Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Pháp luật về quản lý thuế trong lĩnh vực xuất nhập khẩu - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 100 trang )


2

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT 4
DANH MỤC CÁC BẢNG 5
MỞ ĐẦU 6
CHƢƠNG 1:MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT NHẬP KHẨU VÀ
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU 9
1.1. Tổng quan về hoạt động xuất nhập khẩu 9
1.1.1. Khái niệm về hoạt động xuất nhập khẩu 9
1.1.2. Lịch sử phát triển của hoạt động xuất nhập khẩu 12
1.1.3. Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu 13
1.2. Tổng quan về thuế trong lĩnh vực xuất nhập khẩu 14
1.2.1. Sự cần thiết phải đánh thuế đối với hoạt động xuất nhập khẩu 14
1.2.2. Các loại thuế trong lĩnh vực xuất nhập khẩu 17
1.3. Tổng quan pháp luật về quản lý thuế trong lĩnh vực xuất nhập khẩu 22
1.3.1. Khái niệm pháp luật về quản lý thuế trong lĩnh vực xuất nhập khẩu 22
1.3.2. Mối quan hệ giữa pháp luật về quản lý thuế trong lĩnh vực xuất nhập khẩu và
pháp luật về thủ tục hải quan 23
1.3.3. Mục đích, yêu cầu của pháp luật về quản lý thuế trong lĩnh vực xuất nhập khẩu 26
Tóm tắt chƣơng 1: 27
CHƢƠNG 2:THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ TRONG LĨNH
VỰC XUẤT NHẬP KHẨU 29
2.1. Pháp luật điều chỉnh về hoạt động quản lý thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam 29
2.2. Quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của các chủ thể theo pháp luật về quản lý thuế
trong lĩnh vực xuất nhập khẩu 34
2.2.1. Quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế 34
2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của Cơ quan hải quan 35
2.2.3. Trách nhiệm của công chức hải quan trong việc thu thuế 38


2.2.4. Trách nhiệm của các Cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá nhân khác có liên quan
đến việc thực hiện pháp luật thuế 38
2.3. Nội dung cơ bản về thủ tục quản lý thuế trong lĩnh vực xuất nhập khẩu 39
2.3.1. Về thủ tục đăng ký thuế 39
2.3.2. Quản lý kê khai thuế 42
2.3.3. Quy định về quản lý nộp thuế 46
2.3.4. Bảo đảm quyền của người nộp thuế 52
2.3.5. Các quy định về quản lý thuế trên khía cạnh kiểm tra và cưỡng chế 58
Tóm tắt chƣơng 2: 65
CHƢƠNG 3:THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ TRONG
LĨNH VỰC XUẤT NHẬP KHẨU VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 67
3.1. Đánh giá tác động thực tiễn của việc thi hành các quy định pháp luật về quản
lý thuế trong lĩnh vực xuất nhập khẩu 67
3.1.1. Hệ thống pháp luật tạo ra cơ sở pháp lý chung cho hoạt động quản lý thuế đối
với hàng hóa xuất nhập khẩu 67

3

3.1.2. Các giải pháp đảm bảo thực hiện tốt các quy định pháp luật về quản lý thuế
trong lĩnh vực xuất nhập khẩu đã được áp dụng đồng bộ 69
3.1.3. Những kết quả thu được từ thực tiễn áp dụng pháp luật về quản lý thuế trong
lĩnh vực xuất nhập khẩu 71
3.1.4. Các vướng mắc, tồn tại 73
3.2. Định hƣớng hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế trong lĩnh vực xuất nhập
khẩu và một số kiến nghị 76
3.2.1. Đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế 76
3.2.2. Đảm bảo phù hợp với mục tiêu chính sách của Đảng, Nhà nước pháp luật có
liên quan 77
3.3 Một số kiến nghị để hoàn thiện các quy định pháp luật về quản lý thuế trong
lĩnh vực xuất nhập khẩu 78

3.3.1. Bổ sung một số quy định về khai bổ sung hồ sơ khai thuế để đảm bảo quyền lợi
cho người nộp thuế 78
3.3.2. Đề xuất sửa đổi một số quy định về thời hạn nộp thuế 80
3.3.3. Đề xuất bỏ cụm từ “tiền thuế truy thu” trong quy định về thứ tự thanh toán tiền
thuế, tiền phạt 83
3.3.4. Đề xuất sửa đổi về một số trường hợp liên quan đến xử lý số tiền thuế nộp thừa 83
3.3.5. Hướng giải quyết các bất cập trong quy định về việc hoàn thành nghĩa vụ nộp
thuế 84
3.3.6. Rút ngắn thời hạn giải quyết đối với trường hợp hoàn trước, kiểm tra sau 86
3.3.7. Quy định thêm về trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc
cung cấp thông tin về người nộp thuế 86
3.3.8. Bổ sung trường hợp bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế 87
3.3.9. Một số kiến nghị liên quan đến quy định về các biện pháp cưỡng chế thi hành
quyết định hành chính thuế 88
3.3.10. Bổ sung trường hợp miễn xử phạt vi phạm pháp luật về thuế 92
3.4. Tạo ra cơ chế thực hiện tốt qui định về quản lý thuế trong lĩnh vực xuất nhập
khẩu 93
Tóm tắt chƣơng 3: 96
KẾT LUẬN 97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 99








4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1
GTGT
Giá trị gia tăng
2
AFTA
Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
3
APEC
Khối Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương
4
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
5
EU
Liên minh Châu Âu
6
GATT
Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan
7
GTT22
Hệ thống Dữ liệu giá tính thuế
8
KT559
Hệ thống Kế toán thuế
9
NK
Nhập khẩu
10

NSNN
Ngân sách nhà nước
11
QLT
Quản lý thuế
12
TTĐB
Tiêu thụ đặc biệt
13
WTO
Tổ chức Thương mại thế giới
14
XK
Xuất khẩu
15
XNK
Xuất nhập khẩu





5

DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang

Bảng 3.1: Số thu thuế giai đoạn 2007-2010 68
Bảng 3.2: Theo dõi nợ thuế trước và sau khi thực hiện Luật QLT 75



6

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Toàn cầu hóa đang trở thành một làn sóng mạnh mẽ, kéo theo sự gia
nhập của hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Với tốc độ
hội nhập quốc tế nhanh chóng và sâu rộng, hoạt động xuất nhập khẩu (XNK)
trở nên năng động hơn bao giờ hết và có ảnh hưởng đặc biệt to lớn đối với
toàn bộ nền kinh tế - chính trị - xã hội của Việt Nam. Các luồng đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng, kim ngạch XNK tăng mạnh, hàng
hóa và dịch vụ trong XNK ngày càng trở nên đa dạng hơn, số thu thuế đối với
hàng hóa XNK ngày một tăng, năm sau cao hơn năm trước.
Bên cạnh đó, cùng với yêu cầu của xu thế hội nhập quốc tế, là yêu cầu
cần phải nhanh chóng triển khai ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào công
tác quản lý để nâng cao hiệu quả, đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa, phù hợp với
nhịp độ phát triển của các nước đối tác trong khu vực và trên thế giới. Ngành
Hải quan – cơ quan được trao nhiệm vụ “tổ chức thực hiện pháp luật về thuế
đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu” (Điều 11 Luật Hải quan) cũng đang
trong quá trình triển khai hiện đại hóa các thủ tục hải quan. Theo đó, công tác
quản lý thu thuế của ngành cũng có những bước cải tiến nhằm đảm bảo thu
đúng, thu đủ cho ngân sách nhà nước nhưng vẫn tạo thuận lợi cho doanh
nghiệp XNK.
Mặc dù vậy, hệ thống pháp luật nói chung và các quy định pháp luật về
quản lý thuế trong lĩnh vực XNK nói riêng vẫn còn nhiều hạn chế, các văn
bản pháp quy về thuế XNK thay đổi thường xuyên, nhiều trường hợp chồng
chéo, gây khó hiểu đối với các nhà XNK. Thực tế áp dụng cho thấy tình trạng
trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế vẫn còn nhiều trong khi nhà nước chưa có biện


7

pháp nào tỏ ra thực sự hiểu quả để giải quyết các vấn đề này… Mặt khác,
đứng trước những công nghệ quản lý hiện đại, hệ thống pháp luật vẫn chưa
xây dựng được hành lang pháp lý cần thiết cho việc ứng dụng tiến bộ khoa
học kỹ thuật , nhiều ứng dụng công nghệ thông tin đã được triển khai có hiệu
quả nhưng vẫn thiếu vắng các quy định pháp luật cần thiết.
Xuất phát từ những lý do đó, việc đi sâu nghiên cứu những vấn đề liên
quan đến pháp luật về quản lý thuế trong lĩnh vực XNK, đánh giá tình hình
thực hiện pháp luật về quản lý thuế trong lĩnh vực XNK của Việt Nam trong
thời gian qua từ đó đề xuất một số giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật về
quản lý thuế trong lĩnh vực XNK đang là một đòi hỏi khách quan. Hy vọng
rằng, đề tài “Pháp luật về quản lý thuế trong lĩnh vực xuất nhập khẩu – Thực
trạng và phương hướng hoàn thiện” sẽ góp phần vào việc giải quyết những
vấn đề thực tiễn nói trên.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận chung của pháp luật về quản
lý thuế trong lĩnh vực XNK, hoạt động quản lý nhà nước của cơ quan hải
quan đối với thuế XNK, đánh giá tình hình áp dụng pháp luật về quản lý thuế
trong lĩnh vực thuế XNK ở Việt Nam trong thời gian qua, dự đoán những xu
hướng vận động liên quan ở Việt Nam trong thời gian tới để từ đó đề ra
những giải pháp mang tính đồng bộ, lâu dài cho pháp luật về quản lý thuế đối
với hàng hóa XNK ở Việt Nam trong thời gian tới đáp ứng được xu thế phát
triển trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Những quy định của pháp luật về quản lý thuế
của cơ quan nhà nước đối với hoạt động XNK hàng hóa ở Việt Nam.

8


Phạm vi nghiên cứu: Quy định và thực tiễn áp dụng của pháp luật hiện
hành về quản lý thuế trong lĩnh vực XNK trên phạm vi cả nước (trọng tâm là
vai trò của cơ quan hải quan).
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp của phép biện chứng duy vật và duy vật lịch
sử. Đồng thời sử dụng các phương pháp: diễn giải, tổng hợp, thống kê, phân
tích, đánh giá, nghiên cứu tình huống.
5. Kết cấu của đề tài
Đề tài được chia làm 3 phần cơ bản:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về xuất nhập khẩu và pháp luật
về quản lý thuế đối với hoạt động xuất nhập khẩu
Chương 2: Thực trạng pháp luật về quản lý thuế trong lĩnh vực xuất nhập
khẩu
Chương 3: Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quản lý thuế trong
lĩnh vực xuất nhập khẩu
Tuy nhiên, do thời gian có hạn; trình độ nghiên cứu, khả năng đánh giá,
nhìn nhận vấn đề còn nhiều hạn chế nên luận văn sẽ không tránh khỏi những
thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý thân thiện, chân thành từ phía Hội
đồng chấm luận văn để đề tài nghiên cứu được hoàn thiện hơn.
Chân thành cảm ơn!

9

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT NHẬP KHẨU VÀ
PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THUẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG XUẤT
NHẬP KHẨU

1.1. Tổng quan về hoạt động xuất nhập khẩu
1.1.1. Khái niệm về hoạt động xuất nhập khẩu

XNK là cách gọi phổ biến của các thuật ngữ như: xuất khẩu (XK), nhập
khẩu (NK); thương mại quốc tế; ngoại thương… Đó là những thuật ngữ dùng
để chỉ hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế, là quá trình trao
đổi hàng hoá giữa các quốc gia dựa trên nguyên tắc trao đổi ngang giá lấy tiền
tệ làm môi giới. XNK không phải là hành vi buôn bán riêng lẻ mà là một hệ
thống các quan hệ buôn bán trong một nền kinh tế có cả tổ chức bên trong và
bên ngoài. Có thể hiểu hoạt động NK là mua hàng hoá từ các tổ chức kinh tế,
các công ty nước ngoài, tiến hành tiêu thụ hàng hoá, vật tư ở thị trường nội
địa hoặc tái xuất với mục tiêu lợi nhuận và nối liền sản xuất giữa các quốc gia
với nhau. Còn hoạt động XK là bán lại cho các cá nhân, pháp nhân quốc tế
những hàng hoá được sản xuất, gia công, chế biến trong nước hoặc hàng hoá
mua về từ các nước khác.
Theo đó, lĩnh vực XNK có một số đặc trưng cơ bản như sau:
- Có mức độ phân công lao động và chuyên môn quốc tế ở trình độ kỹ
thuật cao và quy mô lớn.
- Là quan hệ kinh tế diễn ra giữa các chủ thể của các nước khác nhau,
các chủ thể có quốc tịch khác nhau, do vậy chịu sự điều chỉnh của các hệ
thống pháp luật khác nhau, và thường xuyên sử dụng các luật, điều ước, công
ước, quy tắc, thông lệ… mang tính chất quốc tế cũng như sử dụng đa dạng
các loại tiền tệ để thanh toán.

10

- Hàng hóa, dịch vụ được di chuyển qua biên giới các quốc gia nên phụ
thuộc nhiều vào chính sách XNK của các nước, đặc biệt là việc quản lý
thương mại quốc tế thông qua các công cụ chính sách như thuế, hạn ngạch và
các công cụ phi thuế quan khác của các nước. Do phải vận chuyển qua biên
giới quốc gia với khoảng cách tương đối xa nên quá trình giao nhận vận
chuyển cũng trở nên phức tạp hơn, đòi hỏi thêm nhiều hoạt động kèm theo
như làm các thủ tục thông quan, vận chuyển thường quan qua các hãng vận

tải, mua bảo hiểm cho hàng hoá…
- Hàng hóa, dịch vụ phải phù hợp với những quy định về chính sách mặt
hàng của từng nước và phải là loại hàng hoá, dịch vụ mà thế giới chấp nhận.
Do vậy, hàng hoá, dịch vụ thường được tiêu chuẩn hóa theo tiêu chuẩn quốc
gia, khu vực và quốc tế.
Đối tượng của XNK là hàng hoá và dịch vụ. Trong phạm vi nghiên cứu
của đề tài về pháp luật điều chỉnh hoạt động quản lý thuế, tôi chỉ xin đề cập
đến mảng hàng hoá XNK hay còn gọi là hàng hoá XK và hàng hoá NK. Theo
cách hiểu được quy định trong “Hệ thống thương mại chung” đã được pháp
điển hoá trong Quyết định 111/2008/QĐ-TTg ngày 15/8/2008 của Thủ tướng
Chính phủ về việc Ban hành Chế độ báo cáo thống kê tổng hợp áp dụng đối
với Bộ, ngành thì:
- Hàng XK là toàn bộ hàng hoá có xuất xứ trong nước và hàng tái xuất,
được đưa ra nước ngoài, làm giảm nguồn của cải vật chất của Việt Nam, cụ
thể:
+ Hàng hoá có xuất xứ trong nước: là hàng hoá được khai thác, sản xuất,
chế biến trong nước theo quy tắc xuất xứ của Việt Nam;
+ Hàng hoá tái xuất: là những hàng hoá Việt Nam đã NK, sau đó lại XK
nguyên trạng hoặc chỉ sơ chế, bảo quản, đóng gói lại, không chịu sự kiểm tra,
giám sát của cơ quan hải quan và phải tái xuất theo quy định của pháp luật.

11

- Hàng NK là hàng hoá có xuất xứ nước ngoài và hàng tái nhập, được
đưa vào từ nước ngoài, làm tăng nguồn của cải vật chất của Việt Nam, trong
đó:
+ Hàng hoá có xuất xứ nước ngoài: là hàng hoá được khai thác, sản xuất,
chế biến ở nước ngoài theo quy tắc xuất xứ của Việt Nam;
+ Hàng hoá tái nhập: là những hàng hoá Việt Nam đã XK, sau đó lại NK
nguyên trạng hoặc chỉ sơ chế, bảo quản, đóng gói lại, không làm thay đổi tính

chất cơ bản của hàng hoá, trừ hàng hoá tái nhập sau khi hết thời hạn tạm XK
theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 6 Thông tư 79/2009/TT-BTC ngày 20/04/2009
của Bộ Tài chính hướng dẫn về thủ tục hải quan; kiểm tra, giám sát hải quan;
thuế XK, thuế NK và quản lý thuế đối với hàng hoá XK, NK thì hàng hoá
XK, NK thương mại bao gồm:
1.
Hàng hoá XK, NK theo hợp đồng mua bán hàng hoá;
2.
Hàng hoá kinh doanh theo phương thức tạm nhập tái xuất;
3.
Hàng hoá kinh doanh chuyển cửa khẩu;
4.
Hàng hoá XK, NK theo loại hình nhập nguyên liệu để sản xuất
hàng XK;
5.
Hàng hoá XK, NK để thực hiện hợp đồng gia công với thương
nhân nước ngoài;
6.
Hàng hoá XK, NK để thực hiện các dự án đầu tư;
7.
Hàng hoá kinh doanh XK, NK qua biên giới đường bộ;
8.
Hàng hoá XK, NK nhằm mục đích thương mại của tổ chức (không
có mã số thuế, mã số kinh doanh XNK), của cá nhân;
9.
Hàng hoá XK, NK của doanh nghiệp chế xuất;
10.
Hàng hoá đưa vào, đưa ra kho bảo thuế;
11.

Hàng hoá tạm nhập – tái xuất, tạm xuất – tái nhập dự hội chợ, triển

12

lãm;
12.
Hàng tạm nhập – tái xuất, tạm xuất – tái nhập kà máy móc thiết bị,
phương tiện vận tải phục vụ thi công công trình, phục vụ các dự án
đầu tư, là tài sản đi thuê, cho thuê.
1.1.2. Lịch sử phát triển của hoạt động xuất nhập khẩu
Mặc dù lĩnh vực XNK đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử loài người nhưng
tầm quan trọng về kinh tế, xã hội và chính trị của nó chỉ mới được để ý đến
một cách chi tiết trong vài thế kỷ gần đây. Hoạt động XNK phát triển mạnh
cùng với sự phát triển của công nghiệp hoá, giao thông vận tải, toàn cầu hóa,
công ty đa quốc gia và xu hướng thuê nhân lực bên ngoài. Việc tăng cường
các hoạt động XNK thường được xem như ý nghĩa cơ bản của "toàn cầu hoá".
Trước đây, hoạt động XNK thường được điều chỉnh bằng các hiệp định
thương mại song phương giữa hai nước. Trước thế kỷ 19, khi chủ nghĩa trọng
thương còn chiếm ưu thế, đa số các nước áp đặt những mức thuế cao cùng
nhiều hạn chế thương mại khác đối với hàng NK. Kể từ thế kỷ 19, tư tưởng về
thương mại tự do dần dần nổi lên giữ vai trò chủ đạo ở các nước phương Tây,
đặc biệt là ở Anh. Trong những năm kể từ sau Chiến tranh Thế giới lần thứ
hai, các hiệp định thương mại đa phương như Hiệp định chung về Thương
mại và Thuế quan (GATT) và điều ước thành lập Tổ chức Thương mại thế
giới (WTO) đã cố gắng xây dựng một cơ chế thương mại quốc tế có sự thống
nhất điều chỉnh trên phạm vi toàn cầu.
Hướng tới thương mại tự do, các hiệp định thương mại không chỉ đàm
phán việc giảm thuế mà còn đàm phán cả các biện pháp phi thuế quan như
hạn chế số lượng NK, cấp phép NK, vệ sinh kiểm dịch, đầu tư nước ngoài,
mua sắm chính phủ và tạo thuận lợi cho thương mại bằng cách đơn giản hóa

các thủ tục hải quan.

13

Nếu trước đây, thương mại tự do thường tập trung vào các mặt hàng
nông sản và bảo hộ các mặt hàng chế tạo; thì hiện nay, đặc biệt là ở các nước
phát triển như Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu (EU) và Nhật Bản, lĩnh vực nông
nghiệp lại được quan tâm nhiều hơn và thể hiện rõ tính chất bảo hộ cao hơn so
với các lĩnh vực khác khi thoả thuận về các hiệp định thương mại quốc tế.
Lĩnh vực XNK thường được điều chỉnh bởi các quy tắc có tính toàn cầu
thông qua các hiệp định của WTO, mặc dù cũng có một số thoả thuận thương
mại khu vực như việc thành lập Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (AFTA);
Khối Thương mại Nam Mỹ (MERCOSUR) giữa một số nước ở Nam Mỹ;
Thỏa ước Mậu dịch Tự do Bắc Mỹ (NAFTA) giữa Hoa Kỳ, Canada và
Mexico; Liên minh Châu Âu giữa 25 quốc gia ở châu Âu. Có thể kể thêm một
số thỏa thuận thương mại quốc tế thất bại như Khu vực Mậu dịch Tự do Châu
Mỹ (FTAA) hay Hiệp định Đa phương về Đầu tư (MAI).
1.1.3. Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu
Không thể phủ nhận vai trò của XNK đối với sự phát triển kinh tế của
các nước hiện nay. Có thể nói rằng hoạt động XNK có ý nghĩa sống còn đối
với các nước tham gia vì nó giúp mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước;
đồng thời cho phép các quốc gia thay đổi cơ cấu các ngành kinh tế, cơ cấu vật
chất của sản phẩm theo hướng phù hợp với đặc điểm sản xuất của mình hơn.
Hoạt động XNK đóng những vai trò cụ thể như sau:
- XNK tạo điều kiện thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước. XNK là
lĩnh vực trao đổi, phân phối lưu thông hàng hóa với nước ngoài, nối sản xuất
và tiêu dùng của một nước với sản xuất và tiêu dùng của nước ngoài. Chính
hoạt động XNK đã mở rộng thị trường hàng hoá; đồng thời giúp tăng cường
nguồn cung ứng nguyên vật liệu cho sản xuất trong nước.


14

- Thông qua hoạt động XNK các nước có thể nhận thấy được, giới thiệu
được và khai thác được những thế mạnh, những tiềm năng của đất nước mình,
từ đó có thể tiến hành phân công lại lao động cho phù hợp nhất.
- XNK cũng tạo điều kiện cho các nước tranh thủ, khai thác các tiềm
năng, thế mạnh của các nước khác trên thế giới để thúc đẩy quá trình sản xuất
xã hội phát triển trên cơ sở tiếp thu những tiến bộ về khoa học công nghệ và
sử dụng những hàng hóa, dịch vụ tốt, rẻ mà mình chưa sản xuất được hoặc
sản xuất không hiệu quả.
- Bên cạnh đó hoạt động XNK cũng góp phần thúc đẩy quá trình liên kết
kinh tế, xã hội giữa các nước ngày càng chặt chẽ và mở rộng hơn, điều đó sẽ
góp phần ổn định tình hình kinh tế và chính trị của các quốc gia và của toàn
thế giới.
- XNK còn tạo điều kiện nâng cao khả năng tiêu dùng, tăng mức sống
của dân cư nhờ khả năng cho phép người tiêu dùng có thể tiêu dùng được
nhiều hàng hóa, dịch vụ hơn, chủng loại phong phú hơn, giá rẻ hơn. Đó chính
là cơ sở để nâng cao dần mức sống của dân cư các nước và của thế giới nói
chung.
- Ngoài ra, XNK cũng góp phần làm tăng khả năng thu hút vốn đầu tư
nước ngoài vào trong nước và mở rộng các mối quan hệ quốc tế.

1.2. Tổng quan về thuế trong lĩnh vực xuất nhập khẩu
1.2.1. Sự cần thiết phải đánh thuế đối với hoạt động xuất nhập khẩu
Thuế là khoản đóng góp bắt buộc của cá nhân và tổ chức cho Nhà nước,
phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành, không
mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế [4].
Hoạt động XNK có những tính chất đặc thù là quan hệ có tính chất quốc
tế. Hiện nay trong giai đoạn mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, giao lưu toàn


15

cầu, quản lý nhà nước về XNK đóng vai trò vô cùng quan trọng. Thuế trở
thành một công cụ hữu hiệu của các nhà quản lý.
a) Đánh thuế đối với hoạt động XNK để tạo nguồn thu cho Ngân sách
Nhà nước
Thuế nói chung vốn được Nhà nước ban hành xuất phát từ nhu cầu tạo
nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước (NSNN), đảm bảo cho các khoản chi cho
hoạt động của bộ máy nhà nước, trả lương cho cán bộ công nhân viên chức
nhà nước, các khoản chi cho an sinh xã hội, chi cho đầu tư phát triển, chi cho
đối ngoại… Nếu nguồn NSNN không đủ để đáp ứng, các hoạt động của nhà
nước sẽ bị ngưng trệ.
Hoạt động XNK là hoạt động xuất hiện về sau so với các hoạt động khác
trong đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, với tính chất là hoạt động kinh tế
có yếu tố nước ngoài, liên quan đến việc làm tăng hoặc giảm nguồn vật chất
trong nước, hoạt động XNK có thể thu về hoặc làm hụt đi một lượng ngoại tệ
lớn. Các giao dịch XNK thường có giá trị rất lớn, do đó, việc đánh thuế đối
với hoạt động XNK có ý nghĩa quan trọng đối với việc tăng nguồn thu cho
NSNN. Mà trên thực tế, nguồn thu từ thuế đối với hoạt động XNK của Việt
Nam hiện nay đang chiếm khoảng 20% trên tổng thu NSNN.
b) Đánh thuế đối với hoạt động XNK để điều chỉnh quan hệ kinh tế quốc
tế
Vẫn xuất phát từ mối quan hệ kinh tế giữa 2 hay nhiều quốc gia khác
nhau, hoạt động XNK là sự thể hiện rõ ràng nhất về mối quan hệ kinh tế quốc
tế. Việt Nam bắt đầu tham gia vào xu hướng hội nhập toàn cầu rất muộn so
với các quốc gia khác trên thế giới. Tuy nhiên, với thời gian không dài, Việt
Nam đã tham gia nhiều tổ chức khu vực và quốc tế như: ASEAN, WTO… ký
và gia nhập nhiều hiệp định quốc tế đa phương và song phương như: GATT,
AFTA, Khối hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC), và các


16

Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện với 5 đối tác lớn là Nhật Bản,
Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc và Newzealand… mở ra nhiều mối quan
hệ quốc tế bền vững. Theo đó, Việt Nam phải tuân thủ theo những quy tắc
quốc tế mà mình đã cam kết thực hiện. Do vậy, việc đánh thuế đối với hoạt
động XNK còn có ý nghĩa trong việc điều chỉnh các hoạt động kinh tế quốc
tế. Đặc biệt là chính sách thuế quan, lộ trình cắt giảm thuế, quy định về thuế
suất ưu đãi đối với các nước thành viên cùng tham gia các thỏa thuận quốc tế
được đặt ra như là một công cụ để đảm bảo thực hiện các cam kết quốc tế.
c) Đánh thuế đối với hoạt động XNK để bảo vệ lợi ích quốc gia
Trong hoạt động XNK, vì có liên quan đến mối quan hệ với quốc gia
khác nên đôi khi không tránh khỏi những xung khắc về lợi ích của mỗi quốc
gia. Lúc đó, thuế trở thành một công cụ đắc lực để bảo hộ nền sản xuất trong
nước và chống lại xu hướng cạnh tranh không cân sức giữa hàng hóa trong
nước với hàng hóa ngoại nhập. Khi Chính phủ nhận thấy những bất lợi
nghiêng về phía các hàng hóa được sản xuất từ các doanh nghiệp trong nước,
có thể tăng thuế đối với hàng NK (nếu là hàng hóa không khuyến khích NK
thì có thể tăng thuế TTĐB, nếu là hàng hóa Việt Nam có khả năng sản xuất
được thì có thể tăng thuế NK). Ngược lại, với một số mặt hàng XK lợi thế của
Việt Nam (như hàng nông sản, thủy sản, dệt may…) để tăng khả năng cạnh
tranh tốt hơn trên thị trường quốc tế so với hàng hóa cùng loại của những
nước khác thì có thể điều chỉnh giảm thuế suất đối với những mặt hàng này
khi XK. Hoặc nếu là mặt hàng không khuyến khích XK, Nhà nước có thể điều
chỉnh tăng thuế suất để bảo hộ cho thị trường tiêu thụ trong nước.
d) Đánh thuế đối với hoạt động XNK để bảo đảm sự công bằng giữa các
doanh nghiệp
Thuế nói chung có tác động góp phần đảm bảo sự bình đẳng trong chính
sách động viên đóng góp cho nhà nước giữa các thành phần kinh tế, thực hiện


17

công bằng xã hội. Thuế đánh vào hoạt động XNK cũng không nằm ngoài việc
thực hiện yêu cầu nói trên. Hệ thống thuế được áp dụng thống nhất giữa các
thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp với những quy mô hoạt động
khác nhau nhưng có điều kiện hoạt động giống nhau, hàng hóa như nhau thì
phải nộp thuế như nhau theo cùng quy định của pháp luật. Bình đẳng, công
bằng trong chính sách thuế không có nghĩa là cào bằng mà khuyến khích các
tổ chức, cá nhân làm ăn có hiệu quả để tích luỹ tái đầu tư cho sản xuất kinh
doanh ngày càng phát triển và không chỉ là lý thuyết mà được biểu hiện trên
cơ sở luật pháp. Tổ chức, cá nhân nào nộp đúng, nộp đủ thì được khen ngợi,
tạo điều kiện để thực hiện thông quan hàng hóa nhanh chóng, thuận lợi hơn;
chây ỳ, nộp chậm, trốn tránh thì phải chịu phạt, truy cứu trách nhiệm.
1.2.2. Các loại thuế trong lĩnh vực xuất nhập khẩu
Trên thế giới và ở Việt Nam hiện có rất nhiều loại thuế, như: thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu (thuế XK, thuế NK); thuế chuyển quyền sử dụng đất;
thuế thu nhập cá nhân; thuế giá trị gia tăng (thuế GTGT); thuế tiêu thụ đặc
biệt (thuế TTĐB); thuế môn bài… Ở Việt Nam, liên quan đến hoạt động
XNK có thuế XK, thuế NK; thuế GTGT và thuế TTĐB.
a) Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
Trong cấu trúc hệ thống thuế ở mỗi quốc gia, thuế XK, thuế NK có vai
trò và ý nghĩa thiết thực, không chỉ trong việc tạo nguồn thu cho NSNN hàng
năm mà quan trọng hơn, nó còn là công cụ hữu hiệu trong tay Nhà nước để
kiểm soát hoạt động XNK hàng hoá với nước ngoài, bảo hộ sản xuất trong
nước và thực hiện các mục tiêu đối ngoại của Chính phủ trong từng thời kỳ,
đối với từng quốc gia hoặc từng nhóm quốc gia cụ thể. Trong lĩnh vực XNK,
hoạt động quản lý thuế gắn liền với quản lý thuế XK, thuế NK. Còn các loại
thuế khác cũng xuất hiện trong quá trình quản lý thuế đối với hàng hóa XNK
như thuế TTĐB, thuế GTGT là các loại thuế phát sinh cả trong hoạt động


18

kinh doanh, tiêu dùng nội địa, và chỉ được tính đến chủ yếu đối với hàng hóa
NK từ nước khác.
Mặc dù xuất hiện muộn hơn so với một số sắc thuế nội địa nhưng thuế
XK, thuế NK đã nhanh chóng khẳng định được vai trò, tác dụng to lớn của
mình đối với nền kinh tế quốc gia, đặc biệt là vai trò kiểm soát hoạt động
XNK hàng hoá với bên ngoài và bảo hộ nền sản xuất trong nước. Ngày nay,
cho dù xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế đang từng bước ảnh hưởng đến số
phận của thuế XK, thuế NK theo hướng hạn chế vai trò của loại thuế này ở
mỗi quốc gia song về cơ bản, thuế XK, thuế NK vẫn sẽ là giải pháp quản lý vĩ
mô có hiệu quả đối với nền kinh tế trong nước, nhất là đối với những quốc gia
đang trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế
kinh tế thị trường như Việt Nam.
Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm thuế XK, thuế NK, tùy thuộc
vào từng góc độ tiếp cận.
Xét về phương diện kinh tế, thuế XK, thuế NK được quan niệm là khoản
đóng góp bằng tiền của tổ chức, cá nhân vào NSNN theo quy định của pháp
luật, khi họ có hành vi XNK hàng hóa, dịch vụ qua biên giới một nước. Với
cách tiếp cận này, thuế XK, thuế NK được quan niệm như là một quan hệ
phân phối các nguồn lực chính, phát sinh giữa các chủ thể là tổ chức, cá nhân
nộp thuế với người thu thuế là Nhà nước. Mặt khác, thuế XK, thuế NK còn có
thể được hiểu như là đòn bẩy kinh tế hay biện pháp kinh tế để Nhà nước điều
tiết trực tiếp đối với quá trình sản xuất, tiêu dùng trong phạm vi mỗi quốc gia
và chi phối một cách gián tiếp đối với hoạt động kinh tế trên phạm vi khu vực
và toàn cầu.
Xét về phương diện pháp lý, thuế XK, thuế NK có thể hình dung như là
quan hệ pháp luật phát sinh giữa Nhà nước (người thu thuế) với tổ chức, cá
nhân (người nộp thuế), về việc tạo lập và thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp


19

lý cho các bên trong quá trình hành thu thuế XK, thuế NK. Quan hệ pháp luật
này phát sinh từ cơ sở pháp lý là đạo luật thuế XK, thuế NK do Quốc hội ban
hành mà hậu quả pháp lý chủ yếu của việc áp dụng đạo luật đó trong thực tiễn
là làm phát sinh quyền thu thuế cho Nhà nước và nghĩa vụ đóng thuế cho các
tổ chức, cá nhân là người nộp thuế. Việc tiếp cận khái niệm thuế XK, thuế
NK từ góc độ pháp lý có nhiều ý nghĩa thiết thực, trước hết là giúp chúng ta
nhận diện rõ hơn về bản chất của thuế nói chung và thuế XK, thuế NK nói
riêng, thực chất là một quyết định hành chính đơn phương của quốc gia đối
với người đóng thuế, hay là một “thỏa thuận” song phương giữa người thu
thuế với người nộp thuế? Trên cơ sở lý thuyết đó, giúp cho Nhà nước hoạch
định và thực thi chính sách thuế XK, thuế NK phù hợp hơn với quyền lợi của
quốc gia và của người đóng thuế, xét trong mối quan hệ lợi ích với các quốc
gia khác trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Ở nhiều nước trên thế giới, hoạt động XNK hàng hóa qua biên giới với
nước ngoài được điều tiết và kiểm soát bởi hai công cụ chủ yếu là “hàng rào
thuế quan” và “hàng rào phi thuế quan”. Hàng rào thuế quan ở những nước
này được hiểu thực chất là thuế NK đánh vào hàng hóa NK, chứ không bao
gồm cả thuế XK đánh vào hàng hóa XK như Việt Nam hay Trung Quốc. Do
có quan niệm khác nhau như trên giữa các nước về nội hàm của khái niệm
“thuế quan” nên chính sách thuế quan của các nước cũng có sự khác nhau. Sở
dĩ có sự khác nhau này trong chính sách thuế quan của các nước là bởi vì, mỗi
quốc gia đều có phong tục, tập quán riêng cần được duy trì, tôn trọng, bảo vệ,
quan trọng hơn, mỗi quốc gia đều có quyền đánh thuế đối với các công dân
hay tổ chức mang quốc tịch nước ngoài có hoạt động XNK hàng hóa diễn ra
trên lãnh thổ nước mình. Quyền đánh thuế của quốc gia chính là cơ sở, là đạo
lý cơ bản để Nhà nước – với tư cách là người đại diện hợp pháp cho quốc gia,

20


ban hành và áp dụng các đạo luật về thuế quan trên tinh thần của nguyên tắc
lãnh thổ và nguyên tắc quốc tịch.
So với các loại thuế nội địa thì thuế XK, thuế NK có nhiều điểm khác
biệt. Những khác biệt này có nguồn gốc sâu xa từ bản chất và chức năng của
thuế XK, thuế NK. Có thể hình dung những đặc trưng này bao gồm:
- Thuế XK, thuế NK có đối tượng chịu thuế là các hàng hóa được phép
vận chuyển qua biên giới.
- Thuế XK, thuế NK không hoàn toàn là thuế trực thu hoặc thuế gián thu,
phụ thuộc vào việc hàng hóa NK vào để tiêu dùng hay để XK tiếp.
- Thuế XK, thuế NK có chức năng đặc trưng là bảo hộ sản xuất trong
nước và điều tiết hoạt động XNK.
Giống như bất kỳ loại thuế nào, thuế XK, thuế NK cũng thể hiện ba vai
trò cơ bản: (1) Tạo nguồn thu cho NSNN; (2) Điều tiết hoạt động kinh tế; (3)
Hướng dẫn tiêu dùng trong xã hội. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc trưng cơ bản
của thuế XK, thuế NK là đánh vào các hàng hóa XNK và sau đó được cấu
thành trong giá cả của hàng hóa XNK nên loại thuế này còn có một vai trò
khá đặc thù, đó là bảo hộ nền sản xuất trong nước và chống lại xu hướng cạnh
tranh không cân sức giữa hàng hóa trong nước với hàng hóa ngoại nhập. Xét
trên bình diện lý thuyết, vai trò này của thuế XK, thuế NK được thể hiện trên
hai khía cạnh chủ yếu:
- Thuế NK là một biện pháp để bảo hộ nền sản xuất trong nước, khi
Chính phủ nhận thấy những bất lợi nghiêng về phía các hàng hóa được sản
xuất từ các doanh nghiệp trong nước.
- Thuế XK tăng để bảo hộ cho thị trường tiêu thụ trong nước, giảm để
tăng khả năng cạnh tranh tốt hơn cho loại hàng hóa này trên thị trường quốc
tế, so với hàng hóa cùng loại của những nước khác đang lưu thông trên thị
trường.

21


b) Thuế giá trị gia tăng
Thuế GTGT (còn gọi là VAT) là từ viết tắt của Value Added Tax. Tại
một số quốc gia, như Australia, Canada, New Zealand, Singapore thì thuế này
được gọi là "Goods and Services Tax" (viết tắt GST) nghĩa là thuế hàng hóa
và dịch vụ; còn tại Nhật Bản thì nó được biết đến dưới tên gọi "thuế tiêu thụ".
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, thuế GTGT là một loại thuế gián thu
đánh trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá
trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng và được nộp vào NSNN theo mức
độ tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ. Theo đó, người tiêu dùng cuối cùng của sản
phẩm, hàng hóa, dịch vụ chính là đối tượng chịu thuế, còn người sản xuất, lưu
thông sẽ được hoàn trả lại tiền thuế GTGT đã đóng. Xuất phát từ đặc trưng là
một loại thuế đánh vào tiêu dùng, cho nên hàng XK (theo định nghĩa này thì
người tiêu dùng ở nước ngoài) thường không phải chịu thuế GTGT hoặc thuế
GTGT đối với người XK được hoàn lại. Vậy nên, trong lĩnh vực XNK, vấn đề
quản lý thuế chỉ đặt ra với hoạt động thu nộp thuế đối với hàng hóa NK và
công tác hoàn thuế đối với doanh nghiệp XK.
c) Thuế tiêu thụ đặc biệt
Thuế TTĐB là loại thuế đánh vào một số loại hàng hóa dịch vụ đặc biệt,
cần điều tiết mạnh nhằm hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng đồng thời tăng
nguồn thu cho NSNN.
Về bản chất, thuế TTĐB có diện đánh thuế hẹp, chỉ tập trung điều tiết
một số mặt hàng và dịch vụ nhất định, không được Nhà nước khuyến khích
tiêu dùng. Tuỳ theo quan điểm của các nhà làm luật ở mỗi quốc gia mà danh
mục hàng hoá và dịch vụ phải chịu loại thuế này có thể rất khác nhau, xuất
phát từ chủ trương, chính sách của Nhà nước trong việc hướng dẫn sản xuất,
tiêu dùng cũng như trong lĩnh vực điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư ở
từng giai đoạn phát triển kinh tế, xã hội và bởi phong tục tập quán của mỗi

22


nước. Nhìn chung các quốc gia thường đánh thuế TTĐB vào một số mặt hàng
được coi là cao cấp và không thiết yếu, nhà nước không khuyến khích tiêu
dùng như: thuốc hút, rượu, bia, xăng dầu.
Thuế suất thuế TTĐB có thể là thuế suất cố định hoặc thuế suất tỷ lệ và
thường cao hơn so với thuế suất của các loại thuế gián thu khác nhằm hướng
dẫn tiêu dùng hợp lý, điều tiết thu nhập của những đối tượng có sử dụng hàng
hoá hoặc dịch vụ đặc biệt, từ đó tăng nguồn thu cho NSNN. Mặt khác, các
quốc gia thường chỉ đánh thuế TTĐB một lần vào khâu sản xuất và NK, chứ
không đánh thuế TTĐB vào cơ sở kinh doanh những mặt hàng nói trên. Trong
lĩnh vực XNK, vấn đề quản lý thuế TTĐB chỉ đặt ra đối với hàng hóa NK,
còn các cơ sở kinh doanh thương mại mua hàng hóa thuộc danh mục chịu
thuế TTĐB của doanh nghiệp NK không phải chịu thuế TTĐB mà sẽ phải
chịu một loại thuế gián thu khác.

1.3. Tổng quan pháp luật về quản lý thuế trong lĩnh vực xuất nhập khẩu
1.3.1. Khái niệm pháp luật về quản lý thuế trong lĩnh vực xuất nhập khẩu
Theo nghĩa rộng, quản lý là việc “tổ chức và điều khiển các hoạt động
theo những yêu cầu nhất định”[16]. Quản lý được thực hiện bằng 3 loại biện
pháp chủ yếu: “a) biện pháp kinh tế; b) biện pháp hành chính; c) biện pháp
giáo dục. Quản lý được thực hiện bằng nhiều hình thức tác động như lãnh
đạo, chỉ đạo, chỉ huy, khen thưởng, xử phạt, kiểm tra, kiểm kê, kiểm soát,
thanh tra, giám sát, đúc kết kinh nghiệm, phổ biến và nhân rộng mô hình,
cách làm tiên tiến, có hiệu quả, kịp thời bãi bỏ những cái đã trở nên lạc hậu,
lỗi thời…[9]”.
Quản lý thuế là những hoạt động thường xuyên của cơ quan thuế hướng
về phía đối tượng nộp thuế nhằm đảm bảo thu thuế đầy đủ, đúng pháp luật và
nộp kịp thời tiền thuế vào NSNN; Nộp thuế trở thành hành vi thể hiện quyền

23


công dân của người nộp thuế. Quản lý thuế phải góp phần hỗ trợ và bảo đảm
cho công dân thưc hiện quyền và nghĩa vụ của mình trước pháp luật. Do đó,
cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm tham gia quản lý thuế.
Công tác quản lý thu nộp thuế hiện nay bao gồm quản lý thu nộp thuế tại
cơ quan hải quan và tại cơ quan thuế nội địa. Là cơ quan chịu trách nhiệm
“gác hàng, gác tiền, gác cửa khẩu” của mỗi quốc gia, cơ quan hải quan đóng
vai trò là cơ quan thu thuế trong lĩnh vực XNK.
Pháp luật về quản lý thuế là danh từ pháp lý dùng để chỉ tập hợp các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình thực hiện những biện pháp nghiệp vụ của cơ quan có
chức năng thu ngân sách mà trong lĩnh vực XNK thì cơ quan thu ngân sách
chính là cơ quan hải quan.
Xét từ phương diện hình thức, pháp luật về quản lý thuế trong lĩnh vực
XNK gao gồm các văn bản quy phạm pháp luật như văn bản luật, nghị quyết
của Quốc hội; và các văn bản dưới luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
các Bộ, ngành… Còn xét về phương diện nội dung, pháp luật về quản lý thuế
trong lĩnh vực XNK lại bao hàm các vấn đề chủ yếu như: phạm vi điều chỉnh;
đối tượng áp dụng; quyền và nghĩa vụ của các đối tượng liên quan; các nội
dung cụ thể về đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế, hoàn thuế,
miễn thuế, giảm thuế, kiểm tra thuế, thanh tra thuế, xử lý vi phạm pháp luật
về thuế, giải quyết khiếu nại tố cáo về thuế…
1.3.2. Mối quan hệ giữa pháp luật về quản lý thuế trong lĩnh vực xuất
nhập khẩu và pháp luật về thủ tục hải quan
Quản lý thuế trong lĩnh vực XNK được gắn liền với thủ tục hải quan,
hoạt động quản lý thu nộp thuế nằm trong hoạt động thông quan hàng hóa, hồ
sơ khai thuế nằm trong hồ sơ khai hải quan… Do vậy, pháp luật về quản lý

24


thuế trong lĩnh vực XNK và pháp luật về thủ tục hải quan có mối quan hệ
khăng khít.
So với việc quản lý các loại thuế nội địa thì việc quản lý thuế trong lĩnh
vực XNK có những đặc điểm khác biệt về trình tự, thủ tục hành thu. Sự khác
biệt này không chỉ được thể hiện ở khía cạnh chủ thể có thẩm quyền thu thuế
(đối với quản lý thuế trong lĩnh vực XNK là cơ quan hải quan, còn đối với
quản lý thuế nội địa là cơ quan thuế) mà còn được thể hiện ở những khía cạnh
khác như thời hạn tính thuế, thủ tục kiểm tra hàng hóa và giám định hàng hóa
XNK, vấn đề bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nộp thuế XK, thuế NK bằng cam
kết bảo lãnh của các ngân hàng… Điều đó xuất phát từ những đặc điểm riêng
có của hoạt động quản lý XNK hàng hóa. Nếu cơ quan thuế chỉ có nhiệm vụ
về quản lý thu nộp về thuế, phí và lệ phí; thì cơ quan hải quan được giao
nhiệm vụ quản lý chung về hàng hóa XNK. Do đó, ngoài nhiệm vụ về quản lý
thu nộp thuế đối với hàng hóa XNK, cơ quan hải quan còn phải thực hiện
nhiệm vụ về kiểm tra, giám sát hàng hóa XNK; điều tra, chống buôn lậu, vận
chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới; thống kê hàng hóa XNK… Vì vậy,
hoạt động quản lý thu nộp thuế đối với hàng hóa XNK được gắn liền với các
khâu nghiệp vụ của cơ quan hải quan khi tiến hành thông quan hàng hóa
XNK.
Hiện nay, pháp luật về thủ tục hải quan đang dần có những thay đổi cơ
bản dưới tác động của các nhân tố khách quan như:
- Quá trình toàn cầu hóa và nhu cầu áp dụng công nghệ thông tin trong
thương mại quốc tế;
- Sự tiến bộ của công nghệ thông tin tạo điều kiện cho việc áp dụng phổ
biến chứng từ điện tử trên toàn thế giới;
- Việc sử dụng các chuẩn mực quốc tế trong chứng từ điện tử ngày càng
phát triển;

25


- Nhu cầu giảm chi phí giao dịch/ thuận lợi hóa thương mại và cải cách
hành chính nói chung.
Ngoài ra, những nhân tố chủ quan của ngành hải quan cũng tác động
không nhỏ đến pháp luật về thủ tục hải quan như:
- Yêu cầu về hội nhập với thế giới của ngành hải quan;
- Yêu cầu phát triển ngành hải quan hiện đại, minh bạch, giảm phiền hà
sách nhiễu.
Ngày nay, cơ quan hải quan với vai trò là một trong những cơ quan đóng
vai trò quan trọng trong quản lý thương mại và đi tiên phong trong việc áp
dụng những mô hình, phương pháp quản lý mới nhằm tạo thuận lợi cho hoạt
động thương mại. Vai trò của hải quan ngày nay đã được mở rộng hơn. Hải
quan đã trở thành cơ quan có trách nhiệm chính trong việc tạo thuận lợi cho
thương mại, đảm bảo an ninh kinh tế và tăng nhanh lưu lượng lưu thông hàng
hóa. Vì vậy xu hướng phát triển của thủ tục hải quan hiện đại là xây dựng và
triển khai thủ tục hải quan điện tử tức là thủ tục hải quan (bao gồm cả thủ tục
quản lý thuế) được thực hiện bằng phương tiện điện tử. Theo đó, hải quan
hiện đại sẽ được tổ chức thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin và
thông qua hệ thống xử lý dữ liệu điện tử của hải quan để quản lý hàng hóa
XK, NK nhằm thực hiện chức năng quản lý nhà nước về hải quan, đảm bảo
đơn giản, hài hòa, thống nhất và phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc
tế.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn như vậy, pháp luật về thủ tục hải quan cần
phải có những quy định gắn liền với xu hướng phát triển hiện đại hóa của
ngành hải quan. Và vì pháp luật về quản lý thuế trong lĩnh vực XNK có quan
hệ mật thiết với pháp luật về thủ tục hải quan, nên cũng cần sự cải cách để bắt
kịp với nhịp độ phát triển của thủ tục hải quan, góp phần tạo thuận lợi thương
mại.

26


1.3.3. Mục đích, yêu cầu của pháp luật về quản lý thuế trong lĩnh vực
xuất nhập khẩu
Pháp luật về quản lý thuế trong lĩnh vực XNK phải hướng đến thực hiện
các mục tiêu sau:
- Trở thành công cụ đắc lực để đảm bảo kế hoạch thu NSNN đầy đủ và
kịp thời. Ở Việt Nam, thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN. Trong đó, số thu
thuế của ngành Hải quan chiếm hơn 20% tổng thu NSNN, nếu không thu
đúng, thu đủ và kịp thời thì sẽ ảnh hưởng đến nguồn tài chính để nhà nước
thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình. Do đó, đảm bảo kế hoạch thu
NSNN là mục tiêu hàng đầu khi xây dựng pháp luật về quản lý thuế trong lĩnh
vực XNK.
- Đảm bảo thực hiện chính sách thuế về XNK hàng hóa của quốc gia.
Pháp luật về quản lý thuế trong lĩnh vực XNK là công cụ, phương tiện chủ
yếu để thực hiện chính sách thuế XNK của một nước trong một giai đoạn nhất
định, thông qua việc thể chế hóa chính sách này thành những điều khoản cụ
thể của pháp luật thực định. Tôn trọng pháp luật thuế trong lĩnh vực XNK từ
cả hai phía – cơ quan hải quan và đối tượng nộp thuế - là đề cao quyền và
nghĩa vụ của các tổ chức và công dân, là quá trình thực thi dân chủ và phát
huy sức mạnh của tổ chức và công dân trong quá trình hình thành luật thuế,
đồng thời cũng là bước quan trọng để các tổ chức và công dân thực hiện
quyền làm chủ của mình.
Theo đó, pháp luật về quản lý thuế trong lĩnh vực XNK cần quán triệt
một số nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc phù hợp với thông lệ quốc tế đòi hỏi pháp luật về quản lý
thuế trong lĩnh vực XNK phải xây dựng được các biện pháp quản lý thuế của
Nhà nước tương thích với các quy định chung về thuế của các tổ chức kinh tế
quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

×