Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Xác định danh mục đầu tư tại Công ty tài chính Bưu điện”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.43 MB, 99 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Thị trường chứng khoán là thị trường của lợi nhuận và rủi ro. Muốn
tham gia vào cuộc chơi chứng khoán, bạn phải là người biết chấp nhận rủi ro.
Khi tham gia vào thị trường, bạn luôn kì vọng đạt được lợi nhuận cao. Tuy
nhiên, lợi nhuận luôn đi kèm với rủi ro. Đó là một nguyên lý không thể thay
đổi được. Vì vậy, để tham gia vào thị trường chứng khoán, mối nhà đầu tư
cần phải chuần bị cho mình thông tin, kiến thức, vốn tư bản và khả năng chấp
nhận rủi ro trong đầu tư.
Các nhà đầu tư tham gia vào thị trường đều mong muốn đạt được mức
lợi nhuận kỳ vọng với một mức rủi ro nhất định. Để xác suất rủi ro xảy ra
thấp nhất, nhà đầu tư phải áp dụng nguyên tắc đó là nguyên tắc đa dạng hóa.
Muốn đạt được điều này, nhà đầu tư phải lập được một danh mục cho riêng
mình. Đa dạng hóa sẽ làm cho nhà đầu tư giảm thiểu rủi ro ở mức thấp nhất.
Khi nhà đầu tư thực hiện đa dạng hóa danh mục đầu tư, họ sẽ lập được một
danh mục có mức lợi nhuận kỳ vọng mong muốn ở mức rủi ro mà nhà đầu tư
có thể chịu đựng.
Trong quá trình tìm hiểu và thực tập tại Công ty Tài chính Bưu Điện, Em
đã tìm hiểu các thông tin, kiến thức cũng như kinh nghiệm đầu tư của Phòng
đầu tư và kinh doanh vốn, tìm hiểu quá trình đầu tư của Phòng đặc biệt là đầu
tư chứng khoán. Sau khi tìm hiểu các thông tin vê đầu tư chứng khoán, em
nhận thấy rằng danh mục đầu tư tại Công ty Tài chính Bưu điện chưa phải là
danh mục tối ưu. Vì vậy, em xin đề xuất một phương pháp xác định danh mục
đầu tư tối ưu với chuyên đề: “Xác định danh mục đầu tư tại Công ty tài
chính Bưu điện”
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chuyên đề thực tập gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về đầu tư chứng khoán và danh mục đầu tư chứng
khoán. Chương này bao gồm các kiến thức tổng quan về chứng khoán, thị


trường chứng khoán cũng như các kiến thức về đầu tư chứng khoán.
Chương 2: Hoạt động đầu tư chứng khoán tại Công ty tài chính Bưu điện.
Chương này bao gồm các quy định về đầu tư nói chung, đầu tư chứng khoán
nói riêng, cũng như thực trạng đầu tư chứng khoán tại Công ty.
Chương 3: Xây dựng danh mục đầu tư chứng khoán tại công ty tài chính Bưu
Điện. Chương này thể hiện những kiến thức phân tích và xây dựng một danh mục
đầu tư. Từ đó, quá trình xây dựng danh mục đầu tư tối ưu được thực hiện. Kết quả
là tạo ra một danh mục tối ưu cho Công ty Tài Chính Bưu Điện.
Trong quá trình thực tập tại Công ty Tài chính Bưu điện. Nhờ sự giúp đỡ
của các anh chị cô chú trong Công ty, đặc biệt là sự giúp đỡ nhiệt tình của các
anh chị trong Phòng đầu tư và kinh doanh vốn, em đã tìm hiểu được nhiều
kiến thức ngoài thực tế cũng như các kinh nghiệm đầu tư của Công ty. Vì vậy,
em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của các anh chị, cô chú trong
Công ty đã giúp đỡ em trong thời gian thực tập vừa qua cũng như góp ý để
em hoàn thành chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các thầy cô giáo trong Khoa
Toán Kinh tế đã giúp đỡ em trong thời gian thực tập. Đặc biệt, em xin chân
thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của Thạc sĩ Trần Chung Thủy đã hướng dẫn
em hoàn thành chuyên đề thực tập này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ CHỨNG
KHOÁN VÀ DANH MỤC ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
I - TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1- Thị trường chứng khoán
1.1. Khái niệm thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, được
quan niệm là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán trung

và dài hạn. Việc mua bán này được tiến hành ở thị trường sơ cấp khi người
mua mua được chứng khoán lần đầu từ những người phát hành, và ở những thị
trường thứ cấp khi có sự mua đi bán lại các chứng khoán đã được phát hành ở
thị trường sơ cấp.
Hiện nay, tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về thị trường chứng khoán,
tuy nhiên quan niệm đầy đủ và rõ ràng, phù hợp nhất hiện nay đó là: Thị
trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động giao dịch mua bán, trao đổi
các loại chứng khoán.
Chứng khoán được hiểu là giấy tờ có giá hay bút toán ghi sổ, cho phép
chủ sở hữu có quyền yêu cầu về thu nhập và tài sản của tổ chức phát hành
hoặc quyền sở hữu.Các quan hệ mua bán trao đổi trên thị trường làm thay đổi
chủ sở hữu của chứng khoán. Vì vậy, thực chất đây là quá trình vận động của
tư bản từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh. TTCK không giống với thị
trường hàng hoá, hàng hoá trên TTCK là một loại hàng hoá đặc biệt, là quyền
sở hữu về tư bản. Loại hàng hoá này cũng có giá trị sử dụng. Do đó, TTCK
thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu của vốn đầu tư, cung và cầu xác định
giá mà ở đó giá chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn vay hay giá
cả của vốn đầu tư. Do đó, TTCK là hình thức phát triển cao của nền sản
suất và lưu thông hàng hoá.
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển của TTCK là tất yếu
khách quan. Hoạt động trên TTCK có tác động, hiệu ứng trực tiếp tới hiệu
quả đầu tư của các cá nhân, của các doanh nghiệp và hành vi của người tiêu
dùng, và tới động thái chung của toàn bộ nền kinh tế.
Đứng trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế, phù hợp với các điều
kiện kinh tế, chính trị và xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế,
dựa trên cơ sở tham khảo có chọn lọc các kinh nghiệm và mô hình TTCK trên
thế giới, Việt Nam đã quyết định thành lập thị trường chứng khoán với đặc

thù riêng. Sự ra đời của TTCK Việt Nam đuợc đánh dấu bằng sự thành lập
của Trung tâm Giao dịch chứng khoán tại thành phố Hồ Chính Minh (HoSTC)
ngày 20/07/2000. Đến ngày 08/03/2005 sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội ra
đời (HaSTC) đánh dấu sự phát triển nhanh chóng của TTCK Việt Nam.
Đến nay, sau gần 7 năm thành lập, TTCK Việt Nam vẫn đang ở trong
giai đoạn đầu phát triển, quy mô và chất lượng còn nhiều hạn chế. Do đó thị
trườn vẫn chụi sự quản lý chặt chẽ của Chính Phủ. Quy mô của thị trường
đang lớn dần, tính đến ngày 30/3/2007 trên thị trường đã có 108 cổ phiếu
được niêm yết trên HoSTC và 87 cổ phiếu được đăng ký giao dịch trên sàn
HaSTC. Hình thức giao dịch trên sàn HoSTC là hình thức khớp lệnh định kỳ,
do đó chỉ có một giá thực hiện trên thị trường được thực hiện. Trong khi hình
thức khớp lệnh trên sàn HaSTC là hình thức khớp lệnh liên tục, có nhiều mức
giá thực hiện. Biên độ giao động giá trên hai trung tâm giao dịch cũng khác
nhau, tại HoSTC là 5% và trên HaSTC là 10%.
Như vậy, xét về mặt hình thức, thị trường chứng khoán chỉ là nơi diễn ra
các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại chứng khoán, qua đó
thay đổi chủ thể nắm giữ chứng khoán. Thị trường chứng khoán có những
chức năng cơ bản sau:
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2. Chức năng cơ bản của thị trường chứng khoán
- Huy động vốn và dẫn vốn từ nơi thừa vốn tới nơi thiếu vốn.
- Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng.
- Xác định giá cả của các tài sản tài chính.
- Tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán.
- Đánh giá hoạt động của doanh nghiệp khuyến khích cạnh tranh và tăng
tính hiệu quả kinh doanh.
- Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách vĩ mô
1.3. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán

Các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán có thể được chia
thành các nhóm sau: nhà phát hành, nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan
đến chứng khoán.
1.3.1. Nhà phát hành
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị
trường chứng khoán. Nhà phát hành là người cung cấp các chứng khoán -
hàng hoá của thị trường chứng khoán.
- Chính phủ và chính quyền địa phương là nhà phát hành các trái phiếu
Chính phủ và trái phiếu địa phương.
- Công ty là nhà phát hành các cổ phiếu và trái phiếu công ty.
- Các tổ chức tài chính là nhà phát hành các công cụ tài chính như các trái
phiếu, chứng chỉ thụ hưởng... phục vụ cho hoạt động của họ.
1.3.2. Nhà đầu tư
Nhà đầu tư là những người thực sự mua và bán chứng khoán trên thị
trường chứng khoán. Nhà đầu tư có thể được chia thành 2 loại: nhà đầu tư cá
nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
- Các nhà đầu tư cá nhân.
- Các nhà đầu tư có tổ chức.
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.3.3. Các tổ chức kinh doanh trên thị trường chứng khoán
- Công ty chứng khoán.
- Quỹ đầu tư chứng khoán.
- Các trung gian tài chính.
1.3.4. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
- Cơ quan quản lý Nhà nước.
- Sở giao dịch chứng khoán.
- Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán.
- Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán.

- Công ty dịch vụ máy tính chứng khoán.
- Các tổ chức tài trợ chứng khoán.
- Công ty đánh giá hệ số tín nhiệm...
1.4. Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán hoạt động theo các nguyên tắc cơ bản sau:
- Nguyên tắc công khai.
- Nguyên tắc trung gian.
- Nguyên tắc đấu giá .
1.5. Cấu trúc và phân loại cơ bản của thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán những sản
phẩm tài chính (cổ phiếu, trái phiếu, các khoản vay ngân hàng... có kỳ hạn
trên 1 năm). Sau đây là một số cách phân loại TTCK cơ bản:
1.5.1. Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn
Thị trường chứng khoán được chia thành thị trường sơ cấp và thị trường
thứ cấp.T
* Thị trường sơ cấp
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát hành.
Trên thị trường này, vốn từ nhà đầu tư sẽ được chuyển sang nhà phát hành
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thông qua việc nhà đầu tư mua các chứng khoán mới phát hành.
* Thị trường thứ cấp
Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành
trên thị trường sơ cấp, đảm bảo tính thanh khoản cho các chứng khoán đã phát
hành.
1.5.2. Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường
Thị trường chứng khoán được phân thành thị trường tập trung (Sở giao
dịch chứng khoán) và phi tập trung (thị trường OTC).
1.5.3 Căn cứ vào hàng hoá trên thị trường

Thị trường chứng khoán cũng có thể được phân thành các thị trường: thị
trường cổ phiếu, thị trường trái phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán
phái sinh.
* Thị trường cổ phiếu: thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch và
mua bán các loại cổ phiếu, bao gồm cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.
* Thị trường trái phiếu: thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và
mua bán các trái phiếu đã được phát hành, các trái phiếu này bao gồm các trái
phiếu công ty, trái phiếu đô thị và trái phiếu chính phủ.
* Thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh
Thị trường các chứng khoán phái sinh là thị trường phát hành và mua đi
bán lại các chứng từ tài chính khác như: quyền mua cổ phiếu, chứng quyền,
hợp đồng quyền chọn...
2. Các tài sản tài chính trên thị trường chứng khoán
2.1. Chứng khoán
Là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối
với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện
dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các
loại sau đây:
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ;
- Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán,
hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán.
2.2. Cổ phiếu
Là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở
hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành.Việc nắm giữ cổ
phần hay sở hữu cổ phần được gọi là cổ đông. Cổ phiếu là giấy chứng nhận về
việc sở hữu cổ phần và được cấp cho cổ đông.
- Cổ phiếu là tài sản có tác dụng giảm biến động lợi tức của danh mục

cao nhất do độ giao động của tài sản này không trùng khớp với chu kỳ hay
thời gian với các loại tài sản khác.
- cổ phiếu là loại tài sản được đầu tư phổ biến trên thị trường nhưng thu
nhập có độ biến động cao nên đây là loại tài sản này cũng có rủi ro cao.
- Lợi ích của đầu tư cổ phiếu thông thường bao gồm: tính thanh khoản
cao của cổ phiếu, nguồn tăng trưởng dài hạn, lợi ích về thuế. Rủi ro của nhà
đầu tư trong đầu tư cổ phiếu bao gồm: cổ tức không ổn định, rủi ro phá sản
công ty phát hành , các rủi ro về ngoại hối …
2.3. Trái phiếu
Là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở
hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành.
Trái phiếu là tài sản quan trọng thứ hai sau cổ phiếu trong việc xác định
danh mục đầu tư. Đầu tư trong trái phiếu là loại đầu tư có tỷ lệ rủi ro thấp. rủi
ro trong đầu tư trái phiếu bao gồm rủi ro về lãi suất, kỳ hạn của trái phiếu, rủi
ro ngoại hối, rủi ro tín dụng… Trái phiếu bao gồm: trái phiếu chính phủ, trái
phiếu công ty, trái phiếu đảm bảo và trái phiếu không đảm bảo.
2.4. Chứng chỉ quỹ
Là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với một
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phần vốn góp của quỹ đại chúng.
2.5. Quyền mua cổ phần
Là loại chứng khoán do công ty cổ phần phát hành kèm theo đợt phát
hành cổ phiếu bổ sung nhằm bảo đảm cho cổ đông hiện hữu quyền mua cổ
phiếu mới theo những điều kiện đã được xác định.
2.6. Chứng quyền
Là loại chứng khoán được phát hành cùng với việc phát hành trái phiếu
hoặc cổ phiếu ưu đãi, cho phép người sở hữu chứng khoán được quyền mua
một số cổ phiếu phổ thông nhất định theo mức giá đã được xác định trước

trong thời kỳ nhất định.
2.7. Quyền chọn mua, quyền chọn bán
Là quyền được ghi trong hợp đồng cho phép người mua lựa chọn quyền
mua hoặc quyền bán một số lượng chứng khoán được xác định trước trong
khoảng thời gian nhất định với mức giá được xác định trước.
2.8. Hợp đồng tương lai
Là cam kết mua hoặc bán các loại chứng khoán, nhóm chứng khoán hoặc
chỉ số chứng khoán nhất định với một số lượng và mức giá nhất định vào ngày
xác định trước trong tương lai.
3. Đầu tư chứng khoán với danh mục đầu tư
3.1. Khái niệm danh mục đầu tư
Danh mục đầu tư chứng khoán là các khoản đầu tư của một cá nhân hoặc
tổ chức vào việc nắm giữ một hoặc nhiều loại cổ phiếu, trái phiếu, hàng hóa,
đầu tư bất động sản, tài sản tương đương tiền hoặc các tài sản khác.
Mục đích củc việc đầu tư là giảm thiểu rủi ro bằng việc đa dạng hóa danh
mục đầu tư. Dựa trên cơ sở các tài sản đầu tư, nhà đầu tư lập một danh mục
đầu tư bao gồm các tài sản khác nhau. Trên nguyên tắc là “không bỏ trứng
vào một giỏ”, các nhà đầu tư tạo ra một danh mục có rủi ro thấp nhất, đó là rủi
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ro của thị trường (rủi ro hệ thống). Khi đó, nhà đầu tư vẫn đạt được ở tại mức
lợi nhuận kỳ vọng. Vì vậy, nhà đầu tư luôn cố gắng tạo ra một danh mục tối
ưu.
3.2. Đặc điểm của danh mục đầu tư chứng khoán
Thực chất, danh mục đầu tư là một tổ hợp các tài sản khác nhau trong
hoạt động đầu tư của nhà đầu tư. Trong danh mục đầu tư, các tài sản đầu tư
biểu hiện sự phân bổ các tài sản đầu tư có trong danh mục. Việc phân bổ tài
sản là việc lựa chọn các tài sản đầu tư nhằm đạt được mức lợi nhuận dài hạn
cao nhất với một mức rủi ro thấp nhất có thể. Tuy nhiên, trong quá trình đầu

tư, nhà đầu tư có thể thay đổi các tỷ lệ nhằm tận dụng cơ hội xuất hiện tại thời
điểm đó nhằm đạt được mức lợi nhuận cao hơn. Khi nhà đầu tư cảm thấy triển
vọng về một tài sản nào đó tốt, nhà đầu tư có thể điều chỉnh danh mục đầu tư
của mình bằng cách giảm tỷ trọng vào các tài sản không có triển vọng và tăng
đầu tư vào các tài sản có triển vọng tốt hơn.
Danh mục đầu tư phụ thuộc vào các yếu tố như trình độ của các nhà đầu
tư, tâm lý của từng nhà đầu tư, mức thuế suất của từng đối tượng nhà đầu tư,
tính chất của từng nhà đầu tư, lứa tuổi của nhà đầu tư…
Trên thực tế, các nhà đầu tư có trình độ khác nhau, có mức chấp nhận
thua lỗ là khác nhau, tâm lý là khác nhau. Vì vậy, các danh mục đầu tư của
các nhà đầu tư khác nhau là khác nhau. Các nhà đầu tư xác định đầu tư phụ
thuộc vào rất nhiều yếu tố như: tình hình tài chính của nhà đầu tư, thông tin
của các tài sản đầu tư, xu thế chung của thị trường, tâm lý của chính nhà đầu
tư đó…
Do các nhà đầu tư khác nhau thì mức độ chấp nhận rủi ro là khác nhau.
Vì vậy, rủi ro của các danh mục đầu tư phụ thuộc vào từng nhà đầu tư. Tương
ứng với mức chấp nhận rủi ro khác nhau là lợi suất kỳ vọng danh mục của
từng nhà đầu tư cũng khác nhau. Các nhà đầu tư ưa thích rủi ro thì chấp nhận
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
một mức rủi ro cao nhưng lợi nhuận kỳ vọng cao. Ngược lại, các nhà đầu tư là
e ngại rủi ro thì mức chấp rủi ro là thấp tương ứng với lợi nhuận kỳ vọng thấp
hơn. Từ đó, các tài sản trong từng danh mục là khác nhau. Các nhà đầu tư ưa
thích rủi ro thì đầu tư vào các tài sản có rủi ro cao như cổ phiếu. các nhà đầu
tư e ngại rủi ro thì danh mục sẽ có tỷ trọng các tài sản ít rủi ro như trái phiếu
cao hơn.
Các nhà đầu tư khác nhau thì mức thuế cũng khác nhau. Các nhà đầu tư
có mức thuế cao thường không mong muốn trong danh mục của mình co
những chứng khoán giống với các nhà đầu tư có mức thuế thấp.

Tính chất của các nhà đầu tư khác nhau thì danh mục đầu tư khác nhau.
Đó là danh mục đầu tư cá nhân hay nhà đầu tư có tổ chức. Ví dụ, các nhà đầu
trên thị trường thường tính đến đầu tư với lợi nhuận là hưởng chênh chênh
lệch giá, ít để ý tới mức cổ tức nhận được từ tổ chức phát hành. Với tư cách là
một nhà đầu tư chiến lược, các nhà đầu tư có tổ chức rất quan tâm tới mức cổ
tức được trả, chiến lược phát triển của các tổ chức phát hành trong dài hạn, từ
việc sở hữu cổ phần của tổ chức phát hành bên cạnh các yếu tố khác.
Mặt khác, các nhà đầu tư ở các lứa tuổi khác nhau, danh mục đầu tư cũng
khác nhau. Các nhà đầu tư trẻ tuổi thường hay đầu tư vào các tài sản có thời
gian đáo hạn dài. Các nhà đầu tư nhiều tuổi thường hay đầu tư vào các tài sản
có thời hạn ngắn.
3.3. . Hoạt động đầu tư chứng khoán bằng cách xác định danh mục đầu

3.3.1. Xác định tài sản đầu tư
Để nhà đầu tư có thể tìm ra được các loại chứng khoán một các có hiệu
quả nhất (tức là mang lại lợi nhuận và sự an toàn về vốn cho nhà đầu tư), các
nhà đầu tư tiến hành đầu tư nhằm trả lời các câu hỏi trước khi đưa ra quyết
định đầu tư như: khi nào là thời điểm thuận lợi để đầu tư, khi nào cần phải rút
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ra khỏi thị trường, đầu tư vào loại chứng khoán nào để phù hợp với mục tiêu
đề ra...
Tuy nhiên trong lĩnh vực đầu tư hấp dẫn này, dường như không có chỗ
cho những quyết định cảm tính. Muốn thành công, nhà đầu tư phải có kỹ năng
phán đoán, xem xét và phân tích về chứng khoán.
Tuỳ thuộc vào quan điểm của nhà đầu tư, việc lựa chọn chứng khoán và
phân tích chứng khoán cũng có khác nhau. Thông qua tình hình chung của
toàn bộ thị trường, nhà đầu tư chuyên nghiệp có thể tìm ra được những cổ
phiếu “tốt” trên thị trường. Tuy nhiên việc lựa chọn được cổ phiếu tốt không

phải nhà đầu tư nào cũng làm được. Do đó, một nhà đầu tư chuyên nghiệp
phải thực hiện quá trình phân tích các chứng khoán để có thể thực hiện đầu tư
một cách tốt nhất.
Điều quan trọng đầu tiên, nhà đầu tư phải xác định được lượng tiền mà
mình có thể đầu tư vào chứng khoán. Câu trả lời phụ thuộc vào khả năng tài
chính của nhà đầu tư, họ cần xác định được lượng vốn có thể đầu tư vào tài
sản ngắn hạn, lượng vốn để đầu tư vào tài sản dài hạn. Đối với tổ chức đầu
tư, việc xác định được khả năng tài chính lại càng quan trọng.
Cùng với đó, nhà đầu tư cần xác định mục đích đầu tư và mức độ rủi ro
của đầu tư có thể chấp nhận. Cũng như trong các lĩnh vực đầu tư khác, đầu tư
chứng khoán luôn tồn tại mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa lợi nhuận và rủi ro. Thu
nhập càng cao, mức thu nhập tiềm ẩn càng cao. Các nhà đầu tư thường kì
vọng vào hai loại thu nhập là thu nhập từ cổ tức và thu nhập từ mức tăng của
giá cổ phiếu (lãi vốn). Thu nhập từ cổ tức phụ thuộc vào tình hình kinh doanh
của doanh nghiệp của công ty và quyết định của hội đồng quản trị. Khi nhà
đầu tư kỳ vọng về tình hình phát triển của công ty, nhà đầu tư sẽ mua cổ phiếu
với hy vọng giá của cổ phiếu sẽ tăng trong tương lai. Khác với nhà đầu tư cá
nhân trên thị trường, nhà đầu tư có tổ chức đầu tư với tư cách là một nhà đầu
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tư chiến lược. Do đó họ quan tâm tới tình hình kinh doanh của doanh nghiệp
trong quá khứ và tương lai thông qua các dự án dự định thực hiện trong tương
lai của công ty. Từ đó, phần thu nhập từ cổ tức sẽ cao. Khi này các nhà đầu tư
có tổ chức quan tâm tới các công ty kinh doanh trong các lĩnh vực công cộng
như điện lực, viễn thông, dầu khí… hoặc các cổ phiếu thượng hạng.
Để lựa chọn được cổ phiếu thích hợp, nhà đầu tư cần quan tâm tới tất cả
các thông tin liên quan tới công ty họ muốn đầu tư. Các thông tin này bao
gồm các thông tin quá khứ và đặc điểm của công ty, tình hình tài chính, các
chi tiết của đợt phát hành và tổ chức bảo lãnh phát hành. Nhà đầu tư có thể

tìm được các thông tin này trong bản cáo bạch, thông cáo phát hành, trong
dịch vụ tư vấn đầu tư. Các quyết định về lựa chọn đầu tư khi các nhà đầu tư có
đủ cơ sở thông tin về khoản đầu tư của mình.
3.3.2. Phân tích tài sản đầu tư
3.3.2.1. Phân tích vĩ mô chứng khoán
- Phân tích tình hình kinh tế chính trị xã hội quốc tế có ảnh hưởng mạnh
mẽ tới sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, của quốc gia, ảnh hưởng trực
tiếp tới hoạt động của thị trường chứng khoán. Đặc biệt trong bối cảnh hiện
nay, yếu tố quốc tế cần được xem xét trong quá trình đầu tư chứng khoán. Các
yếu tố có thể tác động tới quá trình phân tích chứng khoán là mức tăng trưởng
kinh tế, các vấn đề chính trị nhạy cảm, chính sách bảo hộ, chính sách tự do
hoá tài chính tiền tệ…
- Môi trường chính trị xã hội trong nước có ảnh hưởng rất lớn tới thị
trường chứng khoán. Các yếu tố chính trị bao gồm những thay đổi về về chính
phủ, các hoạt động chính trị kinh tế nhiều nước. Thay đổi chính trị làm cho
nhiều quy định và sự kiểm soát của chính phủ trong một số ngành được thắt
chặt trong khi một số ngành lại được nới lỏng, từ đó có những tác động tới kết
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quả kinh doanh của mỗi ngành, mỗi công ty, rất khó có thể khẳng định việc
thắt chặt hay nới lỏng này có tác động tích cực hay tiêu cực tới nền kinh tế.
- Môi trường pháp luật cũng là yếu tố cơ bản gây tác động tới thị trường
chứng khoán. Các cơ quan chính phủ tác động tới luật và các văn bản duới
luật. Thí dụ luật chống độc quyền thường tác động làm giảm giá chứng khoán
của các công ty bị thuộc đối tượng bị luật điều chỉnh. Chính sách tài chính tiền
tệ trực tiếp gây ra tác động lớn tới thị trường… Do vậy, việc xem xét môi
trường pháp lý cần được xem xét theo các góc độ như: tính đồng bộ của hệ
thống pháp luật, tính khả thi của hệ thống pháp luật, tính hiệu quả của hệ
thống pháp luật, tính quốc tế của hệ thống pháp luật…

- Trong phân tích chứng khoán các điều kiện kinh tế vĩ mô sẽ quyết định
rủi ro chung của thị trường tức là rủi ro hệ thống của chứng khoán. Rủi ro này
tác động tới toàn bộ thị trường, đến tất cả các chứng khoán. Đối với nhà đầu
tư hay tổ chức phát hành thì đây là điều kiện khách quan.
Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cần quan tâm tới trong phân tích chứng khoán
là các chỉ tiêu như: tổng sản phẩm quốc nội (GDP), tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ lạm
phát, lãi suất, tỷ giá, mức thâm hụt ngân sách quốc gia, chính sách của chính
phủ trong các lĩnh vực tài chính tiền tệ…
Môi trường kinh tế vĩ mô có tác động tới toàn bộ xu thế chung của toàn
bộ thị trường chứng khoán. Thông thường, khi nền kinh tế đang ở trong giai
đoạn tăng trưởng và thịnh vượng, thị trường chứng khoán phát triển và ngược
lại, khi nền kinh tế trong giai đoạn suy thoái thì thị trường sẽ đi xuống. Như
vậy, nếu dự đoán được xu thế phát triển của nền kinh tế, ta có thể dự báo được
xu thế phát triển chung của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, qua khảo sát
thực tế cho thấy, quan hệ giữa tình hình kinh tế với diễn biến chung của thị
trường chứng khoán không phải lúc nào cũng diễn ra cùng chiều, nếu có thì
chúng có thể xảy ra theo chiều hướng và trật tự khác nhau. Thực tế, thị trường
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
chứng khoán thế giới cho thấy có những giai đoạn nền kinh tế phát triển rất
mạnh nhưng thị trường chứng khoán lại đi xuống và ngược lại. Biến động của
nền kinh tế xảy ra sau đôi khi xảy ra trước. Vì vậy, các nhà đầu tư luôn cố
gắng dự đoán tình hình kinh tế để tìm ra những đỉnh điểm của chu kỳ kinh tế
và chọn thời cơ tham gia hoặc rút lui khỏi thị trường chứng khoán.
3.3.2.2. Phân tích ngành
Trong quá trình phân tích chứng khoán, phân tích ngành đóng vai trò
quan trọng như phân tích vĩ mô. Phân tích ngành gồm các yếu tố như: phân
tích chu kỳ sống của ngành, chu kỳ kinh doanh của ngành, hệ số rủi ro của
ngành, mức sinh lời kì vọng, các hệ số tài chính của ngành…

Trong phân tích ngành, cần xác định hệ số rủi ro β của ngành, từ đó tính
toán mức sinh lời yêu cầu theo mô hình CAPM.
Đồng thời, phân tích chỉ số P/E của toàn ngành:
- Xem xét mối quan hệ của P/E ngành với P/E của toàn bộ thị trường.
- Xem xét các nhân tố của cơ bản của ngành gây tác động trực tiếp tới P/E
ngành như hệ số trả cổ tức, mức sinh lời yêu cầu và tỷ lệ tăng trưởng cổ tức.
- Ước tính thu nhập trên cổ phiếu EPS hay E (thu nhập) được thực hiện
theo một phương pháp tính như phân tích chu kỳ kinh doanh, phân tích đầu
vào - đầu ra, phân tích mối quan hệ giữa ngành và nền kinh tế tổng thể.
- Tính giá trị cuối kỳ của chỉ số ngành bằng các hệ số P/E cuối kỳ tính
toán được với ước tính thu nhập đầu cổ phiếu. Sau đó so sánh giá trị chỉ số
cuối kỳ với giá trị đầu kỳ để tính lợi suất. Từ đó do sánh lợi suất đạt được với
lợi suất yêu cầu để quyết định đầu tư.
3.3.2.3 Phân tích giá trị công ty
Phân tích công ty bao gồm việc phân tích báo cáo tài chính của công ty
và phân tích rủi ro của công ty.
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong phân tích báo cáo tài chính của công ty, nhân tố quan trọng đối với
nhà đầu tư là phân tích phân tích khả năng sinh lợi của tổ chức phát hành, khả
năng thanh toán dài hạn, khả năng thanh khoản và tiềm năng phát triển trong
tương lai. Việc phân tích báo cáo tài chính cần tiến hành đồng bộ theo cả
chiều dọc và chiều ngang. Phân tích báo cáo tài chính theo chiều dọc nghĩa là
tính toán các tỷ lệ của doanh nghiệp và so sánh trong từng thời kỳ để thấy
được thực chất của việc tăng giảm. Phân tích theo chiều ngang là phân tích
cần có sự so sánh giữa doanh nghiệp phân tích với các doanh nghiệp ngang
bằng trong cùng một ngành. Phương tiện dùng để phân tích báo cáo tài chính
của công ty bao gồm bảng cân đối kế toán, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, báo cáo
hoạt động kinh doanh.

Phân tích rủi ro của doanh nghiệp tức là phân tích sự biến động của tổng
thể các dòng thu nhập của công ty. Thông thường, rủi ro đối với công ty
thường được phân tích trên hai giác độ: rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính.
Rủi ro kinh doanh thường được tính bằng mức độ biến động của thu nhập phát
sinh từ hoạt động kinh doanh của công ty.
Độ lệch chuẩn của thu nhập hoạt động
Rủi ro kinh doanh =
thu nhập hoạt động bình quân
Rủi ro tài chính được biểu hiện là sự biến động về lợi nhuận của cổ đông
khi doanh nghiệp vay nợ. Để xác định rủi ro tài chính, các nhà phân tích
thường sử dụng hai loại hệ số khác nhau đó là các hệ số trên bảng cân đối kế
toán và các hệ số về dòng thu nhập hoặc dòng tiền để thanh toán các chi phí.
Mục đích của các hệ số chính là khả năng thanh toán nợ ngắn hạn cũng như
cơ cấu vốn và khả năng thanh toán nợ dài hạn của tổ chức phát hành.
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Sau khi phân tích các chứng khoán nhà đầu tư tiến hành định giá của các
chứng khoán. Từ đó xác định được giá trị thực của các chứng khoán theo các
phương pháp khác nhau dựa vào các thông tin từ công ty cũng như thông tin
trên thị trường.
Sau khi tiến hành các phân tích đối với tài sản tài chính các nhà đầu tư
xác định được giá trị thực của công ty, từ đó so sánh được với giá trị thị
trường của các chứng khoán trên thị trường. Nếu giá trị thực nhỏ hơn giá trị
thị trường của chứng khoán, chứng khoán đó đã được định giá cao. Khi thị
trường hoạt động có hiệu quả, giá trị thị trường và giá trị thực của chứng
khoán sẽ bằng nhau. Nếu thị trường hoạt động có hiệu quả, sẽ gây khó khăn
cho một số nhà đầu tư tạo thêm lợi nhuận từ khả năng phán đoán giá do giá sẽ
phản ứng rất nhanh đối với thông tin mới cập nhật. Từ đó nhà đầu tư sẽ phải
có những quyết định đầu tư đầu tư vào những chứng khoán phù hợp.

3.3.3. Quyết định quy mô đầu tư
Để xác định được lượng vốn đầu tư vào chứng khoán, trước tiên nhà đầu
tư cần xác định được lượng vốn hiện tại của mình. Để tiến hành đầu tư, nhà
đầu tư cần xác định mình thuộc đối tượng nào, nhà đầu tư chủ động hay nhà
đầu tư thụ động. Đây là một việc hết sức cần thiết, quyết định đến toàn bộ
cách thức đầu tư của từng người. Từ đó quyết định đầu tư bao nhiêu vốn vào
cổ phiếu, đầu tư bao nhiêu vào trái phiếu, vào các tài sản tài chính khác…
Điều thứ hai tỷ trọng các chứng khoán trong danh mục đó. Đây là một
quyết định mang tính cá nhân của từng nhà đầu tư, tuỳ theo quan điểm của
từng nhà đầu tư. Một số nhà đầu tư không thích đầu tư quá nhiều vào cổ
phiếu. Hiện nay, đa số các nhà đầu tư cho rằng nên đầu tư 50/50, tức là đầu tư
50% vào cổ phiếu và đầu tư 50% vào trái phiếu. Tuy nhiên, tỷ trọng của danh
mục nên điều chỉnh theo sự biến động của thị trường.
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong đầu tư, nhà đầu tư nên đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác
nhau, sự thua lỗ về một loại chứng khoán chỉ có tác động nhỏ tới toàn bộ danh
mục đầu tư. Đó là nguyên tắc đa dạng hoá trong đầu tư. Đa dạng hoá danh
mục đầu tư bao gồm đa dạng hoá tổ chức phát hành và đa dạng hóa lĩnh vực
kinh doanh.
Đa dạng hoá tổ chức phát hành tức là nhà đầu tư quyết định đầu tư bao
nhiêu vào trái phiếu chính phủ, bao nhiêu vào trái phiếu công ty, bao nhiêu
vào cổ phiếu. Điều này phụ thuộc vào quan điểm của từng nhà đầu tư. Chẳng
hạn, nếu nhà đầu tư đầu tư vào danh mục cổ phiếu của 20 nhà phát hành khác
nhau và khi một nhà phát hành chẳng may bị phá sản thì danh mục đầu tư chỉ
bị suy giảm 5%. Mỗi nhà đầu tư sẽ tự đưa ra quyết định của mình dựa vào suy
nghĩ bản thân, tiềm lực tài chính cũng như mức độ rủi ro và họ có thể chịu
đựng.
Bên cạnh việc đa dạng hoá tổ chức phát hành, nhà đầu tư cũng nên đa

dạng hoá các lĩnh vực kinh doanh, đa dạng hoá nguồn thu hoặc đa dạng hoá
theo vị trí địa lý. Nhà đầu tư cần chú ý rằng, càng đa dạng hoá danh mục đầu
tư thì càng hạn chế được rủi ro. Tuy nhiên việc đa dạng hoá quá nhiều sẽ làm
mất nhiều chi phí giám sát và phải bỏ ra nhiều công sức để quản lý danh mục
đó. Đồng thời, đa dạng hoá cũng quá nhiều cũng có hạn chế là nhà đầu tư
không thể thu được những khoản lợi nhuận lớn. Tuy nhiên, bằng lòng với
những khoản thu nhập vừa phải để tránh những thua lỗ quá mức là hoàn toàn
hợp lý.
3.3.4. Quản lý danh mục đầu tư
Quản lý danh mục đầu tư là một nghiệp vụ quan trọng trong kinh doanh
chứng khoán, là công cụ hữu hiệu để hạn chế rủi ro và tối đa hoá lợi nhuận.
Vấn đề đặt ra là làm thế nào để quản lý danh mục đầu tư một cách tối ưu nhất.
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Một danh mục đầu tư có thể bao gồm các chứng khoán được giao dịch trên thị
trường như: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, quyền chọn….
Quản lý danh mục đầu tư là nhu cầu cần thiết của người đầu tư, có trường
hợp giá cả của mọi chứng khoán được định giá đúng nhưng mỗi chứng khoán
vẫn chứa đựng những rủi ro và những rủi ro này có thể san sẻ thông qua việc
đa dạng hoá danh mục đầu tư. Đồng thời, việc lựa chọn danh mục đầu tư phải
tính đến ảnh hưởng của thuế. Nhà đầu tư phải chịu mức thuế cao thường
không muốn trong danh mục của mình có những chứng khoán giống như danh
mục của những người chịu thuế thấp. Các nhà đầu tư ở các lứa tuổi khác nhau
thì nhu cầu đầu tư và mức chấp nhận rủi ro cũng khác nhau. Thông thường,
nhà đầu tư lớn tuổi có nhu cầu đầu tư vào các loại chứng khoán có độ an toàn
cao. Ngược lại, các nhà đầu tư trẻ tuổi lại có nhu cầu đầu tư vào các loại
chứng khoán có độ rủi ro cao nhưng mức lợi nhuận kỳ vọng cũng cao.
Do đó, sau khi tiến hành lựa chọn được một danh mục đầu tư theo nhu
cầu của mình, nhà đầu tư cần tiến hành quản lý danh mục đầu tư. Nhà đầu tư

cần theo dõi những biến động giá của các chứng khoán trên thị trường và mức
lợi nhuận mong đợi. Từ đó, trong quá trình theo dõi các biến động của danh
mục, nhà đầu tư tiến hành điều chỉnh danh mục cho phù hợp với diễn biến của
thị trường và mục tiêu đã đề ra.
II. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC ĐẦU TƯ THÔNG QUA DANH
MỤC ĐẦU TƯ
1. Đối với nhà đầu tư trên thị trường
Đối với nhà đầu tư trên thị trường, đầu tư chứng khoán là một hoạt động
đầu tư mang lại lợi nhuận cao. Tuy nhiên, đầu tư chứng khoán lại hàm chứa
rủi ro cao. Khi nhà đầu tư thực hiện đầu tư đơn lẻ vào một loại cổ phiếu, rủi ro
rất lớn. Vì vậy, nhà đầu tư cần thiết phải xác định một danh mục đầu tư cho
phù hợp với mức chấp nhận rủi ro của mình do các nhu cầu sau.
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thứ nhất, đầu tư chứng khoán theo danh mục vẫn đảm bảo được các yêu
cầu của nhà đầu tư về lợi suất đầu tư. Khi nhà đầu tư tiến hành đầu tư theo
danh mục, nhà đầu tư có thể điều chỉnh danh mục sao cho phù hợp với lợi suất
yêu cầu.
Thứ hai, đầu tư bằng danh mục đầu tư giúp nhà đầu tư có thể đa dạng
hóa rủi ro. Khi đầu tư theo hình thức đơn lẻ, cổ phiêu đó biến động tốt sẽ
mang lại lợi nhuận cao cho nhà đầu tư. Tuy nhiên, khi cổ phiếu đó mất giá
hoặc doanh nghiệp phát hành bị phá sản, nhà đầu tư sẽ bị mất lớn, thậm chí bị
mất hết. Vì vậy, rủi ro là rất cao. Khi nhà đầu tư thực hiện đầu tư theo danh
mục, các rủi ro riêng của danh mục đã được đa dạng hóa. Vì vậy, nhà đầu tư
xác định được danh mục đầu tư hiệu quả, phù hợp với nhu cầu lợi nhuận của
nhà đầu tư.
Thứ ba, hình thức đầu tư thông qua các tổ chức chuyên nghiệp sẽ làm
giảm chi phí giám sát cho nhà đầu tư. Nhà đầu tư với hình thức uỷ thác cho
công ty tài chính, quỹ đầu tư sẽ không phải bỏ ra quá nhiều chi phí giám sát

đối với các chứng khoán. Đó là chi phí về tiền bạc và chi phí về thời gian,
công sức bỏ ra để giám sát chứng khoán. Vì vậy, khi chỉ mất một khoản phí
uỷ thác nhỏ cho công ty tài chính, nhà đầu tư sẽ không phải chịu những chi
phí trên. Khi này, các công ty được ủy thác sẽ quản lý danh mục đầu tư cho
nhà đầu tư.
2. Đối với tổ chức kinh doanh chứng khoán
Các tổ chức kinh doanh chứng khoán trên thị trường chứng khoán nhằm
mục đích thu được nguồn lợi nhuận từ hoạt động đầu tư chứng khoán. Đó là
phần doanh thu từ hoạt động tài chính của công ty. Vì vậy, trong khi thị
trường chứng khoán ngày càng phát triển và hoàn thiện, đầu tư chứng khoán
là một lĩnh vực mà các tổ chức kinh doanh tăng nguồn lợi nhuận.
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Công ty tài chính là một tổ chức kinh doanh phi ngân hàng hoạt động
trong lĩnh vực tài chính. Vì vậy, hoạt động đầu tư chứng khoán là một trong
những hoạt động chính của công ty tài chính.
Công ty tài chính là một tổ chức có tư cách pháp nhân hoạt động độc lập
do tổng công ty hoặc công ty mẹ lập ra. Với chức năng là thực hiện các chức
năng đầu tư, cho vay cho các công ty thuộc tổng công ty ( hoặc công ty mẹ).
Do đó trong lĩnh vực hoạt động của mình, công ty tài chính luôn phải bảo đảm
an toàn hoạt động đối với nguồn vốn của mình. Trong lĩnh các lĩnh vực hoạt
động, công ty tài chính phải được sự chấp thuận phê duyệt, giám sát của tổng
công ty sao cho bảo đảm an toàn vốn.
Đầu tư tài chính là một hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận cho các đối
tượng tham gia thị trường chứng khoán. Đối với công ty tài chính, đầu tư
chứng khoán mở rộng phạm vi hoạt động của công ty. Đầu tư chứng khoán
giúp công ty thu được một khoản lợi nhuận lớn, phát huy được nguồn vốn
dùng để đầu tư trong công ty ngoài đầu tư dự án và cho vay…
Đầu tư vào thị trường tài chính tạo cho công ty một khoản lợi nhuận cao,

phù hợp với yêu cầu về khả năng an toàn vốn nhờ vào việc đa dạng hoá danh
mục đầu tư. Khi đầu tư vào lĩnh vực chứng khoán, với khả năng quan hệ của
công ty trên thị trường, công ty tài chính có thể đầu tư bằng cách góp vốn vào
công ty cổ phần với tư cách là cổ đông sáng lập của công ty, hoặc cũng có thể
giao dịch trực tiếp trên thị trường chứng khoán. Từ đó, công ty tài chính có
thể thu được lợi nhuận từ khoản đầu tư này.
Đầu tư bằng danh mục đầu tư giúp cho Công ty thu được cá khoản lợi
nhuận dự tính mà vẫn đảm bảo khả năng an toàn hoạt động. Ngoài ra, công ty
tài chính cũng có thể tăng doanh thu từ việc thu phí tư vấn đầu tư, quản lý
danh mục đầu tư.
Vì vậy, đầu tư chứng khoán bằng danh mục đầu tư là thật sụ cần thiết cho
các nhà đầu tư có tổ chức.
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG 2: HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH BƯU ĐIỆN
I. QUY ĐỊNH CỦA VNPT VỀ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN ĐỐI
VỚI CÔNG TY TÀI CHÍNH BƯU ĐIỆN
1. Quy định chung trong lĩnh vực hoạt động đầu tư
1.1 Quy định về số vốn đầu tư đối với Công ty tài chính Bưu Điện
Công ty tài Chính Bưu Điện là doanh nghiệp nhà nước hoạch toán độc
lập trực thuộc Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam; là một tổ chức tín
dụng phi ngân hàng, tổ chức và hoạt động theo luật các tổ chức tín dụng.
Vốn điều lệ của Công ty tài chính Bưu Điện là 70.000.000.000 đồng.
Công ty ra đời góp phần làm đa dạng hoá các loại hình tổ chức tín dụng của
Việt Nam, là tổ chức cung cấp các khoản tín dụng cho các dự án Bưu chính –
Viễn thông, góp phần tạo nên kênh dẫn vốn mới bổ xung cho quá trình hoạt
động Ngân hàng truyền thống của nước ta. Đồng thời, Công ty còn hỗ trợ cho
các đơn vị thành viên trong tập đoàn VNPT, nhằm phát huy thế mạnh, tăng

khả năng cạnh tranh của các đơn vị thành viên trong Tập đoàn, là nhân tố
quan trọng trong kết cấu của Tập Đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam.
Với vị trí là tổ chức tài chính trung gian giữa Tập đoàn VNPT với thị
trường tài chính, giữa VNPT với đơn vị thành viên, giữa các đơn vị thành viên
với nhau. Công ty tài chính Bưu Điện là công cụ hoạt động tài chính của Tổng
công ty và tham gia hoạt động kinh doanh dịch vụ tài chiính của Tổng công ty
trên thị trường tài chính, Công ty tài chính Bưu Điện là đầu mối huy động
vốn, đầu mối đầu tư tài chính, kinh doanh tiền tệ, kinh doanh dịch vụ tài
chính, tư vấn quản lý tài sản tiền tệ, tài sản và vốn đầu tư.
Mức mua và đầu tư vào tài sản cố định của Công ty tài chính Bưu Điện
không vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có do Ngân hàng nhà nước quy định là
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
50% vốn tự có.
Mức giới hạn cho vay đối với một khách hàng phải đảm bảo điều là tổng
dư nợ cho vay đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có của
Công ty. Trường hợp đối với các khoản cho vay uỷ thác của Chính phủ, của
các tổ chức cá nhân hoặc nhiều trường hợp khách hàng vay là tổ chức tín dụng
khác. Trường hợp nhu cầu vốn của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có
của Công ty tài chính Bưu Điện hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ
nhiều nguồn thì Công ty tài chính Bưu Điện được tiến hành cho vay hợp vốn
theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Vốn điều lệ của Công ty tài chính Bưu Điện do Tập đoàn VNPT cấp.
Công ty tài chính Bưu Điện được sử dụng vốn điều lệ để kinh doanh sau khi
trừ đi phần vốn mua sắm tài sản cố định, trang thiết bị phục vụ quản lý và
kinh doanh. Công ty tài chính Bưu Điện không được sử dụng vốn điều lệ để
chia lợi tức, trích lập các quỹ phúc lợi duới bất kỳ hình thức nào.
Vốn huy động của Công ty tài chính Bưu Điện được hình thành từ nguồn
vốn huy động từ các cá nhân, tổ chức khác trong và ngoài ngành. Công ty tài

chính Bưu Điện chỉ được sử dụng nguồn vốn để cho vay, kinh doanh các dịch
vụ được phép, không được sử dụng để góp vốn hoặc mua cổ phần, không
được sử dụng vào các mục đích khác trái với quy định của pháp luật và của
Tập đoàn VNPT.
Vốn nhận uỷ thác đầu tư được hình thành từ việc nhận vốn uỷ thác đầu tư
của Chính Phủ, của các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước uỷ thác đầu tư
vào các dự án của Chính phủ, Tập đoàn VNPT, các đơn vị thành viên của
VNPT, các doanh nghiệp khác theo các thoả thuận trong hợp đồng uỷ thác.
Vốn tự bổ sung được hình thành trong quá trình hoạt động kinh doanh
của Công ty tài chính Bưu Điện và được sử dụng như vốn điều lệ.
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2 Quy định về lĩnh vực đầu tư
Công ty tài chính Bưu Điện được góp vốn, mua cổ phần của các doanh
nghiệp và các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, tổng vốn đầu tư của Công ty tài
chính Bưu Điện không được vượt quá 40% vốn điều lệ (tương đương 28
tỷ đồng) và không quá 11% vốn điều lệ của một doanh nghiệp do pháp
luật quy định.
Công ty tài chính Bưu Điện có thể thực hiện các dự án đầu tư vào các dự
án và các tổ chức kinh doanh trên cơ sở phân tích dự án đảm bảo mức doanh
thu, chi phí, nhuận dự kiến, thuế, tỷ lệ hoàn vốn đầu tư…
Công ty được tham gia vào thị trường tiền tệ. Tuy nhiên việc tham gia
vào thị trường phải đảm bảo an toàn vốn hoạt động theo quy định của Tổng
công ty và của Ngân hàng Nhà nước.
Công ty được phép làm đại lý phát hành trái phiếu và các giấy tờ có giá
cũng như tư vấn phát hành các loại chứng khoán. Từ việc xây dựng phương
án phát hành chứng khoán, xây dựng các quy chế phát hành chứng khoán cho
doanh nghiệp, quy trình, hồ sơ xin phép phát hành và xây dựng phương thức
bán đấu giá chứng khoán.

Công ty tài chính Bưu Điện được thực hiện các nhiệm vụ uỷ thác đầu tư,
tư vấn đầu tư. Thông qua hoạt động công ty có thể thu phí uỷ thác đầu tư cũng
như phí tư vấn đầu tư. Công ty tài chính Bưu Điện có thể nhận uỷ thác đầu tư
của Chính phủ, Tập đoàn VNPT, các tổ chức và cá nhân trong và ngoài ngành
Bưu điện.
1.3 Các hạn chế để đảm bảo an toàn hoạt động của Công ty.
Công ty Tài chính phải trích lập dự phòng rủi ro và hạch toán dự phòng
rủi ro này vào chi phí hoạt động. Việc trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro
được thực hiện theo quy định của Ngân hàng nhà nước. Rủi ro hoạt động của
Công ty bao gồm nhiều loại rủi ro như: rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro vỡ
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nợ… Hoạt động đầu tư chứng khoán là hoạt động mang lại lợi nhuận lớn cho
Công ty Tài chính Bưu Điện. Tuy nhiên, đây lại là một hoạt động chứa đựng
nhiều rủi ro. Vì vậy, Công ty phải trích lập khoản dự phòng rủi ro trong hoạt
động của Công ty.
Mức góp vốn, mua cổ phần của Công ty vào một doanh nghiệp và tổng
mức góp vốn của Công ty trong tất cả các doanh nghiệp không vượt quá mức
tối đa do ngân hàng Nhà Nước quy định. Tổng số vốn của Công ty Tài chính
Bưu Điện vào tổ chức tín dụng khác dưới hình thức góp vốn, mua cổ phần
phải được khấu trừ khỏi vốn tự có của Công ty khi tính đến tỷ lệ an toàn.
Vì vậy, Công ty tài chính Bưu Điện phải tuân thủ các quy định bảo đảm
an toàn hoạt động trong quy định về đảm bảo an toàn hoạt động của Luật các
tổ chức tín dụng và các văn bản hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
Công ty Tài chính Bưu Điện phải tuân thủ các quy định về an toàn khác
có liên quan theo quy định của pháp luật.
Công ty Tài chính Bưu Điện không được thực hiện nghiệp vụ thanh toán.
2. Quy định trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán
Đầu tư chứng khoán là một lĩnh vực có rủi ro cao. Do đó, trong lĩnh vực

đầu tư chứng khoán, Công ty Tài chính Bưu Điện phải tính đến tỷ lệ an toàn
của nguồn vốn đầu tư. Khi tham gia vào thị trường chứng khoán, không
những Công ty chỉ sử dụng nguồn vốn của mình mà còn nguồn vốn uỷ thác
của các tổ chức cá nhân trong và ngoài ngành Bưu chính Viễn thông. Vì vậy,
đòi hỏi Công ty Tài chính Bưu Điện phải thực hiện đầu tư một cách thận
trọng.
Công ty tài chính Bưu Điện được góp vốn, mua cổ phần của các doanh
nghiệp và các tổ chức tín dụng. Tổng vốn đầu tư của Công ty tài chính Bưu
Điện không được vượt quá 40% vốn điều lệ và không quá 11% vốn điều lệ
của một doanh nghiệp.
Nguyễn Thị Liên Toán tài chính 45
25

×