Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Những quy định pháp luật về thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, thực trạng và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 96 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRẦN THỊ THU HÀ





NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC
PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH
TRẠNG PHÁ SẢN. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC







HÀ NỘI – 2010







ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



TRẦN THỊ THU HÀ




NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC
PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH
TRẠNG PHÁ SẢN. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
HOÀN THIỆN

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Quang



HÀ NỘI - 2010







MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ THỦ TỤC PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP
LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN
6

1.1.
Bản chất pháp lý của thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản
6
1.1.1.
Khái quát về thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản
6
1.1.1.1.
Khái niệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
6
1.1.1.2.
Những căn cứ để tiến hành thủ tục phục hồi doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản
10
1.1.1.3.
Điều kiện để xác định thời điểm một doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản
12
1.1.2.
Những đặc trưng cơ bản của thủ tục phục hồi doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản
13
1.2.
Vai trò của thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản
15
1.3.
Vai trò của cơ quan Tòa án đối với thủ tục phục hồi doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản

19
1.4.
Quá trình hình thành và phát triển chế định pháp luật về thủ tục
phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản ở Việt Nam
22
1.5.
Pháp luật về thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản của một số nước trên thế giới
23



1.5.1.
Thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
của Estonia
23
1.5.2.
Thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
của Hoa Kỳ
25

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC PHỤC HỒI
DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN
THEO LUẬT PHÁ SẢN VIỆT NAM 2004
26
2.1.
Thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
theo quy định của Luật phá sản năm 2004
26
2.1.1.

Hội nghị chủ nợ
26
2.1.1.1.
Triệu tập Hội nghị chủ nợ
26
2.1.1.2.
Quyền hạn Hội nghị chủ nợ
28
2.1.1.3.
Nghĩa vụ tham gia hội nghị chủ nợ
30
2.1.2.
Điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
32
2.1.2.1.
Nợ của doanh nghiệp
33
2.1.2.2.
Khả năng hoạt động sản xuất của doanh nghiệp
34
2.2.
Xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
34
2.1.3.
Trình tự, thủ tục thông qua phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
38
2.1.3.1.

Nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản
38
2.1.3.2.
Thụ lý và thủ tục Tòa án
43
2.1.3.3.
Tổ chức quản lý tài sản
44
2.1.3.4.
Các hoạt động kinh doanh được pháp luật cho phép trong
quá trình thực hiện phương án phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
45



2.1.4.
Trình tự, thủ tục thực hiện phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
46
2.1.4.1.
Điều kiện áp dụng thủ tục phục hồi
46
2.1.4.2.
Xem xét, thông qua phương án phục hồi
47
2.1.4.3.
Giám sát việc thực hiện phương án phục hồi
48
2.1.4.4.

Thời hạn thực hiện phương án phục hồi
48
2.1.5.
Đối với các tổ chức tín dụng là doanh nghiệp đặc thù trong
nền kinh tế quốc dân
49
2.1.5.1.
Dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản đối với các tổ chức tín dụng
49
2.1.5.2.
Phục hồi khả năng thanh toán trước thời điểm yêu cầu mở
thủ tục tuyên bố phá sản và phục hồi tổ chức tín dụng sau
khi có quyết định mở thủ tục yêu cầu tuyên bố phá sản của
tổ chức tín dụng
51
2.2.
Hệ quả pháp lý của việc đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
56
2.2.1.
Các trường hợp đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
56
2.2.1.1.
Doanh nghiệp bị thua lỗ
56
2.2.1.2.
Doanh nghiệp đã quá thời hạn thanh toán mà không thanh
toán được các khoản nợ khi chủ nợ yêu cầu
57

2.2.2.
Hệ quả pháp lý của việc đình chỉ thủ tục phục hồi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
57
2.2.2.1.
Hệ quả đối với doanh nghiệp
57
2.2.2.2.
Hệ quả đối với các bên có liên quan
58
2.3.
Thực tiễn áp dụng pháp luật về phục hồi doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản
59
2.3.1.
Thực trạng áp dụng luật về phục hồi doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản ở Việt Nam
59



2.3.2.
Tình hình thụ lý, giải quyết yêu cầu mở thủ tục phục hồi
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
59
2.3.2.1.
Những ưu điểm của thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản theo luật phá sản 2004
63
2.3.2.2.

Những điểm còn hạn chế của thủ tục phục hồi doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản theo luật phá sản 2004
66

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN THỦ TỤC
PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ
SẢN THEO LUẬT PHÁ SẢN VIỆT NAM 2004
72
3.1.
Sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định liên quan thủ tục
phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
72
3.2.
Sửa đổi bổ sung các quy định của Luật phá sản (2004) về
thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
74
3.3.
Cần tăng cường thi hành các quy định về thủ tục phục hồi
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản theo quy định của Luật phá sản năm 2004
79

KẾT LUẬN
83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
85






1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Phá sản là một hiện tượng thường gặp trong nền kinh tế thị trường. vì
những lý do khác nhau doanh nghiệp lâm vào tình trạng không trả được nợ
đến hạn, lúc đó doanh nghiệp có nguy cơ bị quy luật thị trường đào thải bằng
con đường phá sản. Để cứu vãn doanh nghiệp trong những trường hợp này,
pháp luật về phá sản ở các nước nói chung thường quy định các biện pháp tổ
chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Trình tự, thủ tục phục rồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là
một bộ phận quan trọng trong trình tự, thủ tục phá sản doanh nghiệp được quy
định ở luật phá sản 2004. Thủ tục này nhằm tạo ra những điều kiện, cơ hội để
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có thể vượt qua được tình trạng mất
khả năng toán nợ đến hạn, tránh bị tuyên bố phá sản. Bên cạnh đó, nếu doanh
nghiệp phục hồi thành công còn có thể đảm bảo quyền, lợi ích cho chủ nợ và
những người liên quan; công ăn việc làm cho người lao động; duy trì ổn định,
trật tự xã hội từ đó làm lành mạnh hóa môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp.
Quốc hội khóa IX thông qua Luật phá sản doanh nghiệp ngày
30/12/1993 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/07/1994 đã có quy định khá
chi tiết và tương đối đầy đủ nội dung thủ tục phục hồi nhằm cứu vãn doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Song trong 9 năm thực hiện Luật phá sản
doanh nghiệp nói chung và thủ tục phục hồi nói riêng đã thể hiện những bất
cập trong quá trình áp dụng cũng như việc phát huy hiệu quả của nó trên thực
tế khi thủ tục phục hồi được qui định như là một khâu của quá trình giải quyết
yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp.
Trước những yêu cầu đòi hỏi mới của nền kinh tế thị trường, việc
hoàn thiện khung pháp luật về phá sản nói chung và thủ tục phục hồi doanh




2
nghiệp nói riêng là cần thiết. Ngày 15/06/2004 Quốc hội khóa XI đã thông
qua Luật phá sản mới thay thế Luật phá sản doanh nghiệp (1993) và có hiệu
lực từ ngày 15/10/2004. Thủ tục phục hồi đã được Luật phá sản qui định theo
hướng tách ra thành thủ tục tương đối độc lập trong thủ tục phá sản với nhiều
qui định mới. Vì vậy, việc nghiên cứu những qui về thủ tục phục hồi trong
Luật phá sản là điều rất quan trọng và cần thiết, trên cơ sở đó đưa những kiến
nghị nhằm sớm đưa Luật phá sản vào cuộc sống và đạt được hiệu quả trong
quá trình áp dụng. Với mong muốn đó, tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài:
"Những quy định pháp luật về thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản. Thực trạng và giải pháp hoàn thiện" làm đề tài luận văn tốt
nghiệp Cao học luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến thời điểm hiện nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về thủ
tục phá sản nói chung và thủ tục phục hồi nói riêng. Đó là các công trình: Báo
cáo phúc trình đề tài "Đánh giá thực trạng, thực hiện nghiên cứu, phân tích
để khuyến nghị hoàn thiện pháp luật phá sản doanh nghiệp và các quy định
khác có liên quan" của Câu lạc bộ Pháp chế doanh nghiệp do PGS.TS. Dương
Đăng Huệ làm chủ nhiệm; Đề tài hoặc các bài viết như: ''Thực tiễn giải quyết
yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp trong thời gian qua, những khó khăn
vướng mắc và một số đề xuất kiến nghị'', của TS. Nguyễn Văn Dũng: Đề tài
''Một số vấn đề lý luận về phá sản", của TS. Trần Kim Hào và ThS. Nguyễn
Kim Anh ở Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương; Đề tài "Dấu hiệu
xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản", của PGS.TS Đặng Văn
Thanh Các công trình cũng như các bài viết này đã nghiên cứu về những nội
dung cơ bản của thủ tục phá sản doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về
thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản còn ở mức khiêm

tốn. Đặc biệt, trong thời điểm hiện nay, khi Luật phá sản trong giai đoạn sửa
đổi bổ sung, cần có công trình nghiên cứu khoa học phân tích, đánh giá sâu



3
hơn về những quy định của thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản với tư cách là thủ tục độc lập.
3. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp luật
của chủ nghĩa Mác - Lênin, ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp khoa
học khác như phân tích, so sánh tổng hợp Bên cạnh việc nghiên cứu các quy
định của pháp luật về phá sản Việt Nam, tác giả còn tham khảo những tài liệu
pháp luật về phá sản nước ngoài qui định về thủ tục phục hồi. Từ đó, có sự so
sánh, đối chiếu và đánh giá khách quan những quy định thủ tục phục hồi trong
Luật phá sản.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn phân tích đánh giá đúng thực trạng
pháp luật về thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Từ đó,
đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện Luật phá sản.
Với mục đích đó đề tài có những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ những vấn đề mang tính lý luận về thủ tục phục hồi doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
- Phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật về thủ tục phục hồi
của Luật phá sản, từ đó nêu lên được những ưu điểm, tiến bộ cũng như những
hạn chế của các quy định đó.
- Đưa ra một số kiến nghị, phương hướng nhằm hoàn thiện Luật phá
sản 2004.
5. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là thủ tục quan

trọng của Luật phá sản. Dưới góc độ pháp lý, phục hồi có thể được nghiên
cứu ở nhiều góc độ khác nhau. Có thể là biện pháp nhằm phục hồi doanh



4
nghiệp hoặc thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Quá
trình phục hồi có thể diễn ra tại Tòa án hoặc ngoài Tòa án.
Song, trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ đi sâu nghiên cứu
những nội dung cơ bản liên quan tới trình tự, thủ tục tại Tòa án áp dụng cho
việc phục rồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được quy định theo
Luật phá sản 2004.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu tương đối toàn diện và chi tiết về
các quy định liên quan đến thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản trong bối cảnh Luật phá sản mới được ban hành. Vì vậy, luận văn có
những đóng góp sau:
Thứ nhất: Luật phá sản quy định thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản với tư cách là một thủ tục tương đối độc lập. Vì vậy,
việc nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống những quy định về thủ tục
phục hồi sẽ gợi mở một số vấn đề để cơ quan nhà nước có thẩm quyền lưu
tâm trong quá trình sửa đổi, bổ sung Luật phá sản nói chung và thủ tục phục
hồi nói riêng.
Thứ hai: Luận văn đã phân tích, đánh giá thực trạng toàn bộ các quy
định liên quan đến thủ tục phục hồi và thực tiễn áp dụng các quy định đó, làm
cơ sở thực tiễn cho việc hoàn thiện Luật phá sản 2004.
Thứ ba: Quá trình nghiên cứu những quy định của Luật phá sản về thủ
tục phục hồi, luận văn đưa ra một số giải pháp sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện
pháp luật về thủ tục phục hồi nói riêng và Luật phá sản nói chung.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:



5
Chương 1: Khái quát về thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản theo luật phá sản năm Việt Nam 2004.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện thủ tục phục hồi doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản theo luật phá sản Việt Nam 2004.

















6

Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ THỦ TỤC PHỤC HỒI
DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN

1.1. BẢN CHẤT PHÁP LÝ CỦA THỦ TỤC PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP
LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN
1.1.1. Khái quát về thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản
1.1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
Ở nước ta, khái niệm phá sản xuất hiện sau thời kỳ đổi mới cơ chế
kinh tế. Văn bản pháp lý đầu tiên liên quan đến giải quyết tình trạng doanh
nghiệp kinh doanh thua lỗ không có khả năng thanh toán nợ đó là Quyết định
số 315/QĐ-HĐBT ngày 01/09/1990 của Hội đồng Bộ trưởng. Tại khoản 4
Điều 3 của Quyết định quy định:
Đối với các đơn vị kinh doanh thua lỗ kéo dài nhiều năm thì
Bộ và địa phương phải lập danh sách đầy đủ, tiến hành phân loại theo
mức độ quan trọng của các sản phẩm và dịch vụ do đơn vị tạo ra và
theo mức độ kém hiệu quả của các đơn vị. Từ đó có thể tìm ra các
biện pháp để hỗ trợ cho các đơn vị sáp nhập vào các xí nghiệp khác
hoặc chuyển đổi thành các tổ chức kinh tế tập thể. Nếu đơn vị đã
thực hiện các biện pháp chấn chỉnh trên mà vẫn không có hiệu quả,
tiếp tục thua lỗ và không có khả năng trả nợ thì cho phép giả thể
[12].
Như vậy Quyết định này đã đề cập đến doanh nghiệp kinh doanh thua
lỗ không có khả năng thanh toán nợ, nếu xét về bản chất thì nó là phá sản.



7
Nhưng trong thời điểm này thì doanh nghiệp chỉ được phép giải thể bởi vì

khái niệm về phá sản doanh nghiệp tại thời điểm này chưa được đặt ra.
Luật doanh nghiệp tư nhân năm 1990 và luật công ty năm 1990 đã
bước đầu đề cập đến khái niệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Theo Điều 24 - Luật công ty 1990: ''Công ty gặp khó khăn thua lỗ trong hoạt
động kinh doanh đến lúc tại một thời điểm tổng số các tài sản của công ty không
đủ để thanh toán tổng số các khoản nợ đến hạn là công ty lâm vào tình trạng
phá sản".
Định nghĩa này đã có điểm hạn chế rất lớn là chưa phản ánh được bản
chất của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Bởi vì, tại một thời điểm
nào đó mà tổng giá trị tài sản của công ty không đủ để thanh toán tổng số các
khoản nợ đến hạn nhưng chưa chắc doanh nghiệp đó đã rơi vào tình trạng mất
khả năng thanh toán nợ nếu như các chủ nợ thực hiện việc hoãn nợ, xóa nợ
cho doanh nghiệp hoặc có người mua nợ hoặc bảo lãnh cho doanh nghiệp.
Trong quá trình nghiên cứu để ngày càng hoàn thiện hơn về nhận thức
vấn đề phá sản doanh nghiệp, khắc phục những hạn chế trong Luật công ty
1990 và Luật doanh nghiệp tư nhân 1990. Luật phá sản doanh nghiệp 1993 là
đạo luật về phá sản đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
đưa ra dấu hiệu mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và nguyên nhân của việc
mất khả năng thanh toán, hành động của doanh nghiệp khi bị mất khả năng
thanh toán, làm cơ sở cho việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản.
Theo quy định tại Điều 2 - Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam 1993
thì doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản phải thỏa mãn các dấu hiệu sau:
Thứ nhất: Doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động
kinh doanh.
Thứ hai: Doanh nghiệp bị mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.



8
Thứ ba: Doanh nghiệp đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết để

khắc phục việc mất khả năng thanh toán nhưng vẫn không khắc phục được.
Quy định này cho thấy việc mất khả năng thanh toán nợ đến hạn là do
doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc thua lỗ trong kinh doanh một cách trầm
trọng và đã áp dụng các biện pháp tài chính để khắc phục nhưng không đạt
kết quả chứ không phải do một nguyên nhân nào khác. Về mặt pháp lý, doanh
nghiệp chỉ bị xem là phá sản khi có quyết định tuyên bố phá sản của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Tình trạng mất khả năng thanh toán chỉ là tình trạng
báo động rằng doanh nghiệp đang đứng trước nguy cơ bị tuyên bố phá sản. Sẽ
không có một doanh nghiệp nào bị phá sản khi chưa có yêu cầu tuyên bố phá
sản của chủ nợ, công đoàn hoặc chính doanh nghiệp mắc nợ hay Tòa án chưa
chủ động mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Quyết định tuyên
bố phá sản của cơ quan có thẩm quyền là cơ sở pháp lý xác định tính hợp
pháp của một cái chết đã được dự báo khi chưa có quyết định tuyên bố phá
sản của cơ quan có thẩm quyền thì dù doanh nghiệp có chấm dứt hoạt động
kinh doanh thì cũng chỉ là "Một cái chết chưa được chôn".
Như vậy, về mặt pháp lý nếu dùng khái niệm doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản theo Luật phá sản năm 1993 để chỉ tình trạng doanh nghiệp
mất khả năng thanh toán nợ đến hạn một cách thực sự quan trọng và đang
đứng bên bờ vực phá sản làm cơ sở để ra quyết định tuyên bố phá sản là chưa
hợp lý và đã gây không ít khó khăn cho chủ nợ trong việc chứng minh là
doanh nghiệp đã trễ hạn thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ. Còn vì sao doanh
nghiệp trễ hạn thanh toán không trả nợ thì chủ nợ không biết mà cũng không
cần phải biết.
Chính vì việc xác định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được
quy định tại Điều 2 - Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993 còn nhiều điểm
chưa hợp lý nên điều này đã được sửa đổi tại Điều 3 - Luật phá sản năm 2004
như sau: " Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp không có




9
khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ yêu cầu". Như
vậy, để bị xem là lâm vào tình trạng phá sản, doanh nghiệp đồng thời phải hội
đủ hai điều kiện cơ bản là mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và khi chủ nợ
chính thức yêu cầu thanh toán nợ mà doanh nghiệp không có khả năng trả
được các khoản nợ đó. Đây là một bước tiến lớn của pháp luật phá sản nước
ta và đã thể hiện sự can thiệp sớm của nhà nước vào hiện tượng phá sản.
Việc ghi nhận các vấn đề liên quan đến thủ tục phục hồi doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản và thủ tục thanh lý nợ của doanh nghiệp được quy
định từ Điều 13 đến Điều 94 của Luật phá sản năm 2004, Luật phá sản là luật
về thủ tục phục hồi hoặc thanh lý nợ của doanh nghiệp. Tuy nhiên, theo tinh
thần của Luật phá sản, các thủ tục phục hồi hoặc thanh lý nợ khác liên quan
tới quá trình phục hồi khi doanh nghiệp tự phục hồi, sắp xếp lại hoạt động sản
xuất kinh doanh của mình hoặc thủ tục thanh toán nợ trong tố tụng dân sự.
Tính chất đặc thù của thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được nhìn nhận trong mối quan hệ
so sánh với quá trình phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khi
doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc thua lỗ trong kinh doanh nhưng chưa bị yêu
cầu mở thủ tục phá sản. So sánh với quá trình tự phục hồi đó, thủ tục phục hồi
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có sự khác
biệt cơ bản đó là: Quá trình tự phục hồi là giải pháp tổ chức sản xuất kinh
doanh được doanh nghiệp chủ động thực hiện, còn phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản lại là thủ tục tư pháp.
Trong kinh doanh, vì nhiều nguyên nhân khác nhau, doanh nghiệp có
thể gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ. Khi đó, để lành mạnh hóa hoạt động của doanh
nghiệp khỏi phải lâm vào tình trạng phá sản, chủ doanh nghiệp có thể thực hiện
việc tổ chức lại hoạt động kinh doanh hay nói cách khác tự phục hồi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp mình. Quá trình phục hồi này hoàn toàn phụ
thuộc vào ý chí của chủ doanh nghiệp, họ tự quyết định có hay không thực hiện




10
việc phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp; tự quyết định các phương
án phục hồi hoạt động kinh doanh cũng như thực hiện phương án phục hồi.
Khác với quy trình tự phục hồi, phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là thủ tục tư pháp. Đây là một giai
đoạn trong thủ tục yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp, được
tiến hành sau khi Tòa án mở thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp
và chính Tòa án là người quyết định thủ tục phục hồi này. Mặc dù công việc
chính trong quá trình phục hồi do doanh nghiệp thực hiện nhưng việc phục
hồi chỉ được thực hiện khi có đủ điều kiện do pháp luật quy định về nội dung,
thủ tục xem xét thông qua và thời hạn thực hiện phương án phục hồi phải tuân
thủ theo đúng những quy định của pháp luật. Hơn nữa, phục hồi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp nằm dưới sự giám sát nghiêm ngặt của Tòa án
cũng như các chủ nợ và doanh nghiệp phải chịu những hậu quả pháp lý tồi tệ
trong trường hợp doanh nghiệp phục hồi hoạt động kinh doanh của mình
không thành công.
1.1.1.2. Những căn cứ để tiến hành thủ tục phục hồi doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản
Theo quy định tại Điều 2 - Luật phá sản doanh nghiệp năm 1993:
"Doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau
khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh
toán nợ đến hạn"
Tại nghị định 189/CP ngày 23/12/1994 của Chính phủ quy định dấu
hiệu lâm vào tình trạng phá sản là: "Doanh nghiệp bị thua lỗ trong 2 năm liên
tiếp đến mức không trả được các khoản nợ đến hạn, không trả đủ lương cho
người lao động theo thỏa ước lao động và hợp đồng lao động trong 3 tháng
liên tiếp"




11
Theo các quy định này, có thể nói các doanh nghiệp lâm vào tình
trạng phá sản hay những người nộp đơn đề nghị giải quyết phá sản doanh
nghiệp là rất khó có thể đưa vụ việc đến Tòa án. Dường như vào thời điểm
luật này được thông qua, việc phá sản doanh nghiệp còn quá mới mẻ và thực
sự có nhiều ý kiến khác nhau về các hậu quả của việc cho phép doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản được phá sản.
Ví dụ: Hậu quả mất việc làm của người lao động hay gây mất ổn định
các hoạt động của xã hội mà không có sự quan tâm thích đáng cho các doanh
nghiệp bị lâm vào tình trạng không thể hoạt động, không thể trả nợ, không
đem lại lợi nhuận cho chủ doanh nghiệp và xã hội song vẫn phải tồn tại. Các
điều kiện mà các quy định nói trên nêu ra cho việc có thể đưa việc phá sản
doanh nghiệp đến Tòa án, một mặt có thể quá muộn khi nhìn vào thời hạn hay
"Ba tháng liên tiếp không trả lương cho người lao động".
Và theo Điều 3 - Luật phá sản năm 2004 "Doanh nghiệp, hợp tác xã
không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu
cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản". Như vậy, theo quy định này doanh
nghiệp mắc nợ chỉ cần mắc nợ chủ nợ với số tiền là 1.000 đồng và thời gian
quá hạn thanh toán là 10 ngày kể từ ngày chủ nợ gửi giấy đòi nợ thì được coi
như doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Nhưng với quy định này, có thể
sẽ khắc phục được tình trạng quá muộn để phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp hay có điều kiện tốt hơn trong việc thanh toán cho các chủ nợ.
Đó là vì vào thời điểm khi phát hiện ra doanh nghiệp không có khả năng
thanh toán các khoản nợ đến hạn thì việc này có thể đưa ngay đến Tòa án, các
hoạt động và tài sản của doanh nghiệp sẽ được đặt dưới sự kiểm soát của Tòa
án và các chủ nợ. Khi đó cơ hội để thực hiện phương án phục hồi hoạt động
kinh doanh có thể được chấp nhận nếu có phương án phục hồi kịp thời được
các chủ nợ và Tòa án đồng ý thông qua.




12
Theo kinh nghiệm của các nước, có thể nói việc xác định thời điểm
Tòa án thụ lý đơn để xem xét việc phá sản là khá sớm khi so sánh với quy
định hiện thời của Việt Nam.
Ví dụ: Luật phá sản của Nhật Bản quy đinh: "Mọi thương nhân và
pháp nhân kể cả pháp nhân không có quy chế thương nhân, khi bị lâm vào
tình trạng ngừng thanh toán thì đều phải khai báo trong thời hạn 15 ngày để
mở thủ tục phục hồi doanh nghiệp hoặc thủ tục thanh lý doanh nghiệp".
1.1.1.3. Điều kiện để xác định thời điểm một doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản
Trong hoàn cảnh thực tế ta có thể nhận thấy thời điểm bắt đầu mở thủ
tục phá sản là thời điểm xác định Tòa án có thể bảo vệ được quyền lợi và lợi
ích hợp pháp của các chủ nợ, giúp các chủ nợ có thể tham gia vào công việc
quản lý, giám sát hoạt động của doanh nghiệp có dấu hiệu phá sản để họ có
thể bảo vệ tốt hơn quyền lợi của mình. Bằng việc quy định một số điều khoản
tại chương IV - Luật phá sản năm 2004, có thể giúp doanh nghiệp mắc nợ có
thể có điều kiện tốt hơn để phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
và giảm bớt những khó khăn có thể xẩy ra. Vì vậy, điều kiện để xác định thời
điểm một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là:
- Doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh bị thua lỗ.
- Đã quá thời hạn thanh toán mà không thanh toán được các khoản nợ
đến hạn khi chủ nợ yêu cầu.
Như vậy, nếu doanh nghiệp làm ăn không bị thua lỗ thì tất cả các hoạt
động sản xuất kinh doanh sẽ được thể hiện qua sổ sách tài chính kế toán của
doanh nghiệp, song trong sổ sách kế toán lại thể hiện rõ doanh nghiệp có các
khoản nợ đến hạn chưa thanh toán và cũng không chịu thanh toán thì chủ nợ
chưa thể yêu cầu Tòa án bắt đầu thực hiện thủ tục phá sản doanh nghiệp đó.

Và vấn đề được thực hiện đầu tiên là chủ nợ sẽ phải đi kiện để đòi nợ theo thủ



13
tục bình thường và chờ khi nào giải quyết xong và xin thi hành án. Điều này
sẽ tạo điều kiện cho một số doanh nghiệp chây lỳ không trả nợ và các chủ nợ
hay các đối tượng có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong phạm vi pháp luật
cho phép đưa đơn yêu cầu phá sản doanh nghiệp. Phải chờ đợi cho đến khi
trên sổ sách tài chính của doanh nghiệp mắc nợ đó phản ánh rõ sự thua lỗ của
doanh nghiệp.
Theo quy định chung thì Luật phá sản không chỉ chú ý đến việc thanh
toán nợ hay việc "Trả nợ tập thể" cho các chủ nợ, người lao động mà rất chú
trọng tới việc giúp doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản có thể thoát ra
khỏi khó khăn và phục hồi lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản. Tuy nhiên có những ý kiến lại cho rằng, luật không
nên coi việc phục hồi hay tổ chức lại việc hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là bắt buộc mà nên khuyến khích, tạo mọi
cơ hội, điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp có thể thực hiện phương án
phục hồi lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được dễ dàng hơn, tiện
lợi hơn.
Có thể nói rằng, cùng với sự hoàn thiện của Luật doanh nghiệp thì số
lượng các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh
tế tư nhân đã được phát triển một cách nhanh chóng và đóng góp ngày càng
nhiều vào tổng đầu tư của toàn xã hội. Có nhiều doanh nghiệp đăng ký kinh
doanh và hoạt động thì cũng có nhiều doanh nghiệp cần giải thể và phá sản,
đây là một vấn đề không thể tránh khỏi của một nền kinh tế cạnh tranh. Vấn
đề cần nêu ra ở đây là làm sao bằng các quy định phù hợp của luật pháp sẽ tạo
cho các doanh nghiệp thực sự có một "Sân chơi" hợp lý để họ có thể được
thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc chấm dứt hoạt động kinh doanh

một cách công bằng, đồng thời bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho các
trường hợp khác liên quan đến các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
bất kể họ là người cho doanh nghiệp vay tiền hay là người làm công ăn lương



14
của doanh nghiệp. Và điều kiện quan trọng hơn là các quy định này phải đảm
bảo một cách có hiệu quả nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có
liên quan và của các doanh nghiệp khi doanh nghiệp đó đã lâm vào tình trạng
phá sản.
1.1.2. Những đặc trƣng cơ bản của thủ tục phục hồi doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản
Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lầm vào tình
trạng phá sản là một trong những thủ tục tố tụng tư pháp đặc biệt và nó được
điều chỉnh bởi những hệ thống văn bản pháp luật riêng biệt. Tính chất đặc biệt
của thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản được thể hiện ở
những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất: Thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
là quyết định của tập thể. Đa số các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản,
nếu họ đã nợ các chủ nợ một số nợ khổng lồ mà không thể nào trả nổi hoặc vỡ
nợ vì nguyên nhân khách quan hay chủ quan thì sẽ dẫn đến kết quả là khai
phá sản. Nhưng khi các chủ nợ nộp đơn đến Tòa án yêu cầu Tòa án tiến hành
các thủ tục phá sản thì khi Tòa án thụ lý đơn sẽ tổ chức hội nghị chủ nợ, khi
đó các chủ nợ có thể đồng ý cho doanh nghiệp mắc nợ có cơ hội xóa bỏ các
món nợ hoặc làm lại từ đầu bằng cách làm ăn có tổ chức và có quy củ để có
thể trả dần những món nợ đó cho các chủ nợ. Như vậy doanh nghiệp mắc nợ
có thể áp dụng thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.
Thứ hai: Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
tránh được những hậu quả xấu do việc phá sản gây ra. Việc tuyên bố phá sản

doanh nghiệp sẽ không chỉ ảnh hưởng xấu đến quyền và lợi ích hợp pháp của
bản thân chủ nợ, con nợ, người lao động mà còn kéo theo nhiều hậu quả bất
lợi khác cho xã hội nói chung. Đối với các chủ nợ, trong trường hợp doanh
nghiệp mắc nợ gặp nhiều khó khăn, việc thanh toán ngay tài sản của doanh



15
nghiệp mắc nợ cho chủ nợ không phải bao giờ cũng là giải pháp tối ưu cho
họ, vì không phải doanh nghiệp nào lâm vào tình trạng phá sản cũng còn đủ
tài sản để thanh toán hết các món nợ của mình. Vì vậy, sẽ tốt hơn nếu doanh
nghiệp mắc nợ được giúp đỡ có thể thoát khỏi tình trạng phá sản bằng con
đường phục hồi hoạt động kinh doanh.
Thứ ba: Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản có thể có tác động tốt đến môi trường kinh doanh. Việc
phá sản doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp hoạt động kinh doanh với
quy mô lớn, có nhiều đối tác làm ăn hoặc hoạt động trong những ngành nghề
chủ chốt quan trọng đối với nền kinh tế đất nước rất dễ làm phát sinh tác động
dây chuyền đến các lĩnh vực kinh tế khác cũng như các hoạt động khác của
các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế. Vì vậy việc tạo điều kiện phục hồi
hoạt động kinh doanh cho các chủ nợ là một xu hướng cần thiết và phải được
khẳng định trong luật phá sản hiện đại.
Thứ tư: Việc phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản được Tòa án và các chủ nợ tạo điều kiện tối đa. Một
trong những biện pháp giúp doanh nghiệp mắc nợ thoát khỏi tình trạng phá
sản là việc pháp luật cho phép doanh nghiệp mắc nợ chủ động xây dựng
phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của mình. Kế hoạch này sẽ được
trình lên Hội nghị chủ nợ, nếu được thông qua thì về cơ bản doanh nghiệp
mắc nợ được khôi phục lại vị trí pháp lý ban đầu, được tiếp tục sản xuất kinh
doanh một cách bình thường.

1.2. VAI TRÒ CỦA THỦ TỤC PHỤC HỒI DOANH NGHIỆP LÂM VÀO
TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN
Thứ nhất: Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản là công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ nợ.



16
Khi tham gia vào các hoạt động kinh doanh trên thị trường, việc các
doanh nghiệp mắc nợ nhau là chuyện bình thường, ít có doanh nghiệp nào có
thể tránh khỏi nợ. Khi có đối tác kinh doanh nợ mình thì chủ nợ có quyền đòi
nợ và việc đòi nợ có thể thông qua nhiều hình thức, biện pháp đòi nợ khác
nhau trong đó có biện pháp khởi kiện ra Tòa án. Tuy nhiên nếu đòi nợ bằng
con đường kiện tụng ra Tòa dân sự, nhiều khi không giải quyết được một cách
thỏa đáng quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà kinh doanh. Vì vậy, với tư
cách là một thủ tục đòi nợ thông thường, nhà nước phải thiết kế thêm các cơ
chế đòi nợ đặc biệt nữa để các chủ nợ, khi cần thì có thể sử dụng để đòi nợ, đó
là thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng
phá sản trong thủ tục phá sản. Tính ưu việt ở thủ tục phục hồi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là ở chỗ chủ nợ có thể
theo dõi, giám sát được tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để
từ đó có thể xác định được việc thu hồi nợ mà doanh nghiệp mắc nợ phải trả
khi phương án phục hồi đã thực hiện xong. Việc bảo vệ quyền lợi cho các chủ
nợ khi doanh nghiệp mắc nợ lâm vào tình trạng phá sản bằng cách mở rộng
hành lang pháp lý, tạo cơ hội cho chủ nợ thu hồi được nợ đã làm cho luật phá
sản trở thành công cụ pháp lý có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hoạt
động đầu tư của các nhà kinh doanh.
Luật phá sản năm 2004 đã thể hiện rất rõ sự quan tâm của nhà nước
đối với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Điều này được

thể hiện qua các quy định của pháp luật liên quan đến quyền năng của chủ nợ
như: quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, quyền đề xuất phương án
phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp mắc nợ
Thứ hai: Thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
lâm vào tình trạng phá sản bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp mắc nợ, tạo điều
kiện để cho doanh nghiệp mắc nợ có cơ hội trở lại hoạt động kinh doanh bình
thường trên thị trường.



17
Khi mới xuất hiện, Luật phá sản chưa đặt ra vấn đề bảo vệ doanh nghiệp
mắc nợ, vì tại thời điểm này hầu hết các quan điểm cho rằng phá sản cũng là
một tội phạm, người gây ra sự phá sản bị coi là phạm nhân, do đó họ không
những không được bảo vệ mà còn bị trừng phạt bằng nhiều hình thức khác
nhau, kể cả việc tử hình. Ngày nay quan niệm về việc kinh doanh đã được
thay đổi, do đó, cách xử sự của nhà nước và pháp luật đối với doanh nghiệp
mắc nợ lâm vào tình trạng phá sản cũng được thể hiện theo hướng tích cực, có
lợi cho doanh nghiệp mắc nợ. Hoạt động kinh doanh là hoạt động chứa nhiều
rủi ro, ngoài sự mong muốn của các doanh nghiệp bởi thị trường kinh doanh
thường xuyên có sự biến đổi và do có nhiều sự tác động của khách quan nên
tình trạng doanh nghiệp hoạt động kinh doanh thua lỗ, không trả được các
khoản nợ đến hạn khi chủ nợ yêu cầu là điều có thể xẩy ra ở bất kỳ nơi nào và
vào thời điểm nào đối với bất kỳ nhà kinh doanh nào. Mặt khác, doanh nghiệp
bị phá sản có thể kéo theo nhiều hậu quả xấu cho xã hội mà trước hết nó xẩy
ra đối với chủ nợ và người lao động. Chính vì vậy, hiện nay khi một doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thì điều đầu tiên mà Nhà nước quan tâm
giải quyết không phải là việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp ngay và phân
chia tài sản cho các chủ nợ mà là việc phải tìm mọi cách để giúp đỡ doanh
nghiệp thoát khỏi tình trạng khó khăn này để có thể tiếp tục đi trên con đường

kinh doanh và thanh toán được các khoản nợ cho các chủ nợ. Để đảm bảo
thực hiện được vấn đề trả nợ tốt hơn luật đã có nhiều hình thức phục hồi để
các doanh nghiệp có thể lựa chọn hình thức phù hợp với quy mô và hoạt động
của mình như: huy động vốn mới; thay đổi mặt hàng sản xuất, kinh doanh;
đổi mới công nghệ sản xuất; tổ chức lại bộ máy quản lý, sáp nhập hoặc chia
tách bộ phận sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản xuất; bán lại
cổ phần cho chủ nợ; bán hoặc cho thuê tài sản không cần thiết.
Thứ ba: Thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản
góp phần bảo vệ lợi ích cho người lao động.



18
Trong chiến lược xây dựng và phát triển kinh tế xã hội, Đảng và Nhà
nước ta luôn quan tâm đến việc bảo vệ người lao động bởi vì bảo vệ người lao
động là thể hiện quan điểm vì con người, do con người mà trước hết là người
lao động. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người lao động không chỉ là
trách nhiệm của riêng ai mà là vấn đề chung của toàn xã hội, trong đó thiết
thực nhất vẫn là tổ chức Công đoàn, Công đoàn là thành viên trong hệ thống
chính trị của xã hội Việt Nam [24, Điều 1] và "Công đoàn có quyền cùng với
cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi
của cán bộ, công nhân viên chức và những người lao động khác" [27, Điều 10].
Vì vậy, khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản và vấn đề này có thể gây
ra các hậu quả xấu cho người lao động vì chính sự phá sản mà người lao động
phải mất việc làm, lâm vào tình cảnh thất nghiệp. Do vậy, muốn bảo vệ người
lao động, trước hết là phải làm sao để doanh nghiệp không bị phá sản. Ban
chấp hành Công đoàn (đại diện cho người lao động) đồng ý cho doanh nghiệp
áp dụng cơ chế phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
thực chất là "cứu được doanh nghiệp thoát khỏi tình trạng phá sản cũng chính
là cứu được người lao động thoát khỏi tình trạng thất nghiệp" [15, tr. 21].

Thứ tư: Phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp lâm
vào tình trạng phá sản góp phần bảo vệ kỷ cương xã hội.
Khi doanh nghiệp mắc nợ lâm vào tình trạng phá sản, trước những
nguy cơ có thể mất nhiều khoản tín dụng của mình, các chủ nợ có động lực
mong muốn thúc đẩy thực hiện những hành vi chống lại doanh nghiệp mắc
nợ. Những hành vi đó có thể là hợp pháp cũng có thể là bất hợp pháp. Nếu
không có sự can thiệp của pháp luật hoặc sự can thiệp đó không có hiệu quả
thì những hành vi bất hợp pháp của các chủ nợ rất dễ xẩy ra, gây nên tình
trạng lộn xộn trong đời sống xã hội. Do vậy pháp luật về phục hồi doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản phá sản quy định cách thức và thời gian
mà mỗi nhóm chủ nợ được thanh toán nợ và không làm ảnh hưởng hoặc gây



19
lộn xộn đến những nhóm khác tạo nên một sự cân bằng cần thiết trong việc
thanh toán cho các chủ nợ, cũng có nghĩa là các bên được đưa vào một
khuôn khổ chung mà trong đó lợi ích của các bên đều được xem xét một
cách công bằng và minh bạch.
Bằng việc giải quyết thỏa đáng mối quan hệ về lợi ích giữa chủ nợ và
doanh nghiệp mắc nợ cũng như giữa các chủ nợ với nhau, những quy định về
thủ tục phục hồi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đã góp phần hạn
chế những mâu thuẫn, những căng thẳng có thể có giữa họ, nhờ đó góp phần
bảo đảm trật tự, kỷ cương trong xã hội.
Thứ năm: Phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản góp phần tổ chức lại cơ cấu nền kinh tế.
Phục hồi kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản đã
góp phần tích cực vào việc tổ chức cơ cấu lại nền kinh tế. Những doanh
nghiệp nào không có khả năng phục hồi hoạt động kinh doanh coi như họ đã
tự chứng minh doanh nghiệp của mình thực sự làm ăn kém hiệu quả. Đồng

thời việc tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng là một
trong những biện pháp buộc các nhà kinh doanh luôn luôn phải năng động,
sáng tạo nhưng không được mạo hiểm, liều lĩnh.
Tóm lại, phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản có ý nghĩa rất to lớn trong nền kinh tế thị trường nói riêng,
trong hệ thống pháp luật nói chung, là cơ sở pháp lý để các chủ thể tham gia
vào các quan hệ kinh tế do Luật phá sản điều chỉnh, áp dụng một cách thống
nhất góp phần lập lại kỷ cương và trật tự xã hội.
1.3. VAI TRÒ CỦA CƠ QUAN TÒA ÁN ĐỐI VỚI THỦ TỤC PHỤC HỒI
DOANH NGHIỆP LÂM VÀO TÌNH TRẠNG PHÁ SẢN
Pháp luật của hầu hết các nước đều trao cho Tòa án có thẩm quyền
giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản,

×