Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Pháp luật tài nguyên nước Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 94 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
*



NGUYỄN THỊ PHƯƠNG









PHÁP LUẬT TÀI NGUYÊN NƯỚC VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG









LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC













HÀ NỘI - 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
*


NGUYỄN THỊ PHƯƠNG








PHÁP LUẬT TÀI NGUYÊN NƯỚC VIỆT NAM
TRONG ĐIỀU KIỆN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG


CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

MÃ SỐ: 60 38 50




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. VŨ QUANG












HÀ NỘI - 2010

1
MỤC LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 4
DANH MỤC CÁC BẢNG 5

DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ 6
MỞ ĐẦU 7
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI NGUYÊN NƢỚC VIỆT NAM VÀ
VAI TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG QUẢN LÝ, BẢO VỆ, KHAI
THÁC, SỬ DỤNG TÀI NGUYÊN NƢỚC 12
1.1. Tài nguyên nước của Việt Nam - Nguồn tài nguyên hữu hạn và ngày càng
khan hiếm 12
1.1.1. Khái niệm tài nguyên nước 12
1.1.2. Hiện trạng tài nguyên nước của Việt Nam 13
1.1.3. Tài nguyên nước Việt Nam và yêu cầu phát triển bền vững 18
1.2. Pháp luật tài nguyên nước - Công cụ hữu hiệu để quản lý, bảo vệ, khai
thác, sử dụng tài nguyên nước ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường21
1.2.1. Pháp luật tài nguyên nước - Lĩnh vực pháp luật mới 21
1.2.2. Những nguyên tắc cơ bản 23
1.2.3. Vai trò, ý nghĩa của pháp luật tài nguyên nước 26
1.3. Tham khảo pháp luật về tài nguyên nước của một số quốc gia trên
thế giới 28
1.3.1. Pháp luật về tài nguyên nước của Hà Lan 28
1.3.2. Pháp luật về tài nguyên nước của Trung Quốc 29
Kết luận Chương 1 31
CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT TÀI NGUYÊN NƢỚC VIỆT NAM 32
2.1. Vai trò của Nhà nước trong quản lý, bảo vệ, khai thác và sử dụng tài
nguyên nước ở Việt Nam hiện nay 32
2.1.1. Thẩm quyền quản lý nhà nước về tài nguyên nước 32

2
2.1.2. Nội dung quản lý nhà nước về tài nguyên nước 38
2.2. Quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên
nước 50
2.1.1. Khái niệm quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài

nguyên nước 51
2.1.2. Quyền của tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước 52
2.1.3. Nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước 53
2.3. Trách nhiệm pháp lý của các tổ chức, cá nhân khi có hành vi vi phạm
pháp luật về tài nguyên nước 56
2.3.1. Khái niệm vi phạm pháp luật về tài nguyên nước 56
2.3.2. Trách nhiệm pháp lý của các tổ chức, cá nhân khi có hành vi vi phạm
pháp luật về tài nguyên nước 57
Kết luận Chương 2 61
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
NHẰM HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT TÀI NGUYÊN
NƢỚC VIỆT NAM 62
3.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về tài nguyên nước 62
3.1.1. Công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước 62
3.1.2. Thực thi pháp luật tài nguyên nước của các tổ chức, cá nhân 65
3.2. Những tồn tại của hệ thống pháp luật tài nguyên nước Việt Nam 69
3.2.1. Pháp luật tài nguyên nước chưa phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của các cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên nước 70
3.2.2. Chậm ban hành văn bản để tổ chức quản lý tài nguyên nước theo lưu vực
sông 71
3.2.3. Một số văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên nước không đồng bộ
và thiếu tính khả thi 72
3.2.4. Thông tin, dữ liệu về tài nguyên nước chưa đầy đủ, chính xác, đồng bộ,
việc chia sẻ thông tin, dữ liệu còn nhiều hạn chế 74

3
3.2.5. Thiếu văn bản hướng dẫn về điều tra cơ bản tài nguyên nước 74
3.2.6. Pháp luật tài nguyên nước chưa coi trọng đúng mức chính sách kinh tế,
tài chính trong quản lý tài nguyên nước 75
3.2.7. Phát triển thủy điện thiếu quy hoạch, thiếu quy trình vận hành liên hồ

chứa đã gây ảnh hưởng xấu đến kinh tế-xã hội và môi trường 77
3.3. Kiến nghị phương hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật tài nguyên nước
ở Việt Nam 79
3.3.1. Thu hẹp đối tượng được miễn thuế tài nguyên đối với tài nguyên nước 79
3.3.2. Coi giấy phép về tài nguyên nước là tài sản 80
3.3.3. Phân định rõ chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên nước của Bộ
TN&MT với các Bộ, ngành khác 82
3.3.4. Quy định tiêu chí xác định thiệt hại 83
3.3.5. Hoàn thiện các quy định về trách nhiệm pháp lý của các tổ chức, cá nhân
trong việc bảo vệ tài nguyên nước 84
Kết luận Chương 3 86
KẾT LUẬN 87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 89


4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CP: Chính phủ
Nxb: Nhà xuất bản
NN&PTNT: Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
TNN: Tài nguyên nước
TN&MT: Tài nguyên và Môi trường
Tr: Trang
UBND: Ủy ban nhân dân

5
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 2.1. Thẩm quyền quản lý nhà nước về tài nguyên nước trước và sau

khi thành lập Bộ TN&MT…………………………………… ………….… 35
Bảng 3.1. Tổng hợp các loại giấy phép về tài nguyên nước…… …….64

6
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ

Biểu đồ 1.1. Chất lượng nước sông (BOD) và chỉ số hệ động thực vật 17
Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ xây dựng và vận hành hệ thống xử lý nước thải tập
trung tại các khu công nghiệp đã đi vào hoạt động 67


7
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết yếu của sự
sống và môi trường. Nước cần cho sản xuất nông nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp,
phát triển thuỷ điện, giao thông thuỷ và các ngành kinh tế khác. Nhưng tài
nguyên nước lại có hạn và dễ bị tổn thương. Trong những thập niên qua, việc
quản lý, bảo vệ, khai thác và sử dụng tài nguyên nước đã có những thành tựu
quan trọng, góp phần to lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Tuy nhiên, trong một thời gian dài chúng ta chưa nhận thức đầy đủ về ý
nghĩa và tầm quan trọng của nước đối với đời sống, sức khoẻ và môi trường,
chưa chú trọng quản lý và bảo vệ tài nguyên nước, dẫn đến tài nguyên nước của
nước ta đã có những biểu hiện suy thoái cả về số lượng lẫn chất lượng; tình
trạng ô nhiễm nguồn nước, thiếu nước, khan hiếm nước đã xuất hiện ở nhiều
nơi và đang có xu hướng gia tăng; tình trạng sử dụng nước lãng phí, kém hiệu
quả, thiếu quy hoạch, thiếu tính liên ngành còn khá phổ biến [13].
Trong khi đó, nhu cầu dùng nước của các ngành kinh tế không ngừng gia
tăng về số lượng và đòi hỏi cao hơn về chất lượng, cân bằng nước giữa cung và

cầu nhiều lúc, nhiều nơi không bảo đảm và đã trở thành áp lực lớn đối với quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong điều kiện dân số gia tăng,
biến đổi khí hậu diễn biến ngày một phức tạp. Tình hình đó đòi hỏi phải đổi mới
mạnh mẽ và sâu sắc công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước. Tuy nhiên,
những văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên nước dù tương đối nhiều về số
lượng, nhưng chất lượng lại không cao. Có văn bản tuy được ban hành khá sớm
nhưng hầu như không được áp dụng trong thực tế, nhiều văn bản hiện hành còn
chồng chéo, không hợp lý. Đây là một trong những nguyên nhân khiến cho tài
nguyên nước Việt Nam ngày càng bị ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt. Nhận thức rõ
tầm quan trọng của pháp luật tài nguyên nước nhưng hiện vẫn chưa có công
trình khoa học nào nghiên cứu sâu về vấn đề này mà chỉ có một Đề tài cấp Bộ

8
“Đánh giá tình hình thực thi Luật Tài nguyên nước phục vụ sửa đổi, bổ sung
Luật Tài nguyên nước”. Nhưng đề tài này cũng chưa đưa ra được bức tranh tổng
thể về pháp luật tài nguyên nước Việt Nam và đề xuất phương hướng hoàn thiện.
Mặc dù, Luật Tài nguyên nước đã được Bộ Thủy lợi soạn thảo từ năm
1988 nhưng phải mất đến mười năm Luật này mới được thông qua vào ngày
20/5/1998 tại kỳ họp thứ ba Quốc hội khoá X và có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/1999. Tuy nhiên, trong suốt thời gian từ 1998 đến 2002 công tác quản lý
nhà nước về tài nguyên nước không được chú trọng, trong thời gian này Chính
phủ cũng mới chỉ ban hành được một Nghị định hướng dẫn thi hành. Phải cho
đến khi Bộ Tài nguyên và Môi trường được thành lập (tháng 11/2002) thì công
tác này mới dần được quan tâm đúng mức. Từ đó đến nay, Chính phủ cũng đã
ban hành được 05 Nghị định và Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng ban hành
nhiều văn bản hướng dẫn giúp cho Luật Tài nguyên nước thực thi có hiệu quả
hơn, góp phần tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về tài nguyên nước. Trong
những năm qua, việc thực thi pháp luật về tài nguyên nước tuy đã có những kết
quả tích cực, nhưng trong thực tiễn tổ chức thực hiện đã cho thấy pháp luật về
tài nguyên nước còn nhiều bất cập, đặc biệt là những nội dung về quản lý, bảo

vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước không còn phù hợp với tình hình mới. Vì
vậy, việc đánh giá thực trạng pháp luật về tài nguyên nước, tìm ra nguyên nhân
dẫn tới việc thực thi pháp luật chưa đáp ứng được yêu cầu, từ đó đưa ra những
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về tài nguyên nước ở nước ta hiện nay là
hết sức cần thiết.
Thêm vào đó, vấn đề cấp phép về tài nguyên nước tuy đã và đang được
triển khai khá mạnh mẽ ở cả Trung ương và địa phương nhưng vẫn còn một số
điểm bất cập, chồng chéo, gây phiền hà cho doanh nghiệp. Hơn nữa, xu thế hội
nhập kinh tế, quốc tế ngày càng mạnh mẽ đòi hỏi hệ thống cấp phép về tài
nguyên nước phải được hoàn thiện hơn để tạo hành lang pháp lý thông thoáng
cho các doanh nghiệp. Việc cho phép tổ chức, cá nhân chuyển nhượng giấy
phép về tài nguyên nước và coi giấy phép đó là tài sản thuộc sản nghiệp của tổ

9
chức, cá nhân cũng cần phải được đặt ra. Vấn đề này đã được Đảng đoàn Quốc
hội quan tâm khi thực hiện đề án “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về sở hữu đối
với các loại tài sản mới như cổ phiếu, trái phiếu, sở hữu trí tuệ, tài nguyên nước
và khoáng sản”.
Trong khi tài nguyên nước bị suy thoái cả về chất và lượng thì chế tài đối
với các hành vi vi phạm pháp luật về tài nguyên nước lại chưa đủ sức răn đe
khiến nhiều doanh nghiệp coi thường pháp luật, chấp nhận “nộp phạt” mà
không thực hiện theo quy định. Những tội phạm về tài nguyên nước được quy
định trong Bộ luật Hình sự khó có thể áp dụng được trong thực tế và nhiều khi
không thể áp dụng được. Điều này, càng làm cho tình trạng suy thoái, cạn kiệt,
ô nhiễm nguồn nước trở nên trầm trọng hơn, môi sinh dần bị hủy hoại, sức khỏe
của người dân bị rình rập, đe dọa hàng ngày.
Việc đánh giá hiện trạng và tìm ra hướng hoàn thiện pháp luật về tài
nguyên nước Việt Nam, góp phần vào việc tăng cường công tác quản lý nhà
nước về tài nguyên nước là việc làm hết sức cần thiết, đặc biệt trong giai đoạn
hiện nay. Đây chính là lý do luận chứng cho việc tôi quyết định lựa chọn đề tài

“Pháp luật tài nguyên nước Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường” làm
Luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mặc dù, Luật Tài nguyên nước đã được ban hành từ khá sớm nhưng
những nghiên cứu về pháp luật tài nguyên nước đến nay còn rất ít, chưa có đề
tài nào đánh giá tổng thể về pháp luật tài nguyên nước Việt Nam mà chỉ nghiên
cứu một trong những khía cạnh nhất định.
Liên quan đến đề tài này, có đề tài: “Pháp luật bảo vệ nguồn nước ở Việt
Nam - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện” của học viên Đinh Công Tuấn,
cao học khoá 8 (niên khoá 2000 - 2003 Trường Đại học Luật Hà Nội) và đề tài:
“Luật Tài nguyên nước Việt Nam thực trạng và giải pháp” của học viên Đỗ
Bích Ngọc, cao học khóa 15 (niên khóa 2007 - 2010 Trường Đại học Luật Hà
Nội). Tuy nhiên, đề tài này mới chỉ tập trung nghiên cứu Luật Tài nguyên nước
mà không đi sâu tìm hiểu các văn bản dưới Luật.

10
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn
Việc nghiên cứu, đánh giá tổng thể pháp luật tài nguyên nước Việt Nam
là một vấn đề rất phức tạp và rộng lớn, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh
vực khác nhau, nên Luận văn chỉ đặt ra mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu một
số vấn đề sau:
- Tổng quan tài nguyên nước Việt Nam;
- Tiếp cận, nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn những nội dung cơ
bản của pháp luật tài nguyên nước trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam đang hoàn chỉnh và từng bước hội nhập với khu vực và thế giới;
- Những kết quả đạt được, những nội dung còn hạn chế, bất cập của pháp
luật tài nguyên nước;
- Kiến nghị phương hướng hoàn thiện hệ thống pháp luật tài nguyên nước.
4. Phạm vi, cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của
Luận văn

Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định của Luật Tài
nguyên nước năm 1998 và một số văn bản dưới luật về tài nguyên nước như
một lĩnh vực pháp luật mới hình thành ở Việt Nam. Ngoài ra, tác giả cũng tham
khảo nội dung các quy định pháp luật khác trong hệ thống pháp luật Việt Nam
và quốc tế có liên quan đến tài nguyên nước.
Cơ sở phương pháp luận trong nghiên cứu đề tài của luận văn là Triết học
Mác - Lê Nin, nhất là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Trong quá
trình nghiên cứu, tác giả đã tiếp thu quan điểm trong các văn kiện Đại hội Đảng
Cộng sản Việt Nam về vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trong đó có vấn đề
hoàn thiện và đổi mới hệ thống pháp luật, củng cố, tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Phương pháp nghiên cứu: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng
phương pháp so sánh pháp luật, hệ thống, phân tích, tổng hợp, mô hình hoá và
tham khảo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, tham khảo những báo
cáo tham luận của một số tác giả về vấn đề nghiên cứu.

11
5. Những kết quả nghiên cứu mới của Luận văn
Đây là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện pháp
luật tài nguyên nước Việt Nam. Luận văn dự kiến đạt được:
- Lý luận về tài nguyên nước, pháp luật tài nguyên nước, các khái niệm,
nội hàm… làm cơ sở khoa học cho các nghiên cứu ở phần sau.
- Thực trạng pháp luật tài nguyên nước ở Việt Nam, các phân tích, luận
giải chuyên sâu…
- Đề xuất phương hướng và giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật tài
nguyên nước.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương với kết cấu như sau:

Chƣơng 1. Tổng quan tài nguyên nƣớc Việt Nam và vai trò của pháp
luật trong quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nƣớc
Chƣơng 2. Pháp luật tài nguyên nƣớc Việt Nam
Chƣơng 3. Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị để hoàn thiện hệ
thống pháp luật tài nguyên nƣớc Việt Nam
Bằng vốn kiến thức đã được trang bị ở nhà trường, nỗ lực của bản thân,
kinh nghiệm thực tiễn và sự chỉ dẫn tận tình của thầy giáo hướng dẫn TS. Vũ
Quang, tôi không có tham vọng đưa ra được những giải pháp và phương hướng
tối ưu để hoàn thiện hệ thống pháp luật tài nguyên nước hiện nay, nhưng mong
muốn góp phần tạo cơ sở bước đầu cho việc hoàn thiện pháp luật tài nguyên
nước trong thời gian tới. Ngoài ra, những nghiên cứu công phu của người viết ở
một chừng mực nhất định có thể khẳng định rằng đây là nghiên cứu chuyên
khảo đồng bộ đầu tiên ở cấp độ một luận văn thạc sĩ nghiên cứu một cách toàn
diện hệ thống pháp luật về tài nguyên nước. Do đó, nó còn có ý nghĩa làm tài
liệu tham khảo cần thiết cho các cán bộ nghiên cứu khoa học, cán bộ giảng
dạy, học viên cao học và sinh viên thuộc chuyên ngành.

12
CHƢƠNG 1 - TỔNG QUAN TÀI NGUYÊN NƢỚC VIỆT NAM VÀ VAI
TRÒ CỦA PHÁP LUẬT TRONG QUẢN LÝ, BẢO VỆ, KHAI THÁC, SỬ
DỤNG TÀI NGUYÊN NƢỚC

1.1. Tài nguyên nƣớc của Việt Nam - Nguồn tài nguyên hữu hạn và
ngày càng khan hiếm
1.1.1. Khái niệm tài nguyên nƣớc
Nước là tài nguyên quý giá, là tư liệu thiết yếu cho cuộc sống của con
người, là sự sống của vạn vật. Nước cũng quan trọng như không khí, không thể
thiếu và không thể thay thế. Đối với nhiều tôn giáo, nước rất linh thiêng và
được sử dụng trong các nghi lễ khác nhau. Nước được thể hiện trong nghệ thuật
qua hàng thế kỷ như trong âm nhạc, hội họa, văn học, phim ảnh và cũng là yếu

tố trọng tâm của các nghiên cứu khoa học. Năm 1760, nhà bác học nổi tiếng của
Việt Nam - Lê Quý Đôn khi bàn về tầm quan trọng của nước đã đánh giá một
cách chính xác rằng "Vạn vật không có nước không thể sống được; Mọi việc
không có nước không thể thành được" và 250 năm sau thế giới cũng khẳng
định: nước là tài nguyên quan trọng thứ hai sau tài nguyên con người [23]. Vậy,
tài nguyên nước (sau đây viết tắt là TNN) là gì ?
TNN được nhìn nhận ở nhiều góc độ khác nhau, dưới góc độ hóa học
nước được định nghĩa là một hợp chất của hiđrô và oxy tồn tại trong thiên nhiên
với công thức hoá học là H
2
O.
Dưới góc độ vật lý, TNN được xác định tồn tại dưới nhiều dạng khác
nhau. Căn cứ vào đặc tính lý, hoá của nước, nước được chia thành nước mặn,
nước ngọt, nước nhạt, nước lợ, nước khoáng, nước nóng thiên nhiên… Căn cứ
vào trạng thái tồn tại của nước, nước được chia thành nước mặt, nước dưới đất,
nước trong không khí (hơi nước), băng tuyết.
Dưới góc độ luật pháp, theo quy định tại Điều 2 Luật TNN thì TNN bao
gồm các nguồn nước mặt, nước mưa, nước dưới đất, nước biển trong lãnh thổ
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

13
Tại Điều 3 Luật TNN đã giải thích rõ:
"1. "Nguồn nước" chỉ các dạng tích tụ nước tự nhiên hoặc nhân tạo có
thể khai thác, sử dụng được, bao gồm sông, suối, kênh, rạch; biển, hồ, đầm, ao;
các tầng chứa nước dưới đất; mưa, băng, tuyết và các dạng tích tụ nước khác.
2. "Nước mặt" là nước tồn tại trên mặt đất liền hoặc hải đảo.
3. "Nước dưới đất" là nước tồn tại trong các tầng chứa nước dưới mặt đất."
Ngoài ra, còn có những nguồn nước khác thuộc phạm vi điều chỉnh của
các văn bản pháp luật khác như nước khoáng và nước nóng thiên nhiên thuộc
phạm vi điều chỉnh của pháp luật khoáng sản. Nước biển, nước dưới đất thuộc

vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa - được quy định trong các văn bản pháp
luật về bảo vệ tài nguyên và môi trường (sau đây viết tắt là TN&MT) biển.
Nước trong không khí được bảo vệ theo quy chế bảo vệ không khí.
1.1.2. Hiện trạng tài nguyên nƣớc của Việt Nam
Gần đây, các nhà khoa học đã rung lên hồi chuông cảnh báo về một cuộc
khủng hoảng nước, đưa ra một loạt vấn đề nảy sinh và kiến nghị các giải pháp
khắc phục. Khan hiếm nước ngày càng gia tăng, mâu thuẫn về nước ngày càng
nhiều và căng thẳng, ở Trung đông đã từng xảy ra những đụng độ vũ trang gây
thiệt hại về người và của do cạnh tranh nguồn nước. Nước không chỉ dừng lại ở
vấn đề kinh tế, sức khỏe mà giờ đây đã trở thành vấn đề chính trị liên quan đến
sự sống còn của cả một dân tộc, được đề cập nhiều tại các hội nghị, đàm phán
quốc gia, khu vực và quốc tế.
Ở Việt Nam, khoảng hai phần ba (2/3) lượng nước được sản sinh trên
lãnh thổ của các nước phía thượng lưu các lưu vực sông [13] nên nước ta bị ảnh
hưởng rất lớn bởi các quyết định về TNN của các nước phía thượng lưu khiến
cho tình trạng phân bố TNN theo không gian và thời gian vốn đã dao động
mạnh càng trở nên phức tạp hơn. Do vậy, tuy là một quốc gia tương đối dồi dào
về TNN nhưng Việt Nam vẫn bị xếp vào loại có TNN thấp trong khu vực Đông
Nam Á, với lượng nước tính theo đầu người hàng năm là 4.170 m
3
so với mức
trung bình của khu vực Đông Nam Á là 4.900 m
3
[5], cụ thể như sau:

14
1.1.2.1. Số lƣợng nƣớc
* Tài nguyên nƣớc mặt
Tổng lượng nước mặt trên lãnh thổ nước ta khoảng 830-840 tỷ m
3

/năm,
trong đó, gần 57% là ở lưu vực sông Cửu Long, hơn 16% ở lưu vực sông Hồng
- Thái Bình và hơn 4% ở lưu vực sông Đồng Nai. Lượng nước sinh ra trên lãnh
thổ Việt Nam khoảng 310-315 tỷ m
3
/năm, chiếm 37%; lượng nước từ nước
ngoài chảy vào khoảng 520-525 tỷ m
3
/năm, chiếm 63% [9, 13].
Việt Nam có hệ thống sông ngòi dày đặc với 2.360 con sông có chiều dài
từ 10 km trở lên, trong đó có 13 sông có diện tích lưu vực lớn hơn 10.000 km
2

là sông Hồng, Thái Bình, Bằng Giang - Kỳ Cùng, Mã, Cả, Vu Gia - Thu Bồn,
Ba, Đồng Nai và sông Cửu Long, Đà, Lô, Sê San, SêrêPôk [13].
Việt Nam cũng là nước có nhiều hồ chứa thủy điện, thủy lợi. Theo kết
quả thống kê, rà soát sơ bộ của Bộ TN&MT hiện trong cả nước có khoảng
2.900 hồ chứa thủy điện, thủy lợi với tổng dung tích trên 65 tỷ m
3
, tổng công
suất lắp máy khoảng 21.100 MW, thuộc 43 tỉnh. Trong đó, có khoảng 2.100 hồ
chứa thủy điện, thủy lợi đang vận hành, tổng dung tích hơn 34 tỷ m
3
, công suất
lắp máy hơn 6.100 MW; khoảng 240 hồ đang xây dựng, tổng dung tích hơn 28
tỷ m
3
, công suất lắp máy hơn 10.600 MW và trên 510 hồ đã có quy hoạch, tổng
dung tích gần 4 tỷ m
3

, công suất lắp máy hơn 4.300 MW [7].
Tuy nhiên, TNN Việt Nam lại phân bố không đều theo không gian và
thay đổi theo thời gian trong năm. Ở miền Bắc, mùa khô bắt đầu từ tháng 10,
11, ở miền Trung và miền Nam mùa khô bắt đầu vào tháng 01. Mùa khô thường
kéo dài từ 6 đến 9 tháng. Lươ
̣
ng do
̀
ng cha
̉
y tự nhiên trong mùa khô chỉ chiếm
20 - 30% tổng lươ
̣
ng do
̀
ng cha
̉
y ca
̉
năm [5]. Đặc biệt, trong những năm gần đây,
mực nước trên các sông, suối của nước ta vào mùa khô xuống rất thấp gây nên
tình trạng thiếu nước sinh hoạt và sản xuất. Như trong các tháng mùa khô cuối
năm 2009 và đầu năm 2010, sông Hồng đã bị cạn kiệt nghiêm trọng. Mực nước
sông Hồng tại Hà Nội liên tục đạt những giá trị thấp nhất trong lịch sử hơn 100
năm qua, có thời điểm xuống thấp tới mức chỉ còn 10 cm (19h ngày
21/02/2010) [6], đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của người dân.

15
* Tài nguyên nƣớc dƣới đất
Theo đánh giá sơ bộ trên cơ sở tài liệu lưu lượng suối trong các tháng

mùa kiệt thì tổng trữ lượng động của nước dưới đất trong cả nước ước tính
khoảng 2.000 m
3
/s, tương ứng khoảng 63 tỷ m
3
/năm [13]. Nước dưới đất của
nước ta phân bố không đều theo không gian. Trữ lượng nước dưới đất lớn nhất
là ở Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ và ít
nhất là ở vùng núi Tây Bắc, Đông Bắc, ven biển Nam Trung Bộ.
Tổng lượng nước dưới đất được khai thác để cung cấp cho đô thị và công
nghiệp trong cả nước theo tính toán sơ bộ là khoảng 3.363.059 m
3
/ngày
(1.227,5 triệu m
3
/năm). Hiện tại, có tới 22 thành phố, thị xã sử dụng hoàn toàn
nguồn nước dưới đất cho sinh hoạt, 41 thành phố, thị xã sử dụng cả nước dưới
đất và nước mặt. Khoảng 70 - 80% nguồn nước cấp cho sinh hoạt nông thôn là
từ nguồn nước dưới đất [18].
Mặc dù, nguồn nước dưới đất của Việt Nam không bị khai thác quá mức,
nhưng ở những vùng khai thác nước tập trung thì mực nước dưới đất đang bị sụt
giảm nghiêm trọng. Ở Hà Nội, mực nước dưới đất đã giảm đi hơn 1 m mỗi năm
ở một số vùng và đã giảm đi tổng cộng 30 m. Ở thành phố Hồ Chí Minh, mực
nước dưới đất cũng giảm đi tới 30 m. Ở Tây Nguyên, những nơi trồng cà phê,
nước dưới đất bị khai thác quá mức với mực nước mỗi năm giảm đi 2,5 m [5].
Như vậy, TNN của nước ta không nhiều về số lượng lại phân bố không
đều theo không gian và thời gian, trong khi biến đổi khí hậu diễn biến ngày một
phức tạp khiến cho nguy cơ thiếu nước để sinh hoạt và sản xuất đang tới gần. Vì
vậy, để đảm bảo phát triển bền vững kinh tế - xã hội, chúng ta cần phải có các
biện pháp bảo vệ TNN, khai thác, sử dụng TNN hợp lý, tiết kiệm.

1.1.2.2. Chất lƣợng nƣớc
Nước là máu của sự sống. Thế nhưng “dòng máu” quy
́
gia
́
na
̀
y đang bi
̣
đe
dọa ô nhiễm nghiêm trọng và hàng ngày , hàng giờ ảnh hưởng đến đời sống của
nhân dân. Nguồn nước bị ô nhiễm làm cho nước không còn phù hợp với mục
đích sử dụng, gây nên tình trạng “khan hiếm nước” mặc dù “có nước”. Sử dụng

16
nước không đảm bảo chất lượng làm suy giảm sức khoẻ và gia tăng bệnh tật,
dẫn đến giảm khả năng lao động và gia tăng chi phí của xã hội để chữa bệnh.
Các bệnh chủ yếu liên quan đến chất lượng nước là bệnh đường ruột, các bệnh
do ký sinh trùng, vi khuẩn, virus, nấm…, các bệnh do côn trùng trung gian và
các bệnh do vi yếu tố và các chất khác trong nước (bệnh bướu cổ, bệnh về răng
miệng do thiếu hoặc thừa fluor…). Tác hại của ô nhiễm nguồn nước không
dừng lại ở đó, mà nó còn ảnh hưởng nghiêm trọng tới hệ sinh thái thủy sinh,
nuôi trồng thủy sản, du lịch và các ngành kinh tế khác. Như việc Công ty đường
Quảng Ngãi xả nước thải ra sông Trà Khúc làm cá chết trắng sông hay như việc
hàng loạt bè cá đang gần đến ngày thu hoạch ở La Ngà đột ngột chết trắng do
nước sông La Ngà bị ô nhiễm từ nguồn nước thải của Công ty Men Mauri Việt
Nam và Công ty cổ phần mía đường La Ngà [11].
Cùng với sư
̣
bu

̀
ng nô
̉
dân số và sư
̣
tăng tr ưởng kinh tế - xã hội, đơ
̀
i sống
của nhân dân nga
̀
y ca
̀
ng đươ
̣
c nâng cao đã và sẽ la
̀
m gia tăng nguồn gây ô
nhiê
̃
m nươ
́
c . Các loại nước thải chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa đạt tiêu chuẩn
môi trường đã xả trực tiếp ra các sông, ngòi, đặc biệt, là ở các thành phố lớn đã
biến những dòng sông thơ mộng thành những “dòng sông đen”. Theo số liệu
khảo sát gần đây cho thấy hàm lượng của các chất gây ô nhiễm trong các sông
của Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Huế, Đồng Nai đều
cao hơn tiêu chuẩn cho phép nhiều lần [31]. Hàng triệu m
3
nước thải từ công
nghiệp xả ra môi trường mỗi ngày làm cho nguồn nước ngày càng bị ô nhiễm

trầm trọng hơn, như khu Gang thép Thái Nguyên nước thải đã biến nước sông
Cầu thành màu đen, mặt nước sủi bọt dài hàng chục cây số [30], nước thải của
các nhà máy hóa chất, giấy ở Phú Thọ đang ngày đêm đe dọa tính mạng của
hàng trăm người dân sống ở khu vực gần nhà máy [31]. Hàng loạt ngôi “làng
ung thư” đã xuất hiện là hệ quả của những nhà máy xả nước thải ra môi trường
chưa qua xử lý. Thư
̣
c tế đa
̃
chư
́
ng minh ty
̉

̣
tăng trươ
̉
ng kinh tế ty
̉

̣
thuâ
̣
n vơ
́
i
viê
̣
c ô nhiê
̃

m nguồn nươ
́
c , như ơ
̉
lưu vư
̣
c sông Nhuê
̣
, Đa
́
y, Đồng Nai… Song

17
hành với những bước chuyển mình về kinh tế, cái giá phải trả là nguồn nước
ngày càng bị ô nhiễm nặng nề.
Nước mặt ở tất cả các lưu vực sông của nước ta không thỏa mãn tiêu
chuẩn nước uống vì bị ô nhiễm hữu cơ. Hàm lượng bình quân BOD ở hầu hết
các sông vượt quá tiêu chuẩn loại A từ 1,2 đến 2 lần (xem Biểu đồ 1.1).
Biểu đồ 1.1. Chất lƣợng nƣớc sông (BOD) và chỉ số hệ động thực vật [12]

(Nguồn: Bộ TN&MT (2010), Báo cáo thuyết minh Chương trình mục tiêu quốc gia nâng cao hiệu quả
quản lý, bảo vệ, sử dụng tổng hợp tài nguyên nước, Hà Nội).
Nước dưới đất ở nhiều nơi, hiện cũng đang bị nhiễm mặn, đây là vấn đề
rất bức xúc của vùng Đồng bằng sông Hồng, miền Trung và Đồng bằng sông
Cửu Long. Nhiễm mặn xảy ra ở hầu hết các thành phố, thị xã ven biển. Ở Đồng
bằng sông Hồng, nồng độ nhiễm mặn cao hơn 3% đã thâm nhập sâu hơn 60km
trong đất liền kéo đến tận phía Bắc Hải Dương và phía Nam tỉnh Nam Định. Ở
miền Nam, toàn bộ các xã phía Đông huyện Cần Đước, Cần Giuộc (Long An),
các xã Nam Nhơn Trạch và vùng phía Tây Quốc lộ 51 thuộc huyện Long Thành
(Đồng Nai), một số vùng ở Thị xã Bà Rịa và Thành phố Vũng Tàu (Bà Rịa -

Vũng Tàu) và một số vùng thấp trũng rìa phía Tây Nam của tỉnh Đồng Nai đã bị
nhiễm mặn nghiêm trọng [7].
Một nghiên cứu được thực hiện ở Hà Nội đã cảnh báo về tình hình ô
nhiễm amôni trong nước ngầm ở phía Nam Hà Nội. Nồng độ amôni trong nước

18
đã qua xử lý của ba nhà máy nước cao hơn tiêu chuẩn cho phép từ 2 - 8 lần.
Việc khai thác, sử dụng TNN thiếu quy hoạch, không hiệu quả và việc xả nước
thải chưa được kiểm soát chặt chẽ khiến cho nguồn nước dưới đất ở nhiều khu
vực như ở Hà Nội, Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Nam Định, Thái Bình và
hầu hết các tầng chứa nước nằm nông đã bị ô nhiễm, nhiễm bẩn ở các mức độ
khác nhau [7]. Nguồn nước dưới đất ở Đồng bằng sông Hồng có mức độ ô
nhiễm Asen cao nhất cả nước, trong khi nước sinh hoạt của người dân nông
thôn ở vùng này chủ yếu là nước dưới đất (chiếm khoảng 70-80%) [15].
Như vậy, TNN của Việt Nam đang ngày càng xấu đi cả về chất và lượng,
trong khi đó, nước là yếu tố đầu vào không thể thiếu của hầu hết các ngành sản
xuất. Vì vậy, nếu không có những giải pháp hữu hiệu trong quản lý, bảo vệ,
khai thác, sử dụng TNN sẽ ảnh hưởng rất lớn tới việc đảm bảo phát triển bền
vững của đất nước và đời sống của nhân dân.
1.1.3. Tài nguyên nƣớc Việt Nam và yêu cầu phát triển bền vững
Phát triển bền vững là xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội
loài người. Tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới năm 1992 ở Rio de Janeiro, các
nhà hoạt động về kinh tế, xã hội, môi trường cùng với các nhà chính trị đã thống
nhất về quan điểm phát triển bền vững, coi đó là trách nhiệm chung của các
quốc gia, của toàn nhân loại và đồng thuận thông qua tuyên bố Rio gồm 27
nguyên tắc cơ bản về Phát triển bền vững và Chương trình Nghị sự 21, xác định
các hành động cho sự phát triển bền vững của toàn thế giới trong thế kỷ thứ 21.
Phát triển bền vững là sự phát triển hài hoà cả về 3 mặt: Kinh tế - Xã hội - Môi
trường để đáp ứng những nhu cầu về đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của
thế hệ hiện tại nhưng không làm tổn hại, gây trở ngại đến khả năng cung cấp tài

nguyên để phát triển kinh tế - xã hội mai sau, không làm giảm chất lượng cuộc
sống của các thế hệ trong tương lai [16].
Ở Việt Nam, trong một thời gian dài, vai trò của TNN đối với sự phát
triển bền vững chưa được nhận thức đầy đủ. Tuy nhiên, gần đây Việt Nam cũng
ý thức được các nguy cơ, thách thức đối với sự phát triển trong tương lai và đã

19
thể hiện mong muốn cũng như nỗ lực tiếp cận các giải pháp bảo vệ TNN, thực
hiện phát triển bền vững. Song, công tác này vẫn chưa đạt được kết quả như
mong muốn. Điều này, một phần là do TNN của nước ta còn ẩn chứa nhiều yếu
tố không bền vững:
Một là, nước ta nằm ở hạ lưu các lưu vực sông lớn như sông Hồng, sông
Mê Kông nên phần nước mặt từ ngoài lãnh thổ chảy vào nước ta chiếm tỷ lệ
lớn, khoảng 63% [13]. Vì vậy, nước ta bị ảnh hưởng nhiều bởi các quyết định
về khai thác, sử dụng TNN của các nước phía thượng lưu.
Hai là, sự biến đổi của khí hậu toàn cầu dẫn đến sự suy giảm nguồn nước
và Việt Nam là một trong năm quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất. Lĩnh vực,
ngành dễ bị tổn thương và chịu tác động mạnh mẽ nhất của biến đổi khí hậu là
TNN. Theo các kịch bản nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Khí tượng thuỷ văn
và Môi trường thì trung bình một thập kỷ nhiệt độ tăng 0,3
o
C; một năm có 4,7
trận bão và con số này đang tăng dần, lũ lớn xảy ra thường xuyên hơn ở vùng
ven bờ biển, Đồng bằng sông Cửu Long và Đồng bằng sông Hồng; vùng phía
Nam và Tây Nguyên hạn hán sẽ khốc liệt hơn [1].
Ba là, TNN phân bố không đều giữa các vùng. Trên 60% nguồn nước
sông tập trung ở Đồng bằng sông Cửu Long, toàn bộ phần lãnh thổ còn lại chỉ
có gần 40% lượng nước nhưng lại chiếm tới gần 80% dân số cả nước và trên
90% hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ. Đặc biệt là các địa phương miền
Đông Nam Bộ và lưu vực sông Đồng Nai - Sài Gòn, lượng nước bình quân đầu

người chỉ đạt khoảng 2.900 m
3
/người/năm, bằng 28% so với mức trung bình
của cả nước [13].
Bốn là, TNN phân bố không đều theo thời gian trong năm và không đều
giữa các năm. Lượng nước trung bình trong 3 đến 5 tháng mùa lũ chiếm khoảng
70 - 80%, trong khi 7 đến 9 tháng mùa kiệt chỉ chiếm 20 - 30% lượng nước cả
năm [13].
Năm là, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đã có những ảnh hưởng tiêu cực
tới TNN. Ô nhiễm nguồn nước mặt ngày càng tăng cả về mức độ, quy mô.

20
Nguồn nước dưới đất ở nhiều đô thị, ở một số khu vực thuộc các đồng bằng
cũng đã có biểu hiện ô nhiễm bởi các chất gây ô nhiễm hữu cơ khó phân huỷ,
hàm lượng vi khuẩn cao. Các biểu hiện suy thoái, cạn kiệt nguồn nước dưới đất
đang trở nên rõ rệt và phổ biến [13].
Mặc dù, TNN Việt Nam còn ẩn chứa nhiều yếu tố không bền vững như
trên nhưng Đảng và Nhà nước ta đã đổi mới công tác quản lý, từng bước đáp
ứng được nhu cầu phát triển bền vững. Với phương châm “Phát triển nhanh,
hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công
bằng xã hội và bảo vệ môi trường", Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 2001 - 2010 đã được Đại hội Đảng khóa IX thông qua, đặt bảo vệ môi
trường ngang hàng với các nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của đất nước. Điều
đó, thể hiện ý chí quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc kiến tạo một
đất nước Việt Nam trong lành và bền vững trong tương lai.
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng khóa IX, ngày 17/8/2004, Thủ
tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg ban hành “Định
hướng Chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam", trong đó tại nội dung thứ
sáu đã nhấn mạnh: Xây dựng đề án điều tra tổng thể nguồn nước, thực trạng của
nguồn nước trong từng vùng, từng lưu vực; phân loại chất lượng từng nguồn

nước; Xây dựng chiến lược bảo vệ và sử dụng hợp lý nguồn nước; tu bổ các
sông ngòi, nâng cấp và phát triển các hệ thống tưới tiêu thủy lợi, hệ thống hồ
chứa nước; Xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án xử lý tổng hợp các
dòng sông theo hướng phát triển bền vững, chống ô nhiễm nguồn nước.
Thực hiện Chương trình Nghị sự 21, trong sáu năm qua, ngành TN&MT
nói chung và TNN nói riêng đã nỗ lực không ngừng để đưa công tác quản lý
TNN lên một tầm cao mới. Các chính sách quản lý TNN đã được xây dựng
trong khuôn khổ quản lý tổng hợp lưu vực sông, thực hiện đánh giá tác động
môi trường của các dự án phát triển đối với TNN, cân nhắc tổng thể về sinh thái
đối với các phương án sử dụng TNN, dựa trên quản lý tổng hợp lưu vực để giải
quyết các mâu thuẫn hoặc tranh chấp trong việc sử dụng nước giữa các ngành

21
hoặc địa phương. Xây dựng các tiêu chuẩn để hạn chế ô nhiễm nguồn nước,
kiểm soát nước thải công nghiệp, xây dựng các hệ thống xử lý nước thải, kiểm
soát việc sử dụng hóa chất trong nông nghiệp, xây dựng các tiêu chuẩn về chất
lượng cho các yêu cầu khác nhau như cấp nước uống, công nghiệp, nông
nghiệp…[12].
Mặc dù, đã có những chuyển biến trong nhận thức và hành động đối với
công tác bảo vệ, khai thác, sử dụng TNN nhưng hiện nay, TNN vẫn bị ô nhiễm
nghiêm trọng, tình trạng thiếu nước, khan hiếm nước, xung đột về lợi ích giữa
các hộ dùng nước vẫn diễn ra phổ biến. Bởi vậy, để tiếp cận một cách toàn diện
cho phát triển bền vững TNN cần phải có những cải tổ về tổ chức và xây dựng
hệ thống pháp luật phù hợp. Đặc biệt, phải có sự quản lý thống nhất giữa các
cấp, các ngành; khai thác, sử dụng nước phải hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả; khai
thác phải đi đôi với bảo vệ, kiểm soát cả về số lượng và chất lượng, bảo đảm
công bằng và có sự tham gia của tất cả các đối tượng liên quan.
1.2. Pháp luật tài nguyên nước - Công cụ hữu hiệu để quản lý, bảo vệ,
khai thác, sử dụng tài nguyên nước ở Việt Nam trong nền kinh tế thị trường
1.2.1. Pháp luật tài nguyên nƣớc - Lĩnh vực pháp luật mới

Khái niệm quản lý nhà nước về TNN ở Việt Nam xuất hiện khá sớm,
ngay từ năm cuối thập kỷ 70 của thế kỷ trước tại Nghị định số 88-HĐBT ngày
06/3/1979 của Hội đồng Bộ trưởng quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn
của Bộ Thủy lợi. Tuy nhiên, phạm vi quản lý nhà nước về TNN chỉ giới hạn
trong việc phân phối, sử dụng và bảo vệ tài nguyên, môi trường nước. Hơn nữa,
trong thời kỳ này chỉ chú trọng vào tổ chức nghiên cứu lập quy hoạch khung về
trị thuỷ và khai thác các dòng sông trong cả nước phục vụ cho mục tiêu an ninh
lương thực, đảm bảo phòng, chống lũ cho các vùng đồng bằng, tăng nguồn thuỷ
điện, phát triển nuôi trồng thuỷ sản, phát triển mạng lưới giao thông thủy, cấp
nước cho sản xuất công nghiệp và sinh hoạt.
Năm 1978, Bộ Thủy lợi đã được giao chủ trì soạn thảo Luật TNN với
mong muốn sớm có Luật để quản lý. Tuy nhiên, đây là vấn đề mới, thực tiễn lúc

22
bấy giờ chưa đòi hỏi gay gắt và cũng do nhận thức khi ấy còn hạn chế nên tốc
độ soạn thảo Luật rất chậm.
Quốc hội khoá VIII, tại kỳ họp thứ Chín ngày 21/10/1995, đã ban hành
Nghị quyết thành lập Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (sau đây viết tắt
là Bộ NN&PTNT) và Bộ này được giao tiếp tục chủ trì soạn thảo Luật TNN.
Ngày 20/5/1998, Luật TNN đã được Quốc hội khoá X thông qua và có hiệu lực
thi hành kể từ ngày 01/01/1999. Sau đó, ngày 30/12/1999 Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 179/1999/NĐ-CP quy định việc thi hành Luật TNN (sau đây
gọi tắt là Nghị định số 179/1999/NĐ-CP).
Mặc dù, Luật TNN đã được ban hành nhưng sau nhiều năm vẫn không
được hướng dẫn cụ thể, một số quy định chưa phù hợp nên không được thực thi
trên thực tế. Vì thế, tuy được ban hành từ khá sớm nhưng nhiều người dân,
thậm chí cả những nhà quản lý cũng không biết có sự tồn tại của Luật TNN.
Để tăng cường công tác quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng TNN, góp
phần bảo đảm phát triển bền vững của đất nước trong thời kỳ nước ta đang đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, ngày 05/8/2002, Quốc

hội khoá XI tại kỳ họp thứ Nhất đã ra Nghị quyết số 02/2002/QH11 về danh
sách các Bộ, cơ quan ngang Bộ nhiệm kỳ 2002 – 2007 và Bộ TN&MT được
giao quản lý nhà nước về TNN.
Kể từ khi Bộ TN&MT được thành lập, công tác quản lý nhà nước về
TNN đã có những chuyển biến tích cực, trong đó việc hoàn thiện thể chế được
đặt lên hàng đầu. Chỉ trong một thời gian ngắn (từ năm 2003 tới tháng 6/2010),
tổng cộng đã có 25 văn bản, trong đó có 05 nghị định của Chính phủ, 01 Quyết
định của Thủ tướng Chính phủ cùng các quyết định, chỉ thị, thông tư đã được
ban hành, tạo hành lang pháp lý quan trọng để đưa Luật TNN vào cuộc sống.
Từ đây, các cơ quan, doanh nghiệp và người dân mới bắt đầu biết đến pháp luật
TNN và thực hiện theo Luật. Như vậy, Luật TNN tuy được ban hành từ khá
sớm nhưng không được áp dụng trên thực tế nên đến nay nó vẫn được coi là
một lĩnh vực pháp luật mới.

23
1.2.2. Những nguyên tắc cơ bản
Theo Đại từ điển Tiếng Việt thì “nguyên tắc là những quy định, phép tắc,
tiêu chuẩn làm cơ sở, chỗ dựa để xem xét, làm việc”. Theo đó, các nguyên tắc
của Luật TNN là nền tảng pháp lý xuyên suốt trong quá trình xây dựng và thực
hiện Luật. Luật TNN áp dụng những nguyên tắc cơ bản sau:
1.2.2.1. Tài nguyên nƣớc thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nƣớc thống
nhất quản lý
Nguyên tắc này đã được ghi nhận tại Điều 17 Hiến pháp năm 1992 (sửa
đổi, bổ sung năm 2001): “Đất đai, rừng núi, sông hồ, nguồn nước, tài nguyên
trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời… đều thuộc sở
hữu toàn dân”.
Để cụ thể hóa Điều 17 Hiến pháp năm 1992, Luật TNN đã khẳng định:
"Tài nguyên nước thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý”
(Điều 1). Theo đó, Nhà nước quy định quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân
khai thác, sử dụng TNN, xả nước thải vào nguồn nước; quy định những trường

hợp không phải xin phép, phải đăng ký và những trường hợp phải xin phép khi
khai thác, sử dụng TNN, xả nước thải vào nguồn nước. Nhà nước cũng quy định
thẩm quyền quản lý nhà nước về TNN, điều hòa, phân bổ TNN, quy hoạch lưu
vực sông, quy định những biện pháp bảo vệ TNN và những nội dung khác.
Cũng như đất đai, TNN là một trong những tư liệu sản xuất thiết yếu
nhưng tổ chức, cá nhân được Nhà nước giao quyền sử dụng đất không chỉ được
khai thác, sử dụng đất mà còn được chuyển quyền sử dụng đất. Còn Luật TNN
quy định tổ chức, cá nhân chỉ được quyền khai thác, sử dụng TNN mà không
được chuyển nhượng giấy phép khai thác, sử dụng TNN. Điều này đã gây ra
những khó khăn cho tổ chức, cá nhân trong quá trình khai thác, sử dụng TNN.
1.2.2.2. Quản lý tài nguyên nƣớc theo lƣu vực sông kết hợp với quản
lý theo địa giới hành chính
Nguyên tắc này được thể hiện rõ tại khoản 1 Điều 5 Luật TNN. Lưu vực
sông là một đơn vị quản lý TNN, việc quản lý phải đảm bảo tính hệ thống,

×