Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Báo cáo khoa học Vay mượn, chuyển di, chuyển mã, hoà mã và thích ứng Thực tiễn tiếp xúc ngôn ngữ tiếng Việt ở châu Úc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264 KB, 16 trang )

VAY MƯỢN, CHUYỂN DI, CHUYỂN MÃ, HÒA MÃ VÀ THÍCH ỨNG :
THỰC TIỄN TIẾP XÚC NGÔN NGỮ CỦA TIẾNG VIỆT Ở CHÂU ÚC

Thái Duy Bảo
1



1. GIỚI THIỆU
Hành trang vốn không ly gián đối với các cộng đồng di dân thường là ngôn ngữ- phương
tiện vừa để duy trì và lưu giữ các giá trị văn hoá truyền thống, vừa là chất kết dính cá nhân vào
cộng đồng nơi đất khách quê người. Đối với cộng đồng di dân gốc Việt, tiếng Việt không phải là
lệ ngoại và là ngôn ngữ cội nguồn của hơn 3 triệu người đang cư trú và sinh sống ở trên trên 90
quốc gia và lãnh thổ trên thế giới. Tại Úc châu, nơi có hơn 206 ngôn ngữ được sử dụng tại nhà
(Clyne et al, 2005), thì tiếng Việt là ngôn ngữ cội nguồn của hơn 200.000 người gốc Việt tập
trung chủ yếu ở các tiểu bang như New South Wales, Victory, Queensland, Nam Úc và Tây Úc.
Xét trên bình diện nhân khẩu- ngữ học, có khoảng 16 % dân số Úc nói một thứ tiếng ngoài tiếng
Anh (Language Other Than English, gọi tắt là LOTE). Riêng thành phố Sydney bang NSW, có
29% và Melbourne bang Victoria có 27% số dân nói một ngôn ngữ LOTE tại gia đình. Đáng chú
ý là, trong số 16% dân số Úc sử dụng LOTE thì số người nói tiếng Việt lại xếp thứ 5 (chiếm gần
1% tổng dân số của Úc), sau tiếng Ý, Hi Lạp, Trung Quốc và Ả Rập (có tỉ lệ tuần tự là 2%,
1,5%, 1, 3% và 1,2% dân số của Úc). Cổ suý cho việc lưu giữ và quảng bá ngôn ngữ này trong
bức tranh đa văn hoá và đa ngôn ngữ của Úc Châu, tiếng Việt lại được chính phủ Úc xếp vào
một trong 14 ngôn ngữ chủ đạo (14 Key Languages) được giảng dạy ở bậc phổ thông tại các
bang chính của nước Úc (Lo Bianco 1987). Tuy vậy, việc giảng dạy ngôn ngữ lại mang nhiều lý
do khác nhau và không phản ảnh rõ nét bức tranh nhân khẩu ngữ học được, vì trong khi tiếng Hi
Lạp, tiếng Việt và Trung Quốc có số lượng người nói lớn nhất thì số học sinh theo học chúng tại
các trường học công lập lại không nhiều bằng các thứ tiếng khác. Do vậy, cũng không thể khằng
định một cách rõ ràng là những di dân này đã duy trì và sử dụng được ngôn ngữ của nước cội
nguồn trong sinh hoạt hằng ngày tại nước tiếp cư, hoặc họ chỉ hoàn toàn sử dụng ngôn ngữ của
xã hội tiếp cư mà thôi (Clyne 2003).



2. BỐI CẢNH
2.1. Hiện nay trong khi tiếng Anh vẫn được xem là “tấm thẻ kiểm tra” ở những cổng nhập cư của
Úc, thì gần đây đã có nhiều tranh luận xoay quanh tinh thần đa văn hóa mà trong đó, thái độ đối
với ngôn ngữ đóng vai trò cốt lõi nhât. Không ít học giả và chính trị gia đã quan niệm rằng ngôn
ngữ là biểu tượng trung tâm của tính đa dạng văn hóa, đồng thời, là dấu hiệu của “ý niệm thuộc
về”, xét trên bình diện cộng đồng lẫn thế hệ, đồng thời là yếu tố xác lập đường ranh giới trong
việc bao gộp hoặc loại bỏ những thành viên hiểu hay không thông hiểu nó. Đặc biệt, khi ngôn
ngữ hành chức với tư cách là công cụ truyền tải và lưu giữ những giá trị văn hóa của từng cộng
đồng sắc dân, thì việc sử dụng nó như một biểu thị về “ý niệm thuộc về” lại trở nên phức tạp
hơn.
Cộng đồng người Việt sinh sống ở Úc châu gồm hơn 2/3 số người có quê hương cội
nguồn là Việt Nam và số lượng cư dân này chủ yếu đến từ 3 làn sóng khác nhau, có thể tính từ
mốc thời gian 1975-79, 1979-85 và sau 1985 (Thomas 1997), đó là không kể một số lượng nhỏ
thuộc diện học bổng Columbo lưu lại Úc trước ngày 30/4/1975. So với làn sóng di dân thứ nhất
khoảng hơn 30 ngàn người, và làn sóng thứ hai gần 50 ngàn người, làn sóng di dân thứ ba có

1
Dr, School of Culture, History and Language, College of Asia and The Pacific, The Australian National University
Email:
khuynh hướng tăng đều trong khoảng thời gian 5 năm. Chẳng hạn, chỉ riêng thời gian từ 1985-
1990 con số này là hơn 38.000 người, và 1990-95 hơn 39.000 người do chính sách thông thoáng
của chính phủ Úc dưới hình thức “đòan tụ gia đình”. Ở những năm về sau, từ 1995-2000 số
lượng tuy giảm nhưng lại có khuynh hướng giữ đều trong khoảng 12.000 người trong mỗi 5 năm.
Đặc điểm của cư dân này là biến đổi từ diện di dân tị nạn chính trị, kinh tế sang đoàn tụ gia đình
(Clyne 2003: 14) và sau này có cả diện di dân tay nghề, làm phong phú thêm thành phần nhân
khẩu và tình hình sinh hoạt của những người gốc Việt tại đây. Tuy có một bộ phân sống thiếu tập
trung, ngoài các thành phố như đã liệt kê, các cộng đồng gốc Việt ở Úc châu có những điểm
chung là tỉ lệ người nói tiếng Việt vẫn rất cao so với các cộng đồng di dân khác, cho dù thái độ
đối với ngôn ngữ cội nguồn của họ ít nhiều không đồng nhất.


2.2. Trên bình diện hội nhập, việc chuyển đổi từ ngôn ngữ cội nguồn sang ngôn ngữ tiếp cư
không còn là vấn đề bàn cãi nữa, do lực đẩy của thực tế cuộc sống, như cơ hội việc làm, thăng
tiến trong công việc, sự thuận tiện trong sinh hoạt hằng ngày v.v Không như ở những cộng
đồng sắc dân khác ở Úc, hiện tượng chuyển đổi ngôn ngữ sang tiếng Anh vẫn ghi nhận là rất
thấp trong cộng đồng người Việt (Clyne 2003: 35). Điều đáng nói ở đây là trong bản thân cộng
đồng Việt tỷ lệ người nói trẻ tuổi (dưới 14, sinh tại Úc) lại cao một cách vượt trội, xếp hàng thứ
2 sau cộng đồng Ý (mà lẽ ra, vẫn phải hàng thứ 6 theo thứ tự cộng đồng có lượng người nói thứ
tiếng cội nguồn cao nhất), dù cho con số này tương quan rất ít với trình độ tiếng Anh và chiều
dài định cư của họ. Tuy vậy hiện tượng này chỉ tồn tại trong miền giao tế gia đình mà thôi và tỏ
ra thấp hơn ở miền giao tế trường học, cộng đồng hay ngoài xã hội (Thai 2005b).

2.3. Đến lượt mình, ở mỗi cộng đồng trong quá trình tiếp xúc, việc chọn mã sử dụng nói chung
thường không chỉ nằm trong giới hạn của ngôn ngữ mà còn ở những khái niệm thuộc ý thức hệ,
tính chất của các tiếp xúc xuyên văn hoá, và quan niệm về bản sắc của các nhóm hay tiểu nhóm xã
hội, hoặc nhỏ hơn là của các đơn vị gia đình vốn là những nhóm không đồng nhất về ngôn ngữ
(Barch, 1969; Irvine, 1987). Trong thực tế của tiếp xúc ngôn ngữ, khái niệm về chuẩn mực trong
việc chọn mã dần dần hình thành và, thậm chí, sự chuyển đổi chuẩn mực cũng được chấp nhận
ngay trong các tiểu nhóm, nhóm xã hội và cộng đồng. Theo đó, chính thái độ nhìn nhận và tiếp
nhận lẫn nhau đã giúp cho các thành viên giả định được những gì là “được phép”, những gì là
“kiêng kỵ” khi bước vào một không gian giao tế có thể khác với vốn sống và không gian của họ
trước đây; và như vậy, ở một bình diện rộng lớn hơn, các cộng đồng ngôn ngữ sẽ hình thành nên
cái gọi là hình thái bản sắc cộng đồng xã hội (communalistic form of social affiliation) trên nền
tảng ý niệm về cộng đồng trong nhận thức của các thành viên (Ratcliffe, 1994; Phinney, 1990). Do
vậy, những định hướng về chuẩn mực, về tiền giả định cũng như những ý niệm “chia sẻ chung”
giữa các thành viên cũng được tạo lập và nâng cao dần theo thời gian. Điều này tương tự với ý
niệm về nhóm, nhận thức đồng nhóm trong một cộng đồng ngôn ngữ.

2.4. Trên bình diện tiếp xúc ngôn ngữ, một số nhà ngôn ngữ- nhân học lại cho rằng ý niệm về
nhóm không hình thành một cách tự phát, mà trái lại, nó là một hệ quả của các tương tác giáp

ranh giữa các nhóm tộc ngữ có vị trí thắng thế và nhóm không thắng thế (Carli et al. 2002). Bản
sắc xã hội nhóm, từ đó, cũng được phản ảnh qua việc lựa chọn ngôn ngữ và trong bản thân từng
nhóm ngầm định cái gọi là phương thức tuơng tác trên mã chọn vốn dựa trên một khung chuẩn
mực nào đó. Do vậy, việc chọn mã (code-choice), chuyển mã (code-switching) và hoà mã (code-
mixing) trong các cộng đồng ngôn ngữ, cần phải được xem xét trên nhiều cung bậc thuộc giới
hạn vừa ngôn ngữ học, vừa xã hội học và đặc biệt chú trọng đến miền giao tế của ngôn ngữ học
tiếp xúc (Fishman, 1965; Greenfield, 1972, Parasher, 1980), mạng lưới xã hội (Gumperz, 1966;
Poplack, 1977; Lipski, 1978; Milroy & Li, 1995), trong mối tương liên với quá trình phát ngôn
của các thành viên trong cộng đồng (Scotton & Wanjin, 1983; Myer-Scotton, 1988, 1993). Trong
các thập niên qua, việc miêu tả hiện thực ngôn ngữ trong các cộng đồng di dân thường chú trọng
đến các tác tố xã hội dẫn đến hiện tượng song ngữ hay đa ngữ, nhưng sẽ rất thiếu sót nếu không
đề cập đến thái độ đối với việc sử dụng mã như thế nào, nhất là những định kiến làm nên một
“ốc đảo ngôn ngữ” ngay trong các cộng đồng di dân và, do vậy, dễ dàng dẫn đến hiện tượng rút
lui khỏi tương tác xã hội của một số thành viên trong nhóm mỗi khi có sự cọ xát giữa ngôn ngữ
cộng đồng (diasporic language) và ngôn ngữ sử dụng ở chính quốc (the language used in the
homeland) (Thai 2005). Trong khuôn khổ của báo cáo này, câu hỏi nghiên cứu đặt ra là:
Một là: trong chừng mực nào, tiếng Việt đang thực tế hành chức ở các cộng đồng di dân khác
với tiếng Việt ở quê nhà, xét trên bình diện sử dụng từ các hiện tượng vay mượn, chọn mã,
chuyển mã đến thích ứng?
Hai là: có thể kết luận gì về bản sắc xã hội thể hiện qua sự tương tác ngôn ngữ trong cộng đồng
ngôn ngữ gốc Việt dưới góc nhìn của ngữ dụng - xã hội học?

3. PHƯƠNG PHÁP
Nghiên cứu này là một phần trong đề tài chung về “Diasporic Vietnamese” của chúng tôi,
bắt đầu từ 2004, tại Đại học Quốc Gia Úc. Đối tượng của nghiên cứu của chúng tôi là khẩu ngữ
tiếng Việt của 28 người gốc Việt, ở độ tuổi từ 20-62, gồm 17 nam, 11 nữ có cộng việc khác nhau
như: kỹ sư tin học, bác sĩ, nhà văn, giáo sư đại học, sinh viên, nhân viên bán hàng, phục vụ, thợ
làm bánh, nội trợ v.v… Trong các đối tượng này chỉ có 7 người được coi là thông thạo cả hai ngôn
ngữ Anh và Việt (bilingual), tất cả đều sống ở Úc ít nhất là 5 năm.
Tư liệu thu thập trên các đối tượng này là 37 cuộc phỏng vấn, đối thoại, trao đổi tự nhiên về

những chủ để xoay quanh sinh hoạt hằng ngày, những khía cạnh văn hoá xã hội của cuộc sống ở
Úc. Ngôn ngữ trao đổi là tiếng Việt. Địa bàn cư trú của các đối tượng tham gia là vùng Mt.
Pritchard (Bang New South Wales), Springvale (Bang Victoria), Belconnen, Gungalin (Thủ đô
Canberra). Để thu ngắn khoảng cách xã hội và làm liên tục câu chuyện, người nghiên cứu cũng
thỉnh thoảng tham gia vào đối thoại. Tổng độ dài của các cuộc đối thoại là gần 10 tiếng. Với từng
cuộc đối thoại, chúng tôi ghi âm và phiên âm tất cả những từ, ngữ sử dụng trong suốt quá trình trao
đổi, bao gồm danh từ, tính từ, phó từ, động từ hay bất kỳ đơn vị ngôn ngữ nào được sử dụng.
Ngoài ra, để làm rõ các sắc thái ngữ nghĩa và yếu tố bản sắc của tiếng Việt trong cộng đồng, hơn
120 văn bản dưới hình thức bài báo, mẫu quảng cáo, truyện ngắn, bản tin trên các tờ báo địa
phương và một số biểu bảng thông báo cùng với 40 VCD ca nhạc lưu hành trong cộng đồng hay
trên trang web ở Úc cũng nằm trong đối tượng khảo sát này.

4. KẾT QUẢ VÀ PHÂN TÍCH
4.1. Phạm vi sử dụng ngôn ngữ cội nguồn
4.1.1. Trong nhiều thập niên qua, số lượng các công trình nghiên cứu về yếu tố tác động và bản
chất của quá trình duy trì ngôn ngữ ngoài tiếng Anh trong các cộng đồng di dân ở Mỹ, Âu châu
cũng như ở Úc châu đang ngày mỗi gia tăng. Nhiều trong số này nghiên cứu tỉ mỉ về tính lành
mạnh của môi trường nhân văn hổ trợ cho việc duy trì ngôn ngữ cộng đồng lẫn cổ súy việc phát
triển tinh thần đa văn hoá như là một phương thức đề cao bản sắc hay chính sách ngôn ngữ của các
nước (Clyne, 1985; Haugen 1971, 1979; Smolicz & Harris 1976). Một số khác lại chú trọng đến
yếu tố miền gắn liền với các thành viên của cộng đồng ngôn ngữ, quyết định việc chọn mã hay xu
hướng chuyển mã mà trong đó, những biến số thường đóng vai trò quan trọng trong các hành vi
ngôn ngữ như: tình huống, chủ để, phong cách, mối quan hệ liên nhân, địa điểm, phương thức và
phương tiện (Fishman 1965; Cooper 1969; Greenfield 1972, Sandkoff 1971). Các công trình này
có ghi nhận chung về thái độ lưu giữ ngôn ngữ thường xuất phát từ gia đình (đặc biệt là gia đình có
những thành viên thuộc thế hệ thứ nhất) muốn duy trì tiếng mẹ đẻ như một phương cách duy trì
văn hoá truyền thống, trong khi các thế hệ tiếp theo của họ lại sử dụng tiếng Anh (với tư cách là
ngôn ngữ của xã hội tiếp cư) như một mã duy nhất trong hoạt động giao tiếp thường nhật.
4.1.2. Đối với cộng đồng ngôn ngữ của thành phần di dân thuộc thế hệ thứ nhất và kế tiếp (thế hệ
1.5) điều phổ biến nhất chính là hiện tượng hiện tựơng vay muợn từ tiếng Anh vào ngôn ngữ

nguồn cội, đặc biệt là ở các cộng đồng vùng đô thị (Haugen 1950; Myers-Scotton & Jake 2000).
Mức độ vay mượn từ tiếng Anh vào ngôn ngữ nguồn tuỳ thuộc trước hết vào điều kiện sinh hoạt cá
nhân, mạng lưới xã hội, phong cách sống lẫn vốn ngữ năng của người nói (ở cả hai ngôn ngữ); và
theo thời gian hiện tượng này hoạt động qua con đường cải biên, mở rộng, chuyển đổi và tái tạo
nghĩa ngay trên ngôn ngữ nguồn.
Quá trình này thường diễn ra ở những mức độ khác nhau do yếu tố giới tính- chẳng hạn như, đối
với thế hệ thứ nhất, hầu như việc chuyển đổi mã xảy ra ở tần suất cao hơn trong nam giới trong khi
nữ giới duy trì ngôn ngữ cộng đồng nhiều hơn (Clyne, 2003). Trong một nghiên cứu so sánh hiện
tượng duy trì và chuyển đổi ngôn ngữ trong cộng đồng người Đức, Hi Lạp, và Việt Nam ở
Melbourne, Pauwels (1995) ghi nhận là phụ nữ ở cộng đồng Hi Lạp và Đức sử dụng ngôn ngữ
LOTE nhiều hơn so với phụ nữ trong cộng đồng người Việt. Nhưng trong 3 nhóm đối tượng này,
thì nhóm người gôc Ý có khuynh hướng sử dụng ngôn ngữ cội nguồn trong các miền khác nhau
nhiều hơn 2 nhóm kia. Tuy vậy, trong miền chuyển di thì phụ nữ Đức và Việt Nam thuộc thế hệ
thứ hai lại sử dụng ngôn ngữ cội nguồn nhiều hơn nam giới (Winter & Pauwels, 2000).

4.2. Vay mượn
Theo Myers-Scotton (2006), vay mượn là khuynh hướng tất yếu trong buổi ban đầu của bối cảnh
tiếp xúc ngôn ngữ. Tiến trình vay mượn thường mang tính “một chiều” (one-way street) và khó
xảy ra trường hợp ngược lại giữa ngôn ngữ tiếp nhận (recipient language) và ngôn ngữ cho (donor
language). Theo các công trình về tiếp xúc ngôn ngữ trước đây, chưa thấy có sự trao đổi nào gọi là
bình đẳng trong vay mượn cả (Myers-Scotton 2006: 209-11). Trong bản thân nó, vay mượn ngôn
ngữ thường diễn ra chủ yếu trên cấp độ từ vựng (lexical borrowings).
Clyne trong một số công trình nghiên cứu hiện tượng đa ngữ đã chỉ ra 3 phương thức mà
người di dân sử dụng để xây dựng vốn từ nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt trong môi trường định
cư mới là: hiện tượng tạo lập ra từ mới (neoglogism), mở rộng nghĩa (semantic expansion), và
chuyển di (transference) ở cấp độ cả từ vựng lẫn cấu trúc. Đến lượt mình, tạo lập từ mới
(neologism) – vốn là sản phẩm được sáng tạo cho tiếng Anh vay mượn từ tiếng Pháp là phương
thức hoạt động phổ biến nhất trong tiến trình vay mượn, nơi mà điều kiện kinh tế xã hội của nước
tiếp cư khác xa với hoàn cảnh sống của xã hội xuất cư.
4.2.1 Tạo lập ra lớp từ mới

Qua cứ liệu khảo sát, hiện tượng này chủ yếu dựa trên các từ có sẵn trong tiếng Anh để tạo
ra lớp từ mới trong trong tiếng Việt. Chẳng hạn, quan sát các trường hợp sau:

(1) đi làm pham (farm)
(2) tách phom (form), ghép phom
(3) ăn gueo-phe (welfare), ăn tít- két (ticket)
(4) làm neo (nail)

Trong các trường hợp trên, các từ ngữ tiếng Anh như farm, form, welfare, ticket, nail đã
được Việt hóa với cách phát âm của người Việt (trong khảo sát). Tuy nhiên, nghĩa của các từ này
được mở rộng và biến đổi quy theo nghĩa của bối cảnh trong ngôn ngữ nguồn. Chẳng hạn, “đi
làm pham” (to work on a farm) không phải là “đi làm ở trang trại” hay “đi làm ruộng” như trong
tiếng Việt; mà đây là công việc mang tính thời vụ, dù ở trang trại, nhưng là những công việc
được trả tiền mặt (không phải đóng thuế) và thường dùng phổ biến trong thành phần kinh tế phi
chính thức (informal sector). Hoặc từ “form” trong tiếng Anh có nghĩa là “phiếu”, “tờ khai”, hay
“mẫu kê khai”, nhưng khi tổ hợp với động từ “tách” hay “ghép” thì nghĩa được chuyển đổi theo
nghiã của tiếng Anh nhưng trong bối cảnh của nước Úc, được dùng để biểu thị hành vi “sống ly
thân” hoặc “ly hôn”, chính thức hoặc chưa chính thức (tách phom). Ngược lại “ghép phom” là
hành vi “kết hôn”, “hợp hôn”, hoặc “cùng chung sống chính thức với nhau như vợ chồng” nhằm
được thừa nhận hoặc thụ hưởng chính sách an sinh xã hội của nước này, như trợ cấp tài chính
theo chính sách, xem xét khi khai thuế v.v…
Trong khi đó, trường hợp (3) và (4) có sự biến đổi nghĩa nhất định, với phương thức vay
mượn bộ phận (mà chủ yếu là thành phần nồng cốt), chẳng hạn, từ “welfare” có nghĩa là “phúc
lợi”, nhưng được kết hợp với động từ “ăn” trong tiếng Việt (không tương đương về nghĩa với
động từ “eat” trong tiếng Anh) nhằm tạo ra một nét nghĩa mới là “hưởng được chế độ an sinh,
phúc lợi xã hội” (như được trợ cấp thất nghiệp, hoặc tiền trợ cấp cho người già hay cho con cái ở
tuổi vị thành niên v.v… Tương tự, “ticket” là “vé”, “ăn tít-két” có nghĩa là “bị phạt tiền” do có
những vi phạm hành chính như đậu xe sai quy định, lái xe quá tốc độ. Hoặc trong trường hợp (4)
thì “nail” là “móng tay” nhưng “làm nail” có nghĩa là “làm thợ móng tay” như một nghề nghiệp
(manicurist), chứ không đơn thuần là “đi viện thẩm mỹ, làm đẹp móng tay” v.v…

4.2.2. Mở rộng nghĩa
Có thể nói rằng, con đường vay mượn từ ngôn ngữ của xã hội tiếp cư thường kéo theo
việc du nhập yếu tố văn hóa từ bên ngoài vào trong ngôn ngữ cội nguồn (cultural borrowings);
trong khi đó, có một số từ mới được tạo lập bằng các thành phần nồng cốt (core borrowings) vốn
là các morpheme cùa các từ vựng nguồn, được Việt hóa, đồng quy (convergence) trong ngôn ngữ
tiếp nhận.
Chắng hạn như các danh từ sau: sóp (shop: “cửa hàng”), cao-sồ (council: “hội đồng chính
quyền”), sen-tồ lin (centerlink: “cơ quan phúc lợi xã hội”) hoặc động từ lêm (claim: “kê khai”)
được sử dụng trong các trường hợp:
(5) sang sóp (shop): “chuyển nhượng một doanh nghiệp từ người này sang người khác”,
mà lẽ ra phải gọi là “business sale”, hay “business transfer”.
(6) xin cao sồ (to apply to council for a licence/ permit) “nộp đơn xin phép chính quyền”
để sửa chữa, làm nhà, đốn cây hay được cấp phép cho một hoạt động địa chính nào đó.
(7) lêm thuế: “khai thuế”, lêm bảo hiểm “tường thuật và khai báo với bảo hiểm để lấy tiền
bồi thường”, lêm kế toán: “khai với kế toán” ; lêm sen-tồ lin “khai với cơ quan trợ cấp xã hội”

Trong các trường hợp (5), (6) và (7), các danh từ cũng như động từ được mở rộng nghĩa
hơn trên cơ sở của nét nghĩa ban đầu (shop  business; council  licence/ permit; claim
report), và xa hơn, lại có hiện tượng kết hợp cả hai thành tố vay mượn như “lêm sen-tồ lin”
(claim + centerlink). Rõ ràng, phương thức này, ít nhiều có những ảnh hưởng giao thoa
(interference) ngay trên ngôn ngữ tiếp nhận, đồng thời, thường kéo theo hiện tượng đồng quy
trên cấp độ ngữ âm lẫn hình thái. Trùng hợp với kiến giải của những học giả nghiên cứu song
ngữ trước đây (Zentella, 1997; Simango, 2000), phân tích trên khối liệu đề tài ghi nhận hiện
tượng vay mượn mang tính chất văn hóa này là do áp lực sinh hoạt trong môi trường tiếp cư mới,
buộc phải vay mượn cả nội hàm văn hóa của từ đó; đồng thời, đối với vay mượn bộ phận, mặc
dù vẫn có những đơn vị từ vựng tương đương trong tiếng Việt, nhưng thuần túy là do ái lực của
nền văn hóa thắng thế (sheer magnetism of the dominant culture) nên hình thái vay mượn vẫn
diễn ra ở tần suất cao (Mougeon & Beniak, 1991).
4.2.3 Lưu dụng lớp từ vựng trước năm 1975
Trái với hiện tượng vay mượn và mở rộng, khối liệu cũng cho thấy một khuynh hướng

nổi bậc trong các hành vi ngôn ngữ của thế hệ di dân thứ nhất và gần đó là xu hướng bảo lưu một
lượng từ lẫn cấu trúc đã sử dụng từ trước 1975 mà nay ít thấy sử dụng ở trong nước. Một số
trong lượng từ vựng này có thể xem là “cổ” (archaism) và có phần nào “lỗi thời”. Chia sẻ với
tình hình này là những kết qủa nghiên cứu trên hoạt động ngôn ngữ của những cộng đồng di dân
người gốc Hungary, Croatia, Ba Lan, Latvia vào cuói thập niên 40-50 của thế kỷ trước mà theo
Clyne (2003) nguyên cớ là hoặc do tiếp cận với lượng từ vựng đương đại ở nước xuất cư hoặc do
không chấp nhận các đơn vị từ vựng gắn liền với diễn biến chính trị ở trong quá khứ. Chẳng hạn,
quan sát các trường hợp:
(8) Khới đi từ sự thoả thuận này, môn tiếng Anh là môn học đầu tiên mà học sinh toàn
quốc sẽ có chương trình học đồng nhất …
(Trường học trên toàn nước Úc sẽ có chương trình học thống nhất, Thời Báo, số 300,
21/7/2003)
(9) Sang Thương Vụ: Ủi dập. Cơ hội làm ăn rất tốt, không cạnh tranh, làm nhiều ăn
nhiều… Cần tiền sang gấp. Xin liên lạc…
(Quảng cáo trên Thời Báo-Vietnamese Community Newspaper, số 300, 21/7/
2003)
(10) Ở bên Việt Nam ai có bỏ giấy bằng nhật trình…
(Tư Ếch Di Dân, Việt Luận Online, số 18/2/05)
(11) Nhà chức trách Úc đã kêu gọi sự giúp đỡ của công chúng ở Đức trong một cố
gắng tìm ra căn cước của phụ nữ này.
(Một phụ nữ Sydney bị giam giữ nhầm lẫn trong trại Di trú, Nam Úc Thời Báo,
18/2/05)

Trong (8)-(11), các từ khởi đi, thương vụ, nhật trình có khuynh hướng ít sử dụng dần
trong khẩu ngữ cũng như văn bản chính luận ở trong nước, nhưng ngược lại được sử dụng với
tần số khá cao trong khẩu ngữ (nhất là các đối tượng trên 50 tuổi) và khá nhiều trong ngôn ngữ
báo chí cộng đồng. Trong khối liệu, không ít các từ chỉ tên gọi các quốc gia hay các đơn vị liên
quan đến tiền tệ vẫn được sử dụng nhiều như: Hoa Lục, Nam Dương, Nhật Bổn, Mạc Tư Khoa,
Luân Đôn, Hoa Thịnh Đốn, Ăng- Lê, Úc Đại Lợi, Úc Kim, Mỹ Kim, phân lời v.v…
4.2.4. Thiếu vắng lớp từ sau năm 1975

Song hành với việc lưu giữ vốn từ cũ là sự vắng mặt các lớp từ xuất hiện sau 1975 ở quê
nhà. Khối liệu thu thập từ đối thoại lẫn phương tiện truyền thông cũng cho thấy có một lượng từ
vựng được xem là phổ biến lại ít xuất hiện hay gần như không sử dụng ở các cộng đồng. Chẳng
hạn, các từ như khẩn trương, phấn khởi, hồ hởi, mạnh dạn, nhận thức, đăng ký, quần chúng, bao
cấp, hộ khẩu v.v… Tính lý do của hiện tượng này có thể xuất phát từ mối liên hệ giữa nhu cầu và
ý chí - vốn là lực đẩy mang tính vừa bổ sung vừa loại bỏ một thói ngôn từ, nhất là trong bối cảnh
giao tế của những “người đơn ngữ” (mono-lingual) khi họ muốn lưu giữ những yếu tố nằm trong
vốn ngữ năng của họ hoặc quyết tâm, ra sức biến ngôn ngữ đang sử dụng thành “một phương
tiện rất riêng” cho cộng đồng (Clyne 2003: 104).
4.2.5. Vay mượn đảo
Điều hiếm hoi, ít khi ghi nhận được trong hiện tượng vay mượn ở các cộng đồng di dân
là xu hướng vay mượn đảo chiều (reverse core borrowings), từ ngôn ngữ xuất cư sang ngôn ngữ
của xã hội tiếp cư. Song thi thoảng hiện tượng này diễn ra dưới dạng sử dụng một số rất ít từ ngữ
khá quen thuộc trong các bối cảnh thường xuyên có tiếp xúc ngôn ngữ. Chẳng hạn, một số
chuyên gia nói tiếng Anh sống ở Trung Quốc thường dùng từ “Guan-xi” để chỉ quan hệ thay cho
“relationship” khi giao tiếp bằng tiếng Anh, và không ít người Anh lại thích dung từ “safari” vay
mượn từ tiếng Ả Rập thay cho từ “journey”. Trong khối liệu, cho đến này chúng tôi chưa chưa
ghi nhận được đơn vị nào trong tiếng Anh được mượn từ tiếng Việt, ngoại trừ việc xuất hiện của
từ “phở” qua biển quảng cáo ghi bằng tiếng Anh của một hiệu ăn, với lối chơi chữ bằng từ đồng
âm “far” để biến thành ngữ “so far so good” (“cho đến lúc này, mọi chuyện vẫn tốt đẹp”) thành
“so phở so good” nhằm thu hút sự chú ý của thực khách không có nguồn gốc Việt.

4.3. Chuyển di
Chuyển di (transference) thường xảy ra trên các cung bậc khác nhau: ngữ âm, từ vựng,
ngữ nghĩa, hình thái và ngôn điệu. Đối với các ngôn ngữ “di dân”, chuyển di từ vựng thường đa
dạng, gồm nhiều thành tố (multiple transference) và là đối tượng nghiên cứu sâu rộng của nhiều
học giả, mà tiên phong trong lãnh vực này là Haugen (1953), Weinreich (1953), và gần đây là
Clyne (1967), Myers-Scotton (2003). Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng này, theo Clyne là vốn
ngôn ngữ cá nhân (idolect) của thế hệ di dân thứ nhất cọ xát với “tình hình tiếp xúc hỗn nhập”
vùng đô thị (urban melting-pot situation). Đặc điểm chung nhất của chuyển di là thường diễn

biến trùng lặp ở nhiều cấp độ, đồng thời, chúng tác động lẫn nhau hoặc có thể làm nẩy sinh
những biến thể ngôn ngữ (Clyne 2003: 111). Đặc điểm này dễ nhận biết ngay ở trong cộng đồng
ngôn ngữ gốc Việt đang khảo sát, nhất là ở các đối tượng đơn ngữ thuộc thế hệ thứ nhất, và quá
trình này thường xảy ra trên các từ loại khác nhau, nhiều nhất là ở danh từ, một số đồng từ, đồng
thời, có hiện tượng chuyển di ngữ âm kèm theo hiện tượng lược bỏ các phụ âm đầu và thanh điệu
hóa (tonalization).
4.3.1. Chuyển di từ vựng
Trong khối liệu của mình, chúng tôi ghi nhận hiện tượng chuyển di từ vựng (lexical
transference) xuất phát từ việc vay mượn các đơn vị tương đương trong ngôn ngữ mẹ đẻ để định
danh những đối tượng, sự vật hay khái niệm tìm thấy ở xã hội mới, ngay từ những ngày đầu định
cư. Hiện tượng này được ghi nhận trên cả hai đối tượng- song ngữ và đơn ngữ. Hầu như trên kết
quả phân tích các đối thoại từ khối liệu chuyển di từ vựng không tương quan với ngữ năng của
các đối tượng. Thậm chí, trong một số trường hợp hiện tượng này còn là hình thức biểu thị một
kiểu loại bản sắc mới trong hành vi ngôn từ của lớp người nhập cư, khu biệt với thói quen ngôn
ngữ của họ trước đây.
Các phạm trù chuyển di từ vựng vào tiếng Việt trong cộng đồng thường rơi vào các miền giao tế
ở gia đình, trường học, sinh hoạt thường nhật như mua sắm, làm vườn, giải trí và một phần trăm
rất thấp ở miền giao tiếp công sở. Chẳng hạn, quan sát hiện tượng sau:

(12) sóp thịt, sóp hoa, sóp neo, sóp Tàu

Trong trường hợp này, từ “sóp’ đã được chuyển di và tổ hợp với danh từ theo sau để làm
thành từ mới, trong khi ở tiếng Anh, không nhất thiết sử dụng từ này, mà thay vào đó, sử dụng
yếu tố mới và hình thức sở hữu tận cùng vào dấu phẩy và phụ âm ‘s”. Chẳng hạn, “sóp thịt”: the
butcher’s, “sóp hoa”: the florist’s , hoặc “sóp neo”: the manicurist’s, đó là chưa nói đến việc
chuyển di kéo theo việc mở rộng nghĩa như trong từ “sóp Tàu” có nghĩa là “tiệm thực phẩm Á
châu nói chung” mà đa phần muốn ngụ ý là “tiệm thực phẩm cho người Việt”, nhưng trong tiếng
Anh phải là the Asian Grocer’s.
4.3.2 Chuyển di ngữ âm
Trên cấp độ ngữ âm, phân tích từ khối liệu để tài ghi nhận có hiện tượng tạo ra một

lexeme gần giống như hình thức nguyên dạng của tiếng Anh, đồng thời, loại bỏ một số phụ âm
đầu như /f/ trong “lét” của “flat”, /c/ trong “lêm” của “claim” hoặc một số phụ âm cuối như /k/,
/z/, /s/ như trong “chéc” của “check” “li” của “lease”, “phài –nen” của “finance” và /dz/ trong
“mé-nịt” của “manage”, “chênh” của “change”, “ đi lấp” của “go to clubs” v.v
Một điểm nổi bậc khác trong phạm vi âm vị là hiện tượng thanh điệu hóa xuống ở cuối
(falling tonalization) của các lexeme được chuyển di. Chẳng hạn,

(13) thếch ô-vờ (take over: cai quản); hen-đồ (handle: xử lý); đúp- bồ (double: gấp đôi),
tít-xù (tissue: khăn giấy ), lốc- cờ (locker: hộc tủ có khóa); xtem- điu tì (stamp duty: tiền
thuế chuyển nhượng), bi-zì (busy: bận); hép- pì (happy: vui vẻ); bi-zi-nịt (business: công
việc), in-tơ-rịt (interest: tiền lãi) v.v

Các trường hợp chuyển di ngữ âm này, kèm theo đặc điểm thanh điệu hóa xuống ở cuối
trong khối liệu chỉ ghi nhận phần đông ở đối tượng đơn ngữ, có chiều dài định cư ngắn (dưới 7
năm), và đặc biệt là ở các đối tượng có quê quán từ miền phi đô thị ở nước xuất cư. Tuy nhiên
với thời gian định cư càng lâu, thì hiện tượng thanh điệu hóa càng có khuynh hướng mờ dần. Đó
là chưa nói đến sự tự điều tiết ở một số hiện tượng chuyển di ngữ âm tiêu cực như thay đổi các
phụ âm đầu và cuối như trường hợp ghi nhận ở từ “bờ- lâm bơ” (plumber: thợ ống nước) lẽ ra
phải tận bằng phụ âm /m/.
4.3.3. Chuyển di cú pháp
Khác với hiện tượng chuyển di ngữ âm, chuyển di trên cấp độ cú pháp chỉ ghi nhận ở đối
tượng song ngữ, giới trí thức, thuộc thế hệ thứ nhất và sau nữa. Khối liệu cho thấy hiện tượng
phổ biến nhất là việc sử dụng các cấu trúc bị động trong các văn phong chính luận nhiều hơn ở
khẩu ngữ thường đàm. Chẳng hạn,

(14) Người ta tin rằng nó chẳng bao giờ được kiểm tra bới các nhân viên di trú.
(Một phụ nữ Sydney bị giam giữ nhầm lẫn trong trại Di trú, Nam Úc Thời Báo,
18/2/ 05)
(15) Một quyết định chính thức của đảng Tự Do sẽ không được đưa ra cho tới khi cuộc
họp của đảng ở NSW về vấn đề này.

(Tự do không tranh cử Werria, Nam Úc Thời Báo, 19/2/05)

Qua hai trường hợp trên, có thể thấy rằng, do ảnh hưởng cấu trục bị động vốn phổ biến
trong tiếng Anh nhằm mục đích che dấu chủ từ thật- tác nhân gây là hành động (như trong 14: là
sự vật, sự việc đã được đề cập trước đó nên được thay thế bằng một chủ từ giả (dummy subject)
it (nó); và trong 15: ĐảngTự Do), nên thi thoảng, trong giao tiếp khẩu ngữ vẫn bắt gặp một số
trường hợp có hình thức chuyển di này, nhất là với đối tượng trẻ, thuộc thế hệ thứ hai.

4.4. Chuyển mã – hoà mã
Ở thời buổi ban đầu của các công trình nghiên cứu song ngữ, khái niệm chuyển mã
(code-switch) được hiểu là hiện tượng sử dụng một từ hoàn toàn không đồng hóa (unasssimilated
word) từ một ngôn ngữ khác vào lời nói của mình (Weinreich, 1953, Haugen, 1953) được chế
ước bằng những biến đổi thích hợp trong tình huống phát ngôn (appropriate changes in the
speech situation) và không chỉ xảy ra ở cấp độ câu. Về sau, khái niệm này được mở rộng, và
nhiều nhà ngữ học thừa nhận rằng chuyển mã có thể xảy ra trong cả hai ngôn ngữ, tùy vào ngữ
năng của các đối tượng tiếp lời (Haselmo, 1970); đồng thời nó là tiến trình thực hiện chức năng
ngôn bản ở cấp độ trên từ - ngang câu (intra-sentential) hay liên câu (intra-sentential), khác với
hoà mã (code-mixing) thường diễn ra ở nội bộ câu. Do vậy, chuyển mã chủ yếu xảy ra trên đối
tượng có năng lực song ngữ, gắn nhiều với phương thức vay mượn, chuyển di (Poplack, 1988;
Clyne, 1987; Sankoff et al., 1990, Myers-Scotton, 1993).
4.4.1. Từ loại trong chuyển mã và hoà mã
Xét rên phương diện từ loại, ở khối liệu thu thâp, trong hơn 1450 lượt chuyển mã qua lời
thoại và văn bản, thì số lượng danh từ chiếm ưu thế nhất. Kết quả này tuy có phần cao hơn số
liệu của Poplack (1980) trong công trình nghiên cứu chuyển mã giữa tiếng Tây Ban Nha và tiếng
Anh, cũng như số liệu của Hồ-Đắc (2003) trong hiện tượng chuyển mã của người Việt ở
Melbourne, nhưng có những điểm chung là các từ loại có sự tương đồng về cấp độ từ cao đến
thấp như chiếm ưu thế là danh từ (58,5%), sau đó đến động từ (11.2%), tính từ (3,8 %), đại từ
nhân xưng (2.4 %) (đặc biệt là You và Me), thán từ (2,2 %), phó từ (1,5%), giới từ (0.4%) và
thấp nhất là liên từ (0.3 %). Chuyển mã ở câp độ ngữ và mệnh đề cũng khá cao, sau danh từ
(18.8%), nhưng đa phần là dưới hình thức chuyển di nguyên dạng (transversion) hay lối nói

mang tính thành ngữ như: It’s privacy/ It’s personal! (Đó là chuyện riêng tư!), first come first
served (ai đến trước được phục vụ trước), so far so good (cho đến bây giờ thì mọi cái ổn cả),
cash-on-hand (tiền sẵn trong tay), brand-new-in-the-box (mới toanh trong thùng), walk-in walk-
out (chồng tiền là vào tiếp quản ngay), buy one get one free (mua một tặng một), It’s the bottom
line! (vấn đề mấu chốt là đó) v.v
Trong khuôn khổ báo cáo này, chúng tôi không đi sâu vào phạm trù của các từ loai,
nhưng có thể khái quát từ khối liệu rằng chính mạng lưới xã hội, yếu tố nghề nghiệp, nhóm tuổi,
phạm vi gắn kết với xã hội tiếp cư là cơ sở quyết định phạm trù ngữ nghĩa của các từ loại trong
chuyển và hoà mã. Chẳng hạn, những hô thán hay lối nói mào đầu như: so you see (đó, anh thấy
đó), you know (ông biết đấy), tell you what (tôi nói gì rồi), believe or not (có tin hay không thì ),
It’s a fair go! (ừ, được đấy!), well, anyway (thôi, dù sao thì ) thường được sử dụng nhiều trong
nhóm người lớn, thành phần công chức, có việc làm ổn định, trong khi OK, yeah! (ừ thì ), guess
what (đoán thử xem), that’s it, mate (thế đấy, ông bạn), not ever never (không đời nào), no way
!(làm gì/ còn lâu đó!), that’s why (hèn gì) , fair enough (thế mới được!), oh my gosh! (trời đất
ơi!), ok then (ừ thì) được giới trẻ sử dụng rộng rãi hơn. Tương tư, dù thấp về số lượng nhưng liên
từ như and (và) và but (nhưng), theo khối liệu của chúng tôi, thì đối tượng trẻ sử dụng nhiều hơn
đối tượng lớn tuổi, trong khi giới từ for (ủng hộ), against (chống lại), up (tang lên), down (giảm)
lại được nhóm đối tượng người lớn sử dụng nhiều.
4.4.2. Thích ứng trong chuyển mã và hoà mã
Thích ứng (integration) là hình thức ứng xử trong các hoạt động, đặc biệt khi vay mượn
và chuyển mã trong bối cảnh tiếp xúc ngôn ngữ. Thích ứng tạo ra tính liên tục giữa yếu tố trung
tâm và thành phần ngoại biên (center-periphery continuum), phản ảnh rõ mức độ chấp nhận của
một đơn vị vay mượn mới trên một ngôn ngữ tiếp nhận (Clyne 2003). Thích ứng cũng diễn ra
trên các cấp độ ngữ âm, hình thái- ngữ nghĩa, cú pháp và ngôn điệu. Song, trên khối liệu khảo sát
có thành phần chính là tiếng Việt, với tư cách là ngôn ngữ tiếp nhận, thích ứng ở cấp độ từ vựng
và cú pháp không phải là điều đáng chú ý do tính chất loại hình học của ngôn ngữ đơn lập này.
Chẳng hạn quan sát các phát ngôn sau, ta thấy:
(16) You đã book (Ø) bác sĩ cho me chưa vậy? (CR 18a)
(không có hiện tượng biến đổi ngữ pháp của thì quá khứ đối với book)


(17) Cho mình 2 sandwich(Ø) đi nhé! (CR 37f)

Ở cả hai trường hợp trên đều không có hiện tượng biến đổi ngữ pháp đối với thành phần
trung tâm (16: không biến đổi về thời quá khứ (+ED) đối với book, và 17: không có biến đổi
hình thái số nhiều (+ES) cho sandwich), do áp lực về loại hình của ngôn ngữ tiếp nhận. Ở đây,
chính sự linh hoạt trong thích ứng này dễ làm nẩy sinh hiện tượng chuyển mã hay trộn mã một
cách tự nhiên với tầng suất ngày mỗi cao và đặc biệt là ở những đối tượng không nhất thiết là có
trình độ song ngữ cao. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp mà sự linh hoạt quá mức trong
thích khiến tạo ra yếu tố hoàn toàn lạ, không xác định được ở cả hai ngôn ngữ. Chẩng hạn, so
sánh 2 mẫu quảng cáo sau đây:

(18) Fig. 136. P 3











(19) Fig. 79. P3


Ở mẩu quảng cáo (18), hiện tượng trộn mã có độ thích ứng dễ chấp nhận, xảy ra ở cấp độ
từ và trên từ. Kỳ thực, có sự mở rộng nghĩa của “shop” trong “sang shop” với nét nghĩa là
“chuyển nhượng doanh nghiệp” (business transfer hay business sale), bên cạnh sự chuyển di
nguyên dạng với nguyên tắc kinh doanh “walk-in walk out” (tiếp quản ngay khi thanh toán). Vậy

bản chất thích ứng ở đây là sự thích ứng vừa từ vựng (lexical) vừa từ vựng- cú pháp
(lexicosyntactic). Trong khi đó, ở mẫu quảng cáo (19), thành phần trung tâm tạo lập bằng con
đường chuyển dịch (dich “hoàn thành” bằng “Komplit”) và vay mượn (từ “kitchens” thay cho
“nhà bếp”) với phần biến đổi chính tả (“Komplit” từ “complete”). Hiện tượng tạo lập ra từ mới
này (neoglogism) có thể có nguyên nhân ngoài ngôn ngữ- làm gia tăng sự chú ý trong quảng cáo.
4.4.3. Bản sắc trong chọn mã, chuyển mã và trộn mã
Theo Bourdieu và Gumpez (1982) chuyển mã không luôn luôn phấn bố đều trong một
cộng đồng ngôn ngữ mặc dù các thành phần trong nhóm, cộng đồng có thể chia sẻ cùng hệ giá
trị. Thông thường, nguyên nhân chuyển mã hay trộn mã xuất phát từ vốn ngữ năng của từng
thành viên (Heller 1995). Mỗi khi thực hiện hành vi chuyển mã, người nói như đang dấn thân
vào cuộc chơi trong thị trường (marketplace), theo cách lập luận của Bourdieu, được chế ước
bằng những quy luật riêng của mạng kết nối chung (network), như theo quan niệm của Gumpez.
Chủ thể phát ngôn sẽ tìm cách sử dụng những tài nguyên sẵn có (available resources) để vượt
qua những hạn chế hay rào cản có thể gặp phải. Trong những bối cảnh song ngữ, luôn luôn diễn
ra các quá trình thương lượng và qua đó, các chủ thể phát lời buộc phải lựa chọn một chiến lược
hành xử tượng hợp với những điều “buộc- phải -làm” và “có- bổn- phận- phải làm” dựa trên nền
tảng của hệ giá trị mà nhóm đó đang chia sẻ (Thai 2006).
Mẫu trích phỏng vấn trong khối liệu sau đây có thể minh hoạ cho nhận định này, khi đối
tượng là một sinh viên gốc Việt thuộc thế hệ thứ hai phải thực hiện hành vi chọn mã ở miền giao
tế gia đình:

(20) Mẫu trích CA 1
“Er, trong gia đình em thì er, em phải dùng tiếng Viêt, bởi vì ba mẹ em đã
dạy em từ nhỏ là luôn luôn ở nhà phải dùng tiếng Việt… er nhưng có
những chuyện mà em không dịch được thì em phải chêm vào tiếng
Anh…à… luôn luôn phải nói tiếng Việt ở nhà. Ở ngoài nếu như là gặp
người Việt, nếu là người lớn thì em xài, em dùng tiếng Việt. Còn nếu là
nhỏ, nếu là còn trẻ trẻ hoặc bằng tuổi em, thì em dùng tiếng Anh. Tại vì ở
nhà em, em chỉ có nói chuyện với ba mẹ em thôi, với lại với gia đình thì
không có biết, giống như là giao tiếp với người trẻ như bằng tuổi em á, thì

I don’t know, không biết xưng là sao là sao…you know, completely
different words…với lại với gia đình thì dạ, thưa, I’m always successful,
but with friends, thì em không biết nói sao sao…yeah! completely
different words.”
(đối tượng nữ, sinh viên, tuổi 20) CA 33a

Rõ ràng, trên bề mặt của phát ngôn, đối tượng đã trộn mã bằng việc “chêm vào tiếng
Anh” trong một số tình huống như là một phương thức khắc phục giao thoa nhờ vào vốn ngữ
năng của mình. Song, chính thái độ “phục tòng theo lễ giáo gia đình” cũng góp phần vào quyết
định trong tiến trình thương lượng này. Điều đáng chú ý là trong khi chọn tiếng Anh đối với
đồng trang lứa như một áp lực “buộc- phải-làm”thì việc chuyển mã sang tiếng Việt là điều “có-
bổn-phận-phải-làm”. Nói theo lập luận của Gumpez chính chiến lược dò xét với phương thức
“we-code” và “they-code, mà cá nhân phải đưa ra quyết định nhằm bảo toàn mối quan hệ trong
những bối cảnh đồng nhóm (in-group) hoặc và ngoại nhóm (out-group). Không hồ nghi gì, chọn
mã đối với thế hệ thứ hai thường là sự biểu minh của bản sắc nhóm, đồng thời, chuyển mã cũng
là chiến lược để duy tri các mối quan hệ ngoại nhóm trong “khung giá trị chung”. Củng cố cho
ghi nhận này, quan sát mẫu trích phỏng vấn từ khối liệu sau trên một đối tượng được hỏi về mã
chọn khi giao tiếp ngoài cộng đồng:

(21) Mẫu trích CA 2
“Nếu người đó lớn hơn thì mình phải dùng tiếng Việt, nó không có rude,
còn nếu mình cứ như là “Hey, how’re you going?” thấy như là … là không
có đúng… như là với người lớn, thì mình “thưa chú, thưa bác”, nó không
có rude… còn nếu như mình cứ you, me, I thì mình hổng có…em nhớ khi
hồi nhỏ, thì bà ngoại em nói “hổng có you, me, I gì hết, hổng có… tôn
trọng người lớn gì hết trơn há.” Bởi zậy, em thấy với người lớn là phải
“thưa chú, thưa bác, thưa cô…”
(đối tượng nữ, tuổi 18, sinh viên) CA 18

Quả thực, trong giao tiếp cộng đồng, chọn ngôn ngữ cội nguồn ngay từ ban đầu cũng là

hình thức thể hiện bản sắc nhóm. Ở trường hợp này đối tượng đã chẳng những nhận biết kiểu
loại tương tác ước lệ (interaction type of conventionalized exchange) (Myers-Scotton, 1988) mà
còn luôn ý thức được mã thắng thế - theo quan niệm về hệ thống tính trội (in markness metric),
được ngầm định trong cộng đồng vẫn là ngôn ngữ cội nguồn. Ngược lại, đối với miền giao tế
ngoài gia đình, khi giao tiếp đồng nhóm, việc chọn mã tiếng Anh trong giới trẻ thường phản ảnh
bản sắc nhóm cũng như thể hiện “ý niệm thuộc về”, trong khi việc chuyển mã sang tiếng Việt lại
là hình thức “tự vệ nhóm” như trong trường hợp sau, khi một đối tượng được hỏi về mã chọn
trong giao tiếp đồng nhóm.

(22) Mẫu trích CA 3

“Theo em, em nghĩ là bắt đầu tiếng Anh, nhưng nếu mà mình trở nên thân
há, thì theo em, em sẽ dùng hai ngôn ngữ. Vi dùng hai ngôn ngữ như là khi
mình nói You, Me, thì it sounds so more egalitarian, nhưng mà khi mình
muốn có một conversation mà không muốn share chung between both of us
và không muốn những người xung quanh nghe thì bắt đầu nói tiếng Việt. So
you know, we can keep it as a secret. Như vậy thông thường thì nói tiếng
Việt chỉ vì không muốn người khác nghe”.

(Đối tượng nữ, song ngữ, sinh viên, tuổi 18-20) CA 33b

Đàng sau phương thức tự vệ với mã chọn là ngôn ngữ Việt thì qua trường hợp trên điều
dễ nhận ra trong những đối tượng trẻ thuộc thế hệ thứ hai thường là ý niệm “bình đẳng” như “it
sounds more egalitarian” khi họ chuyển mã sang tiếng Anh trong giao tiếp đồng nhóm. Tuy
nhiên, hiện tượng này theo các nhà nghiên cứu đi trước, không phải là một lựa chọn nỗi trội
(code-switching itself isn’t an unmarked choice) mà thực sự chỉ là sự chọn lựa bình thường,
nhằm tạo ra nhiều bản sắc được trân quý hơn (more postively evaluated identities) theo góc nhìn
của chủ thể phát ngôn, đặc biệt là khi chính họ cảm thấy hài lòng, tưởng thưởng với sự thể hiện
ở cả hai bản sắc (Myers-Scotton, 2006).


5. KẾT LUẬN
Tóm lại, từ thực tế khảo sát trên, thông qua các phương thức hành chức phổ biến của
tiếng Việt ở Úc châu, đề tài có thể đưa ra những nhận xét mang tính đúc kết như sau:

1. Trên bình diện ngôn ngữ- xã hội học, tiếng Việt ở cộng đồng hải ngoại hoạt động trong
sự cọ xát thường trực từ các cảnh huống tiếp xúc ngôn ngữ- điều kiện làm nẩy sinh các
hiện tượng vay mượn, chuyển di, chuyển đổi và trộn mã. Đến lượt mình, các hiện tượng
này chính là lực đẩy tạo ra những biến thể của ngôn ngữ tiếng Việt sử dụng trong cộng
đồng. Những biến thể này đều có nguyên nhân ngoài ngôn ngữ, xuất phát từ hoàn cảnh
ngôn ngữ- xã hội mới cũng như vốn ngữ năng, chiều dài định cư, mạng lưới xã hội, thái
độ đối với ngôn ngữ cội nguồn của các thành viên trong cộng đồng và chiến lược thương
lượng cá nhân trong việc chọn mã, chuyển mã v.v…

2. Vay mượn, chuyển di- hai phương thức nổi trội và gần như thường trực trong các hoạt
động từ chuyển mã đến trộn mã ở các cộng đồng ngôn ngữ gốc Việt, vận hành với tư
cách là phương tiện để thực hiện chức năng giao tiếp-xã hội nhưng đồng thời, cũng là
công cụ để biểu lộ bản sắc cá nhân của đối tượng sử dụng, bản sắc tiểu nhóm và các
nhóm xã hội khác nhau. Trên bình diện ngôn ngữ, do đặc điểm loại hình của ngôn ngữ
cội nguồn thuộc nhóm đơn lập, không có biến hình nên vay mượn lại được cổ vũ ở mức
linh hoạt hơn so với các ngôn ngữ cộng đồng khác, bằng sự dung nạp một lượng từ vựng
không nhỏ. Bên cạnh đó, chính hiện tượng tạo lập từ mới và mở rộng nghĩa cũng như
hiện tượng chuyển di trong quá trình vay mượn đã làm cho tiếng Việt cộng đồng càng
thêm phong phú. Trong thực tế, do hoàn cảnh kinh tế và mạng lưới xã hội của từng cộng
đồng, tiếng Việt của mỗi cộng đồng di dân thường có lớp từ vựng đặc thù, phản ánh hình
thái tương tác xã hội và thái độ thích ứng của cộng đồng đó vào hệ thống xã hội chung
của nước tiếp cư. Hơn nữa, do cấp độ vay mượn thường không đồng nhất trên từng nhóm
tuổi, nhóm xã hội và phong cách cá nhân nên có thể khẳng định rằng tiếng Việt ở mỗi
cộng đồng di dân vốn chia cắt về mặt địa lý hoặc khác nhau về cơ sở kinh tê-xã hội, sẽ
luôn tồn tại những điểm không tương đồng, xét trên cấp độ ngữ âm, từ vựng, cú pháp và
ngữ dụng. Chẳng hạn, tiếng Việt ở vùng Sydney mang những yếu tố từ vựng, chuyển di

và thích ứng ít nhiều khác với tiếng Việt ở vùng Canberra hay Perth, hoặc ở diện rộng
hơn, tiếng Việt của cộng đồng di dân ở Mỹ cũng khác với tiếng Việt ở Nhật Bản hay ở
Pháp.

3. Cuối cùng, trên một số lượng đối tượng hữu hạn của khối liệu, vẫn chưa có thể khẳng
đinh một cách đầy đủ về mối tương quan giữa chiều dài định cư, vốn ngữ năng trên hai
ngôn ngữ và tầng suất chuyển mã, trộn mã. Tuy nhiên, một khuynh hướng có thể ghi
nhận ở đây là: ở những đối tượng có mức thông thạo ngôn ngữ tiếp cư càng cao, thì hiện
tượng chuyển di (từ vựng lẫn ngữ âm) càng thấp, mà thay vào đó, thường xảy ra hiện
tượng vay mượn nguyên dạng, chuyển mã hoặc trộn mã theo hướng thích ứng đồng quy.

Một điểu khác nữa, không thể loại trừ là ở những đối tượng có duy trì mối quan hệ liên
quốc (transnational links), thông qua mạng lưới cá nhân hoặc xã hội, thì hiện tượng lưu dụng lớp
từ vựng trước năm 1975 càng thấp và gần như triệt tiêu. Do vậy, để duy trì, gìn giữ và phát triển
tiếng Việt (trong bối cảnh song ngữ hay đa ngữ) như một phương thức để duy trì bản sắc văn hóa
Việt ở cộng đồng hải ngoại là công việc chia sẻ không chỉ ở trong nội bộ gia đinh, cộng đồng mà
còn ở toàn xã hội ngôn ngữ Việt nói chung, thể hiện dưới nhiều hình thức và tầng bậc khác nhau,
từ gia đình, cộng đồng, đến cấp quốc gia của nhà nước tiếp cư cũng như nhà nước xuất cư. Tiếp
sức trong việc gìn giữ bản sắc Việt trong ngôn ngữ cộng đồng cũng chính là con đường rút ngắn
khoảng cách giữ tiếng Việt quê nhà biến thể của nó, xét về mặt địa lý- xã hội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

ABS (Australian Bureau of Statistics) (1996-2005). Census of the Commonwealth of Australia,
Canberra.
Barth, F. (1969). Ethnic groups and boundaries: The social organization of culture difference.
Boston: Little, Brown.
Bourdieu, P. (1982). Ce que parler veut dire. Paris: Fayard.
Carli, A., Sussi, E. & Kaudidi- Basa, M. (2002). History and stories: identity construction on the
Italian-Slovene border, in Meinhof, U.H. (ed.). Living (with) borders. Identity Discourses

on East- West Borders in Europe. Aldershot: Ashgate, 33- 52.
Clyne, M. (1967). Transference and Triggering. The Hague.
(1970). Some aspects of the bilingualism and language maintenance of Australian born
children of German-speaking parents. ITL 9: 35-47
(1976). Australia Talks. Pacific Linguistics D. 23. Canberra.
(1985). Multilingual Australia. Melbourne: River Seine Publications.
(2003). Dynamics of Language Contact. Cambridge University Press.
Clyne, M., Fernadez, S. & Grey, F. (2005). Languages taken at school and languages spoken in
the community- A comparative perspective. Australian Applied Linguistic Review
Issue1.
Cooper, R.L. (1969). How can we measure the roles which a bilingual’s languages play in his
everyday behaviour? In L.A. Kelly (ed.). The description and measurement of
bilingualism: 92-208
Fishman, J.A. (1965). Who speaks what language to whom and when? Linguistique 2: 67-88.
(1971). Sociolinguistics: A brief introduction. Newbury House, Rowley, MA.
Greenfield, L. (1972). Situational measures of normative language views in relation to person,
place and topic mong Puerto Rican bilinguals. In: Fishman, J. (Ed.), Advances in the
Sociology of Language, vol. 1. Mouton, The Hague, pp. 17-35. 11
Gumperz, J.J. (1966). On the ethnology of linguistic change. In: Bright, W. (Ed.).
Sociolinguistics: Proceedings of the UCLA Sociolinguistic Conference, 1964, The
Hague, pp. 27-49.
(1982). Discourse strategies. Cambridge: Polity Press.
Hasselmo, N. (1970). Code-switching and modes of speaking. In: G. Gilbert (Ed.), Texas
Studies in Bilingualism, Berlin: de Gruyter, pp. 179-209.
Haugen, E. (1950). The analysis of linguistics borrowing. Language 26: 210-31.
(1953). The Norwegian language in America. Vol. 2. Philadelphia.
(1971). The Ecology of Language. The Linguistic Reporter 13: 19-26.
(1979). Bilingualism. Language Contact and Immigrant Languages in the United States.
In: J. Fishman (ed.) Advances in the Study of Societal Multilingualism. The Hague: 1-
111

Ho-Dac, T. (1997). Vietnamese-English bilinguals in Melbourne: Social relationships in the
code-switching of personal pronouns. In: Thao-Le Quynh-Le (Eds.). Language, society
and culture 2, University of Tasmania.
Ho-Dac, T. (2003). Vietnamese-English Bilingualism: Pattern of Code-Switching. London,
Routledge Curzon.
Irvine, J. T. (1987). Domains of description in the ethnography of speaking: A restrospective on
the “Speech community”. In Richard Bauman, Judith T. Irvine and Susan U. Phillips
(eds.)
Perfromances, Speech Community and Genre. Working and Proceedings of the Center for
Psychosocial Studies 11 (Chicago: Center for Psychosocial Studies): 13-14.
Lipski, J.M. (1978). Code-switching and the problem of bilingual competence. In: M. Paradis
(Ed.), Aspect of Bilingualism. Columbia: Hornbeam Press, 253-63.
Lo Bianco, J. (1987). National Policy on Languages. Canberra: Australian Government
Publishing Service.
Lo, A. (1999). Codeswitching, speech community membership, and the construction of ethnic
identity. Journal of Sociolinguistics 3: 461- 479.
Milroy, L. (1987). Language and social networks. Oxford: Basil Blackwell.
Milroy, L. & Li, W. (1995). A social network approach to code-switching: the example of a
bilingual community in Britain. In: L. Milroy & P. Muysken (Eds.), One speaker, two
languages: cross disciplinary perspectives on code-switching. Cambridge University
Press, pp. 136-57.
Mougeon, R. & Beniak, E. (1991). Linguistic consequences of language contact and restriction:
The case of French in Ontario, Canada. Oxford: Clarendon.
Myers-Scotton, C. (1986). Diglossia and code-switching. In J. Fishman et al. eds., The
Fergusonian impact. Berlin: Mouton de Gruyter, II, 403- 17.
(1988). Code-switching as indexical of social negotiations. In: M. Heller
(Ed.), Code-switching: Anthropological and Sociolinguistic Perspective. Berlin: Mouton
de Gruyter.
(1993). Common and uncommon ground: social and structural factors in code-switching.
Language in Society 22, pp. 475-503.

(2006). Multiple voice: An introduction to bilingualism. MA: Blackwell Publishing.
Myers-Scotton, C. & Jake, L.L. (2000). Explaining aspects of code-switching and their
Implications. In Nicol (ed.)
Parasher, S.N. (1980). Mother-tongue-English diglossia: a case study of educated Indian
bilinguals’ language use. Anthropological Linguistics 22, 151-168.
Paulwels, A. (1995). Linguistic practices and language maintenance among bilingual women and
men in Australia. Nordlyd 11: 21-50.
Phinney, J. S. (1990). Ethnic and identity in adolescents and adults: review of research.
Psychological Bulletin, 108 (3): 499- 514.
Poplack, S. (1977). Quantitative analysis of constraints on code-switching. New York: Centro de
Estudios Puertorriquenos.
Poplack, S., Sankoff, D. & Miller, C. (1988). The social and linguistic processes of borrowing
and assimilation. Linguistics 26: 47-104.
Ratcliffe, P. (1994). Conceptualizing “race”, ethnicity and nation: towards a comparative
perspective, in
Ratcliffe, P. (ed.). “Race”, ethnicity and nation. International Perspectives on Social Conflict.
London: University College London Press, 2- 25.
Sankoff, G. (1971). Language use in multilingual societies: Some alternative approaches. In:
J. Pride & J. Homes (ed.). Sociolinguistics. Harmonsworth: Middlesex: 33-52.
Sankoff, G., Poplack, S.& Vanniarajan, S. (1990). The case of the nonce loan in Tamil.
Language Variation and change 2: 71-101.
Scotton, C. M. & Wanjin, Z. (1983). Tongzhi in China: language change and its conversational
consequences. Language in Society 12, 477-94.
Simango, S.R. (2000). “My madam is fine”: The adaptation of English loans in Chichewa.
Journal of Muticultural Development 21: 487-507.
Smolicz, J.J. & Harris, R.D. (1976). Ethnic Languages and Immigrant Youth. In Clyne (1976).
Australia Talks. 131- 75.
Thai, B.D. (2005a). Preliminary observations on Vietnamese as a “migrant language”. In: Papers
from the 15th meeting of the Southeast Asian Linguistics Society, Research School of
Asia Pacific Studies. Canberra: The Australian National University.

(2005b). Code choice and Code Convergent Borrowing in Canberra Vietnamese. In Le,
T. (ed.) Proceedings of The International Conference on Critical DiscourseAnalysis:
Theory into Research. Tasmania: University of Tasmania.
(2006a). Separate language – separate identity? The politics of Diasporic Vietnamese
through code-switching and code mixing, Proceedings of ASAA 16th meeting, Australia,
26-29, June, 2006.
(2006b). From Code-choice to Code-mixing and A Separate Language: Identities of
“Diasporic Vietnamese”, Proceedings of The 7th Asean Inter-University Conference on
“Human Welfare, Peace and Sustainable Development”, Vietnam National University,
Hanoi.
(2007a). Towards the Policy on Teaching Vietnamese as a heritage language to the
Overseas Vietnamese. Southeast Asian Studies Journal 2/2007. Hanoi: National
Academy of Social Sciences.
(2007b). Mixed language, mixed identities? The Mechanisms of Ethnic Retention and
Cultural Reproduction in Later-Generation Vietnamese Immigrants in Australia, E.
Proceedings of Redesigning Pedagogy: Knowledge, Culture and Understanding
Conference at NTU, Singapore, 28-30 May.
Thomas, M. (1997). Dreams in the shadows : Vietnamese-Australian lives in transition. St
Leonards, N.S.W. : Allen & Unwin, 1999
Wenreich, U. (1953). Languages in contact. New York Linguistic Circle of New York. Winter, J.
& Paulwels, A. (2000). Gender and language contact: research in the Australian
Context. Journal of Mutilingual and Multicultural Development 21: 508-22.
Williams, A. (2005). Fighting words and challenging expectations: language alternation and
social roles in a family dispute. Journal of Pragmatics 37, 317-28.
Woodlard, K. (1985). Language variation and cultural hegemony: toward an integration of
sociolinguistic and social theory. American Ethnologist, 12: 738- 48.
Zentella, A.C. (1977). Growing up bilingual: Puerto Rico Children in New York. Malden, MA:
Blackwell.

SUMMARY


Borrowing, transference, code-switching, code-mixing and integration: A case
of language contact of Vietnamese in Australia


Thai Duy Bao
The National University of Australia

In contexts of language contacts, borrowing, transference, code-switching, code-mixing and
integration often occur across communication domains on various levels with such influential
factors as age group, length of residency, bilingual competency, social network, sense of identity,
attitude towards integration and cultural maintenance of interlocutors (Haugen, 1950; Hasselmo,
1970, Clyne, 1967, 1970; Gumper, 1966, 1982; Poplack, 1977; Poplack et al., 1988; Lipski,
1978; Bourdieu, 1982; Sankoff, 1971; Myers-Scotton, 1986, 1988, 1993; Thai 2005, 2006,
2007). These phenomena have been regarded as topics of sociolinguistics and classified as data
from bilingual studies as social variants (Myers-Scotton, 2000). Unlike previous research this
paper investigates these phenomena within the Viet diasporas in Australia with a view to
explaining (1) the causes and operational mechanism of these phenomena from linguistic
perspectives; and (2) individual and social identities associated with the language interaction
within diasporas from socio-pragmatic perspectives. With a qualitative analysis of the data
collected on 28 Vietnamese Australians, with 38 conversations and interviews, more than 120
texts from newspaper print-ads, articles, flyers, posters and more than 50VCDs circulated within
the Viet diasporas in NSW, Victoria and Canberra, the paper gives out concluding remarks on
the scenario of language use in both families and communities of Viet origins in light of Contact
Linguistics, which leads to implications for policies on the teaching of the heritage language to
overseas Vietnamese.

Key words: identity, borrowing, code choice, code-convergence, code-mixing, code-switching,
transference and integration.


×