Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Phát luật về thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng ở Việt Nam hiện nay thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 109 trang )

đại học quốc gia hà nội
khoa luật



hoàng thị nga



pháp luật về thu hồi đất, bồi th-ờng,
giải phóng mặt bằng ở việt nam hiện nay:
thực trạng và giải pháp

Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50



tóm tắt luận văn thạc sĩ luật học



hà nội - 2010
Công trình đ-ợc hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội



Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Quang Tuyến





Phản biện 1:


Phản biện 2:



Luận văn đ-ợc bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn, họp tại
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vào hồi giờ , ngày tháng năm 2010.




Có thể tìm hiểu luận văn
tại Trung tâm t- liệu - Th- viện Đại học Quốc gia Hà Nội
Trung tâm t- liệu - Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan



Mục lục


Danh mục các từ viết tắt


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU
1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ
TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
6
1.1.
Cơ sở lý luận về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất
6
1.1.1.
Đường lối, chính sách của Đảng về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất
6
1.1.2.
Cơ sở lý luận của việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất
10
1.2.
Khái niệm và vai trò của bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi

Nhà nước thu hồi đất
13
1.2.1.
Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
13
1.2.1.1.
Định nghĩa bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
13
1.2.1.2.
Phân biệt giữa bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất với một
số trách nhiệm pháp lý về bồi thường trong các lĩnh vực
pháp luật khác
15
1.2.2.
Khái niệm hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
19
1.2.3.
Khái niệm tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
22
1.2.3.1.
Quan niệm về tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
22
1.2.3.2.
Phân biệt giữa tái định cư với bồi thường khi Nhà nước thu
hồi đất
22
1.2.4.
Vai trò của việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
23
1.2.4.1.

Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất trước hết là nhằm bảo
đảm lợi ích công cộng
23
1.2.4.2.
Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất nhằm bảo đảm giải
quyết hài hòa lợi ích của Nhà nước và lợi ích của người bị
thu hồi đất
24
1.2.4.3.
Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư góp phần vào việc duy trì ổn
định chính trị, trật tự an toàn xã hội
25
1.3.
Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
25
1.3.1.
Giai đoạn trước khi ban hành Luật Đất đai năm 1993
25
1.3.2.
Giai đoạn sau khi ban hành Luật Đất đai năm 1993 đến trước
khi ban hành Luật Đất đai năm 2003
27
1.3.3.
Giai đoạn từ khi có Luật Đất đai năm 2003 đến nay
29
1.4.
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất ở Trung Quốc - những gợi mở đối với Việt Nam
31

1.4.1.
Các trường hợp thu hồi đất và bồi thường thiệt hại
32
1.4.2.
Nguyên tắc bồi thường
33
1.4.3.
Thẩm quyền thu hồi đất
33
1.4.4.
Thực hiện việc bồi thường
33
1.4.5.
Quản lý nhà nước đối với đất sau thu hồi
35
1.4.6.
Một số gợi mở đối với Việt Nam
36

Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH
CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT Ở VIỆT NAM
38
2.1.
Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất
38
2.1.1.
Quy định chung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất
38

2.1.1.1.
Quy định về phạm vi và đối tượng được bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
38
2.1.1.2.
Quy định về nguyên tắc chi trả bồi thường
41
2.1.2.
Những quy định về bồi thường về đất
41
2.1.2.1.
Quy định về nguyên tắc bồi thường về đất
41
2.1.2.2.
Quy định về điều kiện bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
42
2.1.2.3.
Quy định về xác định giá đất tính bồi thường
47
2.1.2.4.
Quy định về bồi thường khi thu hồi đất của hộ gia đình, cá nhân
54
2.1.2.5.
Quy định về bồi thường khi thu hồi đất của tổ chức
60
2.1.3.
Những quy định về bồi thường, hỗ trợ về tài sản
61
2.1.3.1.
Quy định về nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ về tài sản

61
2.1.3.2.
Quy định về bồi thường, hỗ trợ về tài sản trong các trường
hợp cụ thể
62
2.1.4.
Quy định về các chính sách hỗ trợ di chuyển, ổn định đời
sống, ổn định sản xuất, chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc
làm cho người bị thu hồi đất
68
2.1.4.1.
Quy định về hỗ trợ di chuyển, ổn định đời sống, ổn định
sản xuất
68
2.1.4.2
Quy định về hỗ trợ chuyển đổi nghề và tạo việc làm
69
2.1.4.3.
Quy định về hỗ trợ tái định cư cho người bị thu hồi đất
71
2.2.
Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
74
2.2.1.
Những kết quả đạt được
74
2.2.2.
Một số tồn tại của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất

75

Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
79
3.1.
Sự cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
79
3.2.
Định hướng hoàn thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất hoàn
81
3.3.
Một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
87
3.3.1.
Sửa đổi, bổ sung quy định về thời hạn thông báo quyết định
thu hồi đất
87
3.3.2.
Sửa đổi, bổ sung quy định về thu hồi đất và quản lý quỹ đất
đã thu hồi
88
3.3.3.
Sửa đổi, bổ sung quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư cho người có đất bị thu hồi
90


KẾT LUẬN
94

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
96




DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

GCNQSDĐ
: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
GPMB
: Giải phóng mặt bằng
QSDĐ
: Quyền sử dụng đất
SDĐ
: Sử dụng đất
UBND
: Ủy ban nhân dân





Danh môc c¸c b¶ng

Sè hiÖu

b¶ng
Tªn b¶ng
Trang
1.1
Sự khác nhau về bản chất giữa bồi thường và hỗ trợ
21
2.1
Bảng so sánh thời gian hưởng hỗ trợ ổn định đời sống và
ổn định sản xuất giữa Nghị định số 69/2009/NĐ-CP và
Nghị định số 197/2004/NĐ-CP
69


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Với một nước nông nghiệp có khoảng 70% dân số là nông dân như
Việt Nam thì đất đai luôn là vấn đề rất nhạy cảm và nhận được sự quan tâm
đặc biệt của toàn xã hội. Đặc biệt khi đất nước chuyển đổi sang nền kinh tế thị
trường, Nhà nước thực hiện cơ chế quản lý đất đai mới bằng việc xác định hộ
gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ trong sản xuất nông - lâm nghiệp; tiến hành
giao đất, cho thuê đất cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Chính
sự thay đổi cơ chế quản lý này đã trả lại cho đất đai những giá trị vốn có của
nó: Đất đai ngày càng trở nên có giá và được đem trao đổi trên thị trường;
dùng làm tài sản bảo đảm trong quan hệ tín dụng thế chấp vay vốn với ngân
hàng, tổ chức tín dụng; được đem góp vốn liên doanh trong sản xuất - kinh
doanh. Người dân ngày càng nhận thức sâu sắc được giá trị to lớn của đất đai.
Số lượng các khiếu kiện, tranh chấp đất đai ngày càng gia tăng v.v
Với việc đất đai ngày càng có giá thì vấn đề thu hồi đất, bồi thường,

giải phóng mặt bằng cũng gặp rất nhiều khó khăn, phức tạp. Trong nhiều trường
hợp, người dân do không đồng tình với phương án bồi thường của Nhà nước đã
không chịu bàn giao đất dẫn đến việc làm chậm tiến độ thi công công trình, ảnh
hưởng trực tiếp đến lợi ích của chủ đầu tư và gây tác động tiêu cực đến môi
trường đầu tư. Hơn nữa do không đồng thuận với phương án bồi thường, người
bị thu hồi đất tiến hành khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện đông người và khiếu kiện
vượt cấp gây mất ổn định về chính trị, trật tự an toàn xã hội v.v Để khắc phục
tình trạng này, Nhà nước đã thường xuyên rà soát, sửa đổi và bổ sung các quy
định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Tuy nhiên, hiệu quả của những giải
pháp này chưa được như mong muốn; nhiều quy định mới được ban hành dường
như chưa phù hợp với thực tiễn (đặc biệt là các quy định về giá đất bồi thường;
các quy định về tái định cư cho người dân bị thu hồi đất ở; giải quyết vấn đề

2
việc làm cho người bị mất đất sản xuất v.v ). Các tranh chấp, khiếu kiện liên
quan đến bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất có xu hướng gia tăng cả về số
lượng và mức độ gay gắt, phức tạp về nội dung. Điều này cho thấy chúng ta
cần tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu về cơ chế, chính sách bồi thường nói chung
và các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
nói riêng nhằm hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này. Đây là lý do để tác giả lựa
chọn đề tài "Pháp luật về thu hồi đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng ở
Việt Nam hiện nay: thực trạng và giải pháp" làm luận văn thạc sĩ luật học.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đặt ra những mục đích nghiên cứu cơ bản sau đây:
- Phân tích, tìm hiểu nội hàm của các khái niệm bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất; nhận diện những đặc trưng cơ bản của các
khái niệm này;
- Tìm hiểu, hệ thống hóa cơ sở lý luận của việc xây dựng các quy định
về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
- Nghiên cứu sự hình thành và phát triển của pháp luật về bồi thường,

hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
- Xác lập định hướng và đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện
pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm:
- Hệ thống quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng về phát triển
kinh tế trong lĩnh vực đất đai nói chung và về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất nói riêng;

3
- Các quy phạm pháp luật thực định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất;
- Các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất của Trung Quốc;
- Các báo cáo, tổng kết tình hình thực thi pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
b. Phạm vi nghiên cứu
Do tính chất phức tạp và rộng lớn của đề tài, luận văn giới hạn phạm
vi nghiên cứu ở việc đi sâu phân tích, tìm hiểu các quy định về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất được ban hành từ năm 1987 (năm
ban hành Luật Đất đai lần đầu tiên) đến nay;
3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để giải quyết các yêu cầu mà đề tài đặt ra, luận văn đã sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết học
Mác - Lê nin; tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa;

- Đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng nhà nước
và pháp quyền nói chung và về chính sách, pháp luật đất đai nói riêng trong
điều kiện kinh tế thị trường;
- Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ
thể sau:
(i) Phương pháp phân tích, bình luận, so sánh v.v. được sử dụng trong
Chương 1 tìm hiểu về một số vấn đề lý luận về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất;

4
(ii) Phương pháp đánh giá, đối chiếu, diễn giải, điều tra v.v được sử
dụng tại Chương 2 khi tìm hiểu về pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất;
(iii) Phương pháp tổng hợp, quy nạp v.v. được sử dụng tại Chương 3
khi nghiên cứu, đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
4. Tình hình nghiên cứu đề tài và những đóng góp mới của luận văn
Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất là một chế
định quan trọng của pháp luật đất đai. Chế định này khi đi vào cuộc sống trực
tiếp đụng chạm đến lợi ích của người bị thu hồi đất, lợi ích của cộng đồng và
lợi ích của nhà đầu tư nên đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của giới
khoa học pháp lý nước ta;
Thời gian vừa qua đã có một số công trình, sách báo pháp lý nghiên
cứu về lĩnh vực pháp luật này dưới khía cạnh lý luận và thực tiễn; tiêu biểu là
các công trình nghiên cứu của các tác giả: Trịnh Thị Hằng Nga: Chế định
pháp luật về đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất, Luận văn Thạc sĩ luật
học, 1999; Nguyễn Vinh Diện: Pháp luật về bồi thường thiệt hại khi Nhà nước
thu hồi đất, Luận văn Thạc sĩ luật học, 2006; Nguyễn Duy Thạch: Pháp luật
về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (qua thực tiễn
thi hành tại thành phố Hà Nội), Luận văn Thạc sĩ luật học, 2007; Đặng Anh

Quân: Bàn về giá đất khi bồi thường - Nên cao hay thấp? Tạp chí Tài nguyên
và Môi trường, số 8, 2005; Dự án khu đô thị Nam Thăng Long (CIPUTRA):
Từ những bất thường trong đền bù, giải phóng mặt bằng, của nhóm phóng
viên thời sự Báo Pháp luật Việt Nam, số 285, ngày 29/11/2005; Hoàng Lộc:
Nông dân góp vốn bằng …đất - Giải pháp đột phá trong đền bù giải tỏa, Thời
báo Kinh tế Việt Nam, số 253, ngày 21/12/2005 v.v Các công trình này chủ
yếu đi sâu nghiên cứu về vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất mà chưa
tìm hiểu một cách thấu đáo khía cạnh hỗ trợ, tái định cư cho người bị thu hồi

5
đất. Tiếp tục kế thừa những thành quả nghiên cứu của các công trình trên đây,
luận văn đi sâu tìm hiểu một cách có hệ thống, toàn diện về bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất dưới góc độ của pháp luật đất đai;
Nghiên cứu đề tài này, luận văn có những đóng góp mới về mặt khoa
học trên những khía cạnh chủ yếu sau:
Thứ nhất, hệ thống hóa và góp phần hoàn thiện hệ thống cơ sở lý luận
và thực tiễn của việc xây dựng các quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất;
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; trên cơ sở đó chỉ ra tồn tại, bất cập
và nguyên nhân của những hạn chế này trong các quy định hiện hành;
Thứ ba, đưa ra định hướng và đề xuất các giải pháp góp phần hoàn
thiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất.
Chương 2: Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất ở Việt Nam.

Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.

6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ,
TÁI ĐỊNH CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƢ KHI
NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT
1.1.1. Đƣờng lối, chính sách của Đảng về bồi thƣờng, hỗ trợ, tái
định cƣ khi Nhà nƣớc thu hồi đất
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất
đặc biệt không thể thay thế được trong sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp. Đất
còn là yếu tố quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố
các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng. Hơn
nữa, dưới góc độ chính trị - pháp lý, đất đai còn là lãnh thổ quốc gia và gắn liền
với chủ quyền quốc gia. Trong luật pháp quốc tế không thể có khái niệm quốc
gia mà thiếu đi yếu tố đất đai - lãnh thổ quốc gia. Đối với một nước nông nghiệp
như nước ta, đất đai lại càng có vai trò và tầm quan trọng đặc biệt. Nhận thức
sâu sắc vấn đề này ngay từ khi mới thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
quan tâm đến vấn đề đất đai. Vấn đề này được ghi nhận trong các cương lĩnh,
văn kiện của Đảng và được xác định là một yếu tố không thể thiếu được để
tập hợp, đoàn kết, giác ngộ các tầng lớp quần chúng nhân dân đi theo Đảng
làm cách mạng giải phóng dân tộc. Trong Luận cương Chính trị năm 1930,
Đảng ta đã xác định: "coi "thổ địa cách mạng" (cách mạng ruộng đất) cùng
với Cách mạng tư sản dân quyền là một trong hai mục tiêu chiến lược quan
trọng của Cách mạng Việt Nam, với các nhiệm vụ cụ thể là: "đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa, phong kiến, địa chủ, làm cho người cày có ruộng" [20, tr. 94].
Như vậy ngay từ khi mới thành lập và chưa giành được chính quyền,

Đảng ta vẫn luôn luôn coi trọng và bảo vệ quyền lợi về đất đai cho mọi người

7
dân nói chung và người nông dân nói riêng. Quan điểm này được thực hiện
một cách nhất quán khi cách mạng Việt Nam bước sang giai đoạn mới: Giai
đoạn phát triển kinh tế, kiến thiết đất nước. Ngày 13/01/1981, Ban Bí thư
Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị 100/CT-TƯ về "Cải tiến công tác khoán, mở
rộng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông
nghiệp" với nội dung quan trọng là tổ chức tốt việc giao diện tích ruộng đất
cho đội sản xuất, cho nhóm người lao động; khi diện tích giao khoán cho
người lao động được phân bố hợp lý thì có thể ổn định trong vài năm để xã
viên yên tâm thâm canh trên diện tích đó. Chính sách khoán và giao đất sử
dụng ổn định đã từng bước đưa người lao động gắn bó chặt chẽ, lâu dài với
đất đai và bước đầu động viên nông dân hăng hái lao động, sản xuất; đồng
thời là "bước đầu quá trình xác lập địa vị làm chủ ruộng đất thực sự của người
lao động" [66, tr. 53].
Tiếp đó, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đại hội toàn quốc
lần thứ VI của Đảng năm 1986 khởi xướng đã làm thay đổi căn bản về nội
dung chính sách, pháp luật đất đai: đất đai từ chỗ do tập thể các hợp tác xã,
các đơn vị, tổ chức của Nhà nước quản lý đã từng bước được giao cho hộ gia
đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài. Sự thay đổi tư duy của Đảng trong
lĩnh vực đất đai được đánh dấu bằng sự kiện: Ngày 05/04/1988, Bộ Chính trị
đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW về đổi mới quản lý kinh tế nông
nghiệp, trong đó khẳng định hộ gia đình là đơn vị kinh tế tự chủ trong sản
xuất nông nghiệp và giao khoán ruộng đất ổn định, lâu dài cho hộ nông dân.
Tiến trình đổi mới tư duy này được tiếp tục ghi nhận trong các văn kiện Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VII năm 1991 và các Hội nghị Trung ương tiếp
theo, đặc biệt là Hội nghị Trung ương lần thứ 2 (khóa VII, tháng 12/1991) và
Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khóa VII, tháng 6/1992) đã khẳng định thực
hiện nhất quán chủ trương: "Ruộng đất được giao cho nông dân sử dụng lâu

dài; Nhà nước quy định bằng pháp luật việc thừa kế, chuyển quyền sử dụng
ruộng đất".

8
Để phấn đấu thực hiện mục tiêu: đến năm 2020, nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp phát triển mà Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ IX đã đề ra thì nước ta không thể không thực hiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Tuy nhiên, muốn thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, chúng ta phải giải quyết "bài toán" đất đai phục vụ cho việc xây
dựng các cơ sở công nghiệp, cơ sở kinh tế thông qua thu hồi đất của người sử
dụng đất (SDĐ). Nhận thức được vấn đề này, Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VIII, IX và các Hội nghị Trung ương lần thứ 4 (khóa VIII), Hội
nghị Trung ương 7 (lần 2), Hội nghị Trung ương lần thứ 9 (khóa IX) đã khẳng
định quan điểm của Đảng về vấn đề duy trì, củng cố chế độ sở hữu toàn dân
về đất đai đi đôi với việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người SDĐ;
trong đó chú trọng thực hiện việc bồi thường cho người SDĐ khi Nhà nước
thu hồi đất. Đặc biệt, Nghị quyết số 26 ngày 12/3/2003 của Hội nghị lần thứ 7
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về tiếp tục đổi mới chính sách,
pháp luật đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước đã đề ra những chính sách quan trọng về bồi thường thiệt hại khi Nhà
nước thu hồi đất, cụ thể:
- Chính sách đất đai phải đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước, nhà
đầu tư và người SDĐ, trong đó cần chú trọng đúng mức lợi ích của Nhà nước,
của xã hội;
- Nhà nước có quyền thu hồi đất nông nghiệp được quy hoạch vào
mục đích xây dựng đô thị, kết cấu hạ tầng;
- Quy định rõ loại đất có liên quan đến quốc phòng, an ninh và có quy
chế đặc biệt về quy hoạch sử dụng và giao loại đất này;
- Cần thực hiện tổng hợp các biện pháp phát triển ngành nghề, đào tạo
nghề để tạo việc làm; đổi mới cơ chế sản xuất nông nghiệp và những biện

pháp hỗ trợ khác để giải quyết một cách cơ bản việc làm và thu nhập cho
người nông dân có đất bị thu hồi để sử dụng vào mục đích công cộng, phát
triển kinh tế - xã hội;

9
- Khi Nhà nước thu hồi đất của cá nhân hoặc tổ chức đang sử dụng
hợp pháp để phục vụ các mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi
ích công cộng và phát triển sản xuất - kinh doanh, Nhà nước thực hiện chế độ
bồi thường, tái định cư, đào tạo nghề và hỗ trợ việc làm. Nhà nước thu hồi
không bồi thường đối với đất lấn chiếm, đất sử dụng không hiệu quả, không
đúng mục đích;
- Chính phủ quy định khung giá đất cho từng địa bàn, trong từng thời
gian (có điều chỉnh theo tình hình thực tế) và nguyên tắc, phương pháp xác
định giá đất. Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
quy định giá cụ thể làm căn cứ bồi thường khi thu hồi đất;
- Phải lập và xây dựng khu tái định cư trước khi thu hồi đất đối với
những dự án thu hồi đất đang sử dụng; đồng thời chú trọng đào tạo để chuyển
đổi nghề cho lao động tái định cư. Việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và đào
tạo việc làm theo nguyên tắc "bảo đảm cho người bị thu hồi đất đến chỗ ở
mới có điều kiện phát triển bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ";
- Nhà nước có quy hoạch tổng thể về SDĐ trên địa bàn cả nước tạo
điều kiện cho các tỉnh, thành phố xây dựng kế hoạch triển khai đồng bộ việc
bồi thường, tái định cư và hỗ trợ tạo việc làm khi thu hồi đất;
- Phải chú ý phân chia hợp lý phần giá trị tăng thêm do việc quy hoạch
và xây dựng cơ sở hạ tầng mang lại; đảm bảo hài hòa lợi ích của Nhà nước,
lợi ích của người đang SDĐ hợp pháp bị thu hồi và lợi ích của Nhà đầu tư,
trong đó phải chú trọng lợi ích của Nhà nước. Chính sách điều tiết này được
tiếp tục khẳng định tại Hội nghị Trung ương lần thứ 9 (khóa IX): "Thực hiện
chính sách điều tiết để đảm bảo lợi ích của Nhà nước với tư cách là người đại
diện chủ sở hữu và là Nhà đầu tư lớn nhất phát triển hạ tầng, làm tăng giá trị

của đất" [25, tr. 10].
Như vậy, Nghị quyết số 26 Hội nghị Trung ương 7 (lần 2) khóa IX đã
đề ra quan điểm, đường lối khá đầy đủ và toàn diện về việc bồi thường thiệt

10
hại khi Nhà nước thu hồi đất trong giai đoạn hiện nay. Quan điểm, đường lối
này đã được Luật Đất đai năm 2003 thể chế hóa, tạo cơ sở pháp lý cho việc
thực hiện bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
1.1.2. Cơ sở lý luận của việc bồi thƣờng, hỗ trợ và tái định cƣ khi
Nhà nƣớc thu hồi đất
Nghiên cứu, tìm hiểu vấn đề bồi thường cho người SDĐ khi Nhà nước
thu hồi đất, chúng tôi nhận thấy chế định này được xây dựng và hình thành
trên những cơ sở lý luận chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được đặt ra dựa
trên cơ sở quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo hộ. Hiến
pháp năm 1946 đã ghi nhận và bảo hộ quyền sở hữu tư nhân về tài sản:
"Quyền sở hữu về tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm" (Điều 12).
Quyền này tiếp tục được khẳng định trong bản Hiến pháp năm 1992: "Công
dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu
sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp Nhà nước
bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân" (Điều 58).
Hơn nữa, Hiến pháp năm 1992 còn long trọng tuyên bố: "Tài sản hợp pháp
của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hóa. Trong trường hợp thật cần thiết
vì lý do quốc phòng, an ninh và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc
trưng dụng có bồi thường tài sản của cá nhân hoặc tổ chức theo thời giá thị
trường…" (Điều 23).
Như vậy, quyền sở hữu về tài sản hợp pháp của mọi cá nhân và tổ
chức đã được Hiến pháp ghi nhận và bảo hộ. Khi Nhà nước thu hồi đất để sử
dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng
thì toàn bộ tài sản hợp pháp gắn liền với đất bị thu hồi của người đang SDĐ

đều phải được bồi thường theo giá thị trường;
Thứ hai, xét về bản chất, Nhà nước ta là Nhà nước do nhân dân lao
động thiết lập lên, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của nhân dân.

11
Nhà nước theo đuổi sứ mạng cao cả và mang đầy tính nhân văn là phục vụ và
chăm lo cho lợi ích, sự phồn vinh của người dân. Đặt trong bối cảnh đó, thì
khi Nhà nước thu hồi đất của người dân để sử dụng vào bất kể mục đích gì
(cho dù là sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích
công cộng và phát triển kinh tế) mà làm phương hại đến quyền và lợi ích hợp
pháp của họ thì Nhà nước phải có bổn phận và nghĩa vụ phải bồi thường;
Thứ ba, xét về phương diện lý luận, thiệt hại về lợi ích của người SDĐ
là hậu quả phát sinh trực tiếp từ hành vi thu hồi đất của Nhà nước gây ra. Hơn
nữa, trong điều kiện nhà nước và pháp quyền, mọi chủ thể trong xã hội bao gồm
Nhà nước, công dân, các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị - xã hội v.v đều bình
đẳng với nhau trước pháp luật. Nước ta đang từng bước xây dựng một xã hội dân
sự văn minh và hiện đại nơi mà ở đó quyền lợi hợp pháp của mọi thành viên
trong xã hội phải được luật pháp tôn trọng và bảo vệ. Với cách tiếp cận như vậy,
khi Nhà nước thu hồi đất mà làm phương hại đến lợi ích hợp pháp của người
SDĐ thì Nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho họ;
Thứ tư, Nhà nước ta đã và đang xây dựng nền kinh tế nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
hướng tới mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn
minh" trong điều kiện chịu rất nhiều thách thức do quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế đem lại. Để tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức của xu thế toàn cầu
hóa về kinh tế, chúng ta phải biết phát huy nội lực, tinh thần đoàn kết toàn
dân tộc và khơi dậy lòng yêu nước, tính năng động, sáng tạo của mỗi người
dân đóng góp vào sự nghiệp chấn hưng đất nước. Điều này chỉ có thể thực
hiện được khi Nhà nước biết tôn trọng và bảo hộ những quyền lợi chính đáng
của người dân. Đây cũng là một lý do dẫn đến việc ra đời chế định bồi thường

khi Nhà nước thu hồi đất;
Thứ năm, vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được xây dựng
dựa trên chế độ sở hữu toàn dân về đất đai, Nhà nước giao đất cho tổ chức, hộ
gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài:

12
Nhìn lại thành tựu 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước có
thể nhận thấy rằng những thành tựu này là kết quả của quá trình đổi mới tư
duy mà hạt nhân cơ bản là đổi mới tư duy về sở hữu tài sản. Để giải phóng
mọi năng lực sản xuất của người lao động, tạo lập một động lực mới cho sản
xuất nông nghiệp, Đảng ta đã rất sáng suốt khi lựa chọn và thực hiện việc đổi
mới cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp làm khâu đột phá cho toàn bộ
quá trình cải cách kinh tế với việc từng bước xác lập địa vị làm chủ của hộ gia
đình, cá nhân đối với đất đai thông qua giao đất cho họ sử dụng ổn định, lâu
dài và mở rộng các quyền năng cho người SDĐ. Như vậy, "kể từ đây quyền
sử dụng đất đã tách khỏi quyền sở hữu đất đai được chủ sở hữu đất đai
chuyển giao cho người sử dụng đất thực hiện và trở thành một loại quyền về
tài sản thuộc sở hữu của người sử dụng đất" hay nói cách khác, "quyền sở hữu
đất đai thuộc về toàn dân do Nhà nước đại diện; còn quyền sử dụng đất thuộc
sở hữu của người sử dụng đất" [64, tr. 83]. Chính nhờ việc tìm ra cách thức
giao quyền SDĐ cho người lao động trên cơ sở vẫn giữ nguyên chế độ sở hữu
toàn dân về đất đai nhằm duy trì sự ổn định về chính trị - xã hội tạo tiền đề cho
việc phát triển kinh tế mà Việt Nam và Trung Quốc "gặp nhau" ở điểm chung
này và hai nước đã thực hiện thành công cuộc cải cách kinh tế mà không gặp
phải thất bại như Liên Xô (cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu trước
đây. Đánh giá về vấn đề này, PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa cho rằng: "Sáng tạo
ra khái niệm "quyền sử dụng đất" cả người Việt Nam và người Trung Quốc
dường như đã tạo ra một khái niệm sở hữu kép, một khái niệm sở hữu đa
tầng: đất đai thuộc sở hữu toàn dân, song quyền sử dụng đất lại thuộc về cá
nhân hoặc tổ chức" [49, tr. 169]. Cùng chung quan điểm này, GS.TSKH. Đặng

Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường nhận xét: "Chế
độ sở hữu toàn dân về đất đai của nước ta chỉ mang tính thuật ngữ, Quyền
lợi và nghĩa vụ của người sử dụng đất ở nước ta không khác so với quyền lợi
và nghĩa vụ của chủ sở hữu đất đai ở các nước" [74].
Như vậy, bằng việc pháp luật ghi nhận và bảo hộ quyền của người
SDĐ thì dường như người SDĐ ở nước ta là người "sở hữu" một loại quyền

13
về tài sản đó là "quyền sử dụng đất". Bởi lẽ, người SDĐ được pháp luật trao
cho các quyền năng liên quan đến quyền SDĐ: quyền chuyển nhượng, chuyển
đổi, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thừa kế quyền SDĐ; quyền thế chấp, bảo
lãnh, góp vốn bằng quyền SDĐ. Như vậy, một khi pháp luật đã thừa nhận
quyền SDĐ là một loại quyền về tài sản của người SDĐ, thì khi Nhà nước thu
hồi đất (có nghĩa là người SDĐ bị mất quyền SDĐ do hành vi thu hồi đất của
Nhà nước gây ra), Nhà nước phải bồi thường thiệt hại về tài sản cho người SDĐ;
1.2. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA BỒI THƢỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH
CƢ KHI NHÀ NƢỚC THU HỒI ĐẤT
1.2.1. Khái niệm bồi thƣờng khi Nhà nƣớc thu hồi đất
1.2.1.1. Định nghĩa bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Trong đời sống hàng ngày, bồi thường là một thuật ngữ được sử dụng
trong trường hợp một người có hành vi gây thiệt hại cho người khác và họ
phải có trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại do hành vi của mình
gây ra. Theo Từ điển Tiếng Việt thông dụng: "Bồi thường: đền bù những tổn
hại đã gây ra" [77, tr. 79].
Trong lĩnh vực pháp luật, trách nhiệm bồi thường được đặt ra khi một
chủ thể có hành vi gây thiệt hại cho chủ thể khác trong xã hội. Trách nhiệm
này được rất nhiều các ngành luật đề cập như trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng trong lĩnh vực pháp luật dân sự; trách nhiệm bồi thường oan,
sai do hành vi của các cơ quan tố tụng gây ra trong lĩnh vực pháp luật hình sự;
trách nhiệm vật chất do hành vi của người lao động gây ra trong lĩnh vực pháp

luật lao động v.v
Trong lĩnh vực pháp luật đất đai, thuật ngữ bồi thường (hay đền bù)
thiệt hại để thực hiện giải phóng mặt bằng ở Việt Nam đã được đặt ra từ rất
sớm. Nghị định số 151/TTg ngày 14/01/1959 của Hội đồng Chính phủ (nay là
Chính phủ) "Quy định thể lệ tạm thời về trưng dụng ruộng đất", tại Chương II
đã đề cập đến việc "Bồi thường cho người có ruộng đất bị trưng dụng". Tiếp

14
đến Thông tư số 1792/TTg ngày 11/01/1970 của Thủ tướng Chính phủ về
"Quy định một số điểm tạm thời về bồi thường nhà cửa, đất đai, cây cối lưu
niên, các hoa mầu cho nhân dân ở những vùng xây dựng kinh tế mở rộng
thành phố" cũng đề cập đến vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất. Đặc
biệt sau khi Luật Đất đai năm 1987 ra đời, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính
phủ) đã ban hành Quyết định số 186/HĐBT ngày 31/5/1990 quy định "Về đền
bù thiệt hại đất nông nghiệp, đất có rừng khi chuyển sang sử dụng vào mục
đích khác", thuật ngữ bồi thường được thay thể bằng thuật ngữ đền bù. Thuật
ngữ này tiếp tục được sử dụng trong Luật Đất đai năm 1993, Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Đất đai năm 1998 và các Nghị định hướng dẫn thi
hành như: Nghị định số 90-CP ngày 17/8/1994 của Chính phủ ban hành quy
định về việc đền bù thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục
đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng; Nghị định số
22/1998/NĐ-CP ngày 24/04/1998 của Chính phủ về đền bù thiệt hại khi Nhà
nước thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia,
lợi ích công cộng v.v. Tuy nhiên, khi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật Đất đai năm 2001 được Quốc hội ban hành, thuật ngữ bồi thường được sử
dụng trở lại và tiếp tục xuất hiện trong Luật Đất đai năm 2003; Nghị định số
197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 của Chính phủ quy định "Về bồi thường,
hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất", Nghị định số 84/2007/NĐ-CP
ngày 25/05/2007 Quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất (GCNQSDĐ), thu hồi đất, thực hiện quyền SDĐ, trình tự, thủ tục

bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu
nại về đất đai.
Vậy hiểu như thế nào là bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất? Theo
quan niệm của Luật đất đai năm 2003: "Bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
là việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu
hồi cho người bị thu hồi đất" (khoản 6 Điều 4).
Bồi thường trong lĩnh vực đất đai mang một số đặc trưng cơ bản sau đây:

15
- Vấn đề bồi thường chỉ đặt ra khi Nhà nước thu hồi đất của người
SDĐ để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; lợi ích quốc gia, lợi ích
công cộng;
- Việc bồi thường cho người SDĐ không do lỗi của Nhà nước gây ra
mà xuất phát từ nhu cầu của xã hội, của cộng đồng;
- Việc bồi thường về đất thực hiện không căn cứ vào giá chuyển
nhượng quyền SDĐ thực tế trên thị trường (trao đổi ngang giá) mà dựa vào
khung giá do Nhà nước quy định tại thời điểm thu hồi đất;
Để hiểu rõ hơn bản chất của bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, chúng
ta hãy phân biệt nó với các loại bồi thường trong các lĩnh vực pháp luật khác.
1.2.1.2. Phân biệt giữa bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất với một
số trách nhiệm pháp lý về bồi thường trong các lĩnh vực pháp luật khác
(i) Phân biệt giữa bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất với
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong pháp luật dân sự
Nghiên cứu, so sánh về bản chất của bồi thường thiệt hại khi Nhà
nước thu hồi đất với bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong pháp luật dân
sự có thể thấy giữa hai loại trách nhiệm bồi thường này có sự khác nhau ở
một số khía cạnh cơ bản sau đây:
Thứ nhất, về chủ thể bồi thường. Bồi thường khi Nhà nước thu hồi
đất là trách nhiệm của Nhà nước. Ở đây Nhà nước vừa là một tổ chức chính
trị, quyền lực vừa là người đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai thực hiện

chức năng quản lý nhà nước đối với đất đai. Trong khi đó, chủ thể của bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng có phạm vi rộng hơn, bao gồm bất cứ tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân nào (không phân biệt đó là tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân trong nước hay tổ chức, cá nhân nước ngoài) có hành vi gây thiệt hại
cho người khác;

16
Thứ hai, về chủ thể được bồi thường. Chủ thể của bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất là người SDĐ hợp pháp bị thu hồi đất. Tức là người SDĐ
được Nhà nước cấp GCNQSDĐ hoặc có một trong những loại giấy tờ về
quyền SDĐ theo quy định tại khoản 1, khoản 2 và khoản 5 Điều 50 của Luật
Đất đai năm 2003 mà có đất đang sử dụng bị Nhà nước thu hồi. Trong khi đó,
chủ thể được bồi thường trong chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
là bất cứ tổ chức, hộ gia đình, cá nhân nào có thiệt hại do hành vi vi phạm
ngoài hợp đồng của chủ thể bồi thường gây ra;
Thứ ba, về nguyên tắc bồi thường. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng áp dụng trong pháp luật dân sự là nguyên tắc tự nguyện thỏa
thuận giữa người có trách nhiệm bồi thường và người được bồi thường. Chỉ
khi nào các bên không tự thỏa thuận được với nhau thì mới yêu cầu các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền can thiệp giải quyết.
Trong khi đó, nguyên tắc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất lại có
nét khác biệt. Việc bồi thường được thực hiện khi người bị thu hồi đất thỏa
mãn đầy đủ các điều kiện về bồi thường do pháp luật quy định;
Thứ tư, vấn đề bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất chỉ đặt ra khi Nhà
nước ban hành một quyết định hành chính (quyết định thu hồi đất) thu hồi đất
làm chấm dứt quyền SDĐ của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân đối với một diện
tích đất xác định. Hậu quả thiệt hại do việc thu hồi đất của Nhà nước gây ra
chỉ có ý nghĩa trong việc xác định mức độ bồi thường. Hơn nữa, việc Nhà
nước thu hồi đất xuất phát từ nhu cầu khách quan của xã hội: để sử dụng vào
mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và phát

triển kinh tế. Vì vậy, trong nhiều trường hợp việc Nhà nước bồi thường cho
người bị thu hồi đất chưa hẳn đã phải do lỗi của mình gây ra mà ở đây Nhà
nước thực hiện nghĩa vụ bồi thường của xã hội đối với người SDĐ. Để thực
hiện trách nhiệm xã hội, Nhà nước không chỉ bồi thường về đất, thiệt hại về
tài sản trên đất mà còn thực hiện việc hỗ trợ ổn định đời sống, hỗ trợ di

17
chuyển chỗ ở; giải quyết vấn đề tái định cư; đào tạo chuyển đổi nghề, bố trí
việc làm mới cho người SDĐ;
Trong khi đó, việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được đặt ra khi
người có trách nhiệm bồi thường có hành vi gây thiệt hại cho người khác.
Việc bồi thường trong trường hợp này được thực hiện dựa trên yếu tố lỗi và
thiệt hại thực tế xảy ra. Hơn nữa, người có trách nhiệm bồi thường chỉ chịu
trách nhiệm cá nhân đối với người bị thiệt hại. Điều này có nghĩa là họ chỉ
có trách nhiệm bồi thường toàn bộ thiệt hại do lỗi của mình gây ra mà thôi;
Thứ năm, về tính chất bồi thường. Bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng chỉ thuần túy mang tính chất dân sự giữa cá nhân hoặc tổ chức với nhau.
Trong khi đó, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất lại hàm chứa cả tính chất
hành chính và tính chất dân sự: Tính chất hành chính của bồi thường khi Nhà
nước thu hồi đất thể hiện ở việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra một
quyết định hành chính (quyết định thu hồi đất) làm chấm dứt quyền SDĐ của
người sử dụng đối với một diện tích đất nhất định. Tính chất dân sự của loại
bồi thường này thể hiện các thiệt hại thực tế của người SDĐ về tài sản gắn
liền với phần đất bị thu hồi được Nhà nước bồi thường toàn bộ.
(ii) Phân biệt giữa bồi thường thiệt hại khi Nhà nước thu hồi đất với
bồi thường oan sai trong pháp luật hình sự
Nghiên cứu, tìm hiểu về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất với bồi
thường oan sai trong pháp luật hình sự cho thấy giữa chúng cũng có những sự
khác nhau cơ bản như sau:
Thứ nhất, về nguyên nhân của việc bồi thường. Bồi thường khi Nhà

nước thu hồi đất phát sinh do một hành vi hành chính là quyết định thu hồi đất
của cơ quan hành chính gây ra. Trong khi đó, bồi thường oan sai trong pháp
luật hình sự lại phát sinh trên cơ sở từ một hành vi của cơ quan tố tụng như
hành vi truy tố, xét xử v.v oan sai gây ra;

18
Thứ hai, trong nhiều trường hợp, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
chưa chắc đã phải do lỗi của Nhà nước gây ra mà xuất phát từ nhu cầu khách
quan của xã hội: thu hồi đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi
ích quốc gia, lợi ích công cộng. Trong khi đó, bồi thường oan sai trong pháp
luật hình sự lại do lỗi hoặc hành vi vi phạm (hành vi vi phạm có thể xuất phát
từ năng lực, trình độ yếu kém; do thái độ chủ quan, cẩu thả ) của cơ quan tố
tụng gây nên;
Thứ ba, về nguyên tắc thực hiện bồi thường. Bồi thường oan sai trong
pháp luật hình sự được thực hiện dựa trên nguyên tắc:
- Thiệt hại được bồi thường bao gồm thiệt hại về tinh thần và thiệt hại
về vật chất (khoản 3 Điều 3 Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11 ngày
17/03/2003 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội);
- Việc bồi thường thiệt hại được tiến hành trên cơ sở thương lượng
giữa đại diện cơ quan có trách nhiệm bồi thường thiệt hại với người bị oan,
sai; thân nhân hoặc đại diện hợp pháp của họ;
Trong khi đó, bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất lại được thực hiện
dựa trên nguyên tắc người bị thu hồi đất phải thỏa mãn các điều kiện về bồi
thường do pháp luật quy định. Hơn nữa, phạm vi của trách nhiệm bồi thường
này không xem xét đến yếu tố thiệt hại về tinh thần của người SDĐ;
Thứ tư, chế định bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất không chỉ xem
xét trách nhiệm của Nhà nước trong việc bồi thường thiệt hại do hành vi thu
hồi đất của mình gây ra mà còn giải quyết các vấn đề mang tính xã hội cho
người bị thu hồi đất như vấn đề hỗ trợ đời sống gặp khó khăn, đào tạo chuyển
đổi nghề nghiệp và bố trí tái định cư cho họ. Trong khi đó, bồi thường oan sai

trong pháp luật hình sự chỉ xem xét bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh
thần do hành vi của chủ thể có trách nhiệm bồi thường gây ra cho người bị
oan sai;

×