Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Pháp luật về mua bán, sáp nhập công ty trách nhiệm hữu hạn và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (884.45 KB, 93 trang )



ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
KHOA LUậT







LƯƠNG THị THU HƯƠNG








PHáP LUậT Về MUA BáN, SáP NHậP CÔNG TY
TRáCH NHIệM HữU HạN Và THựC TIễN áP
DụNG TạI VIệT NAM




LUậN VĂN THạC Sĩ LUậT HọC






Hà Nội 2010




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT






LƢƠNG THỊ THU HƢƠNG







PHÁP LUẬT VỀ MUA BÁN, SÁP NHẬP CÔNG TY
TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN VÀ THỰC TIỄN ÁP
DỤNG TẠI VIỆT NAM



Chuyên ngành : LUẬT KINH TẾ

Mã số : 60 38 50


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN NHƢ PHÁT






Hà Nội – 2010





BẢNG KÊ CHỮ VIẾT TẮT


Công ty TNHH
Công ty trách nhiệm hữu hạn
M & A
Mua bán, sáp nhập doanh nghiệp

Nghị định
PwC

Công ty kiểm toán PricewaterhouseCoopers
TT
Thông tư





















MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………
1
Chƣơng 1


Những vấn đề chung về mua bán, sáp nhập công ty
trách nhiệm hữu hạn…………………………………

5
1.1
1.2

Lịch sử M&A………………………………………….
Tổng quan về mua bán, sáp nhập công ty trách nhiệm
hữu hạn………………………………………………
5

7
1.3.
Thực trạng và xu hướng mua bán, sáp nhập công ty
trách nhiệm hữu hạn ở Việt Nam……………………

32

Kết luận chương 1…………………………………….
45
Chƣơng 2
Pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động mua bán,
sáp nhập công ty trách nhiệm hữu hạn: Thực trạng
và hƣớng hoàn thiện

47
2.1
Thực trạng pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động
mua bán, sáp nhập công ty trách nhiệm hữu hạn


47
2.1.1
Mua bán, sáp nhập công ty TNHH theo quy định của
Luật Doanh nghiệp 2005……………………………

47
2.1.2
Mua bán, sáp nhập công ty TNHH theo quy định của
Luật Đầu tư 2005 và pháp luật liên quan……………

57
2.1.3
Mua bán, sáp nhập công ty TNHH theo quy định của
Luật Cạnh tranh 2004…………………………………

65
2.2
Hoàn thiện pháp luật điều chỉnh mua bán, sáp nhập
công ty TNHH ở Việt Nam…………………………

71
2.2.1
Sự cần thiết phải hoàn thiện quy định pháp luật điều
chỉnh mua bán, sáp nhập công ty TNHH ở Việt
Nam….

71
2.2.2
Một số kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật điều

chỉnh mua bán, sáp nhập công ty TNHH ở Việt Nam

77

Kết luận chương2 ……………………
83

KẾT LUẬN…………………………………………
84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………


1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. BỐI CẢNH NGHIÊN CỨU VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
LUẬN VĂN
Kinh tế Việt Nam sau một thời gian dài được điều chỉnh bởi các
quyết định hành chính đã có dấu hiệu “sống lại” vào những năm 1986 khi
Đảng và nhà nước ta quyết định thay đổi tư duy phát triển kinh tế. Theo đó,
mọi hoạt động kinh doanh, thương mại được tồn tại, hoạt động theo đúng
quy luật của nó – quy luật kinh tế thị trường.
Chính từ “cuộc cách mạng tư duy” này là cơ hội cho những hình
thức kinh doanh mới thâm nhập vào Việt Nam trong đó có hoạt động kinh
tế mua bán và sáp nhập doanh nghiệp ( M&A).
Trên thế giới, hoạt động M&A có lịch sử cách đây hơn trăm năm,
nó là một hình thức kinh doanh được các doanh nhân sử dụng nhằm làm
tăng giá trị doanh nghiệp, thâu tóm một công ty, mở rộng thị phần hay
sức ảnh hưởng của doanh nghiệp ở những phân khúc thị trường mới hoặc

chỉ đơn giản để giảm chi phí về tài chính và thời gian khi muốn sở hữu
một doanh nghiệp mới… còn tại VN như đã nói ở trên, đây là hoạt
động kinh doanh hoàn toàn mới mẻ đối với giới doanh nhân Việt. M&A
chỉ được biết đến khi Luật Doanh Nghiêp 1999 ra đời và thực sự trở nên
sôi động, thu hút giới kinh doanh khi VN ra nhập WTO và được quy
định trong Luật Cạnh tranh 2004, Luật Doanh Nghiệp 2005, Luật Đầu
Tư 2005 và Luật Chứng khoán 2006. Mặc dù vậy, hoạt động M&A trong
thời gian qua diễn ra tại Việt Nam còn mang tính tự phát, các quy định
của pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh này dù đã được thể hiện
trong một số văn bản pháp luật như đã nói ở trên nhưng vẫn chưa cụ thể
và rõ ràng gây nhiều khó khăn cho các bên khi tham gia tiến hành hoạt

2
động M&A . Đây là lý do tác giả lựa chọn đề tài “Pháp luật về mua bán,
sáp nhập công ty TNHH và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam” làm luận
văn tốt nghiệp thạc sĩ luật học của mình, với mong muốn khi tìm hiểu và
nghiên cứu nghiêm túc các hình thức và trình tự pháp lý được quy định
tại Luật Cạnh Tranh 2004, Luật Doanh Nghiệp 2005, Luật Đầu Tư 2005
đối với hoạt động M&A của công ty TNHH để từ đó rút ra được những
ưu và nhược điểm của các quy định pháp luật hiện hành, góp phần hoàn
thiện hành lang pháp lý về hoạt động M&A tại Việt Nam.

2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Mua bán và sáp nhập Công ty TNHH không chỉ là một lĩnh vực kinh
doanh hoàn toàn mới đối với giới doanh nhân Việt mà ngay cả đối với các
nhà nghiên cứu khoa học pháp lý đây cũng là vấn đề thu hút được nhiều sự
quan tâm bởi tính hiệu quả của nó trong việc thúc đẩy phát triển kinh kế -
xã hội. Tuy nhiên, thời gian qua, chưa có một công trình nghiên cứu nào
viết về đề tài này mà mới chỉ dừng lại ở việc chỉ ra mua bán, sáp nhập công
ty là gì và nhấn mạnh về khía cạnh kinh tế hay quản trị kinh doanh như

chiến lược mua bán, các kỹ năng chuẩn bị, đàm phán và ký kết hợp đồng
mua công ty, các cách định giá công ty Ngoài ra cũng đã có một số luận
văn viết về mua bán, sáp nhập ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty cổ
phần chứ chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập tới hoạt động mua
bán, sáp nhập công ty TNHH dưới khía cạnh pháp lý. Mặc dù việc nghiên
cứu sự điều chỉnh của pháp luật đối với hoạt động mua bán và sáp nhập
doanh nghiệp nói chung và công ty TNHH nói riêng đang là nhu cầu cấp
thiết trong hoạt động thực tiễn cũng như nghiên cứu luật học hiện nay. Việc
tác giả lựa chọn đề tài “Pháp Luật về Mua bán và sáp nhập Công Ty
TNHH và thực tiễn áp dụng tại Việt Nam” mang một ý nghĩa thiết thực,

3
trên cơ sở nghiên cứu đề tài tìm ra những vấn đề pháp lý cần bổ sung,
cần hoàn thiện từ đó đưa ra những kiến nghị để xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật về M&A doanh nghiệp nói chung và công ty TNHH
nói riêng, tạo điều kiện hướng các hoạt động M&A doanh nghiệp hoat
động trong một hành lang pháp lý đầy đủ và cụ thể hơn.

3. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Luận văn đề ra những mục đích nghiên cứu cụ thể như sau:
- Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động M&A
công ty TNHH từ đó có cái nhìn tổng quan về thực trạng và xu hướng
M&A công ty TNHH tại Việt Nam, trong đó đưa ra được khái niệm cơ bản
về mua bán, sáp nhập công ty TNHH, cũng như việc phân loại giữa hai
hình thức kinh doanh này với nhau.
- Thứ hai, Nghiên cứu hoạt động M&A doanh nghiệp nói chung và
Công ty TNHH nói riêng dưới sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp năm
2005, Luật Đầu tư năm 2005 và Luật canh tranh 2004, phân tích và làm rõ
quy định của từng lĩnh vực pháp luật này đối với hoạt động M&A Công ty
TNHH.

- Thứ ba, từ những kết quả rút ra được khi nghiên cứu và phân tích
thực trạng về sự điều chỉnh của các lĩnh vực pháp luật hiện hành đối với
hoạt động M&A doanh nghiệp nói chung và Công ty TNHH nói riêng tác
giả đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm góp phần hoàn thiện hệ thống pháp
luật quan trọng này.

4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để tiến hành nghiên cứu đề tài này, Luận văn đã áp dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:

4
Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: Nghiên cứu, phân tích, tiếp
thu có chọn lọc các nghiên cứu khoa học có giá trị của các nhà nghiên
cứu đi trước.
Phƣơng pháp so sánh: Nghiên cứu, phân tích, so sánh có đánh
giá, tổng kết pháp luật của các nước có nét văn hóa, quản trị nhà nước
gần gũi với Việt Nam.
Phƣơng pháp khảo sát thực tiễn – xã hội học kiểm chứng: Tìm
hiểu, phân tích đánh giá thực trạng pháp luật và thực phát triển của thị
trường M&A trên cở sở phân tích nhu cầu, nguyện vọng của các chủ thể
tham gia thị trường, các điều kiện kinh tế, xã hội của thị trường và phân
tích một số vụ việc cụ thể để đưa ra kết luận, đánh giá.

5. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Trong khuôn khổ của một luận văn tốt nghiệp bậc sau đại học, luận
văn này chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề pháp lý liên quan đến mua
bán và sáp nhập các công ty TNHH, nhất là các quy định của Luật Doanh
nghiệp 2005, Luật Đầu tư 2005 và Luật Cạnh tranh 2004.

6. CƠ CẤU CỦA LUẬN VĂN

Luận văn gồm ngoài phân mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu
tham khảo là 2 chương nội dung như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về mua bán, sáp nhập công ty
trách nhiệm hữu hạn
Chương 2: Pháp luật Việt Nam điều chỉnh hoạt động mua bán, sáp
nhập công ty trách nhiệm hữu hạn: Thực trạng và hướng
hoàn thiện


5
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ MUA BÁN, SÁP NHẬP
CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN
1.1. LỊCH SỬ M&A
Tính từ đầu thế kỷ XX, thế giới đã chứng kiến sáu làn sóng sáp nhập
và mua lại.
Làn sóng đầu tiên: xuất phát điểm từ năm 1897 – 1904, xuất hiện
sau cuộc đại suy thoái ở Hoa Kỳ năm 1893 vừa chấm dứt. Thời điểm xuất
hiện nhiều thương vụ M&A nhất đó là vào những năm 1898 tới năm 1902
và kết quả đã tạo ra sự độc quyền trong các ngành xe lửa, dầu lửa, hóa
học…
Tuy nhiên vào cuối giai đoạn này có một lượng lớn các vụ sáp nhập
không thành công, không gia tăng được hiệu quả khi sáp nhập đồng thời do
nền kinh tế bị suy thoái (1903) và thị trường chứng khoán sụp đổ (năm 1904),
cùng vào thời điểm này Hoa Kỳ đưa ra luật Sherman sử dụng để chống lại
các công ty sáp nhập với mục đích độc quyền đã đặt dấu chấm hết cho gian
đoạn này.
Làn sóng thứ hai: Xuất hiện vào những năm 1916 tới cuộc đại suy
thoái 1929. Ở giai đoạn này các cuộc sáp nhập và mua lại diễn ra chủ yếu ở
các lĩnh vực thực phẩm, mỏ, ngân hàng và ô tô và còn được mang tên là

giai đoạn sáp nhập với mục đích độc quyền nhóm bán.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nền kinh tế Hoa Kỳ bắt đầu
phục hồi và phát triển mạnh mẽ, khoa học kỹ thuật và đặc biệt nền kinh tế
phát triển mạnh nhờ vào hiệu quả quảng cáo của hệ thống radio.
Làn sóng thứ hai kết thúc khi thị trường chứng khoán sụp đổ năm 1929.
Làn sóng thứ ba: Xảy ra từ năm 1965 tới 1969 còn được gọi dưới
cái tên “làn sóng sáp nhập kết hợp, lý do cho các cuộc “kết hợp” này là các

6
quy định chống độc quyền được phát triển hơn khiến các công ty muốn
phát triển theo con đường M&A phải tìm cách hợp tác với các công ty
không cùng hoạt động trong cùng lĩnh vực kinh doanh với mình.
Làn sóng thứ tƣ: Xuất hiện từ năm 1981 tới năm 1989. Đặc điểm
của các giao dịch trong giai đoạn này đó chính là sự kết hợp không thân
thiện của các bên tham gia và nới lỏng Luật chống độc quyền đặc biệt là ở
Hoa Kỳ dưới thời của Tổng thống Ronal Reagan.
Làn sóng thứ năm: Xuất hiện vào năm 1994 đến năm 2000, là sự
xuất hiện của các ngành công nghiệp và toàn cầu hóa. Trong giai đoạn này
các công ty nhấn mạnh vào lợi ích lâu dài hơn là lợi nhuận trước mắt, họ
không còn sử dụng nợ quá nhiều để mua lại công ty, và quan tâm nhiều hơn
vào vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên các thương vụ M&A trong giai đoạn này
không mang lại giá trị tăng thêm như các bên tham gia mong đợi. Năm
2000, sau cuộc khủng hoảng tài chính khu vực Đông Nam Á và suy thoái
của thị trường chứng khoán đã chấm dứt giai đoạn này.
Làn sóng thứ sáu: Xuất hiện bắt đầu từ năm 2003 cho đế thời gian
hiện tại, quy mô mang tính toàn cầu và các bên tham gia quan tâm nhiều
hơn đến các vấn đề hòa nhập hậu sáp nhập, bên cạnh đó hoạt động M&A
trong giai đoạn này có sự xuất hiện nhiều hơn của các nhà đầu tư tài chính
và các thương vụ đạt tỷ lệ thành công cao hơn so với các giai đoạn trước
đó[12].

Như vậy, với lịch sử ra đời cách đây hơn một trăm năm, hình thức
kinh doanh M&A đã trải qua nhiều thăng trầm của thời gian và ở mỗi một
thời điểm nó lại có những đặc điểm riêng biệt.
Tại Việt Nam, M&A chỉ xuất hiện khi nhà nước quyết định thay đổi
cách thức phát triển kinh tế, từ một nền kinh tế được quản lý và điều hành
bởi các mệnh lệnh và quyết định hành chính dần chuyển sang nền kinh tế

7
thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoạt động M&A được thể chế
hóa đầu tiên tại Luật Doanh Nghiệp 1999 và cũng bắt đầu từ giai đoạn này
giới kinh doanh mới dần biết đến khái niệm M&A cũng như góp vốn,
chuyển nhượng phần vốn góp, chia tách, giải thể doanh nghiệp…Xuất hiện
với tư cách là một hình thức kinh doanh mới nhưng hoạt động M&A diễn
ra tại Việt Nam trong thời gian qua đã cho thấy tiềm năng phát triển kinh tế
thông qua hình thức này là rất lớn nhất là khi Việt Nam đã gia nhập WTO
để hòa nhập chung với nền kinh tế thế giới.

1.2. TỔNG QUAN VỀ MUA BÁN, SÁP NHẬP CÔNG TY TRÁCH
NHIỆM HỮU HẠN
Mua bán và sáp nhập các loại hình doanh nghiệp, trong đó có loại
hình công ty TNHH, là những giao dịch phổ biến trên thế giới, đã xuất hiện
và đang trở nên phổ biến ở nước ta. Hoạt động mua bán, sáp nhập doanh
nghiệp có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với các doanh nghiệp tham gia
trực tiếp vào giao dịch mà còn đối với nhiều đối tượng khác như người lao
động, người quản lý của doanh nghiệp, các đối thủ cạnh tranh, cộng đồng
và nền kinh tế. Cũng như được áp dụng với công ty cổ phần và các loại
doanh nghiệp khác, các hoạt động mua bán, sáp nhập công ty trách nhiệm
hữu hạn (công ty TNHH) có thể diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau:

a) Mua bán công ty trách nhiệm hữu hạn

Trong các khía cạnh có liên quan đến giao dịch mua bán và sáp nhập
doanh nghiệp, dưới đây viết tắt theo tiếng Anh là M&A (Mergers and
Acquisitions), về mặt pháp lý cần xem xét xem mua bán, sáp nhập doanh
nghiệp có thể được tiến hành dưới những hình thức pháp lý nào. Hình thức
pháp lý ở đây được hiểu là các trình tự, điều kiện do pháp luật quy định mà

8
các bên tham gia giao dịch phải tuân thủ để mua bán hoặc sáp nhập một
doanh nghiệp. Hình thức pháp lý của giao dịch M&A sẽ quyết định các
công việc cụ thể mà các bên mua bán cần thực hiện cũng như quyết định
các bên phải chuẩn bị những hoạt động gì, vào những thời điểm nào để tiến
hành một giao dịch mua bán, sáp nhập công ty.
Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, có các hình thức thực hiện giao
dịch M&A như sau:
- Góp vốn trực tiếp vào doanh nghiệp thông qua việc góp vốn
để tăng vốn điều lệ công ty TNHH hoặc mua cổ phần phát
hành để tăng vốn điều lệ của công ty cổ phần.
- Mua lại phần vốn góp hoặc cổ phần đã phát hành của thành
viên hoặc cổ đông của công ty. Không giống như hình thức
góp vốn trực tiếp vào doanh nghiệp, đây là hình thức đầu tư
không làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp nhưng có thể
làm thay đổi cơ cấu sở hữu vốn góp/cổ phần của doanh
nghiệp.
- Mua, bán doanh nghiệp doanh nghiệp tư nhân (theo quy định
của Luật Doanh nghiệp) và một số doanh nghiệp nhà nước,
bộ phận doanh nghiệp nhà nước (theo quy định của pháp luật
về giao, bán, khoán kinh doanh, cho thuê công ty nhà nước).
- Sáp nhập doanh nghiệp là hình thức kết hợp một hoặc một số
công ty cùng loại (công ty bị sáp nhập) vào một công ty khác
(công ty nhận sáp nhập) trên cơ sở chuyển toàn bộ tài sản,

quyền và nghĩa vụ của công ty bị sáp nhập vào công ty nhận
sáp nhập. Công ty bị sáp nhập chấm dứt tồn tại, công ty nhận
sáp nhập vẫn tồn tại và kế thừa toàn bộ tài sản, quyền và
nghĩa vụ của công ty bị sáp nhập.

9
- Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều công ty cùng
loại (công ty bị hợp nhất) kết hợp thành một công ty mới
(công ty hợp nhất). Các công ty bị hợp nhất chấm dứt tồn tại
và hình thành mới một công ty trên cơ sở kế thừa toàn bộ tài
sản, quyền và nghĩa vụ của các công ty bị hợp nhất.
Trong số các hình thức M&A nêu trên, trên thực tế hình thức cho góp
vốn vào công ty và bán phần vốn góp, cổ phần của công ty sẽ là những hoạt
động chính và thường xuyên, phổ biến nhất. Mỗi một hình thức M&A đều
có những quy định riêng của pháp luật điều chỉnh, trước khi thực hiện bất
cứ một hoạt động M&A nào, bên bán cần tìm hiểu kỹ các quy định của
pháp luật để xác định mục đích chiến lược của mình khi bán có đạt được
hay không và cần phải thực hiện việc bán như thế nào để pháp luật bảo vệ
tốt nhất quyền và lợi ích của mình.
Trong trường hợp bán toàn bộ doanh nghiệp tư nhân, bán quyền kiểm
soát đa số trong công ty TNHH hoặc doanh nghiệp nhà nước, bộ phận của
doanh nghiệp nhà nước, thông thường doanh nghiệp mục tiêu sẽ bị “thôn
tính” và đôi khi được sáp nhập vào công ty đi mua lại. Nếu chỉ bán một
phần công ty của mình cho một đối tác chiến lược, bên bán vừa có thêm
nguồn vốn kinh doanh, vừa tiếp thu thêm được những công nghệ và kỹ
năng chuyên môn của đối tác. Bên bán hoàn toàn có thể bảo vệ được lợi ích
của mình trong doanh nghiệp và mối lo “bị thôn tính” sẽ không phải là sự
bận tâm chính.
Bán cổ phiếu phát hành thêm cho đối tác chiến lược là một cách huy
động thêm vốn, nhưng nó có những ảnh hưởng nhất định mà bên bán cần

nắm rõ trước khi thực hiện ví dụ như sau khi phát hành thêm cổ phiếu, bên
bán sẽ phải chia sẻ quyền kiểm soát doanh nghiệp, cơ cấu tài chính của
doanh nghiệp sẽ thay đổi. Bên bán cần đảm bảo rằng việc bán phần vốn

10
góp, cổ phần được các bên liên quan chấp thuận và hợp pháp. Các bên liên
quan bao gồm các thành viên khác trong công ty TNHH, các cổ đông sáng
lập hoặc cổ đông lớn trong công ty cổ phần tùy theo quy định trong điều lệ
công ty hoặc thỏa thuận góp vốn. Ngoài ra, Luật Doanh nghiệp, Luật
Chứng khoán và một số văn bản pháp luật liên quan khác cũng có những
điều khoản quy định về thời hạn nắm giữ tối thiểu đối với các cổ đông sáng
lập, các giới hạn sở hữu đối với cổ đông nước ngoài.
Theo Patrick A.Gaughan, mua một doanh nghiệp, trong đó có loại
hình công ty TNHH, được hiểu là việc một công ty tiến hành mua lại một
phần đa số hoặc toàn bộ phần vốn góp nhằm kiểm soát một công ty TNHH
khác, được gọi là công ty mục tiêu [20] . Mục đích của vụ mua bán này
nhằm thâu tóm thị trường, mạng lưới phân phối hoặc tận dụng mạng lưới
phân phối của công ty mục tiêu để đưa ra thị trường những sản phẩm, dịch
vụ mới. Như vậy mua một công ty TNHH có những điểm giống và khác
việc chuyển nhượng phần vốn góp trong các công ty TNHH. Cũng là
chuyển nhượng phần vốn góp, song trong một vụ mua bán công ty TNHH
luôn có yếu tố giành đa số quyền kiểm soát công ty mục tiêu. Các công ty
mục tiêu có thể đang hoạt động kinh doanh có hiệu quả, có thị phần ổn
định, song cũng có thể là các công ty gặp khó khăn tài chính, đang trong
tình trạng chuẩn bị giải thể hoặc phá sản. Có thể diễn tả việc mua một công
ty TNHH như sau:


Công ty thôn
tính

=============
Công ty mục
tiêu



11
Khi mua một công ty TNHH, công ty thôn tính vẫn tồn tại trên thị
trường, song công ty bị thôn tính (công ty mục tiêu) có thể biến mất hoặc
được duy trì tùy theo mục tiêu và ý muốn của hai bên tham gia vào cuộc
mua lại. Giao dịch mua công ty TNHH có thể diễn ra với sự đồng thuận của
hai bên lãnh đạo hai công ty hoặc vụ mua bán cũng có thể mang tính chất
thôn tính (hostile acquisition) diễn ra mà không có sự đồng ý và hợp tác của
các người quản lý của công ty mục tiêu. Khi ấy, bằng việc từng bước thâu
tóm dần phần vốn góp và các quyền bỏ phiếu tương ứng, công ty thôn tính
có thể loại trừ quyền lãnh đạo của công ty mục tiêu. Về lý thuyết người
mua phần vốn góp có thể là nhiều loại chủ thể khác nhau, song trong thực
tiễn mua bán và sáp nhập công ty, bên mua thường là một công ty có nhu
cầu thôn tính hoặc sáp nhập một công ty khác trong chiến lược kinh doanh
của mình [20].
Xét về hình thức thực hiện giao dịch, việc mua công ty TNHH
cũng có thể diễn ra dưới nhiều hình thức, ví dụ một công ty mua phần vốn
góp của công ty mục tiêu. Việc mua bán này sẽ làm thay đổi cơ cấu vốn
chủ sỡ hữu của công ty mục tiêu rồi lần lượt sự chuyển nhượng đó làm thay
đổi cơ cấu ban lãnh đạo của công ty mục tiêu. Tuy nhiên, công ty mục tiêu
vẫn có thể giữ nguyên tư cách pháp nhân, duy trì các hoạt động kinh doanh,
hình thức kinh doanh, phải tiếp tục gánh chịu tất cả các khoản nợ trước và
sau vụ mua bán công ty TNHH. Ngoài ra, mua bán công ty cũng có thể
diễn ra theo cách một phần hoặc toàn bộ tài sản của công ty mục tiêu sẽ
được bán cho công ty thôn tính. Trong hình thức này, số tiền mà công ty

mục tiêu nhận được từ vụ mua lại sẽ được chia cho các thành viên dưới
hình thức tiền được trả lại hoặc dưới hình thức thanh toán những khoản nợ
của công ty mục tiêu đang gánh chịu. Sau khi bị thôn tính, công ty mục tiêu
có thể chấm dứt hoạt động của mình, trong trường hợp này người mua quan

12
tâm nhiều hơn đến tài sản mua được, mà không muốn quan tâm tới tư cách
pháp nhân hoặc trách nhiệm pháp lý trong tương lai của công ty mục tiêu.

b) Sáp nhập công ty TNHH
Sáp nhập công ty TNHH là sự kết hợp của hai công ty để trở thành
một công ty TNHH mới so với hai công ty đang tồn tại độc lập. Hoạt động
này đặc biệt hữu ích khi các công ty rơi vào những thời kỳ khó khăn do
cạnh tranh, tác động thị trường hay bất kỳ yếu tố nào khác cần tới những
biện pháp quản trị rủi ro mới. Sáp nhập công ty thường là hành vi mang
tính chất tự nguyện, diễn ra với chấp thuận của hội đồng thành viên của cả
hai công ty có liên quan. Kết quả của việc sáp nhập là cho ra đời một công
ty, khác biệt với hai công ty trước khi hợp nhất. Công ty mới này có thể sử
dụng một tên hoàn toàn khác so với các công ty được sáp nhập trước đó
hoặc sử dụng một tên mới kết hợp tên của các công ty được sáp nhập. Tuy
nhiên trên thực tế, người ta thường tìm cách khai thác thương hiệu của các
công ty bị sáp nhập.
Sáp nhập công ty TNHH được quy định tại Điều 153 của Luật Doanh
nghiệp năm 2005. Theo đó một giao dịch sáp nhập công ty TNHH được
quy định như sau:
1: Một hoặc một số công ty cùng loại (sau đây gọi là công ty bị sáp
nhập) có thể sáp nhập vào một công ty khác (sau đây gọi là công ty nhận
sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp
pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty
bị sáp nhập.

2: Thủ tục sáp nhập được quy định như sau:
a) Các công ty liên quan chuẩn bị hợp đồng sáp nhập và dự thảo
Điều lệ công ty nhận sáp nhập. Hợp đồng sáp nhập phải có các nội dung

13
chủ yếu về tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty nhận sáp nhập; tên, địa chỉ
trụ sở chính của công ty bị sáp nhập; thủ tục và điều kiện sáp nhập; phương
án sử dụng lao động; thủ tục, thời hạn và điều kiện chuyển đổi tài sản,
chuyển đổi phần vốn góp, cổ phần, trái phiếu của công ty nhận sáp nhập;
thời hạn thực hiện sáp nhập;
b) Các thành viên, chủ sở hữu công ty hoặc cổ đông của các công ty
liên quan thông qua hợp đồng sáp nhập, Điều lệ công ty nhận sáp nhập và
tiến hành đăng ký kinh doanh công ty nhận sáp nhập theo quy định của
Luật này. Trong trường hợp này, hồ sơ đăng ký kinh doanh phải kèm theo
hợp đồng sáp nhập. Hợp đồng sáp nhập phải được gửi đến tất cả các chủ nợ
và thông báo cho người lao động biết trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ
ngày thông qua;
c) Sau khi đăng ký kinh doanh, công ty bị sáp nhập chấm dứt sự tồn
tại; công ty nhận sáp nhập được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu
trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và nghĩa
vụ tài sản khác của công ty bị sáp nhập.
3. Trường hợp sáp nhập mà theo đó công ty nhận sáp nhập có thị
phần từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì đại diện hợp pháp của
công ty thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành sáp
nhập, trừ trường hợp pháp luật về cạnh tranh có quy định khác.
Cấm các trường hợp sáp nhập các công ty mà theo đó công ty nhận
sáp nhập có thị phần trên 50% trên thị trường có liên quan, trừ trường hợp
pháp luật về cạnh tranh có quy định khác.

c) Động cơ của các bên liên quan trong mua bán, sáp nhập công ty

TNHH

14
Có rất nhiều động cơ chiến lược khác nhau đã dẫn tới mua bán và
sáp nhập các công ty TNHH, trong khoa học quản trị kinh doanh các nhà
nghiên cứu cho rằng các động cơ dẫn đến M&A thường gặp nhất là:
- M&A nhằm tận dụng cạnh tranh hoặc để đạt tới độc quyền;
- M&A để tận dụng sức mạnh thị trường chưa được tận dụng
hết;
- M&A để tận dụng cơ hội tăng trưởng hoặc đối phó với lợi
nhuận đang bị thu hẹp trong một ngành công nghiệp do nhu
cầu giảm hoặc cạnh tranh quá mức;
- M&A để đa dạng hoá nhằm giảm rủi ro trong kinh doanh;
- M&A để đạt được quy mô đủ lớn nhằm tận dụng yếu tố kinh
tế nhờ quy mô trong sản xuất hoặc phân phối;
- M&A để vượt qua được những mặt hạn chế trong một công ty
bằng cách mua lại những nguồn lực bổ sung cần thiết, các sáng
chế hoặc các nhân tố sản xuất khác;
- M&A nhằm đạt được quy mô đủ lớn để tiếp cận có hiệu quả
tới thị trường vốn hoặc việc quảng cáo với giá phải chăng;
- M&A để sử dụng một cách toàn diện hơn nữa những nguồn
lực hoặc nhân lực cụ thể do một công ty kiểm soát, đặc biệt là
năng lực quản lý;
- M&A như một phương thức nhằm sa thải đội ngũ quản lý hiện
tại;
- M&A để sử dụng các lợi ích của chính sách thuế mà nếu không
có sáp nhập sẽ không có được;
- M&A để mua lại những tài sản với giá thấp hơn giá thị trường
mà nếu không khó có thể mua lại bằng những cách khác;


15
- M&A để tăng trưởng mà không phải trải qua thời kỳ chờ đợi
[19]
Tóm lại, với một thế giới ngày càng phẳng hơn, trước sức ép tồn tại
các doanh nghiệp buộc phải phát triển trong đó phương thức phát triển tốt
nhất là tiến hành M&A. Đây có lẽ là lựa chọn tối ưu nhất, thông qua hoạt
động kinh tế này các doanh nghiệp sẽ chủ động loại đối thủ của mình khỏi
“cuộc chơi” bên cạnh đó tư duy phát triển kinh tế hiện đại “hợp lực” cùng
nhau phát triển ngày càng phổ biến khi đó các công ty lựa chọn cách thức
hợp nhất lại với nhau để nâng cao giá trị sản phẩm hay dịch vụ từ đó phục
vụ khách hàng tốt hơn, giảm được chi phí và nâng cao lợi nhuận.
Ngoài ra, nâng cao hiệu quả kinh tế cũng là lý do khiến các bên tích
cực lựa chọn phương án M&A như một chiến lược phát triển của mình do
tận dụng được thị phần khi hợp lực cùng nhau, tận dụng được phần tài sản
cố định như nhà xưởng, nguồn nhân lực, hệ thống khách hàng, ví dụ một
công ty in có thể sáp nhập với một nhà xuất bản qua đó các bên có thể hỗ
trợ cho nhau rất nhiều về nguồn lực mà nếu một công ty khi tồn tại độc lâp
không tận dụng hết.
Tham vọng bành trướng và trở thành người đứng đầu trong lĩnh vực
kinh doanh luôn là mục tiêu phấn đấu của mỗi một doanh nghiệp vì vậy,
khi cơ hội đến các doanh nghiệp này sẵn sàng tiến hành tham gia một
thương vụ M&A vì khi một thương vụ này thành công họ sẽ giảm được
nhiều chi phí gồm thời gian và tiền bạc trong việc gia nhập thị trường, điều
này đặc biệt hiệu quả khi các bên tham gia hoạt động trong các lĩnh vực
kinh doanh có điều kiện, phải chịu sự quản lý chặt chẽ từ phía các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền, kinh doanh dược phẩm hoặc viễn thông là một ví
dụ.

16
Một động cơ khác khiến các bên quyết định tiến hành tham gia một

thương vụ M&A đó là tránh được các rào cản về mặt thủ tục khi tham gia
đăng ký thành lập công ty ví dụ như giấy phép, vốn pháp định Như vậy,
tùy theo từng trường hợp cụ thể, các mục đích mua bán và sáp nhập công ty
TNHH có thể rất khác nhau, trải rộng từ những mục đích ngắn hạn mang
tính chất đầu tư, mua bán tài sản, cho tới các chiến lược kinh doanh và đạt
tới kiểm soát thị trường tiêu thụ hoặc duy trì độc quyền.

d) Phân loại sáp nhập công ty trách nhiệm hữu hạn
Như đã trình bày ở trên, việc mua bán, sáp nhập doanh nghiệp nói
chung và mua bán, sáp nhập công ty TNHH nói riêng có thể diễn ra dưới
nhiều hình thức hết sức đa dạng. Từ thực tiễn M&A ở các nước phát triển,
người ta đã nghiên cứu và phân loại các vụ mua bán, sáp nhập doanh
nghiệp thành nhiều loại tùy theo tiêu chí phân loại.
Nếu phân loại theo tiêu chí ngành kinh doanh, người ta có:
- Sáp nhập chiều ngang (horizontal acquisition) còn được
gọi là sáp nhập cùng ngành, là hình thức sáp nhập giữa
các công ty cùng cạnh tranh trực tiếp và chia sẻ cùng
dòng sản phẩm và thị trường.
- Sáp nhập theo chiều dọc (vertical mergers): Đây là hình
thức sáp nhập giữa các công ty khách hàng hoặc công ty
là nhà cung cấp lại với nhau.
- Sáp nhập kiểu tập đoàn (conglomerate mergers): Xảy ra
khi hai hay nhiều công ty không có cùng lĩnh vực kinh
doanh nhưng muốn đa dạng hóa hoạt động kinh doanh
của mình – mở rộng kinh doanh sang những lĩnh vực
khác không liên quan – tiến hành sáp nhập lại với nhau.

17
Nếu phân loại theo mục đích mở rộng thị trường và loại sản
phẩm của thương vụ sáp nhập, người ta có:

- Sáp nhập để mở rộng thị trường: đây là hình thức sáp
nhập giữa hai hoặc nhiều công ty kinh doanh trong cùng
một loại sản phẩm nhưng hoạt động ở những thị trường
khác nhau. Sự sáp nhập này sẽ giúp cho công ty sáp nhập
là công ty kinh doanh hàng hóa này ở đồng thời trong
nhiều thị trường.
- Sáp nhập để mở rộng sản phẩm: diễn ra đối với các công
ty bán những sản phẩm khác nhau nhưng có liên quan với
nhau trong cùng một thị trường. Kết quả của vụ sáp nhập
này sẽ giúp cho công ty sáp nhập vẫn tiếp tục hoạt động
trong thị trường cũ nhưng lại kinh doanh đồng thời nhiều
loại hàng hóa có liên quan với nhau.
Nếu phân loại theo tiêu chí cơ cấu tài chính, có hai hình thức sáp nhập
là:
- Sáp nhập qua hình thức mua lại: Loại hình này xảy ra khi
một công ty mua lại một công ty khác.
- Sáp nhập hợp nhất: Cả hai công ty được hợp nhất dưới
một pháp nhân mới và một thương hiệu mới được hình
thành.
Ngoài ra có thể còn nhiều tiêu chí phân loại khác, ví dụ căn cứ vào
quốc tịch của nhà đầu tư có thể có mua bán, sáp nhập công ty trong nước
và những vụ mua bán, sáp nhập có yếu tố nước ngoài. Nếu công ty mục
tiêu là một công ty TNHH thuộc sở hữu của Nhà nước, các vụ mua bán, sáp
nhập có thể còn liên quan đến chính sách mua bán, sáp nhập, tổ chức lại
khu vực kinh tế quốc doanh.

18

đ) Phân biệt mua bán và sáp nhập công ty TNHH
Mặc dù trong các khoa học kinh tế hoặc quản trị kinh doanh, M&A

hay “mua bán, sáp nhập” thường được đề cập cùng với nhau thành một
thuật ngữ "mua lại, sáp nhập”, song trên thực tế hai khái niệm này có nhiều
điểm khác nhau, ít nhất dưới khía cạnh pháp lý. M&A trong tiếng Anh, khi
được dịch ra tiếng Việt là mua bán, sáp nhập công ty, đôi khi được dùng
trong kinh tế và quản trị kinh doanh như một thực tế, song dưới khía cạnh
pháp lý đây là những giao dịch khác xa nhau.
Khi một công ty TNHH được mua lại, xét về mặt pháp lý, công ty
mục tiêu đã bị công ty thôn tính kiểm soát các quyền biểu quyết trong hội
đồng thành viên, cho dù hình thức pháp lý của công ty mục tiêu có thể
không thay đổi.
Khi cả hai công ty cùng đồng thuận gộp lại thành một công ty mới
thay vì hoạt động đơn lẻ thì gọi là một vụ sáp nhập. Một công ty mới với
những phần vốn góp mới sẽ ra đời. Công ty sáp nhập có thể tiếp tục được
duy trì là công ty TNHH song cũng có thể được chuyển đổi thành công ty
cổ phần. Trong một vụ sáp nhập, một công ty mới sẽ được hình thành thay
cho cả hai công ty đơn lẻ, ngược lại, trong một vụ mua công ty TNHH thì
công ty mục tiêu có thể trở thành một công ty con hoàn toàn bị kiểm soát
bởi công ty thôn tính.

e) Các nội dung pháp lý liên quan đến mua bán, sáp nhập công ty TNHH
Trong các tài liệu tham khảo, người ta thường quan tâm tới mua bán, sáp
nhập công ty từ các khía cạnh tài chính doanh nghiệp, quản trị kinh doanh hoặc
chính sách cạnh tranh. Khi đó như đã trình bày ở trên , các hoạt động đa dạng
mua bán cổ phần hay phần vốn góp thường được sử dụng chung dưới một thuật

19
ngữ duy nhất là M&A. Ngược lại, dưới khía cạnh pháp lý, ngoài việc phân biệt
mua bán và sáp nhập như trình bày ở trên, có nhiều vấn đề pháp lý có thể xuất
hiện trong quá trình mua bán và sáp nhập các công ty TNHH:


- Pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán, sáp nhập doanh
nghiệp, đặc biệt là các lĩnh vực giới hạn tỷ lệ góp vốn đối với
các doanh nghiệp kinh doanh trong các ngành nghề kinh doanh
có điều kiện;
- Quy trình thủ tục một vụ mua bán, sáp nhập doanh nghiệp từ
góc độ quản trị nội bộ doanh nghiệp;
- Các thủ tục đăng ký lại doanh nghiệp theo pháp luật doanh
nghiệp;
- Các quy định pháp lý liên quan đến trách nhiệm của doanh
nghiệp thôn tính, doanh nghiệp mục tiêu và công ty mới sau sáp
nhập;
- Sự kiểm soát của nhà nước từ góc độ pháp luật cạnh tranh liên
quan đến các giao dịch mua bán, sáp nhập doanh nghiệp;
- Các khía cạnh pháp lý khác có liên quan, ví dụ pháp luật thuế.
Ngoài ra, vì mua bán hay sáp nhập công ty TNHH cũng đều là những
giao dịch liên quan đến chuyển nhượng phần vốn góp trong các công ty
TNHH, những giao dịch này cũng được điều chỉnh bởi các nguyên tắc của
pháp luật hợp đồng.
Trong khuôn khổ có hạn của một luận văn tốt nghiệp cao học luật,
luận văn này chưa có điều kiện nghiên cứu tất cả các vấn đề pháp lý có liên
quan đến mua bán, sáp nhập công ty TNHH mà trước hết tập trung vào ba
lĩnh vực pháp luật có liên quan:

20
- Thứ nhất, quy trình chuyển nhượng phần vốn góp trong các
công ty TNHH, thủ tục đăng ký lại và chuyển đổi hình thức
công ty được quy định tại Luật Doanh nghiệp 2005 và các
văn bản pháp lí khác hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp
2005. Trường hợp các công ty nhà nước quy mô nhỏ được
chuyển đổi mô hình và tiến hành được bán cho các nhà đầu

tư tuân theo các quy định riêng về giao, bán và khoán kinh
doanh đối với doanh nghiệp nhà nước.
- Thứ hai, việc mua bán, sáp nhập công ty TNHH ở Việt Nam,
nhất là đối với các nhà đầu tư nước ngoài, được quy định
một phần bởi Luật Đầu tư 2005 và các văn bản hướng dẫn
thi hành. Nội dung các quy định của pháp luật đầu tư liên
quan đến những ngành nghề, lĩnh vực mở của cho đầu tư
nước ngoài, các hạn chế đầu tư vào những ngành nghề, lĩnh
vực mà Việt Nam vẫn còn duy trì những điều kiện kinh
doanh hoặc hạn chế về mức vốn đầu tư của nhà đầu tư nước
ngoài trong các công ty TNHH liên doanh giữa nhà đầu tư
trong nước và nước ngoài.
- Thứ ba, việc mua bán, sáp nhập doanh nghiệp, nhất là những
công ty có thị phần lớn, ảnh hưởng đến môi trường cạnh
tranh được điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật cạnh
tranh. Các quy định xác định thị phần, kiểm soát nội dung vụ
sáp nhập, tiến hành điều tra, đăng ký cho phép hoặc không
cho phép vụ sáp nhập, thôn tính có ảnh hưởng đến môi
trường cạnh tranh ở Việt Nam thuộc phạm vi điều chỉnh của
Luật cạnh tranh 2004.


21
F) Những vấn đề pháp lý trong giai đoạn tìm kiếm đối tác

Hoàn tất một giao dịch M&A doanh nghiệp nói chung và mua bán,
sáp nhập công ty TNHH nói riêng có thể là một lộ trình dài và trong lộ
trình đó, các bên có thể có một số thoả thuận sơ bộ (thoả thuận trước hợp
đồng) liên quan đến phương thức hành xử của các bên trong thời gian thẩm
định, đàm phán, ký kết hợp đồng M&A. Các thoả thuận trước hợp đồng

phổ biến nhất là thoả thuận bảo mật và thoả thuận nguyên tắc.
Trong giai đoạn tìm kiếm đối tác, bên bán có thể phải tiết lộ ngày
càng nhiều thông tin mật mà không có sự đảm bảo chắc chắn liệu giao dịch
M&A có được thực hiện hay không. Bởi vậy, ngay khi bắt đầu tiếp xúc với
bên mua, bên bán có thể đề xuất ký Thoả thuận bảo mật (Thoả thuận không
tiết lộ). Thoả thuận bảo mật liên quan đến cả bên bán, bên mua và bên tư
vấn (nếu có); quy định ai chịu trách nhiệm nhận và cung cấp thông tin; đưa
ra danh sách những thông tin không cần bảo mật như thông tin mà công
luận đã biết không phải do hành động vi phạm thoả thuận của bên nhận tin,
thông tin vốn thuộc quyền nắm giữ của bên nhận tin, thông tin do bên nhận
tin tự mở rộng, thông tin nhận từ một nguồn khác mà không có giới hạn về
việc sử dụng hay tiết lộ. Thời hạn của Thoả thuận bảo mật thông thường từ
3 đến 5 năm. Trong trường hợp một bên vi phạm Thoả thuận bảo mật, bên
kia có quyền khởi kiện để đòi được bồi thường thiệt hại do vi phạm gây ra.
Tuy nhiên trên thực tế rất khó chứng minh việc vi phạm nghĩa vụ bảo mật
và thiệt hại do vi phạm gây ra nên có rất ít các vụ vi phạm Thoả thuận bảo
mật được đưa ra Toà án.
Kết thúc giai đoạn tìm kiếm đối tác, bên mua và bên bán có thể ký
Thoả thuận nguyên tắc (hay còn có tên là Biên bản ghi nhớ, Thư cam kết,
Các phần chính của thoả thuận…). Thoả thuận nguyên tắc chính thức hoá

×