Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.53 KB, 10 trang )

Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới
LỜI MỞ ĐẦU
Trung Quốc là một nước lớn, có nền văn minh phát triển sớm và thường xuyên
chinh phục, bành trướng đồng hóa các dân tộc, quốc gia lân cận. Văn hóa Trung Hoa có
ảnh hưởng lớn tới nhiều nước phương Đông như Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam. Đặc
biệt là trong lĩnh vực pháp luật, so với luật pháp trung cổ phương Đông, luật pháp
Trung Quốc tương đối phát triển và đã trở thành cơ sở cho nhiều bộ luật của các quốc
gia khác trong cùng thời kì.
Ngay từ những buổi đầu thành lập, Nhà nước Trung Hoa đã xây dựng hệ thống
pháp luật cho riêng mình. Tuy nhiên, pháp luật Trung Hoa nguyên thủy hầu như không
để lại dấu ấn trong hệ thống lịch sử pháp luật Trung Quốc. Nhưng đến thời kì phong
kiến thì pháp luật Trung Quốc lại có những nét độc đáo riêng biệt. Nghiên cứu về những
đặc trưng của pháp luật phong kiến Trung Quốc không chỉ giúp chúng ta hiểu biết sâu
sắc hơn về một trong những nét văn hóa độc đáo của người Trung Hoa mà qua đó còn
có được những nhận thức đúng đắn về tầm ảnh hưởng của pháp luật phong kiến Trung
Quốc đến nhiều nước trong khu vực.
Bởi vậy, trong bài tiểu luận lần này, em xin phép được thực hiện đề tài: “Phân
tích đặc trưng cơ bản của pháp luật phong kiến Trung Quốc”. Vì đây là một vấn đề
mang phạm vi rộng, em đã cố gắng đi sâu nghiên cứu nhưng do kiến thức còn hạn chế,
sự hiểu biết chưa nhiều nên không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong các thầy cô
xem xét và góp ý để em có cơ sở tiếp thu và sửa chữa cho bài luận này hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
1
Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới
NỘI DUNG
I. Cơ sở hình thành và phát triển cũng như các loại nguồn cơ bản của pháp
luật phong kiến Trung Quốc
1. Cơ sở hình thành và phát triển của pháp luật phong kiến Trung Quốc
Nhà nước và pháp luật là hai hiện tượng quan trọng và rộng lớn nhất thuộc kiến
trúc thượng tầng, hai hiện tượng này thường xuyên có sự vận động và biến đổi không
ngừng. Sự hình thành và phát triển của nhà nước gắn với sự hình thành và phát triển của


pháp luật. Do đó, cơ sở hình thành và phát triển của pháp luật cũng dựa trên cơ sở hình
thành và phát triển của nhà nước:
Cơ sở kinh tế: Chế độ sở hữu ruộng đất đóng vai trò chủ đạo và sự tồn tại của
công xã nông thôn tạo nên cơ sở vật chất của nhà nước quân chủ chuyên chế.
Cơ sở chính trị - xã hội: giai cấp địa chủ phong kiến hầu hết là trung và đại địa
chủ - đây là giai cấp thống trị trong xã hội.
Cơ sở tư tưởng: là học thuyết chính trị nho giáo.
2. Các loại nguồn cơ bản của pháp luật phong kiến Trung Quốc
Luật pháp phong kiến Trung Quốc có 5 nguồn chủ yếu:
Lệnh: Chiếu chỉ của hoàng đế ban ra.
Luật: Qui định về chế độ ruộng đất, sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi thương
nghiệp.
Cách: những cách thức làm việc của quan chức nhà nước.
Thức: thể thức có liên quan đến việc khám nghiệm, tra hỏi, xét xử,...
Lệ: án lệ.
II. Những đặc trưng cơ bản của pháp luật phong kiến Trung Quốc
1. Pháp luật phong kiến Trung Quốc kết hợp giữa Lễ và Hình
Lễ là nguyên tắc xử sự của con người thuộc các đẳng cấp khác nhau trong các
quan hệ xã hội. Lễ là nội dung, trọng tâm của Nho giáo. Lễ giáo phong kiến xác lập và
2
Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới
củng cố tam cương, ba mối quan hệ cơ bản trong xã hội, quan hệ vua – tôi, quan hệ cha
mẹ - con cái, quan hệ chồng – vợ. Đó là trật tự của xã hội phong kiến. Hình là hình phạt
hay nói rộng ra là pháp luật.
Từ thời Tây Chu, lễ dần dần trở thành một thể chế chính trị, hỗ trợ cho hình luật.
Tuy nhiên, do đặc điểm tình hình lúc bấy giờ và do sự xuất hiện các tư tưởng chính trị
khác, đặc biệt là thuyết pháp trị- phù hợp với tình hình xã hội nên việc áp dung lễ giáo
chưa giữ vai trò chủ đạo. Đặc biệt trong triều đại nhà Tần, Tần thủy Hoàng chủ trương
chỉ sử dụng pháp luật, không dùng lễ giáo nhân nghĩa để cai trị. Do đó, lễ giáo trong
thời kì này rất mờ nhạt.

Từ nhà Hán trở đi, đặc biệt là từ đời Hán Vũ Đế, ông chủ trương sử dụng nho
giáo để quản lí nhà nước và biến nho giáo thành quốc giáo thì lễ - nội dung trọng tâm
của nho giáo trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã hội phong kiến. Lễ kết hợp với hình
luật để chủ trương xây dựng và thực thi pháp luật. Trong mối quan hệ giữa lễ và hình thì
các nguyên tắc của lễ làm sự chỉ đạo, còn lễ mượn sự cưỡng chế của hình để duy trì.
Thực hiện chủ trương kết hợp lễ và hình, nhà nước phong kiến Trung Quốc áp dụng các
nguyên tắc:
Đức chủ hình dụ
Lễ pháp tịnh dụng
Nhà nước phong kiến Trung Quốc còn sử dụng nguyên tắc “tam cương ngũ
thường”của nho gia làm chủ đạo. Tam cương là nội dung cơ bản trong giáo lí của đạo
nho và được pháp luật bảo vệ bằng việc quy định 10 trọng tội (thập ác). Trong đó các
tội trái với đạo hiếu có 6 tội (ác nghịch, bất đạo, bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, nội loạn).
Các tội bất trung với hoàng đế phong kiến có 4 tội (mưu phản quốc, mưu đại nghịch,
mưu phản loạn, đại bất kính).Trong quan hệ hôn nhân theo giáo lí đạo Nho và cũng là
theo luật pháp quy định, người chồng có quyền li dị vợ nếu người vợ chỉ cần phạm một
trong 7 điều sơ suất (thất suất): không con, dâm dật, không phụng sự cha mẹ chồng,
miệng lưỡi nói năng lung tung, trộm cắp, ghen tuông, ác tật. Luât pháp từ Hán, Đường,
3
Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới
Tống, Nguyên, Minh, Thanh đều “nhất chuẩn hồ lễ”. Hay nói cách khác luật pháp luôn
luôn củng cố và bảo vệ lễ giáo phong kiến, trật tự của đẳng cấp của xã hội phong kiến,
chính thể quân chủ chuyên chế phong kiến
Tuy nhiên, việc dùng lễ đã gây ra việc áp dụng pháp luật không thống nhất. Xuất
hiện hiện tượng “tội đồng luận dị” (tội giống nhau nhưng lí luận khác đi dẫn đến hình
phạt cũng khác nhau). Các quan lại tùy tiện trong cách xét xử, có điều kiện phát sinh
tiêu cực. Điển hình là Đổng Trọng thư chủ trương dùng sách “Xuân thu” của Khổng tử
để làm cơ sở cho việc xử án.
2. Pháp luật phong kiến Trung Quốc là sự kết hợp giữa đức trị và pháp trị,
giữa qui phạm pháp luật với qui phạm đạo đức

Trong xã hôi phong kiến Trung Quốc, tồn tại hai quan điểm đối lập nhau đó là:
Quan điểm của Pháp gia và quan điểm của Nho gia. Hai quan điểm này như hai sợi chỉ
đỏ xuyên suốt quá trình tồn tại và phát triển của xã hội phong kiến Trung Quốc. Từ đó
đặt ra câu hỏi nên dùng pháp luật mà trừng trị? Hay nên dùng đạo đức mà giáo dục?
Quan điểm của hai trường phái này được thể hiện tương ứng qua hai học thuyết pháp trị
và đức trị.
a) Học thuyết pháp trị
Nói về học thuyết này, phải kể đến Hàn Phi, người có công tổng kết và hoàn thiện
tư tưởng trị nước của pháp gia. Ông cho rằng “Pháp”, “Thế”, “Thuật” là ba yếu tố thống
nhất không thể tách rời trong đường lối trị nước bằng pháp luật. Trong sự thống nhất đó,
“Pháp” là nội dung trong chính sách cai trị được thể hiện bằng luật lệ, “Thế’ là công cụ,
phương tiện tạo nên sức mạnh, còn “Thuật” là phương pháp, cách thức để thực hiện nội
dung chính sách cai trị. Tất cả đều là công cụ của bậc đế vương.
Trước hết nói về “Pháp”. Hàn Phi Tử cho rằng, nội dung của “Pháp” là thưởng và
phạt. Ông gọi đó là hai đòn bầy trong tay vua đề giữ vững chính quyền. Ông chê
Thương Ưởng chỉ biết phạt tội mà không biết thưởng công và cho rằng cần phải thực
4
Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới
hiện toàn diện cả hai mặt khuyến khích và răn đe thông qua thưởng và phạt. Pháp luật
cũng vì thế mà phải rõ ràng, minh bạch, chí công vô tư” không khoan dung người mình
yêu, không khắc nghiệt người mình ghét. Tất cả nhằm mục đích thực hiện “Pháp” để
cứu loạn cho dân chúng, trừ họa cho thiên hạ. Với nội dung và mục đích như trên,
“Pháp” thật sự là tiêu chuẩn khách quan để phân định phải trái, tốt xấu và sẽ làm cho
nhân tâm, vạn sự đều qui về một mối, đều lấy “Pháp” làm chuẩn.
Cùng với “Pháp”, “Thế” là yếu tố không thể thiếu được trong pháp trị. “Thế”
trước hết là địa vị, thế lực, quyền uy của người cầm quyền mà trước hết là nhà vua.
“Thế” còn là sức mạnh của dân, của đất nước, của vận nước. Theo Hàn Phi: “nếu không
có sự trợ giúp của quần chúng thì làm sao kẻ kém tài lại cai trị được thiên hạ”. Để nâng
cao thế của nhà vua, pháp gia chủ trương trong nước nhất nhất mọi thứ đều phải tuân
theo pháp lệnh của vua kể từ hành vi, lời nói đến tư tưởng.

Bên cạnh đó, pháp gia rất chú ý đến “Thuật” trong đường lối pháp trị. “Thuật” là
cách thức, phương thức, mưu lược, thủ đoạn...trong việc tuyển người, dùng người, giao
việc,...mà nhờ đó pháp luật được thực hiện và nhà vua có thể “trị quốc bình thiên
hạ”.
Có thể nói, tư tưởng chủ đạo của pháp gia là muốn trị nước, yên dân phải lấy
pháp luật làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao nhiêu, nước có đông
dân bao nhiêu thì vẫn “trị quốc bình thiên hạ” được. Học thuyết chính trị của pháp gia
đã được Tần Thủy Hoàng ra sức vận dụng, thi hành bằng mọi thủ đoạn và hình phạt tàn
ác theo 3 căn cứ:
Pháp luật phải triệt đến cùng tội ác và kịp thời trừng trị tội ác khi nó chưa kịp xảy
ra.
Pháp luật phải được thi hành nghiêm khắc với mọi người, không có riêng ai được
ở ngoài vòng pháp luật.
5

×