Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

chế độ pháp lý về chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty tnhh một thành viên và thực tiễn áp dụng tại công ty tnhh mtv bca thăng long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (301.48 KB, 48 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA LUẬT
CHUYÊN ĐỀ THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
Tên sinh viên: Nguyễn Huệ Du
Mã sinh viên: CQ510615
Lớp : Luật kinh doanh
Ngành : Luật
Chuyên ngành: Luật kinh doanh
Tên đề tài: Chế độ pháp lý về chuyển đổi công ty nhà nước
thành công ty TNHH một thành viên và thực
tiễn áp dụng tại công ty TNHH MTV BCA Thăng
Long
Giáo viên hướng dẫn: Hoàng Xuân Trường
Hà Nội. 2013
1
Mục lục
LỜI MỞ ĐẦU
Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) nói chung và các công ty nhà nước (CTNN)
nói riêng là một hiện tượng phổ biến không chỉ tại Việt Nam mà còn ở nhiều nước
trên thế giới. Vai trò thiết yếu của các doanh nghiệp đối với nền kinh tế là không thể
phủ nhận. Tuy nhiên, cho đến nay, CTNN của các nước trên thế giới, đặc biệt là các
nước XHCN, đều tồn tại một vấn đề nổi bật, đó chính là sự không rạch ròi về người
sở hữu, khó làm ràng buộc trách nhiệm kinh doanh gắn với nó là sự không rành
mạch, khó thực hiện; lấy giám sát và can thiệp về hành chính thay cho sự ràng buộc
về kinh tế. Ở Việt nam đây cũng chính là vấn đề nổi cộm của các CTNN.Điều này
là nguồn gốc của nhiều điểm bất cập, hạn chế trong cơ chế kinh doanh của các công
ty này.Muốn giải quyết được tình trạng đó, yêu cầu đặt ra hàng đầu là phải tách rời
quyền sở hữu với quyền kinh doanh. Hạt nhân để thực hiện được yêu cầu đó chính
là “công ty hóa” chuyển đổi CTNN thành các loại hình doanh nghiệp thuộc sự điều
2
chỉnh của LDN năm 2005. Trong đó, có công ty TNHH một thành viên đã được


Nhà nước quan tâm xây dựng.
Thêm vào đó, khi Việt Nam ngày càng mở cửa hội nhập vào các “sân chơi
chung” của khu vực và quốc tế thì việc “nhập gia tùy tục” là một yêu cầu bắt buộc.
Các thành viên, trong đó có Việt Nam, buộc phải thực hiện các cam kết của mình
một cách có lộ trình và phải báo cáo thường xuyên kết quả thực hiện của tiến trình
đó nhằm mục đích dần dỡ bỏ các rào cản, tạo lập môi trường pháp lý công bằng,
bình đẳng và minh bạch cho các thành phần kinh tế.
Sau quá trình chuyển đổi này tất cả các DNNN sẽ được chuyển đổi thành công ty
cổ phần hoặc công ty TNHH và Luật DNNN cũng chấm dứt sự tồn tại và giá trị
pháp lý của nó, mô hình CTNN (gồm Tổng CTNN và CTNN độc lập) không còn
tồn tại nữa. Tuy nhiên, điều này không đồng nghĩa với việc chấm dứt hoàn toàn sự
tồn tại của khái niệm DNNN.DNNN sẽ vẫn tồn tại, tên gọi DNNN sẽ vẫn còn như
nó đã từng có, chỉ có các mô hình tổ chức pháp lý doanh nghiệp dưới hình thức
CTNN là không còn nữa.Các DNNN lúc này sẽ không còn hoạt động theo một luật
riêng mà phải hòa cùng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
trong một môi trường pháp lý bình đẳng, với mô hình tổ chức, quản trị công ty
giống nhau. Điều khác biệt giữa chúng chỉ là vấn đề cơ cấu sở hữu công ty (ngoài
trừ mối quan hệ chủ quản hành chính).
Có thể nói chuyển đổi CTNN thành công ty TNHH một thành viên xuất phát từ
cả những nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan và có tính tất yếu. Đến thời điểm
này việc chuyển đổi tại các doanh nghiệp gần như đã hoàn tất nhưng vấn đề cần
quan tâm hiện nay không phải là tiến độ, kế hoạch, số lượng đơn vị chuyển đổi mà
là làm thế nào để việc chuyển đổi doanh nghiệp không chỉ là hình thức, làm thế nào
để các DNNN thực sự mạnh hơn sau chuyển đổi, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay
khi vấn đề tái cơ cấu nền kinh tế đang nóng hơn bao giờ hết. Trên thực tế, việc
chuyển đổi DNNN thành công ty TNHH một thành viên tuy khiến doanh nghiệp
được chủ động hơn trong đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, nhưng lại chưa thực
sự mang lại đột phá, không tạo hiệu ứng tích cực như trường hợp cổ phần hóa mà
chỉ là chuyển đổi về hình thức, chưa thay đổi nhiều về nội dung. Đơn giản bởi sau
khi chuyển đổi thì cơ chế hoạt động của công ty TNHH một thành viên không có sự

thay đổi đáng kể so với CTNN, kể cả về quản lý tài sản, sản xuất kinh doanh, quản
lý lao động, đơn giá tiền lương,…
3
Bằng việc nhìn nhận lại toàn bộ chặng đường chuyển đổi của Công ty TNHH
MTV BCA Thăng Long như một ví dụ cụ thể của quá trình chuyển đổi các CTNN
thành công ty TNHH một thành viên ở nước ta, bài chuyên đề mong muốn đóng
góp những nhận xét và phân tích về những thành quả đã đạt được và cả những mặt
hạn chế còn tồn tại sau chuyển đổi của công ty, từ đó nhằm đưa ra những giải pháp
giúp công ty nói riêng và các công ty TNHH một thành viên khác thuộc sở hữu Nhà
nước nói chung hoàn thiện cơ cấu tổ chức, tăng tính hiệu quả trong hoạt động quản
lý công ty.
I. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY NHÀ NƯỚC VÀ CÔNG TY TNHH MỘT
THÀNH VIÊN
1. Khái quát chung
a) Khái niệm và vai trò của công ty nhà nước
a1. Khái niệm
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật doanh nghiệp nhà nước (DNNN) năm
2003, công ty nhà nước (CTNN) được định nghĩa là “doanh nghiệp do Nhà nước sở
hữu toàn bộ vốn điều lệ, thành lập, tổ chức quản lý, đăng ký hoạt động theo quy
định của Luật này.”. Như vậy, CTNN có những đặc trưng sau:
Thứ nhất, CTNN là một hình thức tổ chức của DNNN.Nói cách khác, nội hàm
của khái niệm CTNN hẹp hơn nội hàm của DNNN.Theo Điều 1 Luật DNNN năm
2003, DNNN có thể được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.Tiếp đó CTNN lại có thể được tổ chức dưới hình
thức công ty nhà nước độc lập, tổng công ty nhà nước (khoản 1 Điều 3 Luật
DNNN).
Thứ hai, CTNN là tổ chức kinh tế của Nhà nước, là một trong những cơ sở kinh
tế của nền kinh tế quốc dân nhằm thực hiện cùng lúc cả hai chức năng kinh tế và
4
mục tiêu, nhiệm vụ xã hội. Các mục tiêu, nhiệm vụ xã hội thay đổi tùy theo hoàn

cảnh lịch sử khác nhau mà Nhà nước sẽ giao mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể.Tuy nhiên,
thông thường chức năng thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ xã hội của CTNN vẫn luôn
được đặt lên trên hết. Nhà nước sẽ thông qua CTNN để tác động đến nền kinh tế
theo hướng có lợi phục vụ cho các định hướng phát triển kinh tế - xã hội của Nhà
nước.
Thứ ba, CTNN do Nhà nước trực tiếp đầu tư vốn, thành lập, tổ chức quản lý hoạt
động sản xuất kinh doanh và công ích. Phần vốn Nhà nước đầu tư từ ngân sách hoặc
có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước, tài sản trong CTNN là tài sản của Nhà nước.
Tuy nhiên, Nhà nước là một thiết chế, vì vậy giao cho nhiều cơ quan khác nhau
thực hiện quyền sở hữu của CTNN đã dẫn tới hậu quả là tạo ra một khối lượng
khổng lồ các CTNN và một cơ chế chồng chéo, đặc biệt là sự lẫn lộn giữa quản trị
doanh nghiệp và quản lý hành chính, kìm hãm sự phát triển doanh nghiệp, gây thất
thoát, lãng phí vốn của Nhà nước.
Thứ tư, CTNN là một pháp nhân, có tư cách pháp lý độc lập, với cơ cấu tổ chức
chặt chẽ.CTNN tiến hành sản xuất kinh doanh và chịu trách nhiệm bằng tài sản hiện
có, do vậy tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm cần sớm được xác định và mở rộng
cho CTNN.
a2. Vai trò
Tùy từng quốc gia và hoàn cảnh lịch sử mà vị trí và vai trò của CTNN sẽ được
xác định khác nhau.Tại Việt Nam, bắt nguồn từ quan điểm của Đảng, Nhà nước và
thực tiễn phát triển kinh tế nước ta, CTNN luôn đóng vai trò quan trọng trong sự
phát triển kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội. Điều này được thể hiện trong các bản
Hiến pháp của Việt Nam từ trước đến nay luôn ghi nhận vai trò chủ đạo của kinh tế
nhà nước, trong đó bao gồm cả CTNN. Mặc dù hiện nay trong quá trình sửa đổi
Hiến pháp 1992, sự nhấn mạnh vai trò của thành phần kinh tế nhà nước đang được
xem xét loại bỏ nhằm đề cao yếu tố kinh tế thị trường nhưng vai trò của các doanh
nghiệp nhà nước vẫn là không thể phủ nhận và không thể thiếu các doanh nghiệp
này trong nền kinh tế.
Cụ thể, CTNN có những vai trò quan trọng sau:
Một là, CTNN là một trong những công cụ chủ yếu tạo ra sức mạnh vật chất để

Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm rõ lực lượng nòng cốt để hướng nền
kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. Đây không chỉ là vai trò kinh tế mà còn
là vai trò chính trị đặc biệt quan trọng của DNNN nói chung và CTNN nói riêng.
5
Hai là, CTNN là một trong những bảo đảm cho điều kiện phát triển, những cân
đối lớn cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân như cân đối cung cầu, cán cân thanh toán
quốc tế, thu chi ngân sách…
Ba là, hệ thống CTNN góp phần quan trọng khắc phục những khiếm khuyết của
cơ chế thị trường. CTNN được thành lập nhằm đầu tư vào những ngành, những lĩnh
vực, địa bàn thiết yếu nhưng các thành phần kinh tế khác không muốn đầu tư,
không thể đầu tư hoặc không đủ khả năng tham gia như việc đầu tư làm đường xá,
cầu cống, đầu tư, phát triển tại các vùng sâu, địa bàn khó khăn…
Bốn là, CTNN là lực lượng xung kích trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo
sự tuân thủ pháp luật, đi đầu và góp phần đẩy nhanh việc ứng dụng tiến bộ khoa học
– công nghệ nhằm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Năm là, CTNN góp phần quan trọng trong việc tích lũy, đóng góp ngân sách nhà
nước.
Sáu là, CTNN góp phần không nhỏ trong việc đảm nhận những trách nhiệm xã
hội như: giải quyết việc làm cho người lao động; nhất là các nhóm xã hội dễ bị tổn
thương; phát triển những vùng khó khăn, kém phát triển; cung cấp dịch vụ bảo đảm
các mục tiêu xã hội.v.v
Bảy là, hiện này các DNNN nói chung và CTNN nói riêng luôn được Nhà nước
dành cho những nguồn lực lớn để sử dụng như những yếu tố mang tính hạt nhân,
nòng cốt trong việc liên doanh, liên kết làm đối trọng trong cạnh tranh trên thị
trường trong và ngoài nước. Qua đó, vừa chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, vừa
bào đảm định hướng XHCN cho nền kinh tế.
Trong trường hợp của Công ty Thăng Long trước chuyển đổi, là một công ty an
ninh, công ty có vai trò chủ yếu là sản xuất, kinh doanh các trang thiết bị, phương
tiện kỹ thuật phục vụ công tác của ngành an ninh như nhập khẩu súng, đạn cho
Tổng cục cảnh sát, cung cấp các thiết bị phòng cháy chữa cháy… Công ty được Bộ

Công an giao vốn, đất đai và các nguồn lực khác để thực hiện nhiệm vụ sản xuất,
kinh doanh theo kế hoạch do Bộ trưởng Bộ Công an giao.
b) Khái niệm và đặc điểm của công ty TNHH MTV, so sánh với đặc điểm của
CTNN
b1. Khái niệm
Công ty TNHH một thành viên ra đời là kết quả pháp lí đặc biệt của quá trình
phát triển của công ty TNHH, khi toàn bộ tài sản của công ty TNHH nhiều thành
viên đã chuyển vào tay một thành viên duy nhất (như có thành viên chết hoặc ra
6
khỏi công ty) và công ty vẫn hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Trong những
trường hợp như vậy, pháp luật nhiều nước vẫn cho phép công ty này tiếp tục hoạt
động mà không phải chuyển hình thức hay giải thể công ty.Sau này, trong quá trình
hoạt động thương mại, công ty TNHH một thành viên đã được thừa nhận bằng con
đường thành lập mới và không ngừng được khuyến khích phát triển.
Trong hệ thống pháp luật của Đức, Anh, Mỹ thừa nhận loại hình công ty TNHH
một thành viên. Tuy nhiên, một số nước như Ý, Tây Ban Nha, các nước Nam Mỹ
lại không cho phép thành lập loại hình doanh nghiệp này, họ cho rằng bản chất của
doanh nghiệp một thành viên là doanh nghiệp cá thể chịu trách nhiệm vô hạn chứ
không phải là công ty.
Ở Việt Nam, công ty TNHH một thành viên mới được thừa nhận tại Luật doanh
nghiệp năm 1999.Ban đầu, do một số yếu tố chủ quan của cơ quan lập pháp, Luật
doanh nghiệp 1999 mới chỉ thừa nhận công ty TNHH một thành viên do tổ chức
làm chủ sở hữu. Chỉ đến khi sau 6 năm thực thi gặp phải nhiều bất cập, việc thừa
nhận công ty TNHH có thể do một cá nhân hoặc tổ chức làm chủ sở hữu mới được
ghi nhận tại Luật doanh nghiệp năm 2005. Theo đó, khoản 1 Điều 63 Luật doanh
nghiệp 2005 quy định: “Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh
nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu (sau đây gọi là chủ sở hữu
công ty); chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.”
b2. Đặc điểm và so sánh với CTNN

Theo Điều 7 và khoản 1, 2 Điều 8 Nghị định 25/2010 ngày 19/3/2010 về chuyển
đổi công ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên và tổ chức
quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu,
các CTNN thuộc các đối tượng sau sẽ phải chuyển đổi thành công ty TNHH một
thành viên khi đáp ứng đủ các điều kiện:
“Điều 7. Đối tượng chuyển đổi
1. Công ty nhà nước độc lập.
2. Công ty nhà nước là công ty mẹ tập đoàn kinh tế nhà nước; công ty mẹ
trong tổng công ty nhà nước; công ty mẹ trong tổng công ty thuộc tập đoàn kinh tế
nhà nước; công ty mẹ trong mô hình công ty mẹ - công ty con (gọi chung là công ty
mẹ).
3. Công ty thành viên hạch toán độc lập của tổng công ty nhà nước, tập
đoàn kinh tế nhà nước.
7
4. Đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc tổng công ty nhà nước, công ty mẹ
của tập đoàn kinh tế nhà nước, công ty mẹ của tổng công ty nhà nước;
5. Công ty nông nghiệp, công ty lâm nghiệp, nông trường quốc doanh, lâm
trường quốc doanh.
Điều 8. Điều kiện chuyển đổi
1. Các doanh nghiệp quy định tại Điều 7 Nghị định này được tổ chức lại,
chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên khi đáp ứng đủ các
điều kiện sau:
a) Các đối tượng quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 7 Nghị định này
thuộc ngành, lĩnh vực, địa bàn mà Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn; được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt.
Công ty mẹ trong tổng công ty thuộc tập đoàn kinh tế nhà nước và các đối
tượng quy định tại khoản 3 và 4 Điều 7 Nghị định này không thuộc diện Nhà nước
nắm giữ 100% vốn điều lệ, nhưng có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động
sản xuất kinh doanh, chiến lược phát triển, nắm giữ các bí quyết kinh doanh, công
nghệ, thông tin của tổng công ty, tập đoàn mà tổng công ty, tập đoàn nắm giữ

100% vốn điều lệ;
b) Còn vốn nhà nước sau khi đã được xử lý tài chính. Trường hợp không còn
vốn nhà nước thì báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định việc bổ sung vốn nhà
nước; nếu không được bổ sung vốn thì chuyển sang thực hiện các hình thức chuyển
đổi sở hữu doanh nghiệp theo quy định tại Điều 80 Luật Doanh nghiệp nhà nước.
Trường hợp kinh doanh ngành, nghề mà pháp luật quy định phải có vốn
pháp định thì vốn điều lệ (dự kiến) của công ty không thấp hơn vốn pháp định.
2. Đối với các đối tượng quy định tại khoản 4 Điều 7 Nghị định này, ngoài
điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này còn phải đáp ứng các điều kiện sau:
a) Có thể tách thành đơn vị hạch toán độc lập;
b) Việc chuyển đổi đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc thành công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên không gây khó khăn hoặc ảnh hưởng đến hiệu
quả sản xuất, kinh doanh của tổng công ty nhà nước, công ty mẹ.”
Việc chọn công ty TNHH một thành viên chứ không phải công ty cổ phần hay
một loại hình công ty khác để làm mô hình để chuyển đổi các CTNN thuộc các đối
tượng trên xuất phát từ những ưu thế của công ty TNHH một thành viên.Những
công ty thuộc nhóm các đối tượng chuyển đổi nêu trên là những công ty đang hoạt
động trong các ngành, lĩnh vực, địa bàn cần sự điều tiết và quản lý của Nhà nước
8
nhằm đảm bảo lợi ích quốc gia, do đó, chỉ có công ty TNHH mới có các đặc điểm
phù hợp với các yêu cầu đó:
Đặc điểm Công ty TNHH MTV (theo
Luật doanh nghiệp 2005)
Công ty nhà nước (theo Luật
DNNN 2003)
Chủ sở hữu - Có thể do một tổ chức hoặc
một cá nhân làm chủ sở hữu
(khoản 1 Điều 63 Luật doanh
nghiệp 2005).
- Nếu một cá nhân làm chủ sở

hữu thì cá nhân đó sẽ trực tiếp
thực hiện các quyền và nghĩa
vụ của chủ sở hữu theo quy
định của pháp luật. Nếu một tổ
chức là chủ sở hữu thì chủ sở
hữu đó sẽ phải bổ nhiệm một
hoặc một số người đại diện
theo ủy quyền với nhiệm kỳ
không quá 5 năm để thực hiện
quyền và nghĩa vụ của chủ sở
hữu.
- Chủ sở hữu có quyền thay thế
người đại diện bất cứ khi nào.
(khoản 2 Điều 3 Luật doanh
nghiệp 2005
- Nhà nước là chủ sở hữu công
ty nhà nước.
- Chính phủ thống nhất tổ chức
thực hiện quyền, nghĩa vụ của
chủ sở hữu đối với công ty nhà
nước (Điều 62 Luật doanh
nghiệp nhà nước). Ngoài ra, một
số chủ thể khác cũng có thể thực
hiện một số quyền và nghĩa vụ
của chủ sở hữu đối với CTNN
khi được ủy quyền như các bộ
quản lý ngành liên quan. Vì Nhà
nước chỉ là một thiết chế nên
cần có một chủ thể làm đại diện
chủ sở hữu tại CTNN. Ở các

CTNN có Hội đồng quản trị thì
Hội đồng quản trị là đại diện
trực tiếp chủ sở hữu tại CTNN
đó và đại diện chủ sở hữu đối
với công ty do mình đầu tư toàn
bộ vốn điều lệ. Còn tại các
CTNN không có Hội đồng quản
trị thì Bộ quản lý ngành, Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh là đại diện chủ
sở hữu theo quy định của Luật
DNNN 2003.
- Người quyết định thành lập
công ty có quyền miễn nhiệm,
thay thế đại diện chủ sở hữu.
Tóm lại, đặc điểm khác biệt quan trọng về chủ sở hữu giữa công ty
TNHH một thành viên và CTNN là công ty TNHH một thành viên
chỉ có một tổ chức hay cá nhân làm chủ sở hữu đối với nó, thay vì
nhiều cơ quan, tổ chức cùng thực hiện chức năng đại diện chủ sở
hữu như ở CTNN.
Tư cách pháp
nhân
Công ty TNHH một thành viên
có tư cách pháp nhân kể từ
Công ty nhà nước có tư cách
pháp nhân kể từ ngày được cấp
9
ngày được Cấp giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh.
(khoản 2 Điều 63 Luật doanh
nghiệp 2005)

giấy chứng nhận đăng ký kinh
doanh. (khoản 2 Điều 10 Luật
DNNN 2003)
Phạm vi chịu
trách nhiệm
Chủ sở hữu công ty chịu trách
nhiệm về các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản khác của công
ty trong phạm vi số vốn điều lệ
của công ty.
- CTNN có nghĩa vụ “chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và
các nghĩa vụ tài sản khác của
công ty trong phạm vi số tài sản
của công ty.”(khoản 1 Điều 14
Luật DNNN 2003).
- Người đại diện chủ sở hữu nhà
nước chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản
khác của công ty trong phạm vi
số vốn của Nhà nước đầu tư tại
công ty.
Sau khi được chuyển sang công ty TNHH một thành viên, nghĩa
vụ của ông chủ nhà nước về tài sản sẽ chỉ giới hạn trong phạm vi
vốn điều lệ của doanh nghiệp. Đây là cơ sở pháp lý cần thiết để
chấm dứt tình trạng dựa dẫm, trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà
nước đối với DNNN cũng như đối tác làm ăn của họ; buộc DNNN
phải tồn tại và phát triển bằng chính khả năng của mình.
Huy động vốn Không được phát hành cổ
phiếu nhưng được phát hành

trái phiếu, vay vốn từ các tổ
chức tín dụng, ngân hàng,
người lao động… theo quy
định của pháp luật
Huy động vốn để kinh doanh
dưới hình thức phát hành trái
phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu công
ty; vay vốn của tổ chức ngân
hàng, tín dụng và các tổ chức tài
chính khác, của cá nhân, tổ chức
ngoài công ty; vay vốn của
người lao động và các hình thức
huy động vốn khác theo quy
định của pháp luật.
Mặc dù được quy định khá nhiều các hình thức huy động vốn
nhưng các CTNN trước kia vẫn chủ yếu trông chờ vào vốn từ
ngân sách nhà nước hoặc vốn vay từ các tổ chức tín dụng dưới sự
bảo lãnh của Nhà nước. Điều này tạo ra tư duy sử dụng “tiền
chùa”, sử dụng vốn không hiệu quả, kết quả kinh doanh yếu kém,
khó thu hút được các nguồn vốn đầu từ khác, lãng phí ngân sách
nhà nước. Do đó, sau khi chuyển đổi, các DNNN sẽ buộc phải
kinh doanh hiệu quả hơn (như đã phân tích ở phạm vi chịu trách
nhiệm nêu trên), từ đó tạo niềm tin cho các nhà đầu tư khác đổ vốn
vào các DNNN, tạo động lực phát triển mới cho khối doanh
nghiệp này.
10
Cơ cấu tổ chức - Cơ cấu quản lý công ty
TNHH một thành viên là tổ
chức: chủ sở hữu công ty bổ
nhiệm một hoặc một số người

đại diện theo ủy quyền với
nhiệm kỳ không quá 5 năm để
thực hiện các quyền và nghĩa
vụ của mình theo quy định của
Luật doanh nghiệp và pháp luật
có liên quan:
+ Trường hợp có ít nhất 2
người được bổ nhiệm làm đại
diện theo ủy quyền thì cơ cấu
tổ chức quản lý của công ty bao
gồm: Hội đồng thành viên,
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc
và Kiểm soát viên; trong
trường hợp này Hội đồng thành
viên bao gồm tất cả người đại
diện theo ủy quyền
+ Trường hợp có một người
được bổ nhiệm làm người đại
diện theo ủy quyền thì người
đó làm Chủ tịch công ty; trong
trường hợp này cơ cấu tổ chức
quản lý của công ty bao gồm
Chủ tịch công ty, Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc và Kiếm
soát viên.
- Cơ cấu tổ chức quản lý công
ty TNHH một thành viên là cá
nhân:
+ Công ty TNHH một thành
viên là cá nhân có Chủ tịch

công ty, Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc. Chủ sở hữu công ty
đồng thời là Chủ tịch công ty.
+ Chủ tịch công ty có thể kiêm
nhiệm hoặc thuê người khác
làm Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc.
- Công ty nhà nước được tổ
chức quản lý theo mô hình có
hoặc không có Hội đồng quản
trị. Các tổng công ty nhà nước,
công ty nhà nước độc lập sau
đây có Hội đồng quản trị:
+ Tổng công ty do Nhà nước
quyết định đầu tư và thành lập;
+ Tổng công ty đầu tư và kinh
doanh vốn nhà nước;
+ Công ty nhà nước độc lập có
quy mô vốn lớn giữ quyền chi
phối doanh nghiệp khác.
- Công ty nhà nước không có
Hội đồng quản trị có cơ cấu
quản lý gồm Giám đốc, các Phó
giám đốc, kế toán trưởng và bộ
máy giúp việc.
- Cơ cấu quản lý của tổng công
ty nhà nước, công ty nhà nước
độc lập có Hội đồng quản trị bao
gồm Hội đồng quản trị, Ban
kiểm soát, Tổng giám đốc, các

Phó tổng giám đốc, kế toán
trưởng và bộ máy giúp việc.
Điểm khác biệt lớn nhất giữa cơ cấu tổ chức của CTNN và công ty
TNHH một thành viên là ở chức danh Kiểm soát viên. Trong các
11
công ty TNHH một thành viên là tổ chức, đặc biệt khi tổ chức đó
là Nhà nước, thì Kiểm soát viên có ý nghĩa vô cùng quan trọng
nhưng pháp luật lại đang bỏ ngỏ nhiều lỗ hổng trong các quy định
đối với Kiểm soát viên.
Hạn chế đối
với quyền của
chủ sở hữu
- Chủ sở hữu chỉ được quyền
rút vốn bằng cách chuyển
nhượng một phần hoặc toàn bộ
số vốn điều lệ cho tổ chức hoặc
cá nhân khác; trường hợp rút
một phần hoặc toàn bộ vốn đã
góp ra khỏi công ty dưới hình
thức khác thì phải liên đới chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và
nghĩa vụ tài sản khác của công
ty.
- Chủ sở hữu công ty không
được rút lợi nhuận khi công ty
không thanh toán đủ các khoản
nợ và các nghĩa vụ tài sản khác
đến hạn.
Chủ sở hữu không phải chịu hạn
chế gì ngoài các nghĩa vụ đã

được quy định.
Quyền và
nghĩa vụ
Quyền và nghĩa vụ của công ty TNHH một thành viên tương tự
như các loại hình doanh nghiệp khác là đối tượng của Luật doanh
nghiệp 2005 (công ty cổ phần, công ty TNHH hai thành viên trở
lên, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân). Nhìn chung quyền
của công ty TNHH một thành viên được mở rộng hơn so với
CTNN, đặc biệt là về quyền sử dụng, định đoạt tài sản của công
ty, quyền quyết định các dự án đầu tư hay bán tài sản có giá trị
trên 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong sổ kế toán của công ty.
Chính vì công ty TNHH một thành viên mang những đặc điểm như vậy nên việc
chuyển đổi CTNN sang công ty TNHH một thành viên chính là thực hiện tổng thể
các biện pháp nhằm tạo môi trường và điều kiện để các CTNN chuyển đổi có các
đặc điểm đó. Đây sẽ là một quá trình thực hiện gồm những nội dung theo một trình
tự thủ tục nhất định, trong đó không chỉ bao gồm những thủ tục hành chính – pháp
lý mà còn gồm cả các bước chuyển về nội dung kinh tế, chuyển về tổ chức quản lý
nội bộ bên trong công ty và xác định lại cá nhân hay tổ chức làm chủ sở hữu công
ty, chuyển đổi cơ chế, chính sách, quan hệ của chủ sở hữu với công ty để chuyển
CTNN sang công ty TNHH một thành viên với các đặc điểm nêu trên.
Công ty Thăng Long trước khi được chuyển đổi là một công ty nhà nước độc lập
do Bộ Công an làm đại diện chủ sở hữu, được tổ chức theo mô hình không có Hội
12
đồng quản trị, hoạt động kinh doanh chủ yếu là cung cấp trang thiết bị phục vụ
ngành an ninh. Đây là hoạt động thuộc diện Nhà nước phải nắm giữ vốn 100%, do
đó, theo khoản 1 Điều 7 và điểm a khoản 1 Điều 8 Nghị định 25/2010/NĐ-CP ngày
19/3/2010, công ty Thăng Long thuộc đối tượng phải chuyển đổi thành công ty
TNHH một thành viên. Ngày 26/5/2011 Bộ Công an đã có quyết định chuyển Công
ty Thăng Long thành Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do nhà nước làm
chủ sở hữu theo đúng quy định tại Nghị định 25. Tính đến nay đã gần 2 năm kể từ

khi được chuyển đổi, xét về mặt pháp lý, Công ty Thăng Long đã hoàn tất các thủ
tục để chuyển từ CTNN thành công ty TNHH một thành viên, hoạt động theo Luật
doanh nghiệp 2005. Tuy nhiên, về mặt cơ cấu tổ chức, quản lý trong doanh nghiệp
vẫn chậm được hoàn thiện.
2. Tính tất yếu và ý nghĩa của việc chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty
TNHH MTV
2.1. Cơ sở lý luận
DNNN đã tồn tại phổ biến từ lâu trong nền kinh tế nước ta và luôn giữ vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là trong thời kỳ tồn tại cơ chế kế hoạch
hóa tập trung. Chuyển sang cơ chế thị trường, việc làm thế nào để các CTNN vốn
hình thành trong nền kinh tế kế hoạch trước kia có thể tiếp tục tồn tại và phát triển
đã trở thành một vấn đề cấp bách cần phải giải quyết. Tuy vậy, mãi tới năm 1995,
mới có những nỗ lực đầu tiên để “công ty hóa” về mặt ý niệm đối với DNNN.Cụ
thể là, Luật doanh nghiệp nhà nước 1995 và sau này là Luật doanh nghiệp nhà nước
2003 đã được ban hành. Bước sang thời kỳ mới này, kinh tế ngoài quốc doanh trong
nước phát triển mạnh mẽ, các CTNN mất dần vị trí độc quyền trong các ngành nghề
lĩnh vực. Các CTNN lúc này không những phải đương đầu với các thành phần kinh
tế khác trong nước mà còn phải đương đầu cạnh tranh với hàng hóa và kỹ thuật
nước ngoài. Cải cách CTNN trong bối cảnh đó được coi là khâu trung tâm để xây
dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước. Do đó, Đảng và Nhà nước thực hiện nhiều chủ trương, biện pháptích
cực nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả của CTNN. Nhưng các CTNN vẫn còn tồn
tại những mặt hạn chế yếu kém nhất định như: quy mô nhỏ, cơ cấu còn nhiều bất
hợp lý, chưa tập trung vào ngành, lĩnh vực then chốt; trình độ công nghệ còn lạc
hậu; quản lý còn yếu kém; chưa thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất
kinh doanh, kết quả sản xuất kinh doanh chưa tương xứng với sự hỗ trợ ưu đãi của
Nhà nước; v.v
13
2.2. Cơ sở thực tiễn
Mặc dù Đảng và Nhà nước đã có những điều chỉnh với khối CTNN cho phù hợp

với nền kinh tế thị trường và đã đạt được một số kết quả nhất định nhưng trong cơ
chế kinh tế thị trường thì sự chuyển biến như vậy là chưa đủ.Với sự phát triển của
thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, của hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam thì CTNN đã gặp khó khăn và bộc lộ những hạn chế của nó.Đặt ra việc chuyển
đổi CTNN sẽ tìm ra giải pháp mới cho vấn đề sản xuất kinh doanh của CTNN. Từ
đó, giúp nó hoạt động hiệu quả hơn, khẳng định được vai trò, vị thế của mình trong
nền kinh tế hướng tới xây dựng nó theo mô hình kinh tế hiện đại là hết sức cần
thiết.
Mặt khác, Việt Nam đã gia nhập ASEAN, APEC, ASEM, WTO, đó là cơ hội lớn
trong một “sân chơi” rộng mở hơn nhưng đi cùng với đó cũng là thách thức trong
việc thực hiện thể chế kinh tế của nước ta. Đặc biệt đối với WTO, để có thể tận
dụng được hết những điều kiện thuận lợi khi đã trở thành thành viên của WTO, Việt
Nam cần phải hiểu các nguyên tắc, thủ tục gia nhập WTO, cũng như những thuận
lợi và khó khăn mà Việt Nam sẽ gặp phải trong quá trình gia nhập của mình, để từ
đó đưa ra những đối sách thích hợp. Một trong những yêu cầu quan trọng là Việt
Nam phải đẩy mạnh cải cách hệ thống pháp luật và đổi mới quản lý Nhà nước bằng
pháp luật, với nền kinh tế theo hướng minh bạch, bình đẳng. Trong đó, có vấn đề về
chuyển đổi khối CTNN.
Mặc dù, các tổ chức thương mại khu vực và quốc tế, trong đó có WTO không
quy định việc điều chỉnh cơ cấu, phạm vi CTNN đối với các thành viên gia nhập,
nhưng việc tạo ra một môi trường công bằng trong sản xuất và kinh doanh cho xí
nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp tư nhân là một trong những vấn đề mà WTO và
các thành viên hết sức quan tâm.
Điều XVII Hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT) quy định:
“Các quốc gia phải cam kết rằng nếu muốn thành lập DNNN, cho dù đặt ở đâu,
hay trao cho bất cứ doanh nghiệp nào những ưu đãi dù là hình thức hay thực tế thì
các doanh nghiệp đó trong các hoạt động mua bán hàng hóa xuất nhập khẩu phải
ứng xử phù hợp với các nguyên tắc không phân biệt đối xử được thỏa thuận này
quy định với các biện pháp của Chính phủ áp dụng với các nhà xuất nhập khẩu tư
nhân”.Quy định này cho thấy, yêu cầu đối với các nước gia nhập WTO là phải đảm

bảo nguyên tắc công khai, minh bạch, không phân biệt đối xử giữa các DNNN và
công ty tư nhân, giữa các CTNN với các công ty nước ngoài trong hoạt động kinh
14
doanh. Ngoài ra, các thành viên còn phải cam kết giảm dần vai trò của các DNNN,
còn đối với một số lĩnh vực cần phải giữ lại sự độc quyền của Nhà nước thì phải xác
định lộ trình bãi bỏ và phải thông báo với các thành viên WTO. Có thể thấy, đây
chính là một trong các yêu cầu khách quan của việc chuyển đổi từ mô hình DNNN
nói chung hay CTNN nói riêng.
Do đó, việc cải cách kinh tế là yêu cầu bắt buộc. Trong đó, yêu cầu cải cách toàn
diện khối CTNN cả về cơ cấu và cơ chế quản lý để nâng cao khả năng cạnh tranh
trước hết là trong nước và cao hơn là trên trường quốc tế.
2.3. Ý nghĩa
Việc chuyển đổi các công ty nhà nước thành công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên (TNHH) tuy không mang tính đột phá như cổ phần hóa, nhưng là cần
thiết và có ý nghĩa nhất định:
Một là, với việc chuyển đổi doanh nghiệp mà Nhà nước giữ 100% vốn thành
công ty TNHH một thành viên, bên cạnh mục tiêu để thực hiện thống nhất một Luật
Doanh nghiệp, còn nhằm mục đích đổi mới tổ chức quản lý, cơ chế hoạt động, tạo
sự bình đẳng với các loại hình doanh nghiệp khác. Đây là quá trình “công ty hóa”
các CTNN, tạo vị thế “công ty” cho CTNN – có địa vị pháp lý của một pháp nhân
kinh tế, có tài sản độc lập với cá nhân và tổ chức khác, kể cả với Nhà nước, có
quyền nhân danh công ty tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập, tách bạch
hoạt động quản lý nhà nước và hoạt động sản xuất, kinh doanh trong các CTNN.
Hai là, việc chuyển đổi sang Luật Doanh nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế, tạo mặt bằng pháp lý với các thành phần kinh tế khác, thực hiện
cam kết WTO là Nhà nước thực hiện các quyền chủ sở hữu tương tự như các chủ
doanh nghiệp hay cổ đông khác không phải Nhà nước.
Ba là, việc chuyển đổi các CTNN góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của
CTNN, từ đó đưa hệ thống DNNN chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời bảo
vệ lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của quốc gia trong hoạt động kinh tế đối

ngoại. Do tính chất trách nhiệm hữu hạn của doanh nghiệp, nghĩa vụ của ông chủ
nhà nước về tài sản sẽ chỉ giới hạn trong phạm vi vốn điều lệ của doanh nghiệp.
Đây là cơ sở pháp lý cần thiết để chấm dứt tình trạng dựa dẫm, trông chờ vào sự
bảo hộ của Nhà nước đối với DNNN cũng như đối tác làm ăn của họ; buộc DNNN
phải tồn tại và phát triển bằng chính khả năng của mình. Điều đó đồng nghĩa với
việc các tổ chức tín dụng khi xem xét cho DNNN vay vốn, họ phải cân nhắc kỹ hiệu
quả đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp, vì sẽ không còn cơ hội được Chính phủ
15
“cứu” nếu người vay không trả được nợ. Cũng vậy, các đối tác làm ăn với DNNN
cũng phải thận trọng như với các thành phần kinh tế khác.
Bốn là, việc chuyển đổi còn giúp những DNNN không còn khả năng tồn tại có
thể dễ dàng xin phá sản, do vấn đề công nợ chỉ được giải quyết trong phạm vi vốn
điều lệ của doanh nghiệp. Đây là cơ hội để giải tỏa tình trạng “chết mà không thể
chôn” tồn tại bấy lâu nay ở nhiều DNNN đã phá sản, do bế tắc trong vấn đề giải
quyết công nợ.
II. CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ CHUYỂN ĐỔI CÔNG TY NHÀ NƯỚC THÀNH
CÔNG TY TNHH MỘT THÀNH VIÊN VÀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN TẠI
CÔNG TY THĂNG LONG
Quá trình chuyển đổi CTNN thành công ty TNHH một thành viên ở nước ta có
thể được chia thành 2 giai đoạn chịu sự điều chỉnh của các văn bản quy phạm pháp
luật khác nhau đáp ứng tình hình cụ thể của quá trình chuyển đổi:
- Giai đoạn thứ nhất: việc chuyển đổi các CTNN bắt đầu được thực hiện từ khi
Luật doanh nghiệp 2005 có hiệu lực thi hành (ngày 1/7/2006) và phải kết thúc muộn
nhất vào 30/6/2010 (Điều 166 Luật doanh nghiệp 2005).Trong giai đoạn này việc
chuyển đổi chịu sự điều chỉnh của các văn bản quy phạm pháp luật chủ yếu như
Luật DNNN 2003, Luật doanh nghiệp 2005, Nghị định 95/2006/NĐ-CP ngày
8/9/2006 của Chính phủ về chuyển đổi DNN thành công ty TNHH một thành viên,
Thông tư số 25/2007/TT-BTC ngày 02 tháng 4 năm 2007 của Bộ Tài chính về
hướng dẫn xử lý tài chính khi chuyển đổi CTNN thành CTTNHH một thành viên.
Ngoài ra, theo Điều 167 Luật doanh nghiệp 2005 các doanh nghiệp nhà nước trực

tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh hoặc kết hợp kinh tế với quốc phòng, an ninh
(như công ty Thăng Long) sẽ được tổ chức quản lý và hoạt động theo quy định của
Luật doanh nghiệp 2005 và quy định riêng của Chính phủ. Tuy nhiên, kết thúc thời
hạn này cả nước mới có gần 4000 doanh nghiệp được cổ phần hóa; Nhà nước còn
nắm giữ 100% vốn ở 1.206 doanh nghiệp, trong đó đã chuyển đổi khoảng hơn 900
doanh nghiệp thành công ty TNHH một thành viên. Số còn lại 300 doanh nghiệp,
hoặc sẽ được tiếp tục cổ phần hóa theo kế hoạch trong năm 2010, hoặc sẽ được
chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên trong tháng 7/2010, số không đủ
điều kiện chuyển đổi sẽ tiến hành cơ cấu lại nợ để chuyển thành CTCP hoặc công ty
TNHH hai thành viên trở lên, nếu không sắp xếp được theo các hình thức trên thì
tiến hành bán hoặc cho phá sản mà không cấp bổ sung vốn.Trong giai đoạn này,
16
Công ty Thăng Long cũng chưa tiến hành chuyển đổi thành CTTNHH một thành
viên.
- Giai đoạn hai: Để tạo khung pháp lý và cơ chế thúc đẩy chuyển đổi các công ty
nhà nước còn lại, chủ yếu là các doanh nghiệp quy mô lớn và các nông – lâm
trường quốc doanh trước ngày 1-7-2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
25/2010/NĐ-CP ngày 19-3-2010 về chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty
TNHH một thành viên và tổ chức quản lý công ty TNHH một thành viên do Nhà
nước làm chủ sở hữu.
Một số điểm mới đáng lưu ý của Nghị định số 25/2010/NĐ-CP gồm:
• Đơn giản hóa trình tự, thủ tục chuyển đổi. Chỉ những doanh nghiệp mà
Nhà nước giữ 100% vốn thì thực hiện đầy đủ trình tự, thủ tục. Những
doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hóa nhưng tạm chuyển thành công ty
TNHH một thành viên sau đó tiếp tục chuyển thành công ty cổ phần thì
không phải lập phương án và thực hiện xử lý tài sản, tài chính, sắp xếp lại
lao động, sử dụng đất. Doanh nghiệp là công ty nông nghiệp, công ty lâm
nghiệp, nông trường quốc doanh, lâm trường quốc doanh thì đất rừng và
các tài sản trên đất rừng được chuyển giao nguyên trạng sang công ty
TNHH một thành viên.

• Bổ sung một số quy định về tổ chức quản lý phù hợp với đặc thù sở hữu
nhà nước. Trong đó, lưu ý bảo đảm sự quản lý, giám sát của chủ sở hữu
nhà nước đối với công ty mẹ thuộc tập đoàn kinh tế nhà nước, công ty mẹ
thuộc nhóm công ty mẹ – công ty con nắm giữ các ngành kinh tế quan
trọng.
• Chủ tịch hội đồng thành viên (HĐTV) công ty mẹ của tập đoàn kinh tế,
tổng công ty do Thủ tướng quyết định thành lập không kiêm Tổng Giám
đốc. Đối với công ty mẹ thuộc tổng công ty do bộ, ủy ban nhân dân cấp
tỉnh quyết định thành lập thì chủ sở hữu quyết định việc kiêm hay không
kiêm giữa Chủ tịch HĐTV và Tổng Giám đốc. Cán bộ lãnh đạo trong bộ
máy nhà nước hoặc tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội không
kiêm nhiệm làm thành viên HĐTV. Thành viên HĐTV không làm các
chức vụ quản lý, điều hành tại doanh nghiệp thành viên.
• Tăng cường vai trò của kiểm soát viên. Kiểm soát viên không đồng thời
giữ chức vụ quản lý, điều hành doanh nghiệp hoặc là người có liên quan
đến người quản lý, điều hành doanh nghiệp; có quyền sử dụng con dấu
17
của công ty để thực hiện nhiệm vụ do pháp luật và điều lệ công ty quy
định đối với kiểm soát viên.
• Ràng buộc trách nhiệm của các chức danh lãnh đạo quản lý doanh nghiệp
bằng cơ chế tiền lương và tiền thưởng.
• Khi công ty mẹ tập đoàn kinh tế chuyển sang công ty TNHH một thành
viên, thì vẫn kế thừa các quy định tương thích của Nghị định số
101/2009/NĐ-CP để tổ chức, hoạt động và quản lý đối với các tập đoàn
kinh tế.
Cũng trong giai đoạn sau này, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
104/2010/NĐ-CP ngày 11/10/2010 của Chính phủ về tổ chức, quản lý và hoạt động
của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu trực
tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh. Đây là căn cứ pháp lý quan trọng trong quá trình
tổ chức lại bộ máy quản lý và hoạt động tại công ty Thăng Long sau chuyển đổi.

Bài chuyên đề lấy đối tượng nghiên cứu là quá trình chuyển đổi tại công ty
Thăng Long, một công ty nhà nước độc lập, sang công ty TNHH một thành viên
BCA Thăng Long, do đó các chế độ pháp lý dưới đây sẽ chỉ xem xét đối với loại
hình công ty nhà nước độc lập mà không đề cập đến các loại hình khác.
1. Đối tượng và điều kiện chuyển đổi
Theo Điều 7 Nghị định 25/2010/NĐ-CP ngày 19/3/2010 của Chính phủ về
chuyển đổi công ty nhà nước thành công ty TNHH một thành viên và tổ chức quản
lý công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu (sau đây gọi là Nghị
định 25/2010/NĐ-CP) quy định:
“Điều 7. Đối tượng chuyển đổi
1. Công ty nhà nước độc lập.
2. Công ty nhà nước là công ty mẹ tập đoàn kinh tế nhà nước; công ty mẹ
trong tổng công ty nhà nước; công ty mẹ trong tổng công ty thuộc tập đoàn kinh tế
nhà nước; công ty mẹ trong mô hình công ty mẹ - công ty con (gọi chung là công ty
mẹ).
3. Công ty thành viên hạch toán độc lập của tổng công ty nhà nước, tập
đoàn kinh tế nhà nước.
4. Đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc tổng công ty nhà nước, công ty mẹ
của tập đoàn kinh tế nhà nước, công ty mẹ của tổng công ty nhà nước;
5. Công ty nông nghiệp, công ty lâm nghiệp, nông trường quốc doanh, lâm
trường quốc doanh.”
18
Không phải toàn bộ các CTNN đều có thể chuyển đổi thành công ty TNHH một
thành viên, mà chỉ những CTNN thuộc nhóm các đối tượng trên và đáp ứng các
điều kiện quy định tại Điều 8 Nghị định 25/2010/NĐ-CP mới được phép chuyển
đổi.
“Điều 8. Điều kiện chuyển đổi
1. Các doanh nghiệp quy định tại Điều 7 Nghị định này được tổ chức lại,
chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên khi đáp ứng đủ các
điều kiện sau:

a) Các đối tượng quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 7 Nghị định này
thuộc ngành, lĩnh vực, địa bàn mà Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn; được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt.
Công ty mẹ trong tổng công ty thuộc tập đoàn kinh tế nhà nước và các đối
tượng quy định tại khoản 3 và 4 Điều 7 Nghị định này không thuộc diện Nhà nước
nắm giữ 100% vốn điều lệ, nhưng có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt động
sản xuất kinh doanh, chiến lược phát triển, nắm giữ các bí quyết kinh doanh, công
nghệ, thông tin của tổng công ty, tập đoàn mà tổng công ty, tập đoàn nắm giữ
100% vốn điều lệ;
b) Còn vốn nhà nước sau khi đã được xử lý tài chính. Trường hợp không còn
vốn nhà nước thì báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định việc bổ sung vốn nhà
nước; nếu không được bổ sung vốn thì chuyển sang thực hiện các hình thức chuyển
đổi sở hữu doanh nghiệp theo quy định tại Điều 80 Luật Doanh nghiệp nhà nước.
Trường hợp kinh doanh ngành, nghề mà pháp luật quy định phải có vốn
pháp định thì vốn điều lệ (dự kiến) của công ty không thấp hơn vốn pháp định.
2. Đối với các đối tượng quy định tại khoản 4 Điều 7 Nghị định này, ngoài
điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này còn phải đáp ứng các điều kiện sau:
a) Có thể tách thành đơn vị hạch toán độc lập;
b) Việc chuyển đổi đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc thành công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên không gây khó khăn hoặc ảnh hưởng đến hiệu
quả sản xuất, kinh doanh của tổng công ty nhà nước, công ty mẹ.
3. Doanh nghiệp thuộc diện cổ phần hóa nhưng chưa triển khai thực hiện cổ
phần hóa hoặc đang thực hiện theo trình tự, thủ tục chuyển đổi doanh nghiệp thành
công ty cổ phần nhưng dự kiến đến ngày 01 tháng 7 năm 2010 chưa có quyết định
xác định giá trị doanh nghiệp của cấp có thẩm quyền.
19
Doanh nghiệp quy định tại khoản 3 Điều này sau khi chuyển thành công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên phải tiếp tục chuyển thành công ty cổ phần
theo lộ trình được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Sở dĩ pháp luật quy định chỉ có các CTNN hoạt động độc lập, hoạt động kinh

doanh thuộc danh mục Nhà nước cần củng cố, phát triển, duy trì 100% sở hữu được
chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên là vì các công ty hoạt động công
ích do còn được Nhà nước giao kế hoạch, được hỗ trợ bù đắp các chi phí nên không
đủ điều kiện “trách nhiệm hữu hạn” của một công ty TNHH một thành viên cũng
như chế độ TNHH của chủ sở hữu công ty, vì vậy không thể trở thành đối tượng
được chuyển đổi.
Đối với những công ty mà Nhà nước không nắm giữ toàn bộ vốn điều lệ, pháp
luật không cho phép các công ty này được quyền chuyển đổi thành công ty TNHH
một thành viên bởi đặc tính của công ty đó khi chuyển đổi thành công ty TNHH
một thành viên là vẫn không thay đổi bản chất sở hữu mà chỉ thay đổi về hình thức
pháp lý. Vì vậy, việc quy định những đối tượng chuyển đổi chỉ bao gồm những
CTNN mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ là hợp lý.
Điều đó đồng nghĩa với việc các CTNN thuộc diện giao, bán, khoán kinh doanh,
cho thuê, giải thể, phá sản và các CTNN nằm trong kế hoạch cổ phẩn hóa không thể
là đối tượng được chuyển đổi. Vì các CTNN này thuộc diện chuyển đổi quyền sở
hữu. Điều đó làm mất đi bản chất của việc chuyển đổi từ hình thức CTNN sang
công ty TNHH một thành viên. Tuy nhiên, trong Nghị định 25/2010/NĐ-CP có quy
định các CTNN nằm trong kế hoạch cổ phần hóa nhưng đến ngày 1/7/2010 vẫn
chưa hoàn thành việc chuyển đổi thành công ty cổ phần cũng phải “tạm thời”
chuyển thành công ty TNHH một thành viên rồi sau đó sẽ tiếp tục chuyển thành
công ty cổ phần theo lộ trình, đó là nhằm mục đích đối phó với cam kết đã ký khi
gia nhập WTO.
2. Trình tự và thủ tục chuyển đổi
Về hình thức, chuyển đổi chỉ là sự thay đổi về loại hình công ty. Nhưng về thực
chất, sự thay đổi đó lại dẫn đến hàng loạt sự thay đổi bên trong của CTNN như:
thay đổi cơ cấu phòng ban, vị trí, chức danh quản lý, thay đổi cơ cấu vốn, tài sản
trong công ty… Vì vậy, để đảm bảo được hiệu quả của công việc chuyển đổi, quá
trình chuyển đổi nhất thiết phải được thực hiện một cách khoa học, tuần tự theo một
trình tự, thủ tục chặt chẽ và hợp lý.
20

Trình tự chuyển đổi CTNN thành công ty TNHH một thành viên được quy định
rõ tại chương II Nghị định 25/2010/NĐ-CP. Theo các khoản đã được quy định tại
Điều 9 của Nghị định này có thể chia quá trình chuyển đổi thành 5 bước như sau:
- Chuẩn bị chuyển đổi
- Xây dựng đề án chuyển đổi
- Thẩm định, phê duyệt phương án chuyển đổi và triển khai thực hiện
- Bổ nhiệm người đại diện theo ủy quyền của chủ sở hữu và các chức danh quản
lý, điều hành công ty
- Quyết định chuyển đổi và đăng ký kinh doanh.
2.1. Chuẩn bị chuyển đổi
Đây là khâu đầu tiên của quá trình chuyển đổi.Công tác chuẩn bị tốt sẽ là cơ sở,
điều kiện để tiến hành tốt quá trình chuyển đổi. Việc chuẩn bị chuyển đổi gồm các
bước sau:
- Bước thứ nhất: lập kế hoạch chuyển đổi, lộ trình chuyển đổi
Kế hoạch chuyển đổi được xây dựng dựa vào Đề án tổng thể sắp xếp doanh
nghiệp 100% vốn nhà nước đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Thẩm quyền
quyết định chuyển đổi đã được quy định tại Điều 11 Nghị định 25/2010/NĐ-CP:
“Điều 11. Thẩm quyền quyết định chuyển đổi
1. Thủ tướng Chính phủ quyết định hoặc ủy quyền cho Bộ trưởng quyết định
lộ trình và chuyển đổi doanh nghiệp do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập.
2. Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định lộ trình và
chuyển đổi doanh nghiệp do mình quyết định thành lập và các công ty thành viên
tổng công ty nhà nước, tập đoàn kinh tế nhà nước do Thủ tướng Chính phủ ủy
quyền.
3. Hội đồng quản trị công ty mẹ, tổng công ty nhà nước quyết định lộ trình
và chuyển đổi đối với các đối tượng quy định tại khoản 3 và 4 Điều 7 Nghị định
này.”
- Bước thứ hai: Thông báo về kế hoạch và lộ trình chuyển đổi (khoản 1 Điều 9)
Sau khi đã có danh sách và kế hoạch chuyển đổi, cơ quan có thẩm quyền quyết
định cần tiến hành thông báo cho các công ty về kế hoạch, quyền và trách nhiệm

của công ty trong việc chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên.
- Bước thứ ba: Thành lập ban chuyển đổi CTNN thành công ty TNHH một thành
viên (gọi là Ban chuyển đổi)
21
Mục đích của việc thành lập ban chuyển đổi là để có một cơ quan giúp Giám đốc
thực hiện các công việc chuyển đổi. Thành phần gồm:Trưởng ban là Chủ tịch Hội
đồng quản trị hoặc Tổng giám đốc (Giám đốc) công ty; ủy viên thường trực là Kế
toán trưởng; ủy viên Ban chuyển đổi doanh nghiệp có thể gồm Chủ tịch Công đoàn
cơ sở, các trưởng phòng hoặc ban; đổi mới và phát triển doanh nghiệp, kế hoạch,
kinh doanh, tổ chức cán bộ, lao động; có thể mời Bí thư Đảng ủy (chi bộ) tham gia
là ủy viên Ban chuyển đổi.
Danh sách Ban chuyển đổi do chính doanh nghiệp dự kiến. Bộ, Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh, Hội đồng quản trị công ty sẽ quyết định thành lập ban chuyển đổi công ty
trên cơ sở danh sách dự kiến do công ty lập.
- Bước thứ tư: Thông báo chuyển đổi
Theo khoản 3 Điều 9 Nghị định 25/2010/NĐ-CP quy định: “Doanh nghiệp
chuyển đổi thông báo cho người lao động trong doanh nghiệp biết về kế hoạch và
lộ trình chuyển đổi trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo quy
định tại khoản 1 Điều này.”. Đây là một thủ tục bắt buộc với CTNN khi chuyển đổi
thành công ty TNHH một thành viên. Pháp luật quy định như vậy nhằm bảo vệ
nhữn người lao động trong công ty – chủ thể chịu nhiều ảnh hưởng nhất của việc
chuyển đổi.
2.2. Xây dựng đề án chuyển đổi (khoản 4, 5 Điều 9 Nghị định 25/2010/NĐ-CP)
Tiếp theo công việc chuẩn bị là xây dựng đề án chuyển đổi. Đây là bước có ý
nghĩa quan trọng trong quá trình chuyển đổi. Một phương án chi tiết, cụ thể, khoa
học mang tính khả thi cao được đưa ra sẽ tạo ra nhiều thuận lợi cho các bước tiếp
theo là thẩm định, phê duyệt, quyết định chuyển đổi và đăng ký kinh doanh.
Ban chuyển đổi công ty cần tiến hành các bước sau:
Thứ nhất, chuẩn bị hồ sơ, tài liệu có liên quan đến chuyển đổi doanh nghiệp;
Thứ hai,kiểm kê, phân loại, xác định vốn, tài sản doanh nghiệp đang quản lý, sử

dụng.
Tài sản doanh nghiệp đang quản lý, sử dụng bao gồm: tài sản của doanh nghiệp
đang sử dụng; tài sản không có nhu cầu sử dụng; tài sản chờ thanh lý; tài sản hao
hụt, mất mát và các tổn thất khác về tài sản của doanh nghiệp; tài sản thuê, mượn,
nhận giữ hộ, nhận ký gửi, nhận vốn góp liên doanh, liên kết; tài sản dôi thừa; các
khoản phải thu; các khoản phải trả; các khoản phải thu không có khả năng thu hồi;
Thứ ba, lập danh sách, phân loại lao động và phương án sử dụng diện tích đất
doanh nghiệp đang quản lý;
22
Thứ tư,Ban chuyển đổi công ty phối hợp với Ban đổi mới và phát triển doanh
nghiệp Bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc TW tiến hành các hoạt động lập phương án
xử lý tài chính, tài sản; phương án sắp xếp lại lao động; báo cáo tài chính và dự kiến
vốn điều lệ.
Trong quá trình xử lý vốn, tài sản, tài chính và lao động của đối tượng chuyển
đổi cần chú ý thực hiện theo các nguyên tắc sau (theo khoản 2 Điều 13 Nghị định
25/2010/NĐ-CP):
- Tất cả tài sản của công ty khi chuyển đổi đều được tính bằng giá trị;
- Tài sản thuộc quyền quản lý, sử dụng của công ty: doanh nghiệp kiểm kê, phân
loại, xác định số lượng, đánh giá thực trạng để chuyển giao sang công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên. Đất rừng và các tài sản trên đất rừng được chuyển
giao nguyên trạng sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên theo hướng dẫn
của Bộ Tài chính và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
- Tài sản thuê, mượn, nhận giữ hộ, nhận ký gửi, nhận góp vốn liên doanh, liên
kết: doanh nghiệp chuyển đổi phải thống nhất với người có tài sản cho thuê, cho
mượn, gửi giữ hộ, góp vốn liên doanh, liên kết để công ty trách nhiệm hữu hạn một
thành viên tiếp tục kế thừa các hợp đồng đã ký hoặc thanh lý hợp đồng;
- Tài sản không có nhu cầu sử dụng, ứ đọng, chờ thanh lý, hao hụt, mất mát, tổn
thất: doanh nghiệp nhượng bán, thanh lý, xử lý theo chế độ quản lý hiện hành;
- Tài sản dôi thừa: doanh nghiệp hạch toán tăng vốn của chủ sở hữu tại doanh
nghiệp;

- Các khoản nợ phải thu: các đơn vị thành viên tổng công ty dự kiến chuyển đổi
và hình thành công ty mẹ có trách nhiệm tiếp nhận các khoản nợ phải thu của doanh
nghiệp chuyển đổi và thu hồi những khoản nợ đến hạn trước khi chuyển đổi. Đến
thời điểm chuyển đổi còn nợ tồn đọng phải thu khó đòi thì xử lý theo quy định hiện
hành của Nhà nước về xử lý nợ tồn đọng;
- Các khoản nợ phải trả: doanh nghiệp có trách nhiệm kế thừa các khoản nợ phải
trả cho các chủ nợ theo cam kết, kể cả các khoản nợ thuế, ngân sách, nợ cán bộ,
công nhân viên; thanh toán các khoản nợ đến hạn. Các khoản nợ phải trả không có
người đòi, giá trị tài sản không xác định được chủ sở hữu được tính vào vốn chủ sở
hữu. Trường hợp công ty có khó khăn về khả năng thanh toán các khoản nợ quá hạn
thì được xử lý theo quy định hiện hành của Nhà nước về xử lý nợ tồn đọng;
- Doanh nghiệp có trách nhiệm sắp xếp, sử dụng lao động theo quy định của pháp
luật về lao động và sắp xếp lại công ty nhà nước; thực hiện chế độ đối với lao động
23
dôi dư theo nguyên tắc mỗi doanh nghiệp chỉ được Nhà nước cấp kinh phí một lần
để giải quyết chế độ đối với lao động dôi dư; kế thừa mọi quyền, nghĩa vụ đối với
người lao động theo quy định của pháp luật về lao động.
Áp dụng các quy định trên, trong quá trình chuyển đổi của mình công ty Thăng
Long đã thực hiện đầy đủ các phương án xử lý vốn, tài sản, tài chính, lao động. Cụ
thể:
- Về phương án xử lý tài chính: công ty đã kiểm kê và xác định vốn chủ sở hữu
của doanh nghiệp tính đến thời điểm 31/12/2010 là 66.865 triệu đồng. Công ty chịu
trách nhiệm kế thừa và xử lý các khoản nợ chưa thanh toán (trừ các khoản nợ được
xử lý tài chính đối với công ty nhà nước thực hiện chuyển đổi theo quy định). Cục
Tài chính chủ trì, phối hợp với các đơn vị liên quan hướng dẫn doanh nghiệp lập
báo cáo tài chính tại thời điểm Công ty TNHH một thành viên BCA – Thăng Long
được cấp Giấy chứng nhận ĐKKD, hướng dẫn việc quyết toán thuế, đăng ký mã số
thuế và quyết toán chi phí chuyển đổi công ty Thăng Long thành Công ty TNHH
một thành viên.
- Về phương án sử dụng đất: Tổng diện tích đất an ninh, quốc phòng Bộ Công an

tạm giao cho Công ty quản lý và sử dụng tại các địa điểm là 6.425 m
2
; diện tích đất
thuê là 2.088m
2
. Công ty có trách nhiệm kế thừa quyền sử dụng đất, hợp đồng thuê
đất, thuê nhà theo quy định của Luật đất đai.
- Về phương án sử dụng lao động: Công ty kế thừa các quyền, nghĩa vụ và xử lý
những vấn đề tồn tại trong các hợp đồng lao động.
Thứ năm, xây dựng mô hình và cơ cấu tổ chức của công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên; xây dựng dự thảo điều lệ. Đây là nội dung có tính tất yếu và đặc
biệt quan trọng trong quá trình xây dựng phương án chuyển đổi. Nó có tính quyết
định đến việc công ty có đạt được hiệu quả thực chất của việc chuyển đổi hay
không, hay chỉ là “bình mới, rượu cũ”.Như đã phân tích ở trên, mục tiêu của việc
chuyển đổi không chỉ là tạo ra địa vị pháp lý mới cho CTNN mà còn phải thay đổi
những nội dung kinh tế khác như lựa chọn mô hình tổ chức mới phù hợp (Hội đồng
thành viên hay Chủ tịch Công ty, kiêm nhiệm hay tách bạch giữa Chủ tịch Công ty
và Tổng Giám đốc), tách bạch giữa quản lý hành chính và quản trị doanh nghiệp,
thay đổi thói quen trong quản lý, điều hành, tăng tính chủ động, chuyên nghiệp và
trách nhiệm của chủ sở hữu… Do đó, công việc này đòi hỏi sự đồng thuận và quyết
tâm cao của chủ sở hữu và bộ máy lãnh đạo trực tiếp của công ty, bên cạnh sự quản
lý và giám sát của Nhà nước.
24
Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp của Bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc TW,
các cơ quan chủ quản có liên quan và doanh nghiệp sẽ cùng tham gia trong quá
trình xây dựng mô hình, cơ cấu tổ chức và điều lệ. Tại Công ty Thăng Long, các cơ
quan đó bao gồm: Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp Bộ Công an chỉ đạo
Công ty BCA – Thăng Long xây dựng Điều lệ tổ chức và hoạt động của Công ty
TNHH một thành viên theo quy định tại Điều 15 Nghị định số 25/2010/NĐ-CP;
Tổng cục Hậu cần - Kỹ thuật chủ trì, phối hợp với Tổng cục xây dựng lực lượng

Công an nhân dân, Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp Bộ công an và Công ty
BCA – Thăng Long đề xuất bộ máy tổ chức, quản lý nhân sự cụ thể của Công ty
TNHH một thành viên BCA – Thăng Long báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét,
quyết định.
2.3. Thẩm định, phê duyệt và triển khai thực hiện đề án chuyển đổi
Theo điểm a khoản 6 Điều 9 Nghị định 25/2010/NĐ-CP, người quyết định thành
lập doanh nghiệp là người thẩm thẩm định và phê duyệt Đề án chuyển đổi do công
ty trình. Trong trường hợp của công ty Thăng Long, người có thẩm quyền phê duyệt
là Bộ trưởng Bộ công an.
Ban đổi mới và phát triển doanh nghiệp Bộ Công an sẽ có trách nhiệm tổ chức
thực hiện, đôn đốc và giám sát Công ty BCA – Thăng Long trong quá trình thực
hiện đề án chuyển đổi .
2.4. Bổ nhiệm người đại diện theo ủy quyền của chủ sở hữu và các chức danh
quản lý, điều hành công ty (khoản 7 Điều 9 Nghị định 25/2010/NĐ-CP)
So với Nghị định 95/2006/NĐ-CP đây là một quy định mới trong điều khoản về
trình tự chuyển đổi nhằm hoàn thiện và làm rõ chủ thể có thẩm quyền bổ nhiệm
người đại diện theo ủy quyền của chủ sở hữu và các chức danh quản lý, điều hành.
Theo đó:
- Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm các thành viên Hội đồng thành viên, Kiểm soát
viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là
công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước, công ty mẹ chuyển đổi từ tổng công ty
do Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập trên cơ sở đề nghị của Bộ trưởng Bộ
quản lý ngành.
- Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bổ nhiệm các
thành viên Hội đồng thành viên, Kiểm soát viên, Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc
Chủ tịch công ty đối với các công ty mà mình được phân công, phân cấp thực hiện
25

×