Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.67 KB, 19 trang )

Bài tập cuối kỳ môn Luật Dân sự -

Đề số 18:

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO
LÀM Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
MỞ ĐẦU
Trên toàn thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, từng giờ, từng phút
con người chúng ta sử dụng, khai thác một khối lượng khổng lồ những nguồn tài
nguyên thiên nhiên như than đá, gỗ, dầu mỏ... Sự khai thác quá mức đã khiến
những nguồn tài nguyên này lâm vào tình trạng suy kiệt một cách trầm trọng.
Bên cạnh đó việc các nhà máy sản xuất công nghiệp không ngừng thải vào môi
trường đất, nước, không khí lượng chất thải khổng lồ đã khiến cho tình trạng ô
nhiễm môi trường càng trở nên trầm trọng. Môi trường có tầm quan trọng to lớn
đối với cuộc sống của con người, chính vì lẽ đó mà Điều 6 Luật Bảo vệ môi
trường năm 2005 đã quy định: “Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn xã hội,
quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân”,
theo đó pháp luật là một trong những công cụ cần thiết và hữu hiệu nhất góp
phần quan trọng trong việc điều chỉnh và xử lý những hành vi của con người
trong mối quan hệ với môi trường.
Có thể khẳng định trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực môi trường đang là
vấn đề được quan tâm không chỉ riêng ở nước ta mà mang tính toàn cầu. Cũng
giống như các loại trách nhiệm pháp lý khác, trách nhiệm bồi thường thiệt hại
môi trường là một trong các biện pháp cưỡng chế được áp dụng đối với chủ thể
vi phạm pháp luật thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong đó chủ thể
vi phạm pháp luật phải gánh chịu những hậu quả bất lợi được quy định trong các
chế tài của các quy phạm pháp luật. Việc xây dựng một hệ thống pháp luật thống
nhất, đầy đủ nhằm điều chỉnh một cách phù hợp, chặt chẽ các quan hệ trong lĩnh
vực môi trường và trách nhiệm dân sự trong lĩnh vực này là một trong những
việc vô cùng quan trọng để ngăn chặn sự ô nhiễm môi trường.
I. Các quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại


trong lĩnh vực môi trường
Bồi thường thiệt hai do làm ô nhiễm, suy thoái môi trường được pháp luật
ghi nhận lần đầu tiên tại Luật Bảo vệ môi trường năm 1993, theo đó “tổ chức, cá
nhân gây tổn hại môi trường do hoạt động của mình phải bồi thường thiệt hại
theo quy định của pháp luật”. Nhưng phải đến khi Luật Bảo vệ môi trường năm
2005 được ban hành, vấn đề này mới được đề cập một cách rõ ràng hơn.
Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005 có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2006 là văn bản pháp luật chủ yếu trong lĩnh vực
1


Bài tập cuối kỳ môn Luật Dân sự -

bảo vệ môi trường. Đạo luật này đã đưa ra những nguyên tắc bảo vệ môi trường
như: nhà nước thống nhất quản lý việc bảo vệ môi trường; bảo vệ môi trường là
sự nghiệp của toàn dân, toàn xã hội; sử dụng các thành phần môi trường phải trả
tiền và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường gây
nên... Việc dành riêng 5 Điều cho các quy định về bồi thường thiệt hại do làm ô
nhiễm, suy thoái môi trường đã thể hiện một bước tiến đáng kể trong quá trình
hiện thực hóa nguyên tắc người gây ô nhiễm phải trả tiền – nguyên tắc được xem
là đặc trưng của lĩnh vực môi trường (từ Điều 131 đến Điều 135). Tại các Điều
35, Điều 49 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đã quy định về việc các tổ chức,
cá nhân trong hoạt động sản xuất kinh doanh và các hoạt động khác mà làm suy
thoái môi trường, ô nhiễm môi trường, gây sự cố môi trường thì phải thực hiện
các biện pháp khắc phục theo quy định của Ủy ban nhân dân địa phương và cơ
quan quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường, có trách nhiệm bồi thường thiệt
hại theo quy định của pháp luật. Khoản 1 Điều 19 Nghị định số 80/2006/NĐ-CP
của Chính phủ về hướng dẫn thi hành Luật Bảo vệ môi trường quy định: “Tổ
chức, cá nhân nhập khẩu phế liệu không tuân thủ các quy định tại khoản 1 và
khoản 2 Điều 43 của Luật Bảo vệ môi trường thì tùy tính chất, mức độ vi phạm

mà bị xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự. Trường hợp gây thiệt
hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật”. Nghị định số
117/2009/NĐ-CP đã có những hướng dẫn cụ thể về việc xử lý vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực hành chính.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi làm ô nhiễm môi trường cũng
được đề cập đến trong BLDS năm 2005 tại Điều 624 “Cá nhân, pháp nhân và
các chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường gây thiệt hại thì phải bồi thường theo
quy định của pháp luật, kể cả trường hợp người gây ô nhiễm môi trường không
có lỗi”. Ngoài ra tại Điều 263 có quy định nghĩa vụ của chủ sở hữu trong việc
bảo vệ môi trường “Khi sử dụng, bảo quản, từ bỏ tài sản của mình, chủ sở hữu
phải tuân theo các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường; nếu làm ô
nhiễm môi trường thì phải chấm dứt hành vi gây ô nhiễm, thực hiện các biện
pháp để khắc phục hậu quả và bồi thường thiệt hại”.
Ngoài các căn cứ pháp lý nói trên, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm
ô nhiễm môi trường còn được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác như
Luật Hàng hải năm 2005; Luật Bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, Điều 86 quy
định “Người nào có hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng mà
gây thiệt hại cho Nhà nước, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thì ngoài việc bị xử lý
theo quy định tại Điều 85 của Luật này còn phải bồi thường thiệt hại theo quy
định của pháp luật”; Luật Dầu khí năm 1993 có quy định tại Điều 44 “Tổ chức,
cá nhân tiến hành các hoạt động dầu khí gây thiệt hại đối với tài nguyên dầu
2


Bài tập cuối kỳ môn Luật Dân sự -

khí, tài nguyên thiên nhiên khác, môi trường hoặc tài sản của Nhà nước, của tổ
chức, cá nhân, thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật Việt
Nam”; Luật Khoáng sản năm 1996 có quy định tại các Điều 17, 18, 23, 27, 33,
46, 52, 64 về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hoạt động thăm dò, khai thác

và sử dụng khoáng sản; Luật Tài nguyên nước năm 1998; Pháp lệnh bảo vệ và
kiểm dịch thực vật ngày 25/7/2001 quy định tại Điều 43 “Người nào có hành vi
vi phạm pháp luật về bảo vệ và kiểm dịch thực vật mà gây thiệt hại cho nhà
nước, tổ chức, cá nhân thì ngoài việc bị xử lý theo quy định tại Điều 41 hoặc
Điều 42 của Pháp lệnh này còn phải bồi thường theo quy định của pháp luật”...
Ngoài ra, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường còn được
quy định rải rác tại một số văn bản dưới luật khác.
II. Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi
trường
Căn cứ vào Điều 624 BLDS năm 2005 và Điều 49 Luật Bảo vệ môi
trường năm 2005 ta có thể thấy chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
làm ô nhiễm môi trường là tổ chức; cá nhân. Người gây ra thiệt hại có thể là bất
cứ chủ thể nào: cá nhân, pháp nhân, cơ quan nhà nước...nhưng việc bồi thường
thiệt hải phải do người có “khả năng” bồi thường và chính họ phải tham gia vào
quan hệ nghĩa vụ, mặc dù hành vi gây ra thiệt hại có thể không do chính họ thực
hiện.
Cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì phải
tự mình bồi thường thiệt hại. Trường hợp người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18
tuổi phải bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường thì nếu họ không có đủ
tài sản để bồi thường thì cha mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của
họ. Người dưới 15 tuổi gây thiệt hại mà còn cha mẹ thì cha mẹ phải bồi thường
thiệt hại toàn bộ, nếu tài sản của cha mẹ không đủ để bồi thường mà con có tài
sản riêng thì lấy tài sản riêng đó để bồi thường phần còn thiếu cho bên bị thiệt
hại. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hai mà
có cá nhân, tổ chức giám hộ thì dùng tài sản của người được giám hộ để bồi
thường. Trường hợp người được giám hộ không có tài sản hoặc tài sản không đủ
để bồi thường thì người giám hộ phải bồi thường bằng tài sản của mình, nhưng
nếu người giám hộ chứng minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì
không phải lấy tài sản của mình để bồi thường. Trong trường hợp này sẽ không
có người bồi thường thiệt hại bởi những người được giám hộ không có khả năng

về năng lực hành vi để bồi thường, nếu họ có tài sản, có thể dùng tài sản của họ
để bồi thường.

3


Bài tập cuối kỳ môn Luật Dân sự -

Đối với các tổ chức (có thể là pháp nhân như doanh nghiệp nhà nước,
công ty TNHH...; có thể không phải là pháp nhân như hộ gia đình, tổ hợp tác...)
khi thành lập đã có năng lực pháp luật, có năng lực chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại, do đó khi các tổ chức tham gia vào các quan hệ pháp luật môi trường
mà có hành vi gây thiệt hại, làm ô nhiễm môi trường thì phải chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại bằng tài sản của mình. Thực tế đời sống cho thấy, các chủ
thể gây ô nhiễm môi trường chủ yếu là các doanh nghiệp. Trong hoạt động sản
xuất, kinh doanh của mình do không có thiết bị xử lý chất thải, hoặc không tuân
thủ các quy định khác về bảo vệ môi trường nên các cơ sở sản xuất, kinh doanh
đã làm suy thoái môi trường, gây ô nhiễm môi trường. Chủ thể “tiềm tàng” chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trước hết là các cơ sở kinh doanh, các doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế.
Trong thực tế không chỉ có một cá nhân hay một tổ chức gây thiệt hại làm
ô nhiễm môi trường mà còn có những trường hợp nhiều người cùng gây thiệt hại
cũng là tình trạng khá phổ biến. Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 quy định
trong trường hợp có nhiều tổ chức, cá nhân cùng gây ô nhiễm môi trường thì cơ
quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường có trách nhiệm phối hợp với các
bên liên quan để làm rõ trách nhiệm của từng đối tượng trong việc khắc phục ô
nhiễm và bồi thường. Tuy nhiên việc xác định chính xác mức độ gây hại đối với
môi trường của từng đối tượng lại là điều không hề đơn giản. Bồi thường thiệt
hại theo phần bằng nhau là giải pháp được pháp luật dân sự tính đến trong trường
hợp này. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng để đảm bảo sự công bằng trong áp

dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường, nếu người gây thiệt hại
chứng minh được mức độ mà mình gây thiệt hại đối với môi trường là không
đáng kể thì họ chỉ phải bồi thường thiệt hại theo phần tương ứng với mức độ gây
hại đó. Nghĩa vụ chứng minh thuộc về đối tượng gây thiệt hại sẽ giúp các tổ
chức, cá nhân nâng cao hơn trách nhiệm bảo vệ môi trường cũng như nâng cao
năng lực tự bảo vệ mình trong lĩnh vực này. Ngoài ra ta cũng cần tính đến tình
huống không áp dụng được trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho các đối tượng
chỉ vì thiệt hại môi trường là kết quả của hiện tượng tích tụ và cộng dồn các ảnh
hưởng tới môi trường, trong khí từng đối tượng lại tác động không quá mức giới
hạn tới môi trường.
III. Điều kiện phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trường
Quan hệ pháp luật trong lĩnh vự môi trường có thể phát sinh giữa các chủ
thể mà không cần tới các cơ sở pháp lý làm tiền đề như quan hệ hợp đồng hay
quan hệ công vụ...do vậy bồi thường thiệt hại trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ
4


Bài tập cuối kỳ môn Luật Dân sự -

bảo vệ môi trường là trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Đây là
loại trách nhiệm phát sinh dưới sự tác động trực tiếp của các quy phạm pháp luật
mà không cần có sự thỏa thuận trước của các chủ thể, sự trùng hợp về một số nội
dung có liên quan đến quyền và nghĩa vụ bảo vệ môi trường trong các thỏa thuận
hay cam kết không làm ảnh hưởng đến căn cứ áp dụng trách nhiệm bồi thường
thiệt hại về mồi trường theo luật định. Theo pháp luật dân sự, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trong đó có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
làm ô nhiễm môi trường phát sinh có những điều kiện sau đây:
- Có thiệt hại xảy ra;
- Hành vi gây thiệt hại trái pháp luật;

- Có lỗi của người gây thiệt hại;
- Có mối liên hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật;
1. Có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại xảy ra là tiền đề của trách nhiệm bồi thường thiệt hại bởi mục
đích của việc áp dụng trách nhiệm là khôi phục tình trạng sức khỏe, tài sản... cho
người bị thiệt hại, do đó không có thiệt hại thì không đặt ra vấn đề bồi thường
cho dù có đầy đủ các điều kiện khác. Thiệt hại thường là tổn thất thực tế được
tính thành tiền do việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của cá nhân,
tổ chức. Các thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây nên có thể bao gồm những
thiệt hại sau:
- Thiệt hại về tài sản, biểu hiện cụ thể là tài sản bị hủy hoại hoặc hư hỏng, thiệt
hại gắn liền với việc thu hẹp hoặc mất những lợi ích gắn liền với việc không sử
dụng, không khai thác hoặc bị hạn chế trong việc sử dụng, khai thác công dụng
của tài sản; những chi phí để ngăn chặn và khắc phục thiệt hại.
Ví dụ: Công ty Vedan xả chất thải làm ô nhiễm sông Thị Vải khiến cho nguồn
tài nguyên thủy sản như tôm cá bị chết rất nhiều. Hoặc khi nguồn nước và không
khí bị ô nhiễm, đồng cỏ bị nhiễm độc do các chất thải của các cơ sở sản xuất
công nghiệp làm cho gia súc, gia cầm bị ốm, chết gây thiệt hại cho người chăn
nuôi.
- Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe làm phát sinh thiệt hại về vật chất bào gồm
chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị
mất, bị giảm sút; chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc người bị thiệt hại trước
khi chết, chi phí mai táng, tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại
có nghĩa vụ cấp dưỡng.
Ví dụ: Thiệt hại do tính mạng bị xâm hại có thể xảy ra khi có các sự cố môi
trường như cháy rừng, tràn dầu...
5


Bài tập cuối kỳ môn Luật Dân sự -


- Thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm có thể xảy ra như khi môi trường bị ô
nhiễm (ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí...) sức khỏe con người bị giảm
sút, bị mắc các bệnh về đường hô hấp, đường tiêu hóa...
2. Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật bảo vệ môi trường
Những hành vi vi phạm pháp luật bảo vệ môi trường rất đa dạng, phong
phú. Thông thường hành vi gây thiệt hại được thể hiện dưới dạng hành động.
Chủ thể đã thực hiện hành vi mà đáng ra không được thực hiện các hành vi đó.
Ta có thể liệt kê một số loại hành vi tương đối phổ biến là hành vi trái pháp luật
bảo vệ môi trường:
- Những hành vi vi phạm điều cấm của Luật Bảo vệ môi trường năm 2005. Điều
7 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 nghiêm cấm những hành vi sau đây: đốt phá
rừng; khai thác khoáng sản một cách bừa bãi gây thiệt hại đến môi trường, làm
mất cân bằng sinh thái; thải khói, bụi, khí độc, mùi hôi thối gây hại vào không
khí; phát bức xạ, phóng xạ quá giới hạn cho phép vào môi trường xung quanh;
chôn vùi, thải vào đất các chất thải độc hại quá giới hạn cho phép; thải dầu mỡ,
hóa chất độc hại, chất phóng xạ quá giới hạn cho phép, các chất thải, xác động
vật, thực vật, vi khuẩn, siêu vi khuẩn và gây dịch bệnh vào nguồn nước; nhập
khẩu công nghệ, thiết bị không đáp ứng tiêu chuẩn môi trường; nhập khẩu, quá
cảnh chất thải dưới mọi hình thức; nhập khẩu, quá cảnh động vật, thực vật chưa
qua kiểm dịch, vi sinh vật ngoài danh mục cho phép; sản xuất, kinh doanh sản
phẩm gây nguy hại cho con người, sinh vật và hệ sinh thái; sản xuất, sử dụng
nguyên liệu, vật liệu xây dụng chứa yếu tố độc hại vượt quá tiêu chuẩn cho phép;
xâm hại di sản thiên nhiên, khu bảo tồn thiên nhiên; xâm hại công trình, thiết bị,
phương tiện phục vụ hoạt động vảo vệ môi trường; hoạt động trái phép, sinh
sống ở khu vực được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định là khu vực cấm
do mức độ đặc biệt nguy hiểm về môi trường đối với sức khỏe và tính mạng con
người...
- Những hành vi vi phạm các quy định về đánh giá tác động môi trường hoặc
các yêu cầu ghi tại phiếu thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường.

- Vi phạm các quy định về bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên như các quy
định về bảo vệ rừng, khai thác, kinh doanh động thực vật quý hiếm; bảo vệ
nguồn đất, bảo vệ đất; vi phạm các quy định về đa dạng sinh học và bảo tồn
thiên nhiên...

6


Bài tập cuối kỳ môn Luật Dân sự -

- Những hành vi vi phạm các quy định về vệ sinh công cộng như quy định về
vận chuyển và xử lý chất thải, rác thải...
- Những hành vi vi phạm các quy định về bảo quản và sử dụng các chất dễ gây ô
nhiễm; vi phạm các quy định về phòng, chống sự cố môi trường trong tìm kiếm,
thăm dò, khai thác vận chuyển dầu khí, hầm mỏ...
3. Có lỗi của chủ thể gây thiệt hại
Môi trường có thể bị xâm hại từ hai nhóm nguyên nhân: nhóm thứ nhất là
các nguyên nhân khách quan tác động đến môi trường không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con người như bão, động đất, hạn hán... những trường hợp
này không làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường đối với
bất cứ tổ chức, cá nhân nào; nhóm thứ hai là các yếu tố chủ quan do hoạt động
của con người gây ra từ việc khai thác, sử dụng các yếu tố môi trường hay từ các
hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ khác. Đối với nhóm thứ hai, trách
nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường phát sinh khi có đủ các dấu hiệu cấu
thành trách nhiệm pháp lý dân sự.
Trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
hành vi làm ô nhiễm môi trường chỉ được loại trừ trong trường hợp người bị hại
có lỗi. Có nghĩa là trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi
trường nếu người bị thiệt hại không có lỗi thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại
luôn luôn được đặt ra đối với người làm ô nhiễm môi trường. Thậm chí, trong

một số trường hợp cụ thể trách nhiệm bồi thường thiệt hại không được loại trừ
ngay cả khi người gây ô nhiễm môi trường không có lỗi. Quy định này cần được
áp dụng khi giải quyết các tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại do các nguồn nguy
hiểm cao độ gây ra như các phương tiện giao thông vận tải, các nhà máy công
nghiệp đang hoạt động, các lò phản ứng hạt nhân, kho chứa vũ khí...Những sự cố
tràn dầu từ các phương tiện giao thông đường thủy đã làm ô nhiễm môi trường
với diện rộng, gây nhiều thiệt hại cho nhân dân.
4. Có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và hành vi vi phạm pháp
luật bảo vệ môi trường
Thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật hay ngược lại hành vi
trái pháp luật là nguyên nhân của thiệt hại xảy ra. Việc xác định mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra trong nhiều trường hợp
rất khó khăn. Trong quá trình xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trường đặc biệt cần làm sáng tỏ mối quan hệ này.

7


Bài tập cuối kỳ môn Luật Dân sự -

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường là trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, có một số điểm khác với trách nhiệm
phát sinh từ nghĩa vụ hợp đồng như sau:
- Cơ sở của trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực môi trường là các
quy định của pháp luật về hậu quả của hành vi vi phạm pháp luật của chủ thế,
không cần có sự thỏa thuận trước của các bên.
- Trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường việc thực
hiện bồi thường thiệt hại sẽ làm chấm dứt nghĩa vụ còn trong nghĩa vụ hợp đồng
thì việc bồi thường thiệt hại không làm cho người có nghĩa vụ được giải phóng
khỏi trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ một cách thực tế như giao vật, thực hiện

công việc...
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường có trường hợp
không có lỗi vẫn phải chịu trách nhiệm, nếu pháp luật có quy định.
IV. Tiêu chí xác định ô nhiễm môi trường và phương pháp xác định
thiệt hại để tính mức bồi thường; nguyên tắc bồi thường thiệt hại
Trên thế giới hiện đang tồn tại song song hai quan điểm khác nhau về thiệt
hại do ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường. Quan điểm thứ nhất cho rằng:
thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường chỉ gồm thiệt hại đối với các yếu tố
môi trường tự nhiên, như hệ động thực vật, đất, nước, không khí... mà không bao
gồm thiệt hại đối với tính mạng, sức khoe và tài sản của con người. Quan điểm
thứ hai cho rằng: thiệt hại về môi trường không chỉ bao gồm các thiệt hại đến
chất lượng môi trường mà còn cả thiệt hại về sức khỏe, tài sản của cá nhân do ô
nhiễm môi trường gây nên. Tại Việt Nam, tính từ thời điểm Luật Bảo vệ môi
trường năm 2005 được ban hành, vấn đề về thiệt hại do ô nhiễm môi trường
được xác định theo quan điểm thứ hai. Điều 131 Luật Bảo vệ môi trường năm
2005 ghi nhận có hai loại thiệt hại:
- Thứ nhất là thiệt hại đối với môi trường tự nhiên. Đó là sự suy giảm chức
năng, tính hữu ích của môi trường trong đó chức năng, tính hữu ích của môi
trường được thể hiện qua các phương diện chính như sau:
1. Môi trường là không gian sinh tồn của con người;
2. Môi trường là nơi cung cấp các nguồn tài nguyên thiên nhiên và đa
dạng sinh học (kể cả vật liệu, năng lượng, thông tin cần thiết cho cuộc sống và
hoạt động của con người;
3. Môi trường là nơi chứa đựng và tiêu hủy chất thải do con người thải ra
trong các hoạt động của mình.
Vậy có thể hiệu sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường xảy
ra khi: chất lượng của các yếu tố môi trường sau khi bị tác động thấp hơn so với
8



Bài tập cuối kỳ môn Luật Dân sự -

tiêu chuẩn về chất lượng môi trường; lượng tài nguyên thiên nhiên bị khai thác,
sử dụng lớn hơn lượng được khôi phục ( đối với tài nguyên tái tạo được) và hoặc
lớn hơn lượng thay thế (đối với tài nguyên không tái tạo được); lượng chất thải
thải vào môi trường lớn hơn khả năng tự phân hủy, tự làm sạch của chúng.
- Thứ hai là thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của con người, tài sản và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân do hậu quả của việc suy giảm chức năng, tính hữu
ích của môi trường gây ra. Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của con người được
thể hiện qua các chi phí để cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi các chức
năng bị mất của người bị thiệt hại và các khoản thu nhập thực tế bị mất, bị giảm
sút do thiệt hại về tính mạng, sức khỏe có nguyên nhân từ ô nhiễm môi trường,
suy thoái môi trường. Thiệt hại về tài sản được thể hiện qua những tổn thất về
cây trồng, vật nuôi, những khoản chi phí cho việc sửa chữa, ngăn chặn và phục
hồi tài sản bị thiệt hại do sự ô nhiễm, suy thoái môi trường gây nên. Thiệt hại
đến lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân được thể hiện qua sự tổn hại về lợi ích
vật chất, sự giảm sút về thu nhập chính đáng mà nguyên nhân là do sự suy giảm
chức năng, tính hữu ích của môi trường. Thiệt hại thứ hai này chỉ xảy ra khi đã
có thiệt hại thứ nhất, cũng có khi thiệt hại giữa môi trường tự nhiên và thiệt hại
đối với tài sản, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân không phải hoàn toàn tách
biệt.
Ví dụ: sự suy giảm nguồn lợi thủy sinh tại một vùng biển bị ô nhiễm cũng đồng
thời là sự giảm sút về thu nhập của ngư dân ở khu vực đó.
Việc xác định thiệt hại do ô nhiễm môi trường là vấn đề hẵng còn nhiều
khó khăn ngay cả ở những nước phát triển. Tại Việt Nam chúng ta mới chỉ đúc
rút được đôi chút kinh nghiệm từ thực tiễn tự phát giải quyết các vụ kiện đòi bồi
thường thiệt hại về sức khỏe, tài sản do ô nhiễm môi trường gây nên. Tiêu chí
xác định ô nhiễm môi trường là các tiêu chuẩn môi trường. Dựa vào các tiêu
chuẩn để xác định mức độ ô nhiễm, từ đó đánh giá mức độ vi phạm tiêu chuẩn
môi trường, tiểu chuẩn chất thải là bao nhiều lần, ảnh hưởng tới con người, loài

vật và các hệ sinh thái cùng các phạm vi ảnh hưởng đó và thời gian bị ảnh
hưởng.
Về phương thức giải quyết bồi thường thiệt hại đã được quy định tại Điều
133 Luật Bảo vệ môi trường năm 2005:
“ Việc giải quyết bồi thường thiệt hại về môi trường được quy định như
sau:
1. Tự thỏa thuận của các bên;
2. Yêu cầu trọng tài giải quyết;
3. Khởi kiện tại Tòa án”.

9


Bài tập cuối kỳ môn Luật Dân sự -

1. Tiêu chí xác định ô nhiễm
Số lượng thành phần môi trường, loại hình hệ sinh thái, giống loài bị suy
giảm và mức độ thiệt hại của từng loại là một trong những căn cứ để xác định
mức độ ô nhiễm của môi trường ( khoản 3 Điều 131 Luật Bảo vệ môi trường
năm 2005). Một hành vi làm ô nhiễm môi trường có thể gây thiệt hại cùng một
lúc hai hay nhiều thành phần nôi trường. Mức độ thiệt hại đối với môi trường
trong trường hợp này sẽ phụ thuộc vào số lượng nhiều hay ít các yếu tố môi
trường bị ô nhiễm. Số lượng thành phần môi trường bị xâm hại càng lớn thì thiệt
hại gây ra càng nặng nề. Mức độ thiệt hại đối với môi trường phụ thuộc vào số
lượng nhiều hay ít các yếu tố môi trường bị suy giảm. Số lượng thành phần môi
trường bị xâm hại càng lớn thì thiệt hại gây ra càng nặng nề. Mức độ thiệt hại đối
với môi trường cũng phụ thuộc vào giống, loài động thực vật bị thiệt hại. Nếu
giống loài bị thiệt hại có mức độ đe dọa, quý hiếm càng cao thì thiệt hại gây ra
đối với môi trường càng lớn. Danh mục các loài động thực vật hoang dã, quý
hiếm là một trong những cơ sở pháp lý giúp cho việc xác định mức độ thiệt hại

đối với môi trường được dễ hơn.
1.1 Các tiêu chuẩn môi trường và tiêu chuẩn chất thải
a. Môi trường nước:
- Tiêu chuẩn chất lượng nước mặt
- Tiêu chuẩn chất lượng nước biển ven bờ
- Tiêu chuẩn chất lượng nước ngầm
- Tiêu chuẩn chất lượng nước.
b. Môi trường không khí
- Giá trị giới hạn thông số cơ bản trong không khí xung quanh
- Tiêu chuẩn khí thải công nghiệp đối với bụi và các chất vô cơ
- Tiêu chuẩn khí thải công nghệ đối với các chất hữu cơ
- Tiêu chuẩn tiếng ồn cho phương tiện giao thông vận tải đường bộ và
trong khu vực công cộng và dân cư.
c. Môi trường đất
- Tiêu chuẩn hóa chất bảo vệ thực vật trong đất
1.2 Các mức độ vi phạm tiêu chuẩn môi trường
Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 xác định có 3 mức độ của sự suy giảm
chức năng, tính hữu ích của môi trường tại khoản 1 Điều 131:
“ Sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường gồm các mức độ sau đây:
a. Có suy giảm;
b. Suy giảm nghiêm trọng;
10


Bài tập cuối kỳ môn Luật Dân sự -

c. Suy giảm đặc biệt nghiêm trọng.”
Để xác định mức độ vi phạm tiêu chuẩn môi trường cần phải dựa vào số
lượng, số điểm đo và số lần đo mới có thể kết luận rõ ràng. Số lượng điểm đo
phải đủ nhiều để đại diện cho vùng liên quan đến kết luận và số lần đo các thông

số có dấu hiệu vi phạm các tiêu chuẩn thông thường phải từ hai lần trở lên. Tỷ lệ
số điểm đo vi phạm tiêu chuẩn so với số điểm đo nói chung phải khoảng 70% trở
lên. Như vậy mức độ vi phạm có thể chia thành nhóm như sau:
- Từ 1- 2 lần: chớm bị ô nhiễm, ô nhiễm nhẹ;
- Từ 2- 4 lần: bị ô nhiễm trung bình;
- Từ 4- 10 lần: bị ô nhiễm nặng;
- Trên 10 lần: bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Ngoài việc xem xét, đánh gia theo một thông số ô nhiễm xác định, thì ta
còn phải xem xét thêm các thông số sau đây:
Thứ nhất là mức độ ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Tùy yếu tố ô
nhiễm và mức độ vi phạm tiêu chuẩn, tùy thuộc khả năng tiếp cận và sử dụng
môi trường đã bị ô nhiễm mà có hay không sự ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe
con người. Thông thường những ảnh hưởng đó phải được biểu hiện bằng số
người ( bị ngộ độc, bị ung thư, bị chết...), mức độ, thời gian ảnh hưởng cũng như
vùng ảnh hưởng rộng hay hẹp ta có thể chia thành 4 loại: nhẹ, trung bình, nặng
và rất nặng.
Thứ hai là mức độ ảnh hưởng đến sinh vật. Qua các con số thống kê các
loài vật ( như chim chóc, súc vật, tôm, cá, san hô...) và các loại cây (cây lâu năm,
cây lương thực, rừng...) bị bệnh, bị chết; qua số lượng diện tích và năng suất các
loài sinh vật bị ảnh hưởng mà ta có thể chia thành các mức độ như sau: nhẹ,
trung bình, nặng, rất nặng.
Thứ ba là mức độ ảnh hưởng đến giá trị thẩm mỹ. Ảnh hưởng của các
thông số ô nhiễm cũng gây ảnh hưởng xấu đến mỹ cảm của con người. Ví dụ:
khi có mưa axit sẽ làm héo lá cây; vệt dầu tràn làm đen ngòm chân đảo đá khiến
cho khu du lịch biển phải đóng cửa...Ta có thể chia ảnh hưởng này cũng thành 4
mức độ: nhẹ, trung bình, nặng và rất nặng.
Thứ tư là về thời gian ảnh hưởng. Có 3 mức ảnh hưởng sau đây: nhanh
(tính bằng ngày); kéo dài (tính bằng tháng) và rất dài (tính bằng năm). Có những
thông số xảy ra trong thời gian ngắn nhưng tác động âm ỉ trong thời gian lâu dài,
dần dần mới bộc lộ. Có những tác động dưới dạng tích lũy, chỉ sau một thời gian

mới đủ sức biểu hiện ra.
11


Bài tập cuối kỳ môn Luật Dân sự -

2. Phương pháp xác định thiệt hại do ô nhiễm môi trường
Việc đo, đếm sự suy giảm thực tế về chức năng, tính hữu ích của mỗi
thành phần môi trường khi chúng bị ô nhiễm không hề đơn giản. Như vậy, chúng
ta cần sử dụng phương pháp suy đoán logic, theo đó nếu một thành phần môi
trường bị ô nhiễm ở các mức độ có ô nhiễm, ô nhiễm nghiêm trọng, ô nhiễm đặc
biệt nghiêm trọng thì cũng có nghĩa là thành phần môi trường đó đã bị sự suy
giảm tương ứng về chức năng, tính hữu ích của nó. Có nghĩa là thiệt hại đối với
môi trường tự nhiên có thể được chia làm ba cấp độ tương ứng với ba mức suy
giảm chức năng của môi trường. Có hai loại thiệt hại do ô nhiễm môi trường, đó
là thiệt hại có thể tính thành tiền và thiệt hại không thể tính thành tiền, song để
xác định mức bồi thường thì tất cả cần phải quy thành tiền. Định giá thiệt hại là
một công việc rất phức tạp, trong nhiều trường hợp các đánh giá về sự thiệt hại
chỉ mang tính tương đối. Trong việc đính giá thiệt hại cách phân loại mức độ ô
nhiễm đóng vai trò quan trọng giúp chúng ta định hướng và ước tính gần với
thực hiện hơn. Khoản 4 Điều 131 Luật Bảo vệ môi trường quy định các căn cứ
sau để tính toán thiệt hại về môi trường:
“ 4. Việc tính toán chi phí thiệt hại về môi trường được quy định như sau:
a) Tính toán chi phí thiệt hại trước mắt và lâu dài do sự suy giảm chức năng,
tính hữu ích của các thành phần môi trường;
b) Tính toán chi phí xử lý, cải tạo, phục hồi môi trường;
c) Tính toán chi phí giảm thiểu hoặc triệt tiêu nguồn gây thiệt hại;
d) Thăm dò ý kiến các đối tượng liên quan;”
Trong bốn căn cứ trên thì căn cứ vào chi phí xử lý, cải tạo phục hồi môi
trường và chi phí giảm thiểu hoặc triệt tiêu nguồn gây thiệt hại được xem là có

tính khả thi nhất trong việc xác định thiệt hại cũng như đối với việc áp dụng
trách nhiệm bồi thường. Các căn cứ còn lại: tính toán chi phí thiệt hại trước mắt
và lâu dài do sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của các thành phần môi
trường; thăm dò ý kiến các đối tượng liên quan hẵng còn khá mơ hồ và khó áp
dụng tại Việt Nam hiện nay.
Tính toán thiệt hại thông qua chi phí giảm thiểu hoặc triệt tiêu nguồn gây
thiệt hại được hiểu là thiệt hại gây ra cho môi trường được tính bằng tổng chi phí
cho các nguồn gây ô nhiễm để đạt ở mức được thải ra môi trường mà không gây
ô nhiễm. Khi cơ sở đầu tư để xử lý chất thải thì sẽ không gây ô nhiễm môi
trường, không gây thiệt hại đối với môi trường. Nếu môi trường bị ô nhiễm, số
thiệt hại ít nhất sẽ bằng tổng số chi phí để lặp đặt hệ thống xử lý khí thải, xử lý
nước thải, để giữ cho môi trường ở mức bằng hoặc dưới mức tiêu chuẩn về chất
lượng môi trường. Tính toán thiệt hại môi trường thông qua chi phí xử lý, cải
tạo, phục hồi môi trường được hiểu là bên gây ô nhiễm môi trường phải bồi
12


Bài tập cuối kỳ môn Luật Dân sự -

thường một khoản bằng chi phí bỏ ra để xử lý ô nhiễm, để loại bỏ các yếu tố độc
hại có trong thành phần môi trường như chi phí để xử lý, cải tạo đất bị ô nhiễm,
để phục hồi độ phì nhiêu của đất...
Thiệt hại do ô nhiễm môi trường phải là tổng các thiệt hại về môi trường
(do vi phạm các tiêu chuẩn môi trường và tiêu chuẩn chất thải), về sức khỏe của
con người, của sinh vật; các giá trị thẩm mỹ và thời gian ảnh hưởng.
- Thiệt hại do làm ô nhiễm nước, không khí, đất được đánh giá bằng số chi phí
phải bỏ ra để làm cho môi trường khí, đất, nước trở lại như trước khi bị ô nhiễm.
Đó là tất cả các chi phí liên quan đến công tác thu dọn, các biện pháp làm sạch,
ví dụ như lọc nước, nạo vét hồ, ao... Mức độ vi phạm các tiêu chuẩn là các mốc
để tạm xác định các thiệt hại về kinh phí.

- Thiệt hại do ảnh hưởng tới sức khỏe của con người là số tiền bỏ ra để chữa
chạy, bồi thường về thương tật và mọi dịch vụ y tế khác ( bao gồm cả đền bù khi
có người chết). Nếu sản phẩm bị ô nhiễm được tiêu thụ ở nơi khác thì thiệt hại
loại này khó có thể thống kê được. Do vậy cần ước lượng trên cơ sở khối lượng
sản phẩm và số lượng người bị mắc bệnh ở một nơi nào đó rồi ngoại suy. Ngoài
ra còn phải kể tới thu nhập bị mất do phải nghỉ điều trị, chi phí cho người phục
vụ...
- Thiệt hại do ảnh hưởng đến sinh vật là tổng số lượng, diện tích, năng suất, thời
gian mà sinh vật bị hại sau quy đổi thành tiền theo giá thị trường. Đặc biệt cần
lưu ý tới thiệt hại làm mất nòi giống, ảnh hưởng đến nguồn gen ( ví dụ: trứng cá,
cây non...)
- Thiệt hại do ảnh hưởng tới nghề nghiệp là thiệt hại do ô nhiễm mà một số hoạt
động nào đó không thể tiến hành được (ví dụ: đánh bắt nuôi trồng thủy hải sản,
làm muối...). Ta có thể tính thiệt hại bằng số người nhân với thời gian nhân với
thu nhập hàng tháng. Ngoài ra còn có thiệt hại do mất lòng tin của người tiêu
dùng, tạm tính bằng số sản phẩm không bán được, các vụ hoặc năm không bán
được và giá trị đơn vị.
- Thiệt hại do tổ chức thực hiện việc khảo sát, xác định thiệt hại là những phí tổn
cho việc sử dụng lao động, thời gian, máy móc, hóa chất, làm báo cáo...
- Thiệt hại do tác động tích lũy và thời gian kéo dài là thiệt hại ước tính phục hồi
lại một cách tự nhiên hoặc nhân tạo các yếu tố môi trường và các hệ sinh thái.
Tùy theo yếu tố môi trường, hệ sinh thái cụ thể mà đánh giá thiệt hại.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường có mối quan hệ nhất định
với trách nhiệm khắc phục tình trạng môi trường bị ô nhiễm. Thông thường
trong các quan hệ pháp lý khác có liên quan đến bồi thường thiệt hại, người gây
thiệt hại chỉ phải bồi thường những thiệt hại do mình gây ra và được giải phóng
khỏi quan hệ với người bị hại. Trong lĩnh vực môi trường, người làm ô nhiễm
13



Bài tập cuối kỳ môn Luật Dân sự -

môi trường gây thiệt hại thường phải thực hiện đồng thời cả hai biện pháp là
khắc phục tình trạng môi trường bị ô nhiễm mà bồi thường thiệt hại về môi
trường. Tác dụng chính của biện pháp khắc phục ô nhiễm môi trường là hạn chế,
ngăn chặn phạm vi ảnh hưởng, khả năng lây lan ô nhiễm môi trường, đồng thời
làm giảm nhẹ những thiệt hại do ô nhiễm môi trường gây ra. Tác dụng của bồi
thường thiệt hại là bù đắp những tổn thất về người, tài sản và những giá trị sinh
thái đã bị mất. Trách nhiệm áp dụng các biện pháp khắc phục ô nhiễm môi
trường mang tính chất là một biện pháp cưỡng chế hành chính, do người có thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính quyết định, còn bồi thường thiệt hại là trách
nhiệm dân sự có thể thỏa thuận và xác lập theo ý chí của các bên. Trong lĩnh vực
môi trường, hai loại trách nhiệm có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và trong một
số trường hợp có thể thay thế, chuyển hóa cho nhau, đặc biệt là khi chỉ xuất hiện
thiệt hại đối với môi trường tự nhiên mà không xuất hiện thiệt hại đối với tính
mạng, sức khỏe, tài sản của cá nhân, tổ chức. Nếu việc khắc phục tình trạng môi
trường bị ô nhiễm, suy thoái do chính người bị hại tiến hành thì những chi phí
hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại sẽ được tính trong tổng giá
trị thiệt hại để đòi bồi thường. Nếu người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã
tự mình thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng môi trường bị ô nhiễm thì
họ sẽ được giải phóng hoặc làm giảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi
trường.
V. Thời hạn được bồi thường
Thời hạn được bồi thường là khoảng thời gian mà người được bồi thường
được hưởng do tính mạng, sức khỏe bị xâm hại. Điều 5 Nghị định số
117/2009/NĐ-CP về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường
quy định:
“Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính, thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi
phạm hành chính
1. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là hai

năm, kể từ ngày hành vi vi phạm hành chính được thực hiện; nếu quá thời hạn
trên thì không xử phạt, nhưng vẫn áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả
quy định tại Nghị định này.
2. Đối với cá nhân bị khởi tố, truy tố hoặc có quyết định đưa vụ án ra xét xử
theo thủ tục tố tụng hình sự mà có quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ
án mà hành vi vi phạm có dấu hiệu vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường
theo quy định tại Nghị định này thì trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày ra quyết
định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, người đã ra quyết định phải gửi quyết
định cho người có thẩm quyền xử phạt; trong trường hợp này, thời hiệu xử phạt
14


Bài tập cuối kỳ môn Luật Dân sự -

vi phạm hành chính là ba tháng, kể từ ngày người có thẩm quyền nhận được
quyết định đình chỉ và hồ sơ vụ vi phạm.
3. Trong thời hạn quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này mà cá nhân, tổ chức
có vi phạm hành chính mới trong lĩnh vực bảo vệ môi trường hoặc cố tình trốn
tránh, cản trở việc xử phạt thì không áp dụng thời hiệu quy định tại khoản 1 và
khoản 2 Điều này. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính đối với các trường hợp
trên được tính lại, kể từ thời điểm thực hiện vi phạm hành chính mới hoặc kể từ
thời điểm chấm dứt hành vi cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt.
4. Cá nhân, tổ chức bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường nếu quá một năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hoặc từ
ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt mà không tái phạm thì được coi
như chưa bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường”.
VI. Một số bất cập còn tồn tại và phương hướng giải quyết
Có thể khẳng định việc quy định của pháp luật cũng như việc xác định
trách nhiệm dân sự của cá nhân, tổ chức trong lĩnh vực môi trường hiện nay ở
Việt Nam vẫn là một trong những vấn đề hết sức phức tạp, mới mẻ và chưa đáp

ứng thực tiễn yêu cầu bảo vệ môi trường trong phạm vi quốc gia và quốc tế. Do
cơ sở pháp lý hẵng còn thiếu sót, chưa phù hợp dẫn tới quá trình giải quyết các
tranh chấp liên quan đến bồi thường thiệt hại về môi trường cũng gặp nhiều khó
khăn, vướng mắc.
Ta chưa có quy định đầy đủ các loại hình trách nhiệm dân sự đặc thù trong
lĩnh vực môi trường mà chủ yếu mới chỉ tập trung vào trách nhiệm bồi thường
thiệt hại. Trong khi đó, buộc chấm dứt hành vi vi phạm cũng là một loại trách
nhiệm dân sự thường được áp dụng và khá hữu hiệu lại chưa được quy định một
cách thống nhất trong lĩnh vực pháp luật về môi trường.
Thông thướng trách nhiệm bồi thường trong lĩnh vực dân sự được thực
hiện theo hai nguyên tắc: tôn trọng sự thỏa thuận giữa các bên và thiệt hại đến
đâu, bồi thường đến đấy. Tuy nhiên trong lĩnh vực môi trường, có những thiệt
hại xảy ra đối với hệ sinh thái, nguồn nước, không khí thì ngoài việc bồi thường
cho những đối tượng trực tiếp bị thiệt hại về sức khỏe tài sản, còn có những thiệt
hại gián tiếp, có những thiệt hại chưa phát sinh ngay mà ảnh hưởng về lâu dài và
chủ thể gây thiệt hại phải có trách nhiệm ngăn chặn, khôi phục nguyên trạng.
Trong những trường hợp như thế, rất khó hợp lý và chuẩn xác khi đưa những
nguyên tắc bồi thường thiệt hại dân sự đơn thuần như hiện nay để áp dụng.

15


Bài tập cuối kỳ môn Luật Dân sự -

Trong lĩnh vực môi trường, trách nhiệm dân sự được đặt ra đối với các tổ
chức, cá nhân vi phạm nghĩa vụ bảo vệ môi trường do pháp luật quy định. Môi
trường bao gồm rất nhiều các yếu tố khác nhau như không khí, đất, nước...,
tương ứng với mỗi yếu tố tạo nên môi trường, pháp luật có những quy định khác
nhau quy định nghĩa vụ mà tổ chức, cá nhân phải thực hiện nhằm bảo vệ môi
trường và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân đó khi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật

quy định. Tuy nhiên, trong lĩnh vực môi trường chúng ta không thể tách từng
thành phần môi trường ra để bảo vệ một cách riêng lẻ, cũng không thể chỉ tuân
thủ một quy định về bảo vệ môi trường đất, nước hay không khí... mà phải thực
hiện đồng thời tất cả các quy định về bảo vệ môi trường. Trong bất kỳ hoạt động
nào của con người đều tác động đến môi trường, vì vậy để xác định hành vi nào
là hành vi vi phạm nghĩa vụ trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là rất khó. Trên cơ
sở lý luận ta có thể cho rằng dựa vào các tiêu chuẩn môi trường để xác định các
hành vi trái pháp luật của các chủ thể khi tác động đến môi trường. Tuy nhiên
các tiêu chuẩn môi trường được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành vẫn
chưa được phổ biến rộng rãi đến mọi người dân. Đối với các tổ chức tiến hành
sản xuất kinh doanh, khi xây dựng dự án, họ buộc phải lập báo cáo đánh giá tác
động môi trường, bởi vậy chủ thể này buộc phải tiếp cận với các tiêu chuẩn môi
trường để có thể đánh giá tác động của hoạt động sản xuất kinh doanh mà họ dự
kiến tiến hành đến môi trường xung quanh. Đối với các chủ thể khác, việc tiếp
cận với các tiêu chuẩn môi trường do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành
hẵng còn khá xa vời.
Thời hạn áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực môi
trường là vấn đề còn nhiều tranh cãi. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và
kịp thời đã trở thành nguyên tắc luật định, song trong lĩnh vực môi trường, do giá
trị của các thiệt hại về môi trường thường rất lớn và khó xác định nên trong tuyệt
đại đa số các trường hợp việc áp dụng trách nhiệm bồi thường toàn bộ và kịp
thời các thiệt hại là điều khó có thể thực hiện được. Pháp luật cần có các quy
định mang tính linh hoạt hơn trong lĩnh vực này. Chẳng hạn như người gây thiệt
hại đối với môi trường có thể bồi thường một lần hoặc nhiều lần trong khoảng
thời gian tối đa một số năm nhất định nào đó kể từ ngày áp dụng trách nhiệm bồi
thường thiệt hại. Bên cạnh đó cũng cần nhắc đến các quy định về thời hiệu khởi
kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại. Theo BLDS năm 2005 thì thời hạn này là hai
năm kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, chủ thể khác
bị xâm phạm. Tuy nhiên cũng cần tình đến trong lĩnh vực môi trường, ngày
quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại không hoàn toàn trùng khít với ngày phát

sinh thiệt hại trên thực tế. Thiệt hại đối với người bị nhiễm chất phóng xạ, nhiễm
hóa chất độc hại là những ví dụ điển hình, vì vậy pháp luật môi trường nên sớm
hướng tới việc quy định thời hiệu khởi kiện gắn với ngày mà thiệt hại thực tế xảy
ra và cần có khoảng thời gian dài hơn hai năm.
16


Bài tập cuối kỳ môn Luật Dân sự -

Khi áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường, chúng ta
không thể không xét đến các cam kết quốc tế về vấn đề này. Ngày 17/6/2004
Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự đối với thiệt hại do ô nhiễm dầu 1992
có hiệu lực tại Việt Nam, đây sẽ là căn cứ pháp lý quan trọng để phía Việt Nam
yêu cầu các đối tượng gây ô nhiễm môi trường từ sự cố tràn dầu phải bồi thường
thiệt hại về môi trường một cách thỏa đáng. Chúng ta đều biết, nhiều sự cố môi
trường, ô nhiễm môi trường xảy ra có hậu quả và ảnh hưởng rất lớn trong phạm
vi rộng. Vấn đề bảo vệ môi trường không chỉ đối với một quốc gia mà của cả
khu vực, của cả thế giới. Tuy nhiên không phải lúc nào cũng có điều ước quốc tế
để áp dụng điều chỉnh trong những trường hợp như thế, vì vậy việc quy định luật
xung đột là rất cần thiết nhằm giải quyết các quan hệ về trách nhiệm dân sự trong
lĩnh vực môi trường có yếu tố nước ngoài.
Hiện nay pháp luật chưa phát huy hiệu lực đầy đủ, không mang lại hiệu
quả như mong muốn. Điều 6 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính đã nêu: “Tổ
chức bị xử phạt hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra. Sau khi
chấp hành quyết định xử phạt, tổ chức bị xử phạt xác định cá nhân có lỗi gây ra
vi phạm để xác định trách nhiệm pháp lý của người đó theo quy định của pháp
luật”. Việc “xác định trách nhiệm pháp lý” của cá nhân trong trường hợp này
chưa được quy định rõ dẫn tới trên thực tế trong các trường hợp tổ chức vi phạm,
hầu như không có cá nhân nào bị xử phạt. Theo luật, trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường, nếu không có cá nhân nào bị xử phạt hành chính thì cũng có nghĩa là

không ai có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo các quy định từ Điều 182
đến Điều 191 BLHS năm 1999, thì ai đã bị xử phạt hành chính mới có thể bị xử
phạt hình sự, như vậy xử phạt hình sự được đặt ra đối với các tổ chức, doanh
nghiệp như thế nào?
Vướng mắc trong việc xác định trách nhiệm nhiều chủ thể cùng gây thiệt
hại cũng cần sớm được khắc phục. Ví dụ: đối với một khu công nghiệp, chất thải
của một nhà máy vào môi trường được xác định là không vượt quá tiêu chuẩn
cho phép. Nhưng chất thải của nhiều nhà máy gộp lại sẽ làm cho nồng độ các
chất độc thải vào không khí, chất độc thải vào nguồn nước cao hơn nhiều so với
mức độ cho phép. Vậy trên thực tế, tuy chưa có hành vi vi phạm luật môi trường
đối với từng chủ thể nhưng đã có thiệt hại xảy ra. Trong trường hợp này, có thể
yêu cầu tất cả các nhà máy đều phải chịu trách nhiệm dân sự hay không?
VII. Kết luận
Qua nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật môi trường ta có thể thấy cho đến nay
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường tại Việt Nam vẫn là
vấn đề còn rất mới mẻ và phức tạp trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
17


Bài tập cuối kỳ môn Luật Dân sự -

Những quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
hẵng còn những thiếu xót gây khó khăn trong quá trình áp dụng vào thực tiễn.
Tuy nhiên không thể vì thế mà phủ nhận ý nghĩa của những quy định trong việc
hạn chế những hành vi xâm hại, góp phần duy trì, bảo vệ và phát triển môi
trường một cách bền vững. Chính vì lẽ đó, việc nghiên cứu, tìm hiểu nhằm hoàn
thiện và phát triển hệ thống các quy định của pháp luật liên quan đến trách nhiệm
pháp lý dân sự trong lĩnh vực môi trường là hết sức quan trọng nhằm hạn chế
những hành vi xâm hại tới môi trường, điều chỉnh đầy đủ, chặt chẽ và hợp lý
những quan hệ phát sinh nếu có. Nhưng cũng phải khẳng định rằng xác định

thiệt hại đối với môi trường và áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm
ô nhiễm môi trường trong mọi trường hợp không phải là mong muốn hàng đầu
được áp dụng trong lĩnh vực môi trường bởi thực sự dù những chi phí để xử lý,
cải tạo môi trường có to lớn như thế nào cũng không thể khắc phục được hết
những hậu quả do ô nhiễm môi trường gây ra. Điều trước tiên và quan trọng nhất
là mỗi con người chúng ta cần xây dựng cho mình ý thức bảo vệ môi trường, bảo
vệ môi trường cũng chính là bảo vệ cuộc sống của chúng ta, của những người
xung quanh.

18


Bài tập cuối kỳ môn Luật Dân sự -

MỤC LỤC

19



×