Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

So sánh pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam và một số nước trên thế giới Bài học kinh nghiệm và hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.08 MB, 112 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





VŨ THỊ KIỀU ANH





SO SÁNH PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI
CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM VÀ
MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI - BÀI HỌC KINH
NGHIỆM VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VIỆT NAM



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC









Hà Nội – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT





VŨ THỊ KIỀU ANH





SO SÁNH PHÁP LUẬT VỀ NUÔI CON NUÔI
CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI CỦA VIỆT NAM VÀ
MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI - BÀI HỌC KINH
NGHIỆM VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VIỆT NAM



Chuyên ngành: Luật quốc tế
Mã số : 60 38 01 08

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Đức Long

Hà Nội – 2014
[

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc
gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


NGƢỜI CAM ĐOAN


Học viên Vũ Thị Kiều Anh










MỤC LỤC
Lời nói đầu
1
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU
TỐ NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
4
1.1
Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài………………………
4
1.2
Lịch sử hình thành và phát triển các chế định nuôi con nuôi có yếu
tố nƣớc ngoài tại Việt Nam………………………… ………………
6
1.2.1
Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959…………………………… ….
6
1.2.2
Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1986…………………………………
6
1.2.3
Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2000………………………….………
7
1.2.4
Giai đoạn từ năm 2000 đến nay………………………………….……
10
1.3
Luật Nuôi con nuôi năm 2010………………………………………
14

1.3.1
Tầm quan trọng và bối cảnh ra đời……………………………… ……
14
1.3.2
Nội dung Luật Nuôi con nuôi 2010…………………………… ………
15
1.3.3
Các văn bản hướng dẫn, thi hành Luật Nuôi con nuôi 2010……………
16
1.3.4
Các qui định về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài…………… ……
17
1.3.5
Tình hình thực hiện việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt
Nam
22
1.4
Tình hình ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế về nuôi con nuôi
của Việt Nam
26
1.4.1
Các Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý………………………
26
1.4.2
Các Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Việt Nam và các nước
30
1.4.3
Tình hình ký kết và thực hiện Công ước Lahay 1993………………
35


CHƢƠNG 2: PHÁP LUẬT NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI
CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI, SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT VIỆT
NAM

43
2.1
Pháp luật của một số nƣớc về nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài…
43
2.1.1
Pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Trung Quốc…… …
44
2.1.2
Pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Ấn Độ……… ……
49
2.1.3
Pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Guatemala…………
55
2.1.4
Pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Nêpan……… ……
60
2.2
So sánh pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
với các nƣớc trên………………………………………………………
63

CHƢƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VIỆT NAM VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI

79
3.1

Bài học kinh nghiệm thực tiễn cho Việt Nam ……………………
79
3.2
Các cơ chế hoàn thiện pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc
ngoài tại Việt Nam.
82
Kết luận……………………………………………………………………………
86
Tài liệu tham khảo
Phụ lục



CHỮ VIẾT TẮT


CP Chính phủ
HĐBT Hội đồng Bộ trưởng
HĐTP Hội đồng Thẩm phán
HNGĐ Hôn nhân gia đình
TAND Toà án nhân dân
HĐTTTP Hiệp định tương trợ tư pháp





















DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

Số hiệu
Tên biểu đồ
Trang
Biểu đồ 1.1

Số liệu trẻ em Việt Nam được người nước ngoài nhận nuôi từ
năm 1990 đến năm 2000

10
Biểu đồ 1.2

Số liệu trẻ em Việt Nam được người nước ngoài nhận nuôi từ
năm 2001 đến năm 2011

14
Biểu đồ 2.1


Số liệu trẻ em Việt Nam phân bổ theo quốc gia nhận nuôi từ
năm 1998 đến 2003

34
Biểu đồ 2.2

Số liệu trẻ em Việt Nam được công dân Hoa Kỳ nhận nuôi từ
năm 1999 đến năm 2010

46
Biểu đồ 3.1
Số liệu trẻ em Trung Quốc phân bổ theo quốc gia nhận nuôi từ
năm 2005 đến năm 2009

50
Biểu đồ 3.2

Số liệu trẻ em Trung Quốc được công dân Hoa Kỳ nhận nuôi
từ năm 1991 đến năm 2011

51
Biểu đồ 3.3

Số liệu trẻ em Trung Quốc được người nước ngoài nhận nuôi
từ năm 2005 đến năm 2009

53
Biểu đồ 3.4


Số liệu trẻ em Ấn Độ phân bổ theo quốc gia nhận nuôi từ năm
2001 đến năm 2003

55
Biểu đồ 3.5

Số liệu trẻ em Ấn Độ được công dân Hoa Kỳ nhận nuôi từ năm
1999 đến năm 2011

56
Biểu đồ 3.6

Số liệu trẻ em Ấn Độ được người nước ngoài nhận nuôi từ
năm 2001 đến năm 2011

59
Biểu đồ 3.7

Số liệu trẻ em Guatemala được người nước ngoài nhận nuôi từ
năm 1997 đến 7/2005

62
Biểu đồ 3.8

Số liệu trẻ em Guatemala phân bổ theo quốc gia nhận nuôi từ
năm 1997 đến năm 2005

63
Biểu đồ 3.9


Số liệu trẻ em Guatemala được công dân Hoa Kỳ nhận nuôi từ
năm 1999 đến năm 2011

64
Biểu đồ 3.10

Số liệu trẻ em Nepal được công dân Hoa Kỳ nhận nuôi từ năm
1999 đến năm 2011

66


Phần các phụ lục tham khảo
Phụ lục 1.1: Số lượng văn phòng con nuôi nước ngoài được cấp phép hoạt động tại Việt
Nam cập nhật ngày 14/9/2012

Phụ lục 2.1: Các Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự, gia đình
và hình sự giữa Việt Nam và các nước đến năm 2012

Phụ lục 2.2: Các Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Việt Nam và các nước

Phụ lục 2.3: Danh sách các nước tham gia công ước Lahay 1993

Phụ lục 2.4: Bộ trưởng Bộ Tư pháp Việt Nam Hà Hùng Cường gặp gỡ và giao lưu với
các gia đình Ailen nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi ngày 22/9/2012

Phụ lục 2.5: Một số điển hình trẻ em Việt Nam được người nước ngoài nhận làm con
nuôi














1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, trong đó nổi lên mối quan hệ chính, chủ yếu là
trẻ em Việt Nam được người nước ngoài nhận làm con nuôi đang trở thành mối quan tâm của các
cấp, các ngành có liên quan.
Nuôi con nuôi mang tính nhân đạo sâu sắc trong mối quan hệ giữa con người với con
người. Đây chính là giải pháp “nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích
tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc,
giáo dục trong môi trường gia đình” (Điều 2, Luật Nuôi con nuôi 2010 của Việt Nam) đã nêu rõ
mục đích của nuôi con nuôi.
Trong sự phát triển chung của thế giới, việc Việt Nam đã hoàn thiện được Luật nuôi con
nuôi năm 2010 là một cố gắng hết sức to lớn nhằm tạo ra khung pháp lý hoàn chỉnh về việc nuôi
con nuôi trong mối quan hệ tương quan với các nước trong khu vực và trên thế giới. Hơn nữa ngày
18/7/2011 Việt Nam đã phê chuẩn Công ước Lahay 1993 về bảo vệ trẻ em và con nuôi quốc tế,
Công ước này có hiệu lực từ ngày 01/02/2012. Một lần nữa thể hiện quyết tâm to lớn của Việt
Nam trong việc quốc tế hóa quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Việc nghiên cứu và so sánh pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam

với pháp luật của một số nước trên thế giới trong bối cảnh hiện nay giúp chúng ta có cái nhìn khách
quan, tổng thể và toàn diện hơn về pháp luật của Việt Nam. Với tình hình thực tế Luật Nuôi con
nuôi mới có hiệu lực hơn hai năm và việc thi hành còn gặp nhiều khó khăn do tư tưởng cũ muốn
quay lại qui trình cũ đã gây nhiều áp lực cho các cơ quan giải quyết việc nuôi con nuôi. Chính vì
thế việc so sánh này có ý nghĩa nhất định để hoàn thiện hơn cơ chế nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài tại Việt Nam trong quá trình thực hiện Luật Nuôi con nuôi 2010 trong những năm tới cũng
như việc tuân thủ Công ước Lahay 1993.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam đã được nhiều nhà khoa học
pháp lý nghiên cứu và bình luận. Thông qua các nghiên cứu này các nhà khoa học pháp lý đã phân
tích và làm rõ các chế định về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trên nhiều khía cạnh như dưới
góc độ hôn nhân gia đình, dưới góc độ bảo vệ quyền trẻ em và trước yêu cầu hội nhập quốc tế

2

cũng như đáp ứng yêu cầu gia nhập Công ước Lahay 1993. Tuy nhiên việc so sánh pháp luật về
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam và một số nước trên thế giới chưa được đề cập
nhiều, chính vì vậy việc chọn đề tài này nhằm tìm hiểu một cách tổng thể pháp luật nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài của một số nước trên thế giới để tìm ra những nội dung tương đồng cũng như
sự khác biệt trong pháp luật của các nước. Đồng thời so sánh với pháp luật Việt Nam nhằm làm
sáng tỏ hơn sự giống và khác nhau với các nước trên để chúng ta có cái nhìn khách quan, toàn diện
hơn với các chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ các vấn đề sau:
- Tổng quan về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam theo Luật Nuôi con nuôi 2010.
- Tổng quan về pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của một số nước trên thế giới như:
Trung Quốc, Ấn Độ, Guatemala, Nepan, đây là các nước tương đồng nhiều mặt với Việt Nam và
cũng là các quốc gia đóng vai trò là nước cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài.
- So sánh việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam và các nước trên nhằm tìm ra sự
giống và khác nhau. Phân tích sự khác biệt dựa trên yếu tố về văn hoá, lịch sử, tác động xã hội

trong việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
- Tình hình việc ký kết các Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi của các quốc gia trên với Việt Nam
cũng như việc thực thi Công ước Lahay số 33 năm 1993 mà Việt Nam đã ký kết ngày 18/7/2011
(có hiệu lực thi hành từ 01/02/2012). Kinh nghiệm cho Việt Nam trong việc hài hoà hoá pháp luật
về nuôi con nuôi đối với quá trình gia nhập các điều ước quốc tế về nuôi con nuôi nói chung và có
yếu tố nước ngoài nói riêng.
- Rút ra những vấn đề cần học hỏi và việc hoàn thiện cơ chế thực hiện pháp luật Việt Nam về nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài.
4. Tính mới và đóng góp của luận văn
Luận văn đã so sánh sự giống và khác nhau giữa Luật Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
của Việt Nam và một số nước trên thế giới. Từ đó phân tích được những điểm tiến bộ và hạn chế
của pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam nhằm đưa ra các giải pháp hoàn
thiện các cơ chế nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài trong thời gian tới tại Việt Nam.

3

Để thực hiện được mục đích trên, việc nghiên cứu tập trung vào một số vấn đề chính như
sau:
- Phân tích pháp luật của Việt Nam về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
- Phân tích pháp luật của một số nước về nuôi con có yếu tố nước ngoài.
- So sánh với pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của Việt Nam và một số nước trên.
- Từ các vấn đề trên đưa ra các đề xuất để hoàn thiện chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
tại Việt Nam trong thời gian tới.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Dựa trên việc nghiên cứu phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Các vấn đề
mang tính khoa học về pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam cũng như các
điều ước quốc tế mà Việt Nam gia nhập, ký kết.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm: Phần mở đầu, nội dung, kết luận, các phụ lục và danh mục tài liệu
tham khảo. Phần nội dung bao gồm 4 chương, như sau:

- Chƣơng 1:Tổng quan về pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam
- Chƣơng 2:Tình hình ký kết và thực hiện các điều ước quốc tế về nuôi con nuôi của Việt Nam
- Chƣơng 3: Pháp luật nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài của một số nước trên thế giới, so sánh
với pháp luật Việt Nam
- Chƣơng 4: Bài học kinh nghiệm và hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài
- Kết luận





4

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ PHÁP LUẬT NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƢỚC
NGOÀI TẠI VIỆT NAM

1.1. Khái niệm nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
Nuôi con nuôi nói chung được đề cập tới như là việc trẻ em được một gia đình trong cùng
nước đó hoặc ở nước ngoài nhận làm con để nuôi dưỡng, chăm sóc. Việc nuôi con nuôi nhằm xác
lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi,
bảo đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trong môi trường gia đình.
Như vậy, quan hệ nuôi con nuôi là một hiện tượng tự nhiên của xã hội và mang tính nhân
đạo sâu sắc. Quan hệ này đã được điều chỉnh bằng các qui phạm pháp luật nhằm bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi.
Trong thời đại toàn cầu hóa, việc nhận nuôi con nuôi không còn bó hẹp trong mỗi quốc gia
nữa mà nó đã trở thành mối quan tâm của các nước với nhau. Việc người nước ngoài nhận trẻ em
làm con nuôi đã trở lên phổ biến trong mấy thập kỷ gần đây.
Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với
người nước ngoài, giữa người nước ngoài thường trú tại Việt Nam, giữa công dân Việt Nam với

nhau mà một bên định cư ở nước ngoài.
Như vậy, vấn đề nuôi con nuôi là vấn đề xã hội hết sức nhạy cảm và mang tính nhân đạo
sâu sắc. Việc nuôi con nuôi không chỉ mang đến phúc lợi cho trẻ em mà còn là một cách thức có
tính xã hội và pháp lý để bảo vệ trẻ em. Vì vậy vấn đề nuôi con nuôi hầu hết đều được các nước
trên thế giới điều chỉnh, một số nước qui định việc nuôi con nuôi trong Bộ luật dân sự của nước
mình như: Đức, Pháp, Hà Lan, Hàn Quốc… Ngoài ra một số nước qui định trong một bộ luật
riêng như: Trung Quốc, Thụy Điển, Singapore…
Để bảo vệ trẻ em và phòng chống lạm dụng vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài,
cộng đồng quốc tế thông qua các tuyên bố, điều ước quốc tế đa phương và song phương với các
qui tắc và nguyên tắc qui định về việc nuôi con nuôi. Những nguyên tắc này dần trở thành các chế
định hiện đại của pháp luật quốc tế mà hầu hết các nước trên thế giới đều tuân thủ và dần từng
bước nội luật hóa những qui định này. Chúng ta có thể kể ra đây một số điều ước quốc tế đa
phương và song phương sau:

5

1. Tuyên ngôn Giơnevơ 1924 về quyền trẻ em: Tuyên ngôn này kêu gọi: “Tất cả đàn
ông và phụ nữ của mọi dân tộc có trách nhiệm tạo cho trẻ em những điều kiện tốt đẹp
nhất”…
2. Tuyên ngôn năm 1959 của Đại hội đồng Liên Hợp quốc về quyền trẻ em: đưa ra 10
nguyên tắc làm cơ sở cho việc xây dựng hệ thống các văn bản pháp luật quốc gia và
quốc tế về quyền trẻ em.
3. Công ước quốc tế về các quyền dân sự - chính trị và kinh tế - xã hội năm 1966 mặc dù
không có các qui định trực tiếp về vấn đề nuôi con nuôi nhưng đã có các qui định
khẳng định trách nhiệm pháp lý của các quốc gia thành viên trong việc bảo hộ các
quan hệ hôn nhân và gia đình.
4. Tuyên ngôn của Liên Hợp quốc về các nguyên tắc xã hội và pháp lý liên quan đến
việc bảo vệ và phúc lợi trẻ em, đặc biệt là việc bảo trợ, nuôi con nuôi trong và ngoài
nước năm 1986. Đây là văn kiện quốc tế đầu tiên đề cập một các tương đối hoàn thiện
về nuôi con nuôi.

5. Công ước của của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989: lần đầu tiên các vấn đề
nuôi con nuôi được “luật pháp hóa”, được xác lập bằng các quy phạm pháp luật quốc
tế. Theo qui định của Công ước này, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ đảm bảo
những lợi ích tốt nhất cho trẻ em trong quá trình xem xét cho và nhận con nuôi. Trẻ em
được nhận làm con nuôi ở nước khác được coi là biện pháp chăm sóc thay thế khi
không thực hiện được việc gửi nuôi, nhận con nuôi hay các hình thức chăm sóc thích
hợp khác ngay tại nước gốc.
6. Công ước về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi giữa các nước năm
1993 là văn bản pháp lý quốc tế quan trọng nhất và liên quan trực tiếp nhất đến vấn đề
nuôi con nuôi nước ngoài, đến việc bảo vệ quyền lợi cho trẻ em được người nước
ngoài nhận làm con nuôi.
Như vậy, vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam cũng giống như các
nước khác trên thế giới: ngày càng hoàn thiện hơn và việc nội luật hóa pháp luật quốc tế là xu
hướng tất yếu thể hiện quyết tâm hội nhập quốc tế ngày càng cao trong xã hội hiện đại ngày nay.

6

1.2. Lịch sử hình thành và phát triển các chế định về nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài tại
Việt Nam
Việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam mới được đề cập đến trong khoảng hai
thập kỷ gần đây, trước đây có nhiều lý do khách quan mà quan hệ này không được đề cập đến.
Xem xét về các văn bản pháp luật điều chỉnh mối quan hệ này kể từ năm 1945 khi nước Cộng hòa
dân chủ Việt Nam ra đời, ta thấy quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài mới được đề cập đến
trong khoảng từ năm 1994, chủ yếu tập trung trong khoảng 10 năm gần đây, cụ thể các giai đoạn
như sau:
1.2.1 Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959
Đây là giai đoạn Việt Nam vừa mới giành được độc lập và bước ra khỏi chế độ phong
kiến. Luật HNGĐ 1959 được Quốc hội khóa I, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 29/12/1959, đây là
văn bản pháp lý đầu tiên đặt nền tảng cho các quan hệ hôn nhân tiến bộ.
Do thời kỳ này, Đảng và Nhà nước phải tập trung vào nhiều mục tiêu chính trị, kinh tế dân

sinh và việc cho ra đời Luật HNGĐ 1959 đã là một cố gắng to lớn nhằm xóa bỏ các quan hệ về
hôn nhân gia đình còn mang nặng tư tưởng phong kiến, lễ giáo mục đính nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích cho phụ nữ và trẻ em. Các quan hệ về nuôi con nuôi mới chỉ được qui định tại điều 9, 18 và
điều 24 của luật HNGĐ 1959 một cách sơ lược, mang tính nguyên tắc. Riêng về quan hệ nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài hoàn toàn chưa được đề cập đến. Điều này xuất phát từ thực tế khách
quan, tại thời điểm đó các quan hệ về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài chưa phải là một nhu cầu
cấp thiết.
Như vậy, thời điểm này quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài hoàn toàn chưa được
đề cập đến, mới chỉ có quan hệ nuôi con nuôi trong nước được qui định sơ lược và mang tính
nguyên tắc. Tuy nhiên, đây cũng chính là nền tảng để xây dựng lên các qui phạm pháp luật về nuôi
con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng sau này.
1.2.2. Giai đoạn 1959 đến năm 1986
Giai đoạn này Việt Nam đi qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ giải phóng
đất nước. Xã hội đã phát triển qua một giai đoạn mới, nhất là giai đoạn từ 1975 đến 1986, đất nước
bước vào thời kỳ xây dựng và phát triển, các quan hệ về hôn nhân gia đình cũng có những bước

7

phát triển mới vì vậy Luật HNGĐ năm 1959 đã không còn đáp ứng được thực tế về các quan hệ
hôn nhân lúc bấy giờ.
Các quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và các nước trong khối XHCN phát triển vượt bậc,
ngoài ra giai đoạn này một lực lượng lớn thanh niên Việt Nam được học tập và lao động tại các
nước có quan hệ ngoại giao với Việt Nam kéo theo đó là các quan hệ về hôn nhân và gia đình có
yếu tố nước ngoài phát sinh. Chính vì thế Luật HNGĐ năm 1986 (được Quốc hội thông qua ngày
29/12/1986) ra đời thay thế Luật HNGĐ năm 1959. Luật HNGĐ năm 1986 đã có một bước phát
triển mới là dành hẳn một chương (chương VI- Nuôi con nuôi) qui định về việc nuôi con nuôi và
đưa ra những nguyên tắc chung về việc nuôi con nuôi cũng như các qui định cụ thể về việc nuôi
con nuôi như: các điều kiện về việc nhận nuôi con nuôi, thẩm quyền của các cơ quan có liên quan
trong việc đăng ký nuôi con nuôi. Việc nuôi con nuôi nhằm mục đích đảm bảo cho lợi ích của trẻ
em. Tuy vậy, giai đoạn này quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài cũng như việc nuôi con nuôi

có yếu tố nước ngoài chưa được đề cập đến một cách cụ thể trong Luật HNGĐ 1986 mặc dù các
quan hệ này đã bắt đầu xuất hiện và tồn tại. Cơ quan chịu trách nhiệm về vấn đề hôn nhân có yếu
tố nước ngoài và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài lúc bấy giờ do Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ) đảm trách.
Như vậy có thể khẳng định đến thời điểm năm 1986, Việt Nam vẫn chưa có bất kỳ văn
bản pháp luật chính thức nào qui định về quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài mà chỉ tạm
thời qui định HĐBT (nay là Chính phủ) giải quyết các vụ việc cụ thể về hôn nhân và nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài. Đây cũng chính là một bất cập lớn vì không có một chế định pháp lý nào để
làm căn cứ giải quyết vấn đề này trong khi thực tế đã phát sinh nhu cầu nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài.
1.2.3. Giai đoạn 1986 đến năm 2000
Đây là thời kỳ Việt Nam đổi mới, xã hội đã có những biến chuyển sâu sắc. Xu hướng hội
nhập, quốc tế hóa, toàn cầu hóa được mở rộng kéo theo đó là việc phát sinh nhiều quan hệ xã hội
cần có sự điều chỉnh bằng pháp luật. Trong đó quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài phát
sinh đã gặp rất nhiều bất cập do Việt Nam trong một thời gian dài không có khung pháp lý qui
định về vấn đề này. Chính vì thế mỗi địa phương lại vận dụng và giải quyết theo hướng khác nhau
gây ra những khó khăn và tiêu cực tạo dư luận không tốt trong xã hội. Giai đoạn từ năm 1986 đến

8

năm 1999 Việt Nam chưa tham gia bất kỳ điều ước quốc tế nào trong lĩnh vực nuôi con nuôi chính
vì thế Việt Nam chưa có cơ sở pháp lý mang tính quốc tế nào để điều chỉnh hoạt động nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài, điều này mang đến hậu quả pháp lý là các đối tượng trong quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài không được bảo vệ.
Chính vì thực tiễn đó, ngày 02/4/1992 Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban
hành Quyết định tạm thời số 145/HĐBT qui định tạm thời về việc cho người nước ngoài nhận trẻ
em Việt Nam làm con nuôi, bao gồm trẻ em bị bỏ rơi, mồ côi, tàn tật ở các cơ sở nuôi dưỡng do
Bộ Lao động – Thương binh và xã hội quản lý. Trong Quyết định này cũng qui định việc nhận
nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài đều vì mục đích vì lợi ích lâu dài của trẻ em, cụ thể tại Điều 1
qui định như sau: “Việc cho người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam bị mồ côi, bỏ rơi, bị tàn tật

làm con nuôi phải xuất phát từ tình cảm giữa người nuôi với trẻ em được nhận làm con nuôi
trong quan hệ cha mẹ và con cái, bảo đảm trẻ được nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục đầy đủ”.
Như vậy, Quyết định 145/HĐBT chính là căn cứ pháp lý đầu tiên qui định về việc nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài, làm nền móng cho các chế định về nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài sau này. Quyết định này đã góp phần tháo gỡ những nút thắt đầu tiên cho quan hệ nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài, đã giải quyết được tình hình thực tế lúc đó, góp một phần tạo điều kiện
cho trẻ em Việt Nam tìm được mái ấm gia đình, được nuôi dưỡng đầy đủ về vật chất và tinh thần,
được đi học và có một tương lai rộng mở. Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện Quyết định này cũng
đã bộc lộ một số bất cập, do yếu tố khách quan khi ban hành cũng chưa tính hết được sự phức tạp
trong qui trình cho-nhận con nuôi và hậu quả pháp lý của nó. Một mặt Quyết định đã này tạo tiền
đề cho vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, tuy nhiên do chưa qui định một cách đầy đủ vì
vậy thực tế thực hiện đã phát sinh nhiều tiêu cực gây dư luận không tốt trong xã hội cũng như làm
ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và nước nơi có công dân xin trẻ em Việt Nam
làm con nuôi. Có hiện tượng hình thành đường dây nuôi trẻ em chỉ với mục đính cho làm con nuôi
người nước ngoài để thu được khoản phí lớn, hình thành sự độc quyền của một số cơ sở nuôi
dưỡng trong việc cho con nuôi người nước ngoài nhằm thu được những khoản lợi bất chính. Gây
khó khăn cho người có nhu cầu nhận con nuôi và trẻ em được xin nhận làm con nuôi. Chính điều
này đã đi ngược với mong muốn của các nhà làm luật là muốn tạo ra hành lang pháp lý an toàn
cho hoạt động này thì vô hình chung lại tạo ra kẻ hở cho những hành vi trái pháp luật, trái với đạo

9

lý và tinh thần nhân đạo của Quyết định 145, trái với nguyên tắc chung của quốc tế về vấn đề nuôi
con nuôi.
Để khắc phục những vướng mắc trong Quyết định 145/HĐBT, ngày 2/12/1993, Hội đồng
Nhà nước (nay là Chính phủ) đã ban hành Pháp lệnh HNGĐ giữa công dân Việt Nam với người
nước ngoài. Pháp lệnh đã cụ thể hóa các điều kiện đối với người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam
làm con nuôi; thẩm quyền của các cơ quan liên quan đến việc quyết định cho con nuôi; thủ tục xin
con nuôi; qui định nghĩa vụ của người nuôi con nuôi là phải cung cấp thông tin về tình trạng phát
triển của con nuôi cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam. Pháp lệnh này đã thắt chặt hơn trách

nhiệm của các cơ sở nuôi dưỡng cũng như phân định rõ trách nhiệm của các cơ quan chức năng
trong việc giải quyết vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nươc ngoài.
Tiếp sau đó, ngày 30/11/1994 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 184/CP qui định chi
tiết một số điều của Pháp lệnh hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với người nước
ngoài. Qui định về thủ tục kết hôn, nhận con ngoài giá thú, nuôi con nuôi, nhận đỡ đầu giữa công
dân Việt Nam và người nước ngoài. Nghi định này đã tạo cơ sở pháp lý thống nhất cho các trường
hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Nhận thấy tầm quan trọng trong quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, nhằm tạo ra
sự phối hợp giữa các ban nghành để thuận lợi cho việc giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con
nuôi người nước ngoài. Bộ Tư pháp sau khi được tái thành lập vào năm 1981 đã được phân công
nhiệm vụ đảm trách một phần vai trò về nuôi con nuôi. Năm 1995, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao,
Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) đã ban hành Thông tư liên bộ số 503/TT-LB ngày 25/5/1995
hướng dẫn chi thiết thi hành Nghị định 184/CP của Chính phủ để cùng phối hợp giải quyết các
quan hệ phát sinh liên quan đến nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Tiếp theo đó, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao ban hành Nghị quyết số 01/NQ-
HĐTP ngày 20/01/1988 hướng dẫn áp dụng một số qui định của Luật HNGĐ năm 1986 nhằm
giải thích việc áp dụng thống nhất chế độ pháp lý của con nuôi như con đẻ, có quyền pháp lý như
nhau liên quan đến thừa kế tài sản.
Như vậy chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài mới bắt đầu hình thành từ năm 1992
khi có Quyết định 145/HĐBT sau đó là các văn bản pháp lý khác như: Pháp lệnh về HNGĐ, Nghị
định 184/NĐ-CP; Thông tư liên Bộ số 503/TT-LB. Tất cả các văn bản pháp luật này nhằm tạo ra

10

hành lang pháp lý, đảm bảo cho việc điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Có
thể nói giai đoạn này đánh dấu sự hoàn thiện bước đầu của chế định nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài, đáp ứng được nhu phát triển của xã hội liên quan đến lĩnh vực này. Minh chứng thực tế cho
thấy: từ năm 1990 đến năm 1992 chỉ giải quyết được 673 trường hợp trẻ em Việt Nam cho người
nước ngoài nhận nuôi. Đến giai đoạn 1993 – 2000, số lượng trẻ em Việt Nam cho người nước
ngoài nhận nuôi đã tăng vọt lên 14.000 trường hợp. Điều này cho thấy, người nước ngoài rất quan

tâm và mong muốn được nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi.
Để minh họa về tình hình thực tế số lượng trẻ em Việt Nam được người nước ngoài nhận
nuôi trong giai đoạn này. Chúng ta cùng tham khảo số liệu sau:
Biểu đồ 1.1 - Số liệu trẻ em Việt Nam đƣợc ngƣời nƣớc ngoài nhận nuôi
từ 1990-2000

[1]

1.2.4. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay
Sau khi có Quyết định 145/HĐBT và các văn bản pháp luật như đã nêu ở trên liên quan
đến việc điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, trong quá trình thực hiện cũng
phát sinh một số bất cập do các văn bản trên chưa phải là một hệ thống có tính thống nhất cao mà
vẫn mang tính chất manh mún điều chỉnh theo hướng thụ động chạy theo các quan hệ đã phát sinh
mà chưa có tính chủ động. Chính vì thế khi có bất kỳ vấn đề gì phát sinh thì chúng ta lại rơi vào thế
lúng túng không có định hướng cụ thể để giải quyết một cách thống nhất và tận gốc vấn đề. Việc
ban hành các văn bản chưa thống nhất và cũng chưa có một cơ quan đầu mối thống nhất để giải
quyết vấn đề nuôi con nuôi. Các tồn tại như sau:

11

- Tình trạng môi giới trẻ em cho người nước ngoài, tạo dư luận xã hội không tốt đối với
vấn đề cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài.
- Nhiều tổ chức phi chính phủ lợi dụng chính sách nhân đạo của Việt Nam với hình thức là
tài trợ cho các cơ sở nuôi dưỡng thực chất là để thưc hiện môi giới con nuôi. Thông qua họat động
môi giới con nuôi bất hợp pháp này, các tổ chức con nuôi nước ngoài đã lợi dụng các kẽ hở trong
pháp luật Việt Nam để trục lợi.
- Việc thu phí và lệ phí giữa các địa phương không thống nhất, nhiều nơi tự đặt ra các loại
phí và lệ phí yêu cầu người nước ngoài có nhu cầu xin con nuôi Việt Nam phải nộp. Trong nhiều
trường hợp mức phí quá cao gây ra phản ứng tiêu cực từ phía người nước ngoài, làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến mục đích nhân đạo của việc nhận nuôi con nuôi.

- Qui trình, thủ tục nhận nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài cũng chưa minh bạch, rõ ràng
càng làm khó cho những người xin con nuôi. Nhiều trường hợp người nước ngoài phải bỏ cuộc
giữa chừng vì không thể chờ đợi thêm được nữa do các qui trình, thủ tục quá phức tạp, rắc rối.
- Các qui định hiện hành không còn phù hợp với thông lệ chung của các nước trên thế giới
cũng như Công ước La hay 1993 về quyền trẻ em.
Chính vì các vấn đề tồn tại nêu trên đặt ra cho chúng ta phải nhanh chóng hoàn thiện các
chế định về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Ngày 9/6/2000 Quốc hội khóa 10 kỳ họp thứ 7
thông qua Luật HNGĐ năm 2000 có hiệu lực từ ngày 01/01/2001 thay thế Luật HNGĐ năm
1986. Chế định nuôi con nuôi được qui định tại chương 8 với 12 điều (từ điều 67 đến điều 78) và
tại chương 1 điều 105 về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Sau khi Quốc hội thông qua Luật HNGĐ năm 2000, Chính phủ đã ban hành Nghị định
68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật HNGĐ năm 2000
về quan hệ HNGĐ có yếu tố nước ngoài (gọi tắt là Nghị định 68/CP), trong đó có những thay đổi
căn bản về nguyên tắc, trình tự, thủ tục giải quyết cho người nước ngoài nhận trẻ em làm con nuôi.
Cụ thể những điểm mới trong Nghị định 68/CP là:
- Đối tượng trẻ em được cho làm con nuôi là hai đối tượng: Trẻ em đang sống tại cơ sở
nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; và trẻ em sống
tại gia đình thuộc diện mồ côi, tàn tật có quan hệ họ hàng, thân thích với người xin con nuôi.

12

- Về nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi: tiếp tục khẳng định việc giải quyết cho trẻ
em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài trên tinh thần nhân đạo, nhằm bảo đảm lợi ích tốt
nhất cho trẻ em và tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ em. Một điểm mới là nội dung Nghị định đã
qui định chỉ giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi tại các nước mà nước đó và Việt Nam
cùng gia nhập và ký kết điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi với Việt Nam. Trường hợp
ngoại lệ chỉ giải quyết nếu người nước ngoài đã có thời gian sinh sống ở Việt Nam 6 tháng trở lên
và xin nhận đích danh con nuôi là trẻ em đang sinh sống tại gia đình thuộc trường hợp mồ côi, tàn
tật hoặc có quan hệ họ hàng, thân thích với người xin con nuôi. Đây là qui định hoàn toàn mới giúp
cho các cơ quan có thẩm quyền quản lý tốt hơn hoạt động xin con nuôi của người nước ngoài,

khắc phục được những tồn tại, bất cập mà Nghị định 184/CP chưa giải quyết được.
- Cho phép tổ chức nuôi con nuôi nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, qui định này thực
chất là hợp pháp hóa cho những hoạt động được coi là “ngầm”, bất hợp pháp của các văn phòng
nuôi con nuôi nước ngoài, các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt nam. Qui định này đáp
ứng được nhu cầu thực tế của xã hội.
- Trình tự thủ tục giải quyết việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài được qui định chi tiết
và cụ thể hơn. Với những qui định này sẽ có một cơ quan đầu mối thuộc Bộ Tư pháp để giải quyết
và xem xét hồ sơ xin con nuôi nước ngoài.
- Thành lập Cục Con nuôi quốc tế trực thuộc Bộ Tư pháp. Đến thời điểm này Việt Nam
mới có một cơ quan chuyên môn đảm trách vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Cơ quan
này có nhiệm vụ quản lý nhà nước về lĩnh vực con nuôi có yếu tố nước ngoài và trực tiếp giải
quyết hồ sơ xin nhận con nuôi. Đây là bước tiến bộ vượt bậc và là minh chứng chứng tỏ pháp luật
Việt Nam đang dần từng bước hội nhập quốc tế trong lĩnh vực con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Sau bốn năm thực hiện Nghị định 68/NĐ-CP đã gặp phải một số bất cập, chính vì vậy
ngày 21/7/2006 Chính phủ đã ban hành Nghị định 69/2006/NĐ-CP bổ sung một số điều của Nghị
định 68/2002/NĐ-CP qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật HNGĐ về quan hệ hôn nhân
và gia đình có yếu tố nước ngoài. Tiếp theo để cụ thể hóa hơn nữa việc nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài, ngày 8/12/2006 Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 08/2006 hướng dẫn thực hiện
một số qui định về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Ngày 30/11/2006 Bộ Tư pháp tiếp tục ban
hành Quyết định số 09/2006/QĐBTP về Qui chế quản lý văn phòng nuôi con nuôi nước ngoài tại
Việt Nam.

13

Như vậy đến thời điểm trước năm 2010, lịch sử hình thành các chế định về nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam lần đầu tiên được đề cập đến vào năm 1992 và trong khoảng 10
năm gần đây chế định về con nuôi có yếu tố nước ngoài mới chính thức có các văn bản pháp luật
điều chỉnh. Tuy nhiên, các văn bản này không thống nhất và còn chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau
do chúng nằm rải rác trong nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau. Vì vậy trong quá trình thực hiện
việc nuôi con nuôi giữa trẻ em Việt Nam và người nước ngoài gặp rất nhiều khó khăn và làm giảm

ý nghĩa nhân đạo xã hội của việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Chính vì không có sự đồng
bộ dẫn đến việc thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài gặp nhiều hạn chế.
Kể từ khi Cục Con nuôi quốc tế (thuộc Bộ tư pháp) được thành lập vào năm 2002 với
chức năng nhiệm vụ quản lý lĩnh vực con nuôi có yếu tố nước ngoài, với những nỗ lực to lớn cơ
quan này cố gắng từng bước hoàn thiện cơ cấu tổ chức cũng như thực hiện chức năng của mình
một cách tốt nhất. Qua quá tình hoạt động, để phù hợp thực tiễn khách quan cũng như chức năng
nhiệm vụ được giao ngày 04/12/2008 Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ra quyết định số 2278/QĐ-BTP
thành lập Cục Con nuôi trên cơ sở Cục Con nuôi quốc tế. Chức năng nhiệm vụ của Cục Con
nuôi không chỉ dừng trong phạm vi các quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài mà còn
mở rộng trong lĩnh vực quản lý quan hệ nuôi con nuôi trong nƣớc. Đây chính là bước đi tiếp
theo để hoàn thiện cơ cấu tổ chức nhằm tạo nền tảng chuẩn bị cho việc ra đời Luật Nuôi con nuôi
2010.
Với hành lang pháp lý chưa hoàn thiện thì chức năng quản lý gặp rất nhiều khó khăn. Căn
cứ thực tế khách quan và sự cần thiết phải có một đạo luật độc lập điều chỉnh quan hệ mang tính
nhân đạo này, sau nhiều năm chuẩn bị, ngày 17 tháng 6 năm 2010 Quốc hội khóa XII, Kỳ họp thứ
7 đã thông qua Luật Nuôi con nuôi. Đây chính là dấu mốc quan trọng đặt nền tảng cho các chế
định nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam thống nhất trong một đạo luật, mở ra một
thời kỳ mới cho các quan hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Giai đoạn này cũng là giai đoạn số lượng trẻ em Việt Nam được người nước ngoài nhận
nuôi tiếp tục tăng so với giai đoạn trước. Tuy nhiên khi có Luật Nuôi con nuôi 2010 số lượng trẻ
giảm hẳn do qui trình cho con nuôi trong thời kỳ quá độ chuyển sang một qui trình mới. Tham
khảo số liệu trẻ em được người nước ngoài nhận nuôi trong giai đoạn để thấy rõ nội dung trên:
Biểu đồ 1.2 - Số liệu trẻ em Việt Nam đƣợc ngƣời nƣớc ngoài nhận nuôi từ năm 2001 đến
năm 2012 [2]

14


Như vậy, Việt Nam từ năm 1990 trở về trước chưa có các qui định cụ thể về nuôi con nuôi
có yếu tố nước ngoài. Bắt đầu từ năm 1991 các khái niệm và chế định về nuôi con nuôi có yếu tố

nước ngoài mới được đề cập đến. Và trong khoảng 10 năm gần đây kể từ năm 2000 thì Việt Nam
đã đặc biệt quan tâm đến vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài với việc ban hành hàng loạt
các văn bản có giá trị từng bước điều chỉnh quan hệ này theo tiến trình phát triển phù hợp với quan
hệ nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Cũng như việc thành lập cơ quan chuyên trách cấp nhà
nước để đảm nhiệm hoạt động trong lĩnh vực nuôi con nuôi nói chung, nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài nói riêng (Cục con nuôi). Sau nhiều năm chuẩn bị, để phù với sự hội nhập quốc tế.
Năm 2010 Luật Nuôi con nuôi ra đời đánh dấu bước phát triển hoàn thiện hệ thống pháp luật nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài. Đây cũng chính là bước đột phá mới nhằm điều chỉnh quan hệ nuôi
con nuôi có yếu tố nước ngoài một cách rõ ràng, minh bạch. Sau hơn một năm Luật Nuôi con nuôi
đi vào thực tế, Việt Nam tiếp tục ký kết Công ước Lahay 1993 ngày 18/7/2011 và có hiệu lực từ
ngày 01/02/2012. Việc ký kết công ước này thể hiện quyết tâm cao của Việt Nam về việc bảo vệ
quyền, lợi ích cho trẻ em.
1.3. Luật Nuôi con nuôi năm 2010
1.3.1. Tầm quan trọng và bối cảnh ra đời
Luật Nuôi con nuôi năm 2010 được Quốc hội khoá XII, Kỳ họp thứ 7 thông qua ngày
17/6/2010 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011 là một bước tiến quan trọng trong việc tạo ra

15

hành lang pháp lý, điều chỉnh các vấn đề về nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi có yếu tố
nước ngoài nói riêng trong một đạo luật. Tránh được các hạn chế trước đây do các vấn đề về nuôi
con nuôi nằm rải rác trong nhiều văn bản, gây rất nhiều khó khăn trong việc điều chỉnh các quan hệ
nuôi con nuôi, nhất là nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Luật Nuôi con nuôi thể hiện chủ trương, chính sách, đường lối của Nhà nước trong công
tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em; bảo đảm cho trẻ em làm con nuôi được chăm sóc tốt nhất trên tinh
thần nhân đạo vì lợi ích của trẻ em. Tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ, minh bạch trong việc quản lý của
Nhà nước về vấn đề nuôi con nuôi, cũng như góp phần đấu tranh phòng chống hiện tượng mua
bán trẻ em làm con nuôi hoặc lợi dụng việc nuôi con nuôi để trục lợi hoặc có các hành vi bất hợp
pháp.
Bên cạnh đó, việc Quốc hội thông qua Luật Nuôi con nuôi còn thể hiện sự tôn trọng các

cam kết quốc tế của Nhà nước ta khi quyết định tham gia Công ước về quyền trẻ em, tôn trọng và
bảo đảm các quyền trẻ em; bảo đảm việc nuôi con nuôi được tiến hành trên nguyên tác nhân đạo,
vì lợi ích tốt nhất của trẻ em trên tinh thần Công ước Lahay ngày 29/5/1993 về bảo vệ trẻ em và
hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế.
1.3.2. Nội dung Luật Nuôi con nuôi 2010
Luật Nuôi con nuôi 2010 bao gồm 5 chương 52 điều qui định chi tiết về nuôi con nuôi nói
chung và nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài nói riêng. Luật Nuôi con nuôi đã đảm bảo hài hòa
giữa các điều khoản liên quan đến con nuôi trong nước và con nuôi nước ngoài nhằm rút ngắn
khoảng cách khác biệt giữa hai loại hình con nuôi. Chính điều này đã đưa ra một chế định ngắn
gọn, dễ hiểu, minh bạch trong quá trình thực hiện. Cụ thể như sau:
Chương 1: Những qui định chung (gồm 13 điều từ điều 1 đến điều 13).
Bao gồm những nguyên tắc chung nhất về các vấn đề cho con nuôi (cả con nuôi trong
nước và con nuôi nước ngoài)
Chương 2: Nuôi con nuôi trong nước (gồm 14 điều từ điều 14 đến điều 27)
Qui định về nuôi con nuôi trong nước liên quan đến các nội dung: điều kiện của người
nhận con nuôi; trách nhiệm tìm gia đình thay thế cho trẻ em; qui trình đăng ký nhu cầu nhận con
nuôi; hồ sơ của người nhận con nuôi và người được giới thiệu làm con nuôi; qui trình giải quyết

16

việc nuôi con nuôi; hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi; căn cứ và hệ quả chấm dứt nuôi con
nuôi .
Chương 3: Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài (gồm 16 điều từ điều 28 đến điều 43)
Qui định về các nội dung nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài, bao gồm: điều kiện đối với
người nhận con nuôi; hồ sơ của người nhận con nuôi và hồ sơ của người được giới thiệu làm con
nuôi nước ngoài; trình tự thủ tục cho con nuôi; qui định về tổ chức con nuôi nước ngoài tại Việt
Nam.
Chương 4: Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước về nuôi con nuôi (gồm 6 điều từ điều 44
đến điều 49)
Qui định các cơ quan như Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao, các Bộ và cơ

quan ngang bộ, UBND các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm phối
hợp và thực hiện quản lý nhà nước về nuôi con nuôi.
Chương 5: Điều khoản thi hành (gồm 3 điều từ điều 50 đến điều 52)
Qui định về điều khoản chuyển tiếp trong việc làm thủ tục nuôi con nuôi; bãi bỏ và sửa
đổi, bổ sung một số điều Luật HNGĐ 2000.
1.3.3. Các văn bản hƣớng dẫn, thi hành Luật Nuôi con nuôi năm 2010
+ Nghị định số 19/2011/NĐ-CP: Do Chính phủ ban hành ngày 21/3/2011(có hiệu lực từ
8/5/2011) qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật Nuôi con nuôi. Nghị định này điều chỉnh
2 vấn đề sau:
Quy định chi tiết việc tiếp nhận, quản lý, sử dụng hỗ trợ nhân đạo để nuôi dưỡng, chăm
sóc, giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Hướng dẫn thi hành một số vấn đề về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết việc nuôi con
nuôi trong nước, nuôi con nuôi tại Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài (sau đây gọi là Cơ
quan đại diện).
+ Thông tƣ số 12/2011/TT-BTP: do Bộ Tư pháp ban hành ngày 21/11/2011(có hiệu lực
từ 15/8/2011) hướng dẫn việc ghi chép, lưu trữ, sử dụng biểu mẫu nuôi con nuôi. Thông tư này
ban hành kèm theo 27 biểu mẫu sử dụng cho việc cho nhận con nuôi nói chung và con nuôi nước
ngoài nói riêng.

17

+ Thông tƣ liên tịch số 146/2012/TTLT-BTC-BTP: giữa Bộ Tài chính và Bộ Tư pháp
ban hành ngày 7/9/2012 (có hiệu lực từ 25/10/2012).
Thông tư này quy định việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí hoạt động
chuyên môn, nghiệp vụ trong lĩnh vực nuôi con nuôi từ nguồn thu lệ phí liên quan đến nuôi con
nuôi. Qui định tổ chức con nuôi nước ngoài được cấp phép hoạt động tại Việt Nam, việc tham gia
thực hiện thủ tục giải quyết nuôi con nuôi nước ngoài của tổ chức con nuôi nước ngoài.
1.3.4. Các qui định về nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
1.3.4.1 Các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi nói chung
Việc qui định các nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho quan hệ nuôi con nuôi, đặc biệt là

bảo vệ trẻ em. Cụ thể được thể hiện trong bốn nguyên tắc sau đây:
- Nguyên tắc chung: được qui định tại Điều 2: “Việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan
hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo
đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng, giáo dục, chăm sóc trong môi trường gia đình”.
Đây là nguyên tắc quan trọng nhất xuyên suốt quá trình cho nhận con nuôi, nhằm đảm bảo
quyền, lợi ích tốt nhất và toàn diện cho trẻ được nhận làm con nuôi.
- Nguyên tắc tìm gia đình tại nƣớc gốc cho trẻ: được qui định tại Điều 4:
1. Khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong môi
trường gia đình gốc.
2. Việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người được nhận làm con
nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện, bình đẳng, không phân biệt nam nữ, không trái pháp luật
và đạo đức xã hội.
3. Chỉ cho làm con nuôi người ở nước ngoài khi không thể tìm được gia đình thay thế ở
trong nước.
Rõ ràng tại nội dung này cho ta thấy thêm một lần nữa nhấn mạnh nguyên tắc việc đảm
bảo quyền lợi của trẻ em được cho làm con nuôi, và chỉ cho trẻ làm con nuôi người nước ngoài khi
không tìm được gia đình thay thế tại nước gốc.
- Nguyên tắc ƣu tiên lựa chọn gia đình thay thế cho trẻ: được qui định tại Điều 5, cụ
thể như sau:

18

1. Thứ tự ưu tiên lựa chọn gia đình thay thế được thực hiện quy định sau đây:
a) Cha dượng, mẹ kế, cô,cậu, dì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi;
b) Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước;
c) Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam;
d) Công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài;
đ) Người nước ngoài thường trú ở nước ngoài.
2. Trường hợp có nhiều người cùng hàng ưu tiên xin nhận một người làm con nuôi thì xem
xét, giải quyết cho người có điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con nuôi tốt nhất.

Vì quyền lợi cao nhất của trẻ được cho làm con nuôi, Điều 5 đã đưa ra thứ tự ưu tiên lựa
chọn gia đình thay thế cho trẻ với mong muốn trẻ được sống trong tình yêu thương cao nhất: đó là
lựa chọn gia đình thay thế theo thứ tự có quan hệ huyết thống với trẻ trước tiên, sau đó đến các gia
đình tại Việt Nam (nước gốc) và cuối cùng mới là lựa chọn gia đình người nước ngoài cho trẻ.
- Nguyên tắc trẻ có quyền đƣợc tìm hiểu và biết về nguồn gốc của mình sau khi đƣợc
cho làm con nuôi: Được qui định tại Điều 11 như sau:
1. Con nuôi có quyền được biết về nguồn gốc của mình. Không ai được cản trở con nuôi
được biết về nguồn gốc của mình.
2. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện cho con nuôi là người Việt Nam ở nước ngoài về
thăm quê hương, đất nước.
1.3.4.2. Các trƣờng hợp nuôi con nuôi có yếu tố nƣớc ngoài
Luật Nuôi con nuôi 2010 đã qui định các trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
nhằm cụ thể hóa mối quan hệ này cũng như việc áp dụng luật trong thực tế. Tại Điều 28 qui định
ba trường hợp nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài như sau:
1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước cùng là
thành viên của Điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam nhận trẻ em Việt Nam làm con
nuôi.
2. Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi.
3. Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi ở Việt Nam.
Ngoài ra Điều 28 cũng qui định các trường hợp được nhận con nuôi đích danh đối với
quan hệ con nuôi có yếu tố nước ngoài trong các trường hợp sau:

×