆC
BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƢỜI TIÊU DÙNG
1.1. Khái niệm ngƣời tiêu dùng và ngƣời kinh doanh hàng hoá,
dịch vụ
1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng
1.1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng theo pháp luật một số nước
Xét dưới góc độ kinh tế học, tiêu dùng là một khâu của quá trình sản
xuất; là mục đích cuối cùng của sản xuất. Không có tiêu dùng thì sản xuất mất
hết ý nghĩa và trở thành sản xuất không có mục đích, biến thành sản xuất lãng
phí đặc biệt. Tiêu dùng bao gồm hai loại là tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng
đời sống. Tiêu dùng sản xuất là tiêu dùng các nguyên, nhiên vật liệu nhất định
trong quá trình sản xuất. Tiêu dùng đời sống là tiêu dùng những tư liệu sinh
hoạt bảo đảm cho con người tồn tại và phát triển [20, 7]. Trong phạm vi luận
văn này, thuật ngữ tiêu dùng được sử dụng dưới góc độ của tiêu dùng đời
sống. Khái niệm “người tiêu dùng” được tiếp cận chủ yếu dưới góc độ này.
Khái niệm “người tiêu dùng” là một khái niệm cơ bản nhất, được sử
dụng xuyên suốt trong các quy định của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng. Vì
vậy, việc làm rõ nội hàm khái niệm này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
việc tiếp cận các nội dung khác của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng.
Tuy nhiên, pháp luật mỗi quốc gia lại tiếp cận khái niệm “người tiêu
dùng” một cách không giống nhau.
Khái niệm “người tiêu dùng” theo Chỉ thị của Châu Âu bao gồm các
đặc điểm:

+ Là bất kỳ cá nhân nào;
+ Mua hàng theo hợp đồng;


9
+ Mục tiêu của tiêu dùng không liên quan đến thương mại, kinh
doanh hay nghề nghiệp.
Theo khái niệm này, người tiêu dùng không bao gồm pháp nhân và
không bao gồm người sử dụng, thụ hưởng hàng hóa, dịch vụ mà không trực
tiếp giao kết hợp đồng với người kinh doanh.
Khái niệm người tiêu dùng theo Luật Bảo vệ người tiêu dùng của bang
Quebec - Canada gồm thể nhân, không phải thương nhân (sử dụng hàng hóa
hoặc dịch vụ vì mục đích kinh doanh). Tuy vậy, yếu tố sử dụng hàng hóa hoặc
dịch vụ lại không xác định rõ là phát sinh trực tiếp từ hợp đồng hay thụ hưởng
từ người khác.
Luật Bảo vệ người tiêu dùng Đài Loan xác định “người tiêu dùng là
những ai tham gia vào các giao dịch, sử dụng hàng hoá hoặc dịch vụ vì mục
đích tiêu dùng”. Như vậy, chủ thể tham gia vào các giao dịch ở đây có thể
được hiểu là bao gồm cả thể nhân và pháp nhân, miễn là mục đích của họ là
để tiêu dùng. Về cách thức đạt được hàng hóa, dịch vụ của người tiêu dùng, từ
phân tích quy định này có thể hiểu rằng người tiêu dùng bao gồm cả người
tham gia vào các giao dịch và những người sử dụng hàng hóa, dịch vụ từ
người khác như thụ hưởng, nhận tặng cho,…
Khác với hầu hết các nước trên thế giới, Luật khung về bảo vệ người
tiêu dùng Hàn Quốc lại không hạn chế mục đích sử dụng hàng hoá, dịch vụ ở
mục đích tiêu dùng mà bao hàm cả mục đích sản xuất. Khoản 1 - Điều 2 Luật
này quy định: “Người tiêu dùng là những ai sử dụng (bao hàm cả tận dụng)
hàng hóa dịch vụ được cung cấp bởi doanh nghiệp nhằm mục đích sử dụng
hàng ngày hoặc sản xuất, được quy định tại Nghị định”.
Luật Bảo vệ người tiêu dùng Thái Lan năm 1979 định nghĩa: Người

tiêu dùng là người mua hoặc sử dụng hàng hóa, dịch vụ của một nhà kinh
doanh, kể cả những người được chào hàng hoặc được đề nghị mua hàng hoặc


10
sử dụng dịch vụ của nhà kinh doanh. Theo cách định nghĩa này, người tiêu
dùng bao gồm cả thể nhân và pháp nhân. Tuy nhiên, khái niệm này lại không
xác định rõ mục đích sử dụng hàng hóa, dịch vụ. Như vậy, có thể hiểu người
tiêu dùng không chỉ bao gồm những người sử dụng hàng hóa, dịch vụ vào
mục đích tiêu dùng mà cả những người sử dụng vì mục đích sản xuất hoặc
thương mại.
Luật Bảo vệ người tiêu dùng Malaysia lại có cách đưa ra khái niệm
khác hơn. “Người tiêu dùng” là người -
(a) nhận được hàng hóa hoặc dịch vụ để sử dụng cho mục đích cá nhân,
sử dụng trong hộ gia đình, sử dụng hoặc tiêu dùng và
(b) không sử dụng hàng hóa hoặc dịch vụ hoặc dùng hàng hóa dịch vụ
vào mục đích
(i) cung cấp lại vì mục đích thương mại;
(ii) tiêu dùng chúng vào quá trình sản xuất; hoặc
(iii) trong trường hợp hàng hóa, dịch vụ sửa chữa hoặc xử lý, các hàng
hóa và tài sản gắn liền với đất khác .
Khái niệm này xác định khá chi tiết về mục đích sử dụng hàng hóa,
dịch vụ nhưng lại chỉ nói tới khái niệm người (person) mà không nói rõ là thể
nhân hay pháp nhân.
1.1.1.2. Khái niệm người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam
So với các nước khác trên thế giới, khoa học pháp lý Việt Nam tiếp cận
với khái niệm người tiêu dùng muộn hơn. Theo quy định tại Điều 1 Pháp lệnh
Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ngày 27/4/1999 thì “người tiêu dùng là
người mua, sử dụng hàng hóa cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt của cá nhân,
gia đình và tổ chức”. Điều 2 - Nghị định 69/2001/NĐ-CP ngày 02/10/2001

quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm
1999 xác định:


11
“1. Những quy định của Nghị định này điều chỉnh đối với tổ chức, cá
nhân sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ và người mua, sử dụng hàng
hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng và nhu cầu công việc của tổ chức, cá
nhân, gia đình.
2. Người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích tiêu dùng và
nhu cầu công việc của tổ chức, cá nhân, gia đình bao gồm:
a. Người mua và là người sử dụng hàng hóa, dịch vụ đã mua cho chính
bản thân mình;
b. Người mua hàng hóa và dịch vụ cho người khác, cho gia đình hoặc
cho tổ chức sử dụng;
c. Cá nhân, gia đình, tổ chức sử dụng hàng hóa, dịch vụ do người khác
mua hoặc do được tặng, cho”.
Điều 3 - Nghị định này cũng xác định: “Người mua, sử dụng hàng hóa,
dịch vụ cho mục đích sản xuất, kinh doanh không thuộc phạm vi điều chỉnh
của Nghị định này”.
Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam, người tiêu dùng bao
gồm cả cá nhân và tổ chức. Khái niệm này cũng cho thấy người tiêu dùng bao
gồm cả những người không trực tiếp giao dịch với người kinh doanh hàng hoá,
dịch vụ, mà được thụ hưởng hàng hóa, dịch vụ từ người khác. Pháp luật cũng
xác định rõ mục đích sử dụng hàng hóa, dịch vụ của người tiêu dùng là cho
mục đích tiêu dùng, không nhằm mục đích kinh doanh. Quy định về khái niệm
người tiêu dùng của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng Việt Nam là tương đối cụ
thể và tương đồng với quy định pháp luật nhiều nước trên thế giới
1.1.1.3. Sự khác biệt về quan điểm người tiêu dùng của các nước
Qua khảo sát quan điểm người tiêu dùng theo pháp luật một số nước

trên thế giới và pháp luật Việt Nam, chúng ta có thể thấy khái niệm này gồm
ba nội dung cơ bản:


12
- Việc xác định người tiêu dùng chỉ bao gồm thể nhân hay pháp nhân
hoặc gồm cả hai đối tượng này ở các nước lại có cách quy định khác nhau:
+ Cách quy định thứ nhất: xác định người tiêu dùng chỉ bao gồm thể
nhân (cá nhân). Theo cách quy định này, luật bảo vệ người tiêu dùng chỉ bảo
vệ đối tượng là thể nhân, cá nhân, còn pháp nhân không được nhìn nhận ở vị
thế bất cân xứng như cá nhân trong quan hệ với bên cung cấp dịch vụ, hàng
hóa nên không cần thiết phải can thiệp vào quan hệ tiêu dùng của họ. Cách
quy định này không toàn diện bởi lẽ theo quy định của pháp luật, pháp nhân
có thể là doanh nghiệp hoặc các tổ chức khác trong xã hội. Họ cũng có những
quan hệ tiêu dùng thông thường mà không nhất thiết mọi quan hệ mua bán
đều liên quan đến hoạt động thương mại. Trong quan hệ tiêu dùng, họ cũng
không phải là người chuyên nghiệp, cũng không có sẵn đủ thông tin, nguồn
lực để đối phó với các hành vi xâm phạm từ phía người kinh doanh hàng hoá,
dịch vụ và họ cũng cần được bảo vệ từ phía pháp luật.
+ Cách quy định thứ hai: không xác định rõ người tiêu dùng chỉ bao
gồm cá nhân hay bao gồm cả cá nhân và pháp nhân. Cách quy định này chỉ nói
là “người nào”, “những ai”. Đây là quy định không rõ ràng và thường dẫn đến
cách hiểu khác nhau, gây khó khăn trong quá trình áp dụng luật trong thực tế.
+ Cách quy định thứ ba: xác định rõ người tiêu dùng bao gồm cả thể
nhân và pháp nhân. Cách quy định này khắc phục được hạn chế của cả cách
thứ nhất và cách thứ hai. Sẽ không gây khó khăn trong quá trình áp dụng luật
và cũng không hạn chế đối tượng được bảo vệ. Đảm bảo mọi đối tượng đều
được pháp luật bảo vệ trước các hành vi xâm hại của người kinh doanh.
- Về cách thức đạt được hàng hóa, dịch vụ, hiện nay cũng có các cách
tiếp cận khác nhau:

+ Cách tiếp cận thứ nhất của Châu Âu cho rằng pháp luật bảo vệ người
tiêu dùng chỉ bảo vệ người tiêu dùng có được hàng hóa, dịch vụ từ hợp đồng


13
mà loại trừ việc bảo vệ những người tiêu dùng là người thứ ba được thụ
hưởng hàng hóa, dịch vụ như được thừa kế, tặng cho, Tuy nhiên, trên thực
tế, quyền lợi của bên thứ ba được thụ hưởng hàng hoá, dịch vụ vẫn có thể bị
xâm hại từ phía người kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Và nếu họ không thuộc
phạm vi được luật bảo vệ người tiêu dùng bảo vệ thì khó có cơ sở pháp lý để
đòi bồi thường thiệt hại.
+ Cách tiếp cận thứ hai xác định người tiêu dùng bao gồm cả những
người thụ hưởng hàng hóa, dịch vụ từ người khác, không trực tiếp giao kết
hợp đồng với người kinh doanh hàng hóa, dịch vụ. Đa số các quốc gia đều
tiếp cận khái niệm người tiêu dùng theo cách này. Có thể nói đây là cách tiếp
cận toàn diện, phản ánh đúng bản chất của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng.
Theo đó, người kinh doanh hàng hóa, dịch vụ sẽ phát sinh trách nhiệm với bất
cứ ai sử dụng hàng hóa, dịch vụ của họ.
- Về mục đích sử dụng hàng hóa, dịch vụ: đa số các quốc gia, trong đó
có Việt Nam đều quy định việc sử dụng hàng hóa, dịch vụ nhằm mục đích
tiêu dùng, phi thương mại hay không nhằm mục đích kinh doanh. Tuy nhiên,
cũng có quốc gia như Hàn Quốc lại ghi nhận cả những người tiêu dùng hàng
hóa, dịch vụ vào mục đích thương mại hoặc mục đích sản xuất, kinh doanh.
Quy định như Luật khung về bảo vệ người tiêu dùng Hàn Quốc có hạn chế là
phạm vi đối tượng được bảo vệ quá rộng, sẽ làm giảm hiệu quả của luật bảo
vệ người tiêu dùng. Do đó, về mục đích của sử dụng hàng hóa, dịch vụ chỉ
nên quy định theo hướng là không nhằm mục đích kinh doanh.
Tóm lại, người tiêu dùng được hiểu là cá nhân, tổ chức mua hoặc sử
dụng hàng hoá, dịch vụ không nhằm mục đích kinh doanh.
1.1.2. Khái niệm người kinh doanh hàng hóa, dịch vụ

Để tiếp cận với khái niệm “người kinh doanh hàng hoá, dịch vụ”, trước
hết chúng ta cần tiếp cận với khái niệm “kinh doanh”.


14
Theo Từ điển Tiếng Việt, “kinh doanh” được hiểu là “tổ chức việc sản
xuất, buôn bán, dịch vụ nhằm mục đích sinh lợi” [60, 654]. Theo cách hiểu
phổ thông này, “kinh doanh” không những có nghĩa là “buôn bán” mà còn có
nghĩa là “tổ chức việc sản xuất”. Hơn nữa không phải mọi hoạt động “buôn
bán”, “tổ chức việc sản xuất” đều là “kinh doanh”. Mà những hoạt động phải
“nhằm mục đích sinh lợi” mới được xem là hoạt động “kinh doanh”.
Theo định nghĩa pháp lý được quy định tại Khoản 2, Điều 3 Luật Doanh
nghiệp năm 2005, “kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất
cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc
cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”. Như vậy, cả Từ điển
Tiếng Việt và trong Luật Doanh nghiệp đều tiếp cận khái niệm “kinh doanh”
theo nghĩa rộng, bao gồm cả hoạt động sản xuất. Thông thường, người ta hay
tách hai thuật ngữ “sản xuất”, “kinh doanh” ra và đặt chúng cạnh nhau. Ta
thường thấy điều này trong các báo, tạp chí, giáo trình, tài liệu, cũng như trong
nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Các cụm từ như “tổ chức, cá nhân sản xuất,
kinh doanh hàng hoá, dịch vụ”, “sản xuất, kinh doanh” được sử dụng khá phổ
biến ở nhiều văn bản như Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm
1999; Pháp lệnh Giá năm 2001; Pháp lệnh Vệ sinh an toàn thực phẩm năm
2003; Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá năm 2007;…
Tuy nhiên, cách tiếp cận theo nghĩa rộng của thuật ngữ “kinh doanh”
trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 là hợp lý và được thừa nhận chung. Theo
đó, hoạt động kinh doanh được hiểu là việc thực hiện một hoặc một số công
đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng
dịch vụ trên thị trường. Đó phải là hoạt động mang tính nghề nghiệp, được
tiến hành liên tục, thường xuyên và nhằm mục đích chủ yếu là lợi nhuận.

Điều này cho phép phân biệt người kinh doanh với các chủ thể khác như các
cơ quan nhà nước, đơn vị hành chính sự nghiệp, các tổ chức chính trị, tổ chức


15
chính trị - xã hội,… tham gia vào một quan hệ pháp lý mang tính chất kinh
doanh nhưng không thường xuyên, liên tục hoặc phân biệt với các doanh
nghiệp nhà nước hoạt động công ích, không nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Với cách tiếp cận khái niệm “kinh doanh” như vậy, ta có thể hiểu
“người kinh doanh hàng hoá, dịch vụ” là tổ chức, cá nhân thực hiện liên tục
một hoặc một số công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Đây
cũng chính là cách mà Nghị định số 55/2008/NĐ-CP được Chính phủ ban
hành ngày 24 tháng 4 năm 2008 quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng năm 1999 (sau đây gọi là Nghị định số
55/2008/NĐ-CP) đã giải thích về “tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ”. Theo đó, “tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hoá, dịch vụ là tổ
chức, cá nhân thực hiện một hoặc một số công đoạn của quá trình đầu tư, từ
sản xuất đến tiêu thụ hàng hoá hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm
mục đích sinh lợi bao gồm cả tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động xuất
khẩu, nhập khẩu và phân phối hàng hóa, dịch vụ” (Khoản 1 - Điều 3).
Với theo cách hiểu như vậy, người kinh doanh hàng hoá, dịch vụ theo
pháp luật Việt Nam bao gồm tất cả các loại hình doanh nghiệp, tổ hợp tác, hộ
kinh doanh và cả cá nhân có đăng ký hoặc không đăng ký hoạt động kinh doanh.
1.2. Sự cần thiết quy định nghĩa vụ của ngƣời kinh doanh hàng
hóa, dịch vụ trong việc bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng
Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng nắm trong tay quyền lực to
lớn. Thị trường chủ yếu do người tiêu dùng điều tiết. Là lực lượng đông đảo
nhất trong xã hội, quyết định tiêu dùng của người tiêu dùng ảnh hưởng to lớn
đến hoạt động kinh doanh hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Người tiêu dùng

quyết định hàng hoá, dịch vụ mà tổ chức, cá nhân sẽ kinh doanh. Mức độ tiêu
dùng của người tiêu dùng chính là thước đo cho sự tồn tại của sản phẩm hàng


16
hoá, dịch vụ trên thị trường. Về vấn đề này, nhà kinh tế học Adam Smith đã có
nhận định hết sức chuẩn xác: “tiêu dùng là kết quả và mục đích duy nhất của
sản xuất và lợi ích của nhà sản xuất cũng gắn liền vào đó chừng nào mà lợi ích
của nhà sản xuất còn cần cho việc thúc đẩy lợi ích của người tiêu dùng. Sự lựa
chọn và sức tiêu thụ hàng hoá của họ là thước đo chính xác cho tính chất
lượng và độ phù hợp của một sản phẩm hàng hoá. Cạnh tranh gây tác động
liên tục đến giá cả, buộc các doanh nghiệp phải nghiên cứu phương án sản
xuất kinh doanh sao cho chi phí nhỏ, hiệu quả cao, chất lượng tốt để phù hợp
với mong muốn của người tiêu dùng. Bởi vậy, trong điều kiện có cạnh tranh và
cạnh tranh có hiệu quả, người tiêu dùng quyết định sự sống còn của sản phẩm,
buộc các nhà kinh doanh phải thoả mãn nhu cầu của họ” [dẫn theo 17, 13].
Khi là một tập hợp đông đảo, người tiêu dùng có vị thế quan trọng như
vậy, nhưng thực chất trong mối quan hệ với người kinh doanh hàng hoá, dịch
vụ với từng người tiêu dùng đơn lẻ, người tiêu dùng luôn đứng ở vị trí thế
yếu, quyền lợi của họ dễ bị người kinh doanh hàng hoá, dịch vụ xâm phạm.
Điều đó thể hiện ở các khía cạnh sau đây:
+ Yếu thế trong việc tiếp cận, xử lý và hiểu các thông tin về hàng hoá,
dịch vụ. Trong quan hệ giao dịch mua bán trên thị trường, mối quan hệ giữa
người tiêu dùng và người kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thường tồn tại sự bất
cân xứng về thông tin, sự hiểu biết về tính năng, công dụng, chất lượng, các
khuyết tật và các rủi ro liên quan đến sản phẩm. Người kinh doanh hàng hoá,
dịch vụ thường chỉ đem đến cho người tiêu dùng những thông tin tốt về sản
phẩm. Trong khi đó, người tiêu dùng lại không phải là những người tham gia
trực tiếp vào quá trình sản xuất hàng hoá, dịch vụ cũng như do những hạn chế
trong hiểu biết về chuyên môn, kỹ thuật nên thường họ không thể hiểu được

đầy đủ tính năng, công dụng, chất lượng, những rủi ro có thể xảy ra trong quá
trình sử dụng sản phẩm.


17
+ Yếu thế trong việc đàm phán, giao kết hợp đồng. Mặc dù, quan hệ
giữa người tiêu dùng và người kinh doanh hàng hoá, dịch vụ là mối quan hệ
dân sự. Việc xác lập các hợp đồng dân sự phải dựa trên những nguyên tắc cơ
bản của pháp luật dân sự là nguyên tắc tự do, tự nguyện cam kết, thoả thuận;
nguyên tắc bình đẳng; nguyên tắc thiện chí, trung thực… Tuy nhiên, trên thực
tế, khả năng thương thảo, đàm phán một cách tự do, bình đẳng giữa người
kinh doanh hàng hoá, dịch vụ với người tiêu dùng thường không được bảo
đảm do người kinh doanh thường có ưu thế lớn hơn hẳn người tiêu dùng trong
việc đàm phán, giao kết hợp đồng. Hoạt động của họ thường mang tính
chuyên nghiệp, nên họ có kinh nghiệm trong đàm phán, ký kết hợp đồng. Hơn
nữa, người kinh doanh hàng hoá, dịch vụ cũng có nhiều cơ hội hơn trong việc
sử dụng nguồn nhân lực có chất lượng cao, những chuyên gia có kinh nghiệm
trong thiết lập các điều khoản hợp đồng, đàm phán và ký kết hợp đồng như
đội ngũ luật sư, chuyên gia tư vấn… Với lợi thế như vậy, nên trong thực tiễn
giao dịch với người tiêu dùng, hầu hết những người kinh doanh hàng hoá,
dịch vụ đều sử dụng các hợp đồng mẫu trong đó có nhiều điều khoản trong
hợp đồng được coi là những quy định đương nhiên mà người tiêu dùng không
có điều kiện thảo luận, thay đổi các điều khoản đó.
+ Yếu thế về khả năng chi phối giá cả, các điều kiện giao dịch trên thị
trường. Trong nhiều trường hợp, ở một số thị trường, giá cả, các điều kiện
giao dịch trên thị trường thường bị chi phối bởi một hoặc một vài doanh
nghiệp. Điển hình là những thị trường phục vụ nhu cầu thiết yếu của con
người như thị trường lương thực, thực phẩm, xăng dầu, điện, nước, giao thông
đường bộ, đường thuỷ, đường không, ngân hàng,… Trong trường hợp này,
nếu không có sự can thiệp hợp lý của nhà nước, với mục tiêu tối đa hoá lợi

nhuận, các doanh nghiệp có thể có các hành vi gây thiệt hại cho người tiêu
dùng bằng việc áp đặt cho người tiêu dùng những nghĩa vụ không hợp lý.


18
+ Yếu thế về khả năng gánh chịu rủi ro trong quá trình tiêu dùng sản
phẩm. Do tiềm lực tài chính có hạn, nên khi xảy ra rủi ro phát sinh trong quá
trình sử dụng hàng hoá, dịch vụ, khả năng khắc phục hậu quả của người tiêu
dùng thường thấp hơn so với người kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. Người
tiêu dùng dễ rơi vào tình trạng khó khăn khi phải tự chi trả các chi phí khắc
phục rủi ro. Trong khi đó, với tiềm lực kinh tế sẵn có, người kinh doanh
hàng hoá, dịch vụ sẽ dễ dàng hơn trong việc trang trải các chi phí ngăn ngừa,
khắc phục rủi ro trong quá trình tiêu dùng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ. Vì
vậy, sẽ hợp lý hơn nếu chuyển khả năng gánh chịu rủi ro trong quá trình tiêu
dùng sản phẩm (mà người tiêu dùng không có lỗi) sang cho người kinh
doanh hàng hoá, dịch vụ.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế tri thức, cũng như những tác động
ngày càng sâu sắc của cách mạng khoa học công nghệ; của quá trình toàn cầu
hoá, sự phát triển của thương mại điện tử, làm cho quá trình chuyên môn hoá
có những bước tiến nhảy vọt về chất. Điều đó ngày càng kéo giãn khoảng cách
chênh lệch giữa người kinh doanh hàng hoá, dịch vụ với người tiêu dùng.
Quyền lợi của người tiêu dùng đứng trước nguy cơ bị xâm hại nghiêm trọng.
Trong khi đó, pháp luật dân sự, thương mại vốn sinh ra để điều chỉnh quan hệ
bình đẳng giữa các bên không còn đủ sức bảo vệ người tiêu dùng trong thế bất
lợi với người kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. Nhu cầu phải có một ngành luật
mới điều chỉnh quan hệ giữa người tiêu dùng và người kinh doanh hàng hoá,
dịch vụ, với mục đích bảo vệ người tiêu dùng, chống lại sự lạm dụng của người
kinh doanh trở nên cấp thiết. Sự ra đời của pháp luật bảo vệ người tiêu dùng trở
thành một yêu cầu khách quan, để đảm bảo sự công bằng trong quan hệ giữa
người kinh doanh hàng hoá, dịch vụ với người tiêu dùng.

Người kinh doanh hàng hoá, dịch vụ là chủ thể hết sức quan trọng trong
việc bảo đảm quyền lợi người tiêu dùng. Quyền lợi của người tiêu dùng được


19
bảo đảm chủ yếu trong quan hệ nghĩa vụ với người kinh doanh hàng hoá, dịch
vụ. Quy định về nghĩa vụ của người kinh doanh hàng hoá, dịch vụ đối với
người tiêu dùng, vì thế là một bộ phận không thể thiếu trong hệ thống pháp
luật bảo vệ người tiêu dùng.
Hiệu quả của pháp luật về nghĩa vụ của người kinh doanh hàng hoá,
dịch vụ đối với người tiêu dùng không chỉ có ý nghĩa trong việc bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng mà còn đảm bảo lợi ích của chính người kinh doanh hàng
hoá, dịch vụ và đảm bảo sự phát triển lành mạnh của thị trường.
Như đã phân tích ở trên, người tiêu dùng có vai trò vô cùng quan trọng
trong việc quyết định sự tồn tại của sản phẩm hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.
Do đó, để phát triển và phát triển bền vững hoạt động kinh doanh của mình,
người kinh doanh không thể không quan tâm đến người tiêu dùng. Một người
kinh doanh thành công là người biết đề cao lợi ích của người tiêu dùng, biết lắng
nghe ý kiến của người tiêu dùng, lấy việc thoả mãn nhu cầu, thị hiếu của người
tiêu dùng là trung tâm trong việc hoạch định, triển khai mọi kế hoạch, phương án
kinh doanh. Điều đó được thể hiện trước hết ở việc nhận thức và thực hiện đầy
đủ các quy định pháp luật về nghĩa vụ của người kinh doanh hàng hoá, dịch vụ
trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Hơn nữa, thực hiện nghiêm túc các
quy định của pháp luật về nghĩa vụ của người kinh doanh trong việc bảo vệ
người tiêu dùng cũng sẽ đảm bảo sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, từ đó
góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3. Nội dung các quyền cơ bản của ngƣời tiêu dùng
Việc xem xét các quyền của người tiêu dùng cũng có ý nghĩa hết sức
quan trọng. Bởi lẽ, việc xác định nghĩa vụ của người kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ trong pháp luật bảo vệ người tiêu dùng chủ yếu xuất phát từ yêu cầu

bảo vệ quyền của người tiêu dùng.
Hoạt động bảo vệ người tiêu dùng được hình thành và phát triển khá


20
lâu trong cộng đồng quốc tế. Thực chất của hoạt động bảo vệ người tiêu dùng
là bảo vệ các quyền của người tiêu dùng, chống lại các hành vi xâm hại đến
lợi ích chính đáng của họ. Ngay từ những năm 1960, với sự phát triển mạnh
mẽ của Phong trào bảo vệ người tiêu dùng quốc tế, Liên hiệp các Tổ chức
người tiêu dùng quốc tế được thành lập. Trong phạm vi hoạt động của Liên
Hợp Quốc, ý tưởng về việc xây dựng một bản “Hướng dẫn bảo vệ người tiêu
dùng” cũng được bắt đầu từ cuối những năm 1970, khi Hội đồng kinh tế - xã
hội nhận thấy rằng việc bảo vệ người tiêu dùng có mối quan hệ đặc biệt đến
sự phát triển kinh tế - xã hội. Sau hàng thập kỷ đấu tranh, thuyết phục của
Quốc tế người tiêu dùng (CI) và các tổ chức tiêu dùng trên toàn thế giới, ngày
9 tháng 4 năm 1985, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã bỏ phiếu thông qua
Nghị quyết số 39/248 về các Hướng dẫn về bảo vệ người tiêu dùng. Bản
Hướng dẫn đã đưa ra các nguyên tắc dựa trên tám quyền cơ bản của người
tiêu dùng và vạch những nguyên tắc chung về thúc đẩy và bảo vệ người tiêu
dùng của các quốc gia cũng như khuyến khích hoạt động hợp tác quốc tế trên
lĩnh vực này.
Với sự phê chuẩn của Liên Hợp Quốc, các quyền của người tiêu dùng
đã được cộng đồng quốc tế công nhận và được tất cả các quốc gia gồm cả các
quốc gia phát triển hay đang phát triển thừa nhận.
Theo các quy định quốc tế, người tiêu dùng có các quyền cơ bản sau
đây:
Thứ nhất, quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản
Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản là quyền được tiếp cận
những loại hàng hóa, dịch vụ phục vụ nhu cầu thiết yếu của con người là ăn,
mặc, ở, chăm sóc sức khỏe, học tập, đi lại Tuy nhiên, nhu cầu cơ bản không

phải là một khái niệm bất biến. Nhu cầu của con người phát triển cùng với sự
phát triển của xã hội. Điều kiện kinh tế - xã hội càng phát triển thì nhu cầu


21
của con người cả về vật chất và tinh thần càng cao, không chỉ đáp ứng các
nhu cầu vật chất tối thiểu để tồn tại mà còn phải đáp ứng các nhu cầu về tinh
thần như nhu cầu giao tiếp, học hành, để con người không chỉ tồn tại mà
còn phát triển và phát triển toàn diện.
Thứ hai, quyền được an toàn
Quyền được an toàn có nghĩa là quyền được bảo vệ khỏi những sản
phẩm hàng hóa, dịch vụ có thể gây nguy hại cho sức khỏe và cuộc sống của
người tiêu dùng trong quá trình sản xuất cũng như trong quá trình sử dụng
hàng hóa, dịch vụ. Sự an toàn này phải đáp ứng cả trước mắt và lâu dài cho
người tiêu dùng.
Thứ ba, quyền được thông tin
Người tiêu dùng phải được cung cấp những thông tin trung thực, chính
xác và đầy đủ về giá cả, chất lượng, số lượng, thành phần, xuất xứ của dịch
vụ, hàng hoá để có thể đưa ra quyết định hay lựa chọn một cách đúng đắn,
khách quan, chính xác. Quyền này còn bao gồm cả việc được bảo vệ chống lại
các thủ đoạn dối trá, lừa đảo, các quảng cáo gian dối. Đảm bảo tốt quyền
được cung cấp thông tin sẽ giúp cho người tiêu dùng có được các dữ liệu, dữ
kiện cần thiết cho việc lựa chọn.
Thứ tư, quyền được lựa chọn
Quyền được lựa chọn là quyền của người tiêu dùng được tự do quyết
định sử dụng hay không sử dụng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ nào đó phù hợp
với khả năng và nhu cầu của bản thân về loại hình, chất lượng, giá cả của
hàng hoá, dịch vụ. Các hành vi thông tin không trung thực, tạo sự khan hiếm
giả tạo, lợi dụng vị thế thống lĩnh hay độc quyền để khiến người tiêu dùng
buộc phải sử dụng hàng hóa, dịch vụ của mình hoặc các hành vi hạn chế cạnh

tranh, cạnh tranh không lành mạnh khác đều là những hành vi vi phạm quyền
được lựa chọn của người tiêu dùng.


22
Thứ năm, quyền được lắng nghe hay quyền được đại diện
Quyền được lắng nghe là quyền của người tiêu dùng được bày tỏ ý kiến
của mình đối với người kinh doanh về các loại hàng hóa, dịch vụ do họ cung
ứng, kể cả quan hệ thái độ giữa người bán và người mua cũng như việc bày tỏ
ý kiến đối với nhà nước hoặc các cơ quan hoạch định chính sách, pháp luật có
liên quan đến quyền lợi hợp pháp của họ. Người tiêu dùng có thể trực tiếp góp
ý kiến hay thông qua đại diện của mình hoặc thông qua các tổ chức bảo vệ
người tiêu dùng các cấp. Tôn trọng quyền được lắng nghe của người tiêu
dùng vừa là nghĩa vụ, vừa là lợi ích của người kinh doanh vì thông qua ý kiến
của người tiêu dùng, họ có thể cải tiến hàng hóa, dịch vụ nhằm giành được
lòng tin của người tiêu dùng. Đây cũng chính là vấn đề mấu chốt để cơ sở
kinh doanh tồn tại và phát triển.
Thứ sáu, quyền được khiếu nại và bồi thường
Người tiêu dùng có quyền khiếu nại, đòi bồi thường thiệt hại do những
hành vi xâm phạm đến quyền lợi của họ. Quyền khiếu nại này được thực hiện
trực tiếp đến người kinh doanh hàng hóa, dịch vụ hoặc khởi kiện trước tòa án
để đòi bồi thường thiệt hại. Đó có thể là khiếu nại, khiếu kiện cá nhân cũng có
thể là khiếu nại, khiếu kiện tập thể. Các chính phủ cần phải đưa ra cơ chế giải
quyết khiếu nại, khiếu kiện cho người tiêu dùng một cách thuận tiện, tiết kiệm
chi phí và hiệu quả. Người kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, mà chủ yếu là các
doanh nghiệp, cũng cần chủ động trong việc giải quyết khiếu nại và bồi thường
thiệt hại cho người tiêu dùng. Việc bồi thường thỏa đáng cho những khiếu nại
chính đáng của người tiêu dùng sẽ nâng cao được sự tín nhiệm của doanh
nghiệp, cải thiện được hình ảnh của doanh nghiệp trong mắt người tiêu dùng.
Thứ bảy, quyền được giáo dục về tiêu dùng

Là quyền có được những kiến thức và thông tin cần thiết bằng nhiều
cách thức khác nhau để có thể trở thành một người tiêu dùng hiểu biết. Chỉ có


23
những người tiêu dùng được cung cấp những kiến thức về quyền và nghĩa vụ
của người tiêu dùng, cũng như về kỹ năng tiêu dùng, phong cách tiêu dùng lành
mạnh và hợp lý mới có thể chủ động và sáng suốt lựa chọn hàng hóa, dịch vụ
và có thể tự bảo vệ mình và góp phần vào sự phát triển sự văn minh của xã hội.
Thứ tám, quyền được có môi trường sống lành mạnh và bền vững
Môi trường lành mạnh và bền vững ở đây bao gồm cả môi trường tự
nhiên và môi trường xã hội. Người tiêu dùng có quyền được sống trong một
môi trường lành mạnh và bền vững. Muốn vậy các nguồn lực được sử dụng
trong quá trình sản xuất và quá trình tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ phải được sử
dụng một cách lành mạnh, thân thiện với môi trường.
Tám quyền cơ bản trên của người tiêu dùng đã được dùng làm cơ sở để
các quốc gia hoạch định chính sách, pháp luật bảo vệ người tiêu dùng và là cơ
sở cho hoạt động của các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng trên thế giới.
Ở Việt Nam, Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng năm 1999
và các văn bản pháp luật có liên quan, ở những khía cạnh khác nhau, cũng đã thể
hiện khá đầy đủ nội dung các quyền cơ bản của người tiêu dùng được nêu trong
Bản hướng dẫn về Bảo vệ người tiêu dùng của Liên Hợp Quốc.
1.4. Nội dung các nghĩa vụ cơ bản của ngƣời kinh doanh hàng hóa,
dịch vụ trong việc bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng
Nghĩa vụ của người kinh doanh hàng hoá, dịch vụ đối với người tiêu
dùng phát sinh từ yêu cầu bảo vệ quyền của người tiêu dùng. Vì vậy, nghĩa vụ
của người kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có những nội dung cơ bản sau:
1.4.1. Nghĩa vụ bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng
Người kinh doanh hàng hoá, dịch vụ có nghĩa vụ bảo đảm an toàn cho
người tiêu dùng tránh khỏi nguy cơ bị thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài

sản trong quá trình sản xuất cũng như quá trình sử dụng hàng hóa, dịch vụ do
mình cung cấp.

×