Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam Luận văn ThS. Luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (978.77 KB, 88 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




BÙI THỊ HƢƠNG







NUÔI CON NUÔI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM






LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC










HÀ NỘI - 2011



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




BÙI THỊ HƢƠNG





NUÔI CON NUÔI THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số : 60 38 30




LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Cừ







HÀ NỘI - 2011



MC LC



Trang

Trang ph bỡa


Li cam oan


Mc lc


M U
1

Ch-ơng 1: NHNG VN Lí LUN V NUễI CON NUễI
7

1.1.
Khỏi nim nuụi con nuụi
7
1.1.1.
Nuụi con nuụi trong nc
13
1.1.2.
Nuụi con nuụi cú yu t nc ngoi
17
1.2.
Vài nét khỏi quỏt s phỏt trin ca phỏp lut Vit Nam v
nuụi con nuụi
19

Ch-ơng 2: THC TRNG VIC IU CHNH PHP LUT Về
NUễI CON NUễI VIT NAM
28
2.1.
Trc khi Lut Nuụi con nuụi nm 2010 ra i
28
2.1.1.
Mt s kt qu t c
28
2.1.2.
Nhng hn ch, bt cp, tn ti cn khc phc
30
2.2.
S hỡnh thnh, nhng im mi và những điểm còn hạn chế
ca Lut Nuụi con nuụi nm 2010
42

2.2.1.
S hỡnh thnh Luật Nuụi con nuụi
42
2.2.2.
Nhng im mi ca Lut Nuụi con nuụi nm 2010
45
2.2.3.
T khi Lut Nuụi con nuụi năm 2010 cú hiu lc
53
2.2.3.1.
Những tác động tích cực từ việc ban hành Luật Nuụi con
nuụi năm 2010
53
2.2.3.2.
Những hạn chế cần sửa đổi, bổ sung của Luật Nuụi con nuụi
năm 2010
56

Ch-ơng 3: C CH BO M VIC THC THI PHP LUT
NUễI CON NUễI
62
3.1.
Cỏc bin phỏp nhm hn ch ti a tỡnh trng li dng vic
nuụi con nuụi trong nc hng chớnh sỏch ói ng
62
3.2.
Gii quyt c bn cỏc vn cũn tn ti trong c ch gii
quyt vn nuụi con nuụi thc t
68
3.3.

Gii quyt c bn cỏc vn cũn tn ti trong c ch gii
quyt vn nuụi con nuụi cú yu t nc ngoi
73
3.4
Theo dừi tỡnh hỡnh phỏt trin ca tr em c cho lm con
nuụi v tng cng m bo quyn ca tr em c sng
trong gia ỡnh
76
3.5
Các biện pháp để bảo đảm việc thực thi Luật Nuụi con nuụi
năm 2010 77

3.6.
Tin học hoá quản lý nhà n-ớc trong lĩnh vực nuôi con nuôi
80

Kết luận
81

DANH MụC Tài liệu tham khảo
82


1
MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Nuôi con nuôi là hiện tượng xã hội xảy ra phổ biến ở tất cả các quốc
gia trên thế giới và được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật của các nước trên
cơ sở phù hợp với điều kiện kinh tế và mục đích xã hội của mỗi quốc gia.

Ở nước ta, nuôi con nuôi là một vấn đề mang tính nhân đạo, được
Đảng và nhà nước quan tâm sâu sắc. Trong hoàn cảnh đất nước còn phải chịu
những di chứng nặng nề của chiến tranh, điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều
khó khăn, mức thu nhập của nhân dân còn thấp, nhiều trẻ em có hoàn cảnh
đặc biệt cần có mái ấm gia đình… thì vấn đề nuôi con nuôi càng trở nên cấp
thiết trong đời sống xã hội.
Bên cạnh ý nghĩa tạo mái ấm gia đình cho trẻ em, việc nuôi con nuôi
còn góp phần đáp ứng nhu cầu chính đáng của vợ chồng nhận con nuôi, đặc
biệt là những cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn, phụ nữ có hoàn cảnh khó
khăn, sống đơn thân…
Pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi ở nước ta được hình thành
từ khá sớm và trong những năm qua đã góp phần quan trọng vào việc bảo
đảm thực hiện quyền của trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục
trong môi trường gia đình; động viên khơi dậy tinh thần nhân đạo, nhân văn
của con người Việt Nam; giữ gìn và phát huy truyền thống tương thân tương
ái, lá lành đùm lá rách trong nhân dân. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng, hệ
thống pháp luật này vẫn còn bộc lộ những hạn chế và bất cập nhất định.
Để khắc phục những sự chồng chéo, tản mát của hệ thống các văn bản
pháp luật về nuôi con nuôi, nhằm đề ra các quy định phù hợp nhất với giai
đoạn phát triển mới của đất nước để nâng cao hơn nữa số lượng trẻ em được
nhận làm con nuôi mà vẫn đảm bảo được mục đích, ý nghĩa của hoạt động

2
mang tính xã hội sâu sắc này, ngày 17/6/2010 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XII kỳ họp thứ 7 đã ban hành Luật Nuôi con nuôi
số 52/2010/QH12.
Sự ra đời của một đạo luật riêng về nuôi con nuôi đã tạo ra được
khung pháp lý thống nhất, ổn định, có giá trị áp dụng lâu dài, thu hút được sự
quan tâm, ủng hộ và giúp đỡ của toàn xã hội đối với công tác bảo vệ, chăm
sóc và nuôi dưỡng trẻ em, nâng cao trách nhiệm của tất cả các ngành, các cấp,

cơ quan, tổ chức và xã hội trong việc bảo đảm quyền của trẻ em. Điều đó đã
thể hiện sự quan tâm sâu sắc, thiết thực của Đảng, Nhà nước đối với công tác
bảo vệ trẻ em, nhất là những trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, tạo cơ sở để Chính
phủ ban hành và thực hiện các chính sách, biện pháp nhằm khuyến khích, động
viên và tăng cường trách nhiệm của toàn xã hội trong việc giúp đỡ những trẻ em
có hoàn cảnh đặc biệt để các em được chăm sóc, nu«i d-ìng và giáo dục trong
môi trường gia đình, hòa nhập với cộng đồng và có điều kiện phát triển thành
người có ích cho xã hội. Luật Nuôi con nuôi n¨m 2010 chính là cơ sở pháp lý
đồng bộ nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của các cặp vợ chồng trong
nước mong muốn có con nuôi; bảo vệ quyền và lợi ích của cha mẹ nuôi, giúp
họ ổn định tư tưởng và yên tâm trong việc nuôi dưỡng, chăm sóc con nuôi
như con đẻ. Bên cạnh đó, việc ban hành Luật Nuôi con nuôi còn thể hiện sự
tôn trọng các cam kết quốc tế của nhà nước ta khi tham gia công ước quốc tế
về quyền trẻ em, tôn trọng và bảo đảm các quyền trẻ em, bảo đảm việc nuôi
con nuôi được tiến hành trên nguyên tắc nhân đạo, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.
Để tìm hiểu kỹ hơn vấn đề nuôi con nuôi, đặc biệt từ khi có Luật Nuôi
con nuôi n¨m 2010 ra đời để qua đó có thể so sánh, phân tích và thấy được
những điểm mới, tính ưu việt của đạo luật này; đồng thời đề ra những cơ chế
đảm bảo và biện pháp đưa pháp luËt nu«i con nu«i vào đời sống xã hội, tác
giả đã chọn đề tài "Nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam" để nghiên cứu
và thực hiện luận văn thạc sĩ của mình.

3
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề nuôi con nuôi là đối tượng quan tâm của nhiều nhà nghiên
cứu. Dưới góc độ khoa học pháp lý, vấn đề này cũng được nghiên cứu ở nhiều
cấp độ khác nhau, kể cả ở trong nước và nước ngoài. Tại Việt Nam, những
năm gần đây, nghiên cứu về pháp luật nuôi con nuôi có khá nhiều, có số
lượng tương đối phong phú. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp trong
chương trình hợp tác với UNICEF đã biên soạn một chuyên đề Thông tin

pháp lý về: "Chế định nuôi con nuôi trong pháp luật Việt Nam và quốc tế"
(năm 1998). Cuốn sách đã giới thiệu khái quát về chế định nuôi con nuôi
trong pháp luật Việt Nam, nêu thực trạng về nuôi con nuôi tại một số địa
phương và giới thiệu về pháp luật nuôi con nuôi của một số nước. Tác giả
Nguyễn Công Khanh biên soạn cuốn "Hỏi đáp về pháp luật nuôi con nuôi"
(Nhà xuất bản Tư pháp, năm 2004). Bên cạnh đó còn một số bài viết đăng
trên các báo và tạp chí chuyên ngành. Tác giả Nguyễn Thị Thu Vân có bài:
"Chế định nuôi con nuôi trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000" trên
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật (tháng 2 năm 2001). Tác giả Nguyễn Phương
Lan có bài "Bản chất của việc nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam" (Tạp
chí Luật học số 2 năm 2005), bài "Cần hoàn thiện các quy định của pháp luật
về chấm dứt nuôi con nuôi và hủy việc nuôi con nuôi" (Tạp chí tòa án nhân
dân số 24 năm 2005) và bài "Cơ sở của việc quy định hình thức nuôi con nuôi
trọn vẹn" (Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 8 năm 2005)… Tác giả Ngô Thị
Hường có bài "Về chế định nuôi con nuôi trong Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000" (Tạp chí Luật học số 3 năm 2001). Bài viết phân tích và nêu một
số khiếm khuyết, bất cập trong các quy định về nuôi con nuôi của Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2000. Năm 2009, Tạp chí Dân chủ và pháp luật xuất
bản riêng một số chuyên đề "Pháp luật về nuôi con nuôi" bao gồm bài viết
của các tác giả: Nguyễn Công Khanh, Bùi Thị Thu Hằng, Hằng Thu, Nguyễn
Phương Lan, Nguyễn Thăng Long… về các tồn tại, bất cập và các giải pháp
để hoàn thiện các quy định của pháp luật về nuôi con nuôi.

4
Bên cạnh đó, nhiều cuộc hội thảo khoa học ở những cấp độ khác nhau
cũng được tổ chức. Năm 2005, Viện Khoa học pháp lý và Cục Con nuôi quốc
tế đã thực hiện đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ với nhan đề: "Hoàn thiện
pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trước yêu cầu gia nhập Công
ước La Hay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con
nuôi quốc tế".

Tháng 3/2007, tác giả Nguyễn Phương Lan đã bảo vệ Luận án tiến sĩ
với đề tài "Cơ sở lý luận và thực tiễn của chế định pháp lý về nuôi con nuôi ở
Việt Nam" tại Trường Đại học Luật Hà Nội. Có thể nói luận án này là công
trình khoa học có tính chuyên sâu, nghiên cứu tương đối hệ thống và toàn
diện pháp luật về nuôi con nuôi ở nước ta giai đoạn trước khi có Luật Nuôi
con nuôi ra đời.
Với tình hình nghiên cứu chung đó, việc nghiên cứu để tiếp tục hoàn
thiện pháp luật về nuôi con nuôi là cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và
thực tiễn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu các quy định về nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam
giai đoạn trước khi Luật Nuôi con nuôi 2010 ra đời.
Nghiên cứu pháp luật một số nước về nuôi con nuôi.
Nghiên cứu chế định nuôi con nuôi trong pháp luật hiện hành của
Việt Nam.
Nghiên cứu thực trạng thực hiện việc nuôi con nuôi, áp dụng pháp luật
nuôi con nuôi và giải quyết các vấn đề phát sinh trong quan hệ nuôi con nuôi.
Tìm hiểu thực trạng quản lý nhà nước về nuôi con nuôi.
Kiến giải một số vấn đề nhằm hoàn thiện pháp luật về nuôi con nuôi ở
Việt Nam hiện nay.

5
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Mục đích nghiên cứu đề tài:
Làm sáng tỏ tính ưu việt và những hạn chế, bất cập của chế định nuôi
con nuôi trong hệ thống pháp luật Việt Nam; tìm ra những điểm còn hạn chế
trong pháp luật hiện hành và trong quá trình thi hành, áp dụng các quy định về
nuôi con nuôi; đề xuất ý kiến nhằm hoàn thiện chế định nuôi con nuôi và đảm
bảo hiệu quả của việc thi hành, áp dụng chế định nuôi con nuôi trong thực tiễn.
- Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài:

Phân tích để hiểu rõ bản chất pháp lý và tính nhân đạo của chế định
nuôi con nuôi trong pháp luật Việt Nam.
Nghiên cứu một cách tổng thể pháp luật nuôi con nuôi ở nước ta trong
quá trình lập pháp, đồng thời có sự so sánh, đối chiếu với pháp luật các nước
và pháp luật quốc tế; phát hiện những bất cập, hạn chế, khiếm khuyết của các
quy định về nuôi con nuôi, từ đó có cơ sở hoàn thiện pháp luật nuôi con nuôi.
Khảo sát và đánh giá thực tiễn áp dụng chế định nuôi con nuôi, qua đó
phát hiện những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng và thực hiện
pháp luật nuôi con nuôi.
5. Phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trên cơ
sở đó, đề tài được nghiên cứu bằng các phương pháp cụ thể là phân tích, tổng
hợp, so sánh, hệ thống, kết hợp với các phương pháp khác như phương pháp
lịch sử, thống kê…
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Góp phần đánh giá, khắc phục và hoàn thiện hệ thống pháp luật về
nuôi con nuôi của Nhà nước ta thông qua các lĩnh vực xây dựng, thực hiện và
áp dụng pháp luật trên thực tiễn.

6
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nuôi con nuôi.
Chương 2: Thực trạng việc điều chỉnh pháp luật nuôi con nuôi ở Việt Nam.
Chương 3: Cơ chế bảo đảm việc thực thi pháp luật nuôi con nuôi.

7
Ch-ơng 1

NHNG VN Lí LUN V NUễI CON NUễI

1.1. Khỏi nim nuụi con nuụi
Nuụi con nuụi l mt khỏi nim ó c quy nh ti iu 67 ca Lut
Hụn nhõn v gia ỡnh nm 2000. n Lut Nuụi con nuụi s 52/2010/QH12
ti khon 1 iu 3 vn tip tc k tha khỏi nim ú nhm kin to mt h
thng cỏc thut ng phỏp lý v nuụi con nuụi, ch khụng nhm a ra mt
cỏch hiu khỏc v ch nh nuụi con nuụi Vit Nam.
Theo ú, "nuụi con nuụi l vic xỏc lp quan h cha, m, con giữa
ng-ời nhận nuôi con nuôi và ng-ời đ-ợc nhận làm con nuôi" [28, Điều 3].
Khái niệm trên có thể đ-ợc xem xét d-ới nhiều góc độ.
Xét trên góc độ sinh học, quan hệ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có
nhiều điểm khác với quan hệ giữa cha mẹ đẻ và con đẻ. Nếu quan hệ giữa cha
mẹ đẻ và con đẻ dựa trên sự kiện sinh đẻ, là mối liên hệ huyết thống tự nhiên
thì quan hệ nuôi con nuôi đ-ợc hình thành dựa trên ý chí chủ quan của cha mẹ
nuôi và con nuôi. Nh- vậy, d-ới góc độ sinh học, nuôi con nuôi là việc xác lập
quan hệ cha mẹ và con giữa ng-ời nhận nuôi và ng-ời đ-ợc nhận nuôi, các
bên đối xử với nhau nh- cha mẹ đẻ và con đẻ nh-ng các bên không có quan hệ
với nhau về mặt sinh học và huyết thống.
D-ới góc độ xã hội, việc nuôi con nuôi có thể tồn tại các hình thức nh-
nuôi con nuôi trên danh nghĩa, nuôi con nuôi thực tế, nuôi con nuôi theo
phong tục tập quán Trong đó, nuôi con nuôi trên danh nghĩa là hình thức
nuôi con nuôi đ-ợc xác lập do sự thoả thuận của cha mẹ nuôi và con nuôi đã
thành niên hoặc giữa cha mẹ nuôi và cha mẹ đẻ của con nuôi ch-a thành niên
trên cơ sở tình cảm và -ớc nguyện gắn bó giữa hai gia đình. Nuôi con nuôi
thực tế là hình thức nuôi con nuôi trong đó ng-ời nhận nuôi và ng-ời đ-ợc

8
nhận nuôi đã gắn bó với nhau, thực hiện quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ, con
trên thực tế, đáp ứng đ-ợc các điều kiện chủ thể nh-ng ch-a đăng ký tại các

cơ quan nhà n-ớc có thẩm quyền. Nh- vậy, d-ới góc độ xã hội, quan hệ nuôi
con nuôi không đòi hỏi các điều kiện chặt chẽ mà chủ yếu đáp ứng những lợi
ích về vật chất và tinh thần. Quan hệ nuôi con nuôi d-ới hình thức này không
phải khi nào cũng có sự thừa nhận của cơ quan nhà n-ớc có thẩm quyền và
hầu nh- không đ-ợc pháp luật điều chỉnh.
D-ới góc độ pháp lý, việc nuôi con nuôi có sự công nhận của các cơ
quan nhà n-ớc có thẩm quyền và đ-ợc các quy phạm pháp luật điều chỉnh.
D-ới góc độ này, các chủ thể phải đáp ứng những điều kiện của pháp luật.
Chẳng hạn, ng-ời đ-ợc nhận nuôi phải đáp ứng điều kiện về độ tuổi, ng-ời
nhận nuôi con nuôi phải có khả năng thực tế chăm sóc, giáo dục con nuôi
Bên cạnh đó, các chủ thể phải tuân theo trình tự, thủ tục luật định về xác lập
quan hệ nuôi con nuôi. Đồng thời, khi quan hệ nuôi con nuôi đ-ợc công nhận,
các bên cũng sẽ có những quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định. Việc nuôi
con nuôi có sự công nhận của nhà n-ớc có thể phát sinh hai hình thức: nuôi
con nuôi đơn giản và nuôi con nuôi trọn vẹn. Nuôi con nuôi đơn giản là hình
thức nuôi con nuôi không làm chấm dứt hoàn toàn mối quan hệ pháp lý của
ng-ời đ-ợc nhận làm con nuôi và gia đình gốc. ở hình thức nuôi con nuôi
này, giữa cha mẹ đẻ và ng-ời đ-ợc cho làm con nuôi vẫn tồn tại các quyền và
nghĩa vụ pháp lý, ví dụ quyền h-ởng di sản thừa kế của nhau. Nuôi con nuôi
trọn vẹn là việc nuôi con nuôi làm chấm dứt hoàn toàn quyền và nghĩa vụ
pháp lý giữa ng-ời đ-ợc nhận làm con nuôi với gia đình gốc, giữa cha mẹ đẻ
và con không còn mối liên hệ pháp lý nào.
Nh- vậy, d-ới góc độ pháp lý, nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha,
mẹ và con giữa ng-ời nhận nuôi con nuôi và ng-ời đ-ợc làm con nuôi, dựa trên ý
chí chủ quan của các chủ thể tham gia quan hệ nuôi con nuôi và đ-ợc sự công
nhận của các cơ quan nhà n-ớc có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.

9
Vấn đề nuôi con nuôi có thể đ-ợc hiểu d-ới nhiều góc độ và đ-ợc xem
xét ở nhiều hình thức, nh-ng dù d-ới góc độ và hình thức nào thì hầu hết các

tr-ờng hợp nuôi con nuôi đều xuất phát từ ý chí chủ quan của cha mẹ nuôi,
cha mẹ đẻ và con nuôi.
Cỏc ch th trong quan h nuụi con nuụi bao gm: ngi nhn con
nuụi (cha m nuụi) v ngi c nhn lm con nuụi (con nuụi).
Theo iu 3 Lut Nuụi con nuụi năm 2010 thỡ cha m nuụi l ngi
nhn con nuụi sau khi vic nuụi con nuụi c c quan nh nc cú thm
quyn ng ký. õy l mt trong hai ch th ca quan h nuụi con nuụi.
Ngi nhn con nuụi, trc ht cú th l mt cp v chng (hai ngi khỏc
gii tớnh, là vợ chồng tr-ớc pháp luật), cng cú th l ngi c thân (cỏ
nhõn) nam hoc n, cú iu kin nuụi con nuụi theo quy nh ca phỏp
lut, cú quc tch Vit Nam (cụng dõn Vit Nam) hoc khụng cú quc tch
Vit Nam (ngi nc ngoi). Theo phỏp lut hin hnh thỡ trng hp mt
ngi ang cú v hoc chng khụng th xin nhn con nuụi m khụng cú ý
kin ng thun ca ngi kia, tc l nu v chng xin con nuụi thỡ c hai
ngi cựng phi ng ý xin nhn con nuụi, mi c gii quyt (khon 3
iu 8 Lut Nuụi con nuụi năm 2010); nu ch cú v hoc chng xin con
nuụi, cũn ngi kia khụng ng ý xin con nuụi, thỡ yờu cu nhn con nuụi
khụng gii quyt c. õy l im khỏc bit gia phỏp lut Vit Nam vi
phỏp lut ca nhiu nc hin nay (theo phỏp lut ca mt s nc, trng
hp ch cú mt mỡnh v hoc chng nhn con nuụi, thỡ vn c gii quyt -
con nuụi ch l con ca mt ngi, tuy nhiờn, ngi cũn li vn phi cú ý kin
cho v/chng nhn con nuụi).
V c bn, iu kin ca ngi nhn con nuụi quy nh ti iu 14
Lut Nuụi con nuụi năm 2010 ó k tha quy nh ca iu 69, Lut Hụn
nhõn v gia ỡnh nm 2000.

10
Cụ thể, người nhận con nuôi phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo
đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi chưa thành niên; có tư

cách đạo đức tốt; không phải là người đang bị hạn chế quyền của cha, mẹ đối
với con chưa thành niên, người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị
kết án nhưng chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ
ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ
dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên phạm pháp; mua bán, đánh
tráo, chiếm đoạt trẻ em; các tội xâm phạm tình dục đối với trẻ em; có hành vi
xúi giục, ép buộc con làm những điều trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Luật Nuôi con nuôi n¨m 2010 quy định độ tuổi tối thiểu của người xin
nhận con nuôi (phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên) là nhằm đảm bảo việc
người xin nhận con nuôi có đủ điều kiện cần thiết để nuôi dưỡng con nuôi. Luật
không quy định về việc giới hạn độ tuổi tối đa của người xin nhận con nuôi vì
mục đích của việc nuôi con nuôi là tạo mái ấm gia đình cho trẻ em, trong đó trẻ
em được sống trong tình yêu thương, sự chăm sóc, sẻ chia của cha mẹ nuôi và
điều này không phụ thuộc vào độ tuổi của cha mẹ nuôi. Mặt khác, pháp luật
của nhiều nước, đặc biệt các nước có điều kiện tương đồng với Việt Nam,
cũng không đặt ra giới hạn độ tuổi tối đa của người xin nhận con nuôi.
Ngoài các điều kiện trên, nếu là người Việt Nam định cư ở nước ngoài
hoặc người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhận trÎ em Việt Nam làm
con nuôi phải có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật cña nước nơi
người đó thường trú.
Trường hợp công dân Việt Nam nhận người nước ngoài làm con nuôi,
ngoài việc phải đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên còn phải đáp ứng đủ các
điều kiện theo quy định của pháp luật nước nơi người được nhận làm con nuôi
thường trú.

11
Chủ thể quan trọng thứ hai trong quan hệ nuôi con nuôi là người được
nhận làm con nuôi.
Người được nhận làm con con nuôi là trẻ em dưới 16 tuổi. Quy định

này là phù hợp với độ tuổi của trẻ em được quy định trong Luật chăm sóc,
bảo vệ và giáo dục trẻ em năm 2005 (trẻ em Việt Nam lµ ng-êi từ dưới 16
tuổi). Xem xét trong mối quan hệ với các quy định pháp luật khác cho thấy,
Bộ luật Dân sự năm 2005 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đều quy
định rằng: trẻ em từ đủ 15 tuổi trở lên đã được pháp luật công nhận năng lực
hành vi dân sự để thực hiện một số quyền và nghĩa vụ: ví dụ: quyền quản lý
tài sản, hoặc định đoạt tài sản riêng của mình…, ngoài ra còn có nghĩa vụ như
chăm lo đời sống chung của gia đình, nếu có thu nhập thì đóng góp vào các
nhu cầu thiết yếu của gia đình (Điều 44 và Điều 45 Luật Hôn nhân và gia đình
năm 2000). Vì vậy, quy định về độ tuổi làm con nuôi của trẻ em là dưới 16
tuổi cũng cơ bản phù hợp với tinh thần của các quy định pháp luật liên quan.
Ngoài ra, người được nhận làm con nuôi cũng có thể là người từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi nếu được cha dượng, mẹ kế hoặc cô, cậu, dì, chú, bác
ruột nhận làm con nuôi;
Về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi: pháp luật hiện hành của
nước ta đã quy định rõ ràng, cụ thể về quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nuôi và
con nuôi, đồng thời xác định rõ những quan hệ pháp lý giữa cha mẹ đẻ và con
đã được cho làm con nuôi sẽ chấm dứt nhằm tránh tranh chấp về quyền và
nghĩa vụ giữa hai gia đình cha, mẹ đẻ và cha, mẹ nuôi. Các quyền và nghĩa vụ
được quy định cụ thể như:
Sau khi đã hoàn tất các thủ tục đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, kể từ thời điểm giao nhận con nuôi, cha mÑ nu«i vµ con nuôi có đầy đủ
quyền và nghĩa vụ pháp lý gi÷a cha mÑ vµ con theo LuËt ®Þnh. Cụ thể là, cha
mẹ nuôi có nghĩa vụ trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, yêu thương,

12
đại diện cho con nuôi trước pháp luật, quản lý tài sản của con nuôi, bồi
thường thiệt hại do con nuôi chưa thành niên gây ra; con nuôi có trách nhiệm
yêu quý, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo với cha mẹ nuôi, lắng nghe những lời
khuyên bảo ®óng đắn của cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của

gia đình, chăm sóc nuôi dưỡng cha mẹ.
Con nuôi có thể được thay đổi tên và thay đổi họ theo họ của cha, mẹ
nuôi nếu cha, mẹ nuôi có yêu cầu. Quy định này nhằm đảm bảo sự hòa nhập
thực sự và toàn diện của con nuôi vào gia đình cha, mẹ nuôi.
Vấn đề dân tộc của con nuôi: kế thừa các nguyên tắc của Điều 22
Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 03/10/2001 quy định chi tiết thi hành Luật
Hôn nhân và gia đình về vấn đề này, khoản 3 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi
n¨m 2010 quy định: "Dân tộc của con nuôi là trẻ em bị bỏ rơi được xác định
theo dân tộc của cha nuôi, mẹ nuôi" [28]. Không có quy định về việc cho
phép con nuôi được đổi dân tộc theo dân tộc của cha mẹ nuôi vì như vậy sẽ
dẫn đến thay đổi cơ cấu dân tộc trong dân cư Việt Nam và làm mất đi nguồn
gốc của trẻ em.
Đồng thời, cũng kể từ thời điểm giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không
còn một số quyền và nghĩa vụ đối với con đã cho đi làm con nuôi như quyền
và nghĩa vụ cấp dưỡng đối với con, đại diện cho con trước pháp luật, quản lý,
định đoạt tài sản riêng (nếu có) của con trừ trường hợp giữa cha mẹ đẻ hoặc
người giám hộ của trẻ em với cha mẹ nuôi có thỏa thuận khác. Bởi thực tế,
đây là những quyền và nghĩa vụ mà khi đã cho con đi làm con nuôi và con
nuôi sống cùng với cha mẹ nuôi thì cha mẹ đẻ không thể có điều kiện thực
hiện. Mặt khác, để tránh xung đột trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của
cha mẹ nuôi và cha mẹ đẻ đối với người con đó thì việc quy định chấm dứt
một số quyền, nghĩa vụ pháp lý của cha mẹ đẻ đối với con đã cho làm con
nuôi cũng là phù hợp. Tuy nhiên, theo Điều 11 của Luật Nuôi con nuôi n¨m
2010, việc chấm dứt một số quyền, nghĩa vụ của cha mẹ đẻ và con không làm

13
ảnh hưởng đến việc thực hiện những quyền, nghĩa vụ khác của cha mẹ đẻ và
con; con nuôi vẫn có quyền được biết về nguồn gốc của mình khi đến tuổi
trưởng thành. Trường hợp làm con nuôi ng-êi nước ngoài thì con nuôi vẫn
được cha mẹ nuôi tạo điều kiện để trở về thăm quê hương đất nước và tìm lại

cội nguồn nơi đã sinh ra. Đây là một thực tế pháp lý mà nhiều nước đã thực
hiện, điển hình là Trung Quốc.
1.1.1. Nuôi con nuôi trong nước
Nuôi con nuôi trong nước là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt
Nam với nhau thường trú ở Việt Nam.
Các nội dung liên quan đến vấn đề nuôi con nuôi trong nước được quy
định tại chương II Luật Nuôi con nuôi n¨m 2010, bao gồm các quy định về
điều kiện đối với người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi;
quyền và nghĩa vụ phát sinh từ việc nuôi con nuôi, thẩm quyền giải quyết và
đăng ký nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi.
Công dân Việt Nam có nguyện vọng và đủ điều kiện nhận con nuôi
theo quy định nhưng chưa tìm được trẻ em để nhận làm con nuôi thì đăng ký
nhu cầu nhận con nuôi với Sở Tư pháp nơi người đó thường trú; nếu có trẻ em
để giới thiệu làm con nuôi thì Sở Tư pháp giới thiệu đến Ủy ban nhân dân cấp
xã nơi trẻ em đó thường trú để xem xét, giải quyết vì Sở Tư pháp là nơi tổng
hợp danh sách trẻ em có đủ điều kiện để cho làm con nuôi do cơ sở nuôi
dưỡng trẻ em gửi đến, nên sẽ là nơi giới thiệu trẻ em để cho làm con nuôi
trong nước.
Người nhận con nuôi phải nộp hồ sơ của mình và hồ sơ của người
được giới thiệu làm con nuôi tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người được giới
thiệu làm con nuôi thường trú hoặc nơi người nhận con nuôi thường trú.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi nhận hồ sơ có trách nhiệm giải quyết việc nuôi con nuôi.

14
Việc nhận trẻ em làm con nuôi phải được sự đồng ý của cha, mẹ đẻ;
nếu cả cha mẹ đẻ đều đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc
không xác định được thì phải được sự đồng ý của người giám hộ của trẻ em
(Điều 21 Luật Nuôi con nuôi n¨m 2010). Quy định này kế thừa khoản 1 Điều 71
Luật Hôn nhân và gia đình n¨m 2000 nhằm đảm bảo lợi ích tốt nhất quyền

của trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng trong môi trường gia đình thay thế.
Ngoài ra, việc nhận trẻ em từ đủ 9 tuổi trở lên phải có sự đồng ý của
chính trẻ em đó. Quy định này kế thừa khoản 2 Điều 71 Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2000, tương đồng với quy định của nhiều nước trên thế giới và công
ước La hay năm 1993 về nuôi con nuôi, nhằm đảm bảo để trẻ em được tự do
bày tỏ ý kiến của mình và ý kiến của trẻ em phải được xem xét trong mọi vấn
đề hoặc thủ tục ảnh hưởng đến trẻ em như đã được quy định tại Điều 12,
Công ước về quyền trẻ em.
Người có quyền đồng ý cho trẻ em làm con nuôi phải được thông báo,
tư vấn đầy đủ về mục đích nuôi con nuôi, quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi
và con nuôi. Đặc biệt, người có quyền đồng ý phải được thông báo kỹ lưỡng
về việc chấm dứt hay không chấm dứt quyền, nghĩa vụ giữa cha, mẹ đẻ và
con đã được cho làm con nuôi. Đây là vấn đề quan trọng nhất cần được thông
báo và tư vấn trước khi sự đồng ý được đưa ra. Trách nhiệm thông báo và tư
vấn thuộc về các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong quá trình giải quyết
cho trẻ em làm con nuôi, trong đó trước hết thuộc về Ủy ban nhân dân cấp xã.
Tại Điều 9 Nghị định số 19/2011/NĐ-CP ngày 21/03/2011 của Chính phủ quy
®Þnh chi tiÕt mét sè ®iÒu cña LuËt Nu«i con nu«i (sau đây gọi tắt là Nghị định
số 19/2011/NĐ-CP) đã quy định rất rõ trách nhiệm của công chức tư pháp -
hộ tịch khi kiểm tra hồ sơ và lấy ý kiến của những người liên quan:
Phải nghiên cứu, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng và hoàn
cảnh của những người liên quan…; phải tư vấn để trẻ em tiếp tục
được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục phù hợp với điều kiện và khả

15
năng thực tế của gia đình…; phải tư vấn đầy đủ cho những người
liên quan về mục đích nuôi con nuôi, quyền và nghĩa vụ phát sinh
giữa cha mẹ nuôi và con nuôi sau khi đăng ký nuôi con nuôi… [14].
Ý kiến đồng ý phải được đưa ra một cách tự nguyện, trung thực,
không ép buộc, không bị đe dọa hay mua chuộc, không được trả tiền hoặc bồi

thường để có sự đồng ý đó. Nghĩa là, sự đồng ý phải được đưa ra một cách tự
nguyện và vô điều kiện. Ý kiến đồng ý chỉ được đưa ra sau khi trẻ em đã được
sinh ra nhằm tránh sự thỏa thuận ngầm giữa người cho và người nhận con
nuôi, đồng thời ngăn chặn việc các bà mẹ đưa ra sự đồng ý một cách vội vàng
do sự căng thẳng, lo lắng hoặc quá bồng bột trong lúc mang thai, nhất là
trường hợp mang thai ngoài ý muốn. Đây cũng là nguyên tắc mà Công ước La
hay năm 1993 đề ra và được pháp luật nhiều nước ghi nhận. Nhằm đảm bảo
tính chính xác, tự nguyện và trung thực của các ý kiến đưa ra, khoản 3, Điều 9
Nghị định số 19/2011/NĐ-CP quy định trường hợp những người liên quan do
chưa nhận thức đầy đủ, chưa hiểu rõ những vấn đề được tư vấn hoặc bị ảnh
hưởng, tác động bởi yếu tố tâm lý, sức khỏe đã đồng ý cho trẻ em làm con
nuôi sau đó muốn thay đổi ý kiến, thì vẫn có thể được thay đổi ý kiến trong
thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được lấy ý kiến.
Đặc biệt, quy định tại Điều 20 và Điều 21 Luật Nuôi con nuôi n¨m
2010 là điểm hết sức mới trong quy định về nuôi con nuôi của Việt Nam.
Việc quy định cụ thể về phương thức lấy ý kiến của những người có liên quan
đến việc nuôi con nuôi, đặc biệt là ý kiến của người được nhận nuôi trong
trường hợp người được nhận làm con nuôi từ đủ 9 tuổi trở lên. Việc lấy ý kiến
phải thể hiện bằng văn bản theo mẫu, có đủ chữ ký của người những người
liên quan và có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người
được lấy ý kiến. Ý kiến đồng ý cho trẻ em làm con nuôi là một quyết định
quan trọng, có liên quan đến quyền và nghĩa vụ cơ bản của một con người,
đặc biệt là quyền lựa chọn của trẻ em. Vì vậy, ý kiến này không thể chỉ xuất

16
phát từ hành vi ý chí của các chủ thể có liên quan. Ý kiến đó cần được các cơ
quan có thẩm quyền của nhà nước xác nhận hoặc làm chứng. Một số nước
còn trao cho tòa án quyền xác nhận ý kiến đồng ý đó (nước Bỉ) hoặc ý kiến
đồng ý đối với những trẻ em được Nhà nước giám hộ phải do Hội đồng gia
đình thuộc Hội đồng tỉnh quyết định (nước Pháp).

Khi xét thấy người nhận nuôi và người được giới thiệu làm con nuôi
có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật thì Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức
đăng ký nuôi con nuôi, trao Giấy chứng nhận nuôi con nuôi cho cha mẹ nuôi,
cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ hoặc đại diện cơ sở nuôi dưỡng, tổ chức giao
nhận con nuôi và ghi vào sổ hộ tịch trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày có ý kiến
đồng ý của những người có quyền theo quy định của pháp luật hiện hành.
Trường hợp Ủy ban nhân dân cấp xã từ chối đăng ký thì phải trả lời
bằng văn bản cho người nhận con nuôi, cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ hoặc
đại diện cơ sở nuôi dưỡng và nêu rõ lý do trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày
có ý kiến đồng ý của những người có quyền theo quy định. Giấy chứng nhận
nuôi con nuôi được gửi đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi thường trú của người
nhận con nuôi hoặc của những người được nhận làm con nuôi để đăng ký việc
nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật về đăng ký hộ tịch, đồng thời có cơ
sở để Ủy ban nhân dân kiểm tra, giám sát việc nuôi con nuôi. Như vậy, thủ
tục đăng ký việc nuôi con nuôi trong nước được quy định thống nhất, đơn
giản nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, nhưng vẫn đảm bảo chặt
chẽ. Lễ trao quyết định công nhận việc nuôi con nuôi phải được thực hiện
long trọng, có sự đại diện của chính quyền các bên giao và nhận con nuôi.
Việc nuôi con nuôi có thể bị chấm dứt trong các trường hợp sau:
Con nuôi đã thành niên và cha mẹ nuôi tự nguyện chấm dứt việc nuôi
con nuôi; con nuôi bị kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của cha mẹ nuôi; ngược đãi, hành hạ cha mẹ

17
nuôi hoặc con nuôi có hành vi phá tán tài sản của cha mẹ nuôi; cha mẹ nuôi bị
kết án về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự của con nuôi; ngược đãi, hành hạ con nuôi.
Quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt kể từ ngày
quyết định chấm dứt nuôi con nuôi của tòa án có hiệu lực pháp luật. Trường
hợp con nuôi là người chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng mất năng

lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động thì tòa án quyết định giao cho
cha mẹ đẻ hoặc tổ chức, cá nhân khác chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục vì lợi
ích tốt nhất của người đó. Nếu con nuôi được giao cho cha mẹ đẻ thì các
quyền của cha mẹ đẻ đã chấm dứt trước đó sẽ được khôi phục. Con nuôi có
quyền lấy lại họ, tên của mình như trước khi được cho làm con nuôi.
1.1.2. Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công
dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường
trú ở Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở
nước ngoài.
Về nguyên tắc, người xin nhận con nuôi phải thường trú ở những nước
là thành viên của điều ước quốc tế hợp tác về nuôi con nuôi với Việt Nam và
đáp ứng đủ các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi năm 2010.
Trường hợp giữa Việt Nam với nước ngoài hữu quan không có điều ước về
nuôi con nuôi, thì chỉ được xem xét giải quyết trong các trường hợp: người
nhận con nuôi có quan hệ họ hàng, thân thích với trẻ em; cha dượng nhận
con riêng của vợ; mẹ kế nhận con riêng của chồng; đang có con nuôi là anh,
chị, em ruột của trẻ em muốn nhận để đoàn tụ gia đình; nhận trẻ em khuyết
tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc bệnh hiểm nghèo khác làm con nuôi; là
người nước ngoài đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời gian ít nhất
là 01 năm.

18
Điều đáng lưu ý là trẻ em Việt Nam chỉ được giải quyết cho làm con
nuôi người nước ngoài khi đã thực hiện các biện pháp tìm gia đình thay thế
nhưng vẫn không được nhận làm con nuôi trong nước, nghĩa là pháp luật hiện
hành của Việt Nam vẫn ưu tiên tìm mái ấm trong nước cho trẻ em. Cụ thể, tại
điểm c, khoản 1, Điều 32 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định: tài liệu
chứng minh đã thực hiện việc tìm gia đình thay thế trong nước cho trẻ em
theo quy định tại khoản 2 Điều 15 của Luật Nuôi con nuôi nhưng không thành

là một tài liệu bắt buộc phải có trong hồ sơ của người được giới thiệu làm con
nuôi nước ngoài.
Việc kiểm tra, xác minh hồ sơ của trẻ em thuộc trách nhiệm của Sở Tư
pháp. Riêng đối với trẻ em bị bỏ rơi cần được xác minh, cơ quan công an có
trách nhiệm xác minh và trả lời bằng văn bản trong thời hạn 30 ngày, kể từ
ngày nhận được đề nghị của Sở Tư pháp. Như vậy, về nguyên tắc, Sở Tư
pháp hoàn toàn chịu trách nhiệm về hồ sơ của trẻ em được giới thiệu làm con
nuôi người nước ngoài. Sau khi kiểm tra, xác minh theo quy định, nếu thấy trẻ
em có đủ điều kiện để làm con nuôi người nước ngoài thì Sở Tư pháp xác
nhận và gửi Bộ Tư pháp.
Thực tiễn giải quyết việc cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài
trong thời gian vừa qua cho thấy, đối tượng trẻ em được cho làm con nuôi
người nước ngoài chủ yếu là trẻ em bị bỏ rơi và ở độ tuổi còn nhỏ (dưới 01
tuổi). Đối với những trẻ em thuộc đối tượng này thì việc xác minh là cần thiết
nhằm bảo đảm sự minh bạch và khách quan về nguồn gốc của trẻ em.
Trường hợp công dân Việt Nam muốn nhận trẻ em nước ngoài làm
con nuôi phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam và
pháp luật nước nơi trẻ em có quốc tịch. Đặc biệt, pháp luật của nước nơi trẻ
em thường trú sẽ điều chỉnh thủ tục đối với việc người Việt Nam nhận trẻ em
nước ngoài làm con nuôi. Việc quy định nội dung này tại Điều 40 Luật Nuôi
con nuôi 2010 đã góp phần hướng dẫn chi tiết cho các trường hợp công dân

19
Vit Nam cú nguyn vng nhn tr em nc ngoi lm con nuụi. Ngoi ra,
phỏp lut cũn quy nh rừ S T phỏp cú trỏch nhim kim tra, xỏc minh cỏc
iu kin v tõm lý, hon cnh gia ỡnh, kh nng kinh t, sc khe v cỏc
iu kin khỏc ca ngi xin nhn con nuụi nhm m bo cỏc iu kin v
mc ớch ca vic nhn nuụi con nuụi. ú l nhng im mi, th hin s tin
b ca h thng phỏp lut Vit Nam v nuụi con nuụi, c bit l vic nuụi
con nuụi cú yu t nc ngoi.

Nh vy, gia khỏi nim nuụi con nuụi trong nc v khỏi nim nuụi
con nuụi cú yu t nc ngoi cú s khỏc nhau rừ rt. Vic cụng dõn trong
nc nhn tr em thng trỳ trong nc hoc cú quc tch ca nc ú c
coi l hin tng nuụi con nuụi trong nc; cũn nuụi con nuụi cú yu t nc
ngoi l vic nuụi con nuụi cú s chuyn tr em c nhn lm con nuụi qua
biờn gii gia cỏc nc khỏc nhau. Trong chng mc nht nh thỡ khỏi nim
nuụi con nuụi cú yu t nc ngoi v nuụi con nuụi quc t l tng ng
nhau; ch khỏc l vic nuụi con nuụi quc t l phm vi iu chnh ca Cụng
c Lahay nm 1993.
1.2. Vài nét khỏi quỏt s phỏt trin ca phỏp lut Vit Nam v
nuụi con nuụi
Trc khi cú Lut Nuụi con nuụi nm 2010 ra i, trong h thng
phỏp lut Vit Nam, vn nuụi con nuụi ó c quy nh t o lut cú giỏ
tr phỏp lý cao nht l Hin phỏp, n B lut, Lut, Ngh nh, Ngh quyt,
Thụng t vi cỏc ni dung quy nh y v nguyờn tc, iu kin, trỡnh
t, th tc cho, nhn con nuụi bờn cnh ú cũn cú cỏc Hip nh hp tỏc v
nuụi con nuụi vi mt s nc trờn th gii.
Sau Cách mạng tháng Tám, vấn đề nuôi con nuôi đã đ-ợc quy định
ngay trong Luật Hôn nhân và gia đình đầu tiên của n-ớc ta, và ngày càng trở
thành một chế định pháp lý quan trọng trong hệ thống pháp luật hôn nhân và

20
gia đình của n-ớc ta. Chế định nuôi con nuôi đ-ợc quy định ngày càng đầy đủ
hơn. Sự phát triển của chế định nuôi con nuôi thể hiện quan điểm của nhà
n-ớc ta trong việc bảo vệ và chăm sóc các quyền cơ bản của trẻ em, trong đó
có quyền đ-ợc nhận làm con nuôi. Nh- vậy, có thể nhận định rằng, chế định
nuôi con nuôi chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Hin phỏp nm 1992 quy nh v quyn v ngha v c bn ca cụng
dõn, l nhng c s phỏp lý c bn nhm to iu kin thun li v mt
phỏp lý cho tr em khụng ni nng ta c thc hin quyn ca mỡnh cú

hiu qu. C th ti iu 65 Hin phỏp nm 1992 quy nh: "Tr em c
gia ỡnh, nh nc v xó hi bo v, chm súc v giỏo dc", tip ú iu 67
on 3 quy nh: " tr m cụi khụng ni nng ta c nh nc v xó
hi giỳp " [23].
n B lut Dõn s nm 2005, ti chng III, mc 2 iu 44 quy
nh v quyn c nuụi con nuụi v quyn c nhn lm con nuụi: "Quyn
c nuụi con nuụi v quyn c nhn lm con nuụi ca cỏ nhõn c phỏp
lut cụng nhn v bo h. Vic nhn nuụi con nuụi v c nhn lm con
nuụi c thc hin theo quy nh ca phỏp lut" [26]. Bờn cnh cỏc quy
nh v quyn c nuụi con nuụi v quyn c nhn con nuụi, thỡ B lut
Dõn s năm 2005 cũn cú cỏc quy nh v quyn tha k i vi con nuụi, cha
nuụi, m nuụi ca ngi cht, c th ti iu 676 quy nh v ngi tha k
theo phỏp lut: "1. Nhng ngi tha k theo phỏp lut c quy nh theo
th t u tiờn sau: a) Hng tha k th nht gm: v, chng, cha , m ,
cha nuụi, m nuụi, con , con nuụi ca ngi cht; 2. Nhng ngi tha
k cựng hng c hng phn di sn bng nhau" [26] hay ti iu 678
quy nh v quan h tha k gia con nuụi v cha nuụi, m nuụi v cha ,
m : "Con nuụi v cha nuụi, m nuụi c tha k di sn ca nhau v cũn
c tha k di sn theo quy nh ti iu 676 v iu 677" [26]; iu 677
quy nh v tha k th v:

21
Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước
hoặc cùng thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng
phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống;
nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại
di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt
được hưởng lúc còn sống [26].
Luật quốc tịch Việt Nam năm 2008, ngoài các quy định chung được
quy định tại chương I thì tại chương III, mục 4 Điều 37 quy định về quốc tịch

của con nuôi chưa thành niên, cụ thể: Trẻ em là công dân Việt Nam được
người nước ngoài nhận làm con nuôi thì vẫn giữ quốc tịch Việt Nam. Trẻ em
là người nước ngoài được công dân Việt Nam nhận làm con nuôi thì có quốc
tịch Việt Nam, kể từ ngày được cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt
Nam công nhận việc nuôi con nuôi. Trẻ em là người nước ngoài được cha mẹ
mà một người là công dân Việt Nam, còn người kia là người nước ngoài nhận
làm con nuôi thì được nhập quốc tịch Việt Nam theo đơn xin nhập quốc tịch
Việt Nam của cha mẹ nuôi và được miễn các điều kiện quy định tại khoản 1
Điều 19 Luật quốc tịch Việt Nam: công dân nước ngoài và người không quốc
tịch đang thường trú ở Việt Nam có đơn xin nhập quốc tịch Việt Nam thì có
thể được nhập quốc tịch Việt Nam, nếu có đủ các điều kiện: có năng lực hành
vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật Việt Nam; tuân thủ Hiến pháp
và pháp luật Việt Nam; tôn trọng truyền thống, phong tục tập quán của dân
tộc Việt Nam; biết tiếng Việt đủ để hòa nhập vào céng đồng Việt Nam; đã
thường trú ở Việt Nam từ 5 năm trở lên tính đến thời điểm xin nhập quốc tịch
Việt Nam; có khả năng bảo đảm cuộc sống tại Việt Nam. Sự thay đổi quốc
tịch của con nuôi từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi phải được sự đồng ý bằng
văn bản của người đó.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã dành một chương riêng,
chương VIII quy định về Con nuôi từ Điều 67 đến Điều 78, trong đó quy định

×